← Quay lại trang sách

Chương 7 CON ĐẬP Ở VÙNG ĐẤT CẰN
1

Nhìn từ cao tốc lúc 5 giờ kém 15 phút sáng, Boston tựa hồ một thành phố chết không ngừng day dứt về bi kịch từng xảy ra trong quá khứ – có thể là một bệnh dịch hay lời nguyền nào đó. Mùi muối nặng nề và mặn chát thổi vào từ biển. Màn sương mù buổi sớm bảng lảng khiến mọi thứ thoắt ẩn thoắt hiện.

Bon bon trên đại lộ Storrow xuôi lên phía Bắc, ngồi sau tay lái chiếc Cadillac (84 màu đen thuê từ Butch Carrington của Cape Cod Limousine, Eddie Kaspbrak dường như cảm thấy cái dãi dầu năm tháng của thành phố này; và có lẽ đây là nơi duy nhất trên đất Mỹ cho anh cảm được dòng chảy thời gian ấy. Boston chỉ là một cậu nhóc nhỏ thó nếu so với London, một đứa bé nếu so với Rome, nhưng với tiêu chuẩn của Mỹ thì thành phố này đã già, già lắm rồi. Thành phố này đã tọa lạc trên những ngọn đồi thấp kia ba trăm năm về trước, khi chưa ai nghĩ đến Thuế trà, Thuế tem, khi Paul Revere và Patrick Henry còn chưa có mặt trên đời.

Tuổi đời của thành phố, sự tĩnh lặng và mùi biển mặn lẫn trong sương - tất cả khiến Eddie căng thẳng. Mà mỗi khi căng thẳng, Eddie lại cầm ống thở lên. Anh nhét nó vào miệng, xịt một làn hơi sảng khoái xuống cổ họng.

Chỉ có lác đác vài người trên những con phố anh chạy xe qua, trên vỉa hè cầu bắc ngang cũng chỉ có một, hai người đi bộ – họ phá vỡ trí tưởng tượng của anh về việc anh đã lạc bước vào câu chuyện của nhà văn Lovercraft với những thành phố đã diệt vong, với ma quỷ từ thời xưa cùng quái vật mang những cái tên chẳng biết phát âm ra sao. Anh thấy quanh trạm xe buýt để biển TRUNG TÂM THÀNH PHỐ QUẢNG TRƯỜNG KENMORE lố nhố nhân viên phục vụ, y tá, dân làm công ăn lương trong thành phố, mặt mộc và sưng lên sau giấc ngủ.

Đúng rồi, Eddie thầm nghĩ, chạy qua bên dưới tấm biển để CẦU TOBIN. Đúng rồi, cứ đi xe buýt cho lành. Đi tàu điện ngầm làm gì. Tàu điện ngầm rõ là một ý dở tệ, tôi mà là quý vị, còn khuya tôi mới đi xuống đấy. Không đời nào tôi đi xuống lòng đất. Hay vào đường hầm.

Không dưng lại có suy nghĩ tồi tệ này, nếu không gạt nó ra khỏi đầu, sớm muộn anh sẽ phải dùng ống thở nữa cho mà xem. Anh mừng là trên tàu Tobin, lưu lượng xe cộ đông đúc hơn. Anh đi ngang một công trình đài kỷ niệm. Trên mặt gạch sơn dòng nhắc nhở có phần khiến anh không yên:

CHẬM LẠI! CHÚNG TA ĐỢI ĐƯỢC!

Có một biển báo phản xạ màu xanh lá cây ghi HƯỚNG ĐI 95 MAINE, N. H., BẮC NEW ENGLAND. Nhìn nó, bất giác một cơn run rẩy tận xương dồn dập vào người anh. Trong thoáng chốc, tay anh bấu chặt lấy bánh lái chiếc Cadillac. Anh những muốn tin đây là dấu hiệu sơ khởi của một căn bệnh gì đó, vi-rút hoặc có lẽ là “sốt bóng ma” mà ngày xưa mẹ anh hay nói, nhưng trong thâm tâm, anh biết rõ. Nguyên nhân xuất phát từ thành phố sau lưng anh, im lìm trên đường rìa giữa ngày và đêm, cùng những điều mà tấm biển này báo hiệu đang chờ đợi anh phía trước. Anh bị ốm, điều đó chẳng có gì phải nghi ngờ, nhưng không phải vì vi-rút hay sốt bóng ma. Anh xây xẩm trước dòng ký ức của bản thân.

Mình sợ, Eddie nghĩ thầm. Sâu trong tâm khảm là thế. Chỉ có sợ hãi. Nỗi sợ hãi bao trùm. Nhưng cuối cùng, hình như cả đám vẫn xoay chuyển được tình thế. Chúng mình đã dùng nó. Nhưng bằng cách nào nhỉ?

Anh chẳng tài nào nhớ ra. Anh tự hỏi liệu còn ai trong số bọn họ nhớ được điều này. Để cả nhóm toàn mạng, anh mong là họ nhớ.

Một chiếc xe tải từ từ lướt ngang phía bên trái anh. Nãy giờ vẫn bật đèn pha, Eddie cũng bật đèn pha trong chốc lát khi chiếc xe tải an toàn vượt lên trước. Anh làm mà chẳng cần nghĩ. Hành động này như đã trở thành chức năng tự động của một người lái xe kiếm sống như anh. Người tài xế không rõ mặt ngồi trong xe tải nháy đèn chạy hai lần thật nhanh đáp lại, ý nói cảm ơn Eddie đã lịch sự nhường đường. Giá mà mọi thứ có thể đơn giản và rõ ràng đến thế, anh thầm nhủ. Anh đi theo biển chỉ đường dẫn đến Xa lộ liên tiểu bang 95. Lượng xe cộ chạy lên phía Bắc khá thưa thớt, dù anh trông thấy làn đường dẫn xuống phía Nam tiến vào thành phố bắt đầu đông dân, trong khi trời còn sớm tinh mơ. Eddie nhẹ nhàng lái chiếc xe to lớn, đoán trước mọi biển chỉ đường và chuyển làn từ sớm, thậm chí từ trước khi phải làm thế. Ngày xưa, có những lúc anh đoán sai và bị lỡ mất lối rẽ mình muốn, nhưng đã nhiều năm nay anh chưa rơi vào tình trạng ấy lần nào. Anh chọn làn chạy xe theo bản năng như cách anh nháy đèn báo hiệu “đồng ý cho lượt” với người tài xế xe tải, theo bản năng như cách anh từng mò mẫm tìm đường trong những lối mòn rối như canh hẹ của Vùng Đất Cằn Derry. Anh chẳng mấy quan tâm đến việc từ trước đến nay, anh chưa từng lái xe ra khỏi trung tâm Boston, một trong những thành phố với hệ thống đường sá rối rắm nhất cho cánh lái xe.

Vài mảnh ký ức về mùa hè năm ấy chợt ùa về trong anh, tỉ dụ như có lần Bill nói: “C-Cậu c-có l-l-la bàn trong đầu đấy, E-E-Eddie ạ.”

Trời ơi, lúc ấy anh nghe mà sung sướng làm sao! Và đến giờ, cảm xúc ấy cũng chẳng vơi, lòng anh rộn ràng, chiếc Dorado 84 phóng vụt trở lại vào đường cao tốc có lệ phí. Anh đẩy tốc độ chiếc limo lên mức 92 ki-lô-mét một giờ để đảm bảo không bị cảnh sát tuýt còi và tìm chút nhạc nhẹ nhàng trên ra-đi-ô. Anh nghĩ có lẽ ngày ấy, nếu cần, anh sẵn sàng hy sinh thân mình cho Bill; giả sử Bill yêu cầu anh làm vậy, Eddie sẽ đơn giản đáp lại: “Chắc chắn rồi, Bill To Bự… Cậu có tính khi nào chưa?”

Eddie nghĩ lại mà nở nụ cười – không phát ra thành tiếng, chỉ là phì cười một cái, nhưng âm thanh ấy khiến anh giật mình và cười ha hả. Thời gian gần đây, chẳng mấy khi anh cười, và anh cũng chẳng mong mình sẽ kiếm được mấy tràng hay ho (đây là từ do Richie nghĩ ra, nghĩa là tràng cười, ví dụ như “Nay cậu kiếm được tràng nào hay ho không, Eds?”) trong chuyến hành hương tăm tối này. Nhưng anh thầm nghĩ, nếu Chúa keo kiệt bủn xỉn đến độ nguyền rủa không cho phép kẻ ngoan đạo thứ mình khao khát nhất trong đời, thì chí ít người cũng quái chiêu đủ để thỉnh thoảng cho ta một, hai tràng hay ho.

“Dạo này có tràng nào hay họ không, Eds?” Anh cất thành lời và phá lên cười lần nữa. Ôi trời, ngày ấy anh chúa ghét Richie gọi anh là Eds… nhưng tính ra anh cũng khoai khoái. Anh nghĩ cảm xúc này giống như Ben Hanscom sau một hồi cũng khoái Richie gọi mình là Haystack. Nói sao nhỉ… nó như một tên gọi bí mật. Một danh tính bí mật. Một cách để có thể trở thành kẻ không bị trói buộc bởi gông xiềng sợ hãi, hy vọng, mong mỏi liên tu bất tận của bậc sinh thành. Richie thực hiện các Giọng nói ưa thích của mình dở tệ, nhưng có lẽ cậu ấy biết với đám dị hợm bọn họ, thỉnh thoảng được trở thành kẻ khác quan trọng đến nhường nào.

Eddie liếc nhìn đống tiền lẻ được xếp gọn trên bảng đồng hồ của chiếc Dorado – trăm hay không bằng tay quen, sắp sẵn tiền lẻ cũng thế. Khi đến gần bốt thu phí, chẳng ai muốn phải lục tìm xu lẻ, và cũng chẳng ai muốn chạy bào làn thu phí tự động nhưng lại chuẩn bị nhầm tiền.

Trong đống tiền xu có hai hoặc ba đồng bạc in hình Susan B. Anthony. Anh nghĩ thời nay, ta chỉ có thể tìm thấy những đồng xu này trong túi các tài xế xe con hoặc tài xế tắc-xi đến từ khu vực New York, giống như việc nơi duy nhất ta thấy rất nhiều tờ hai đô-la là tại cửa cá cược trong trường đua ngựa. Anh luôn giữ vài tờ trong túi vì máy thu phí tự động ở cầu George Washington và câu Triboro nhận tiền mệnh giá này.

Một nhà cải cách xã hội Mỹ và nhà hoạt động vì quyền bầu cử phụ nữ đóng vai trò quan trọng trong phong trào bầu cử của phụ nữ.

Một trong những tia sáng ngày ấy lại lóe lên trong đầu anh: đồng bạc. Không phải xu bằng đồng mà là xu bằng bạc thật, khắc hình Nữ thần Tự do trong chiếc váy thướt tha. Đồng bạc của Ben Hanscom. Phải, nhưng hình như chính Bill mới là người từng dùng một trong những đồng bạc ấy để cứu cả đám thì phải? Anh bán tín bán nghi, nói đúng hơn, anh chẳng dám chắc về bất cứ điều gì… hay chỉ là anh không muốn nhớ lại?

Ở đó tối thui, anh chợt nghĩ . Mình chỉ nhớ chừng đấy. Bốn bề tối tăm mù mịt

ở nơi đó.

Boston giờ đã cách anh một đoạn xa, sương mù bắt đầu tan dần. Phía trước là MAINE, N. H., BẮC NEW ENGLAND. Derry nằm ở phía trước, và một thế lực đáng lý đã chết suốt hai mươi bảy năm qua tại Derry chẳng rõ vì lẽ gì vẫn còn sống. Thứ đó có muôn vàn khuôn mặt, chẳng kém gì Lon Chaney. Nhưng thực chất nó là gì mới được? Chẳng phải cuối cùng, họ đã trông thấy bản thể thật của nó, với bao mặt nạ đều bị lột bỏ ư?

Diễn viên sân khấu điện ảnh, nghệ sĩ trang điểm, đạo diễn và nhà biên kịch người Mỹ. Ông được xem là một trong những diễn viên đa tài và giỏi giang nhất trong làng điện ảnh.

Ôi, anh chỉ nhớ được chừng ấy… nhưng như thế chưa đủ.

Anh nhớ ngày xưa, anh quý Bill Denbrough biết nhường nào, anh nhớ điều đó như in. Bill chẳng bao giờ lôi chuyện hen suyễn của anh ra làm trò đùa. Bill chẳng bao giờ gọi anh là đồ bóng lộn nhát cáy. Anh quý Bill như cách anh quý một người anh… hoặc một người bố. Bill biết đủ trò để chơi, đủ nơi để thăm thú, đủ thứ để ngắm nghía. Bill chẳng bao giờ nao núng. Nếu đi cùng Bill, anh đi để đánh bại quỷ dữ và đi để cười thật to… nhưng chẳng bao giờ anh bị hụt hơi. Và không hụt hơi là điều tuyệt vời, tuyệt miễn chê. Đó là điều Eddie muốn tuyên bố với thế giới. Khi anh đi cùng Bill To Bự, hôm nào anh cũng có những tràng hay ho.

“Hẳn rồi, bạn hiền, hôm nào cũng có,” anh bắt chước giọng của Richie Tozier và lại phá lên cười ha hả.

Người nảy ra ý tưởng xây đập trong Vùng Đất Cằn là Bill, và nhìn theo một cách nào đó, chính con đập đã đưa cả đám đến với nhau. Ben Hanscom là người chỉ cho họ cách xây đập – họ xây con đập thành công đến độ vướng vào cả đống rắc rối với ông Nell, bị cảnh sát đi tuần lúc ấy – nhưng chung quy lại, ấy là ý tưởng của Bill. Và dù tất cả bọn họ, trừ Richie, đều nhìn thấy những thứ dị thường - những thứ vô cùng đáng sợ - ở Derry từ đầu năm đó, Bill là người đầu tiên đủ dũng khí để nói thành lời.

Con đập ấy.

Con đập chết tiệt ấy.

Anh nhớ lời Victor Cris nói: “Tạm biệt nha đám kia. Con đập nhỏ tí ấy mà, tao nói thật. Thà chúng mày không có còn hơn.”

Hôm sau, Ben Hanscom toe toét cười với họ và nói rằng:

“Ta có thể

“Ta có thể cho ngập

“Ta có thể cho ngập tất tần tật

2

Vùng Đất Cằn nếu ta muốn.”

Bill với Eddie nhìn Ben nghi ngờ, rồi hai đứa lại chuyển ánh mắt sang những vật liệu Ben mang theo: vài tấm ván (thó từ sân sau của ông McKibbon, nhưng thế cũng chẳng thành vấn đề gì, vì đằng nào ông ấy cũng nhặt nhạnh từ nhà người khác), búa tạ và xẻng.

“Tớ chịu đấy,” Eddie nói, liếc qua Bill. “Hôm qua bọn tớ thử nhưng thấy không ăn thua cho lắm. Dòng nước cuốn trôi cành cây chúng tớ dựng ngay lập tức.”

“Cái này sẽ được,” Ben khẳng định. Cậu ngước nhìn Bill để đợi lời chốt hạ.

“Ừ, vậy m-mình thử x-x-xem,” Bill nói. “S-Sáng nay, tớ c-có gọi cho R-R-R-Richie Tozier. Cậu ấy b-bảo s-sẽ đến nh-nhà Mater. Có thể cậu ấy và Sta-Stanley sẽ qu-qua giúp.”

“Stanley nào vậy?” Ben hỏi.

“Uris đó,” Eddie đáp. Cậu vẫn nhìn Bill với ánh mắt cẩn trọng, bởi hôm nay Bill có vẻ hơi lạ – ít nói hơn, ít hứng thú với con đập hơn. Chưa kể, nhìn cậu ấy có vẻ xanh xao. Xa cách.

“Stanley Uris à? Chắc tớ không biết cậu ấy. Cậu ta có học trường Tiểu học Derry không?”

“Cậu ấy bằng tuổi bọn mình nhưng mới học xong lớp Bốn thôi.” Eddie kể. “Cậu ấy đi học trễ một năm vì thuở bé, cậu ấy bệnh suốt. Nếu cậu nghĩ hôm qua cậu bị đánh như vậy là khủng khiếp thì cậu nên thấy mừng là cậu không phải Stan đi. Hôm nào Stan cũng bị tẩn cho lên bờ xuống ruộng.”

“Cậu ấy là ng-người D-D-Do Th-Thái,” Bill giải thích. “Nh Nhiều đ-đứa không th-thích cậu ấy vì c-cậu ấy là người Do Thái.”

“Ồ vậy hả?” Ben hỏi, ấn tượng ra mặt. “Người Do Thái hả?” Cậu im lặng rồi thận trọng nói: “Như thế giống người Thổ Nhĩ Kỳ à, hay giống người Ai Cập hơn?”

“Tớ đ-đoán giống người Th-Thổ Nh-Nhĩ Kỳ hơn,” Bill đáp. Cậu nhấc một tấm ván Ben mang đến lên ngắm nghía. Nó dài một mét tám và rộng sáu mươi xen-ti. “B-B-Bố tớ bảo hầu hết ng-người Do Thái có m-mũi rõ to và lắm t-t-tiền, nhưng St-St-stan…”

“Nhưng Stan có cái mũi bình thường và nghèo rớt mồng tơi,” Eddie nói nốt.

“Ừ.” Bill đồng tình và nhoẻn nụ cười đầu tiên trong ngày. Thấy thế, Ben cười.

Eddie cũng cười theo.

Bill vứt tấm ván sang một bên, đứng dậy phủi bụi trên mông quần jean. Cậu đi đến bờ suối, hai cậu bạn lục tục đi theo. Nhét tay vào túi quần sau, Bill thở dài đánh thượt. Eddie dám chắc Bill sắp phát biểu gì đó nghiêm túc. Cậu hết nhìn Eddie đến Ben, rồi lại chuyển ánh nhìn trở lại Eddie, nụ cười đã tắt. Chợt Eddie thấy sợ.

Nhưng rồi tất cả những gì Bill nói là, “Cậu có mang th-theo ống th-th-thở không, E-Eddie?”

Eddie vỗ vào túi. “Đạn dược đầy đủ.”

“Này, vụ sữa sô-cô-la hôm nọ hiệu quả không?” Ben hỏi.

Eddie cười nắc nẻ. “Số dách luôn!” Cậu kể. Cậu và Ben phá lên cười trong khi Bill ngẩn ra nhìn, miệng cũng mỉm cười nhưng nét mặt bối rối. Eddie giải thích xong, Bill mới gật gù, nụ cười rộng đến tận mang tai.

“M-Mẹ của E-E-Eddie lo c-cậu ấy b-bị s-suyễn trở lại và b-bác ấy sẽ kh-không được h-hoàn t-t-tiền thì có.”

Eddie phì cười và làm ra vẻ xô cậu bạn xuống suối.

“Coi chừng, đồ chết dịch,” Bill nói, bắt chước y như giọng của Henry Bowers. “Tao sẽ bẻ cổ mày đến mức mày có thể nhìn được cảnh mày chùi mông đấy.”

Lần này thì Ben bò lăn bò càng, cười như được mùa. Bill liếc bạn mình, nhoẻn cười, tay vẫn thọc vào túi quần sau, miệng cười, phải, nhưng cậu lại có gì đó thật xa cách, thật mơ hồ. Cậu nhìn Eddie rồi nghiêng đầu sang Ben.

“Đúng là qu-qu-quá đáng,” cậu nói.

“Phải,” Eddie đồng ý. Nhưng chẳng hiểu sao, cậu cảm thấy họ chỉ đang vui vẻ ra mặt mà thôi. Bill đang bận tâm đến một thứ gì đó. Cậu đoán Bill sẽ kể khi thấy sẵn sàng, nhưng câu hỏi đặt ra ở đây là liệu Eddie có muốn nghe hay không? “Đúng là đầu óc bã đậu.”

“Chậm lụt nữa,” Ben nói, chưa dứt tràng cười.

“Th-Thế c-cậu có đ-đ-định ch-chỉ bọn tớ cách x-xây đập không, h-hay cậu t-t-tính ng-ngồi ch-chơi x-xơi n-nước cả b-buổi đây hả?”

Ben đứng dậy. Đầu tiên, cậu quan sát dòng suối đang róc rách chảy ngang với tốc độ vừa phải. Ở đoạn chảy ngang Vùng Đất Cằn, sông Kenduskeag không quá rộng, nhưng hôm qua nó đã đánh bại đám trẻ một lần. Eddie và Bill đều không tìm ra cách cố định được vị trí trong dòng nước. Tuy vậy, Ben vẫn giữ nụ cười trên môi, nụ cười của kẻ đang ấp ủ ý tưởng sáng tạo… ý tưởng thú vị nhưng sẽ không quá khó. Eddie thầm nhủ: Cậu này biết cách – Mình thật sự nghĩ vậy.

“Được,” cậu nói. “Các cậu cởi giày ra đi, vì tí nữa mình sẽ ướt chân đó.”

Ngay lập tức, tiếng nói của mẹ vang lên trong đầu Eddie, giọng bà đanh thép và ra lệnh chẳng khác nào giọng của một tay cảnh sát giao thông: Mẹ cấm con đấy, Eddie! Mẹ cấm con! Để chân ướt là một nguyên nhân – trong vô vàn nguyên nhân – khiến con bị cảm, mà cảm thì sẽ dẫn đến viêm phổi, nên con không được làm thế!

Bill cùng Ben ngồi ở bờ sông, cởi giày và tất. Ben xắn quần thật cẩn thận. Bill ngước nhìn Eddie. Ánh mắt cậu trong veo và ấm áp, đầy thông cảm. Bất giác, Eddie dám chắc Bill To Bự đi guốc trong bụng cậu, điều đó khiến cậu cảm thấy xấu hổ.

“C-Cậu th-tham gia không?”

“Ừ, có chứ,” Eddie đáp. Đoạn cậu ngồi xuống bờ sông, cởi giày giữa bao tiếng xa xả của mẹ trong đầu… nhưng may thay, cậu nhận thấy dần dà giọng của mẹ trở nên xa xôi, vang vọng hơn, như thể ai đó móc vào lưng áo của bà chiếc móc câu hạng nặng và thu cần, kéo bà trên một hành lang dài dằng dặc ra xa khỏi cậu.

3

Hôm ấy là một ngày mùa hạ hoàn hảo mà ta luôn lưu giữ trong lòng trong một thế giới nơi mọi thứ đều mưa thuận gió hòa. Cơn gió hiu hiu thổi qua giúp ruồi muỗi không bu lại. Tầng không cao vời vợi sắc xanh ngát mắt. Tiết trời mát mẻ ở mức 20 độ C. Chim hót véo von, ríu rít chuyền cành trong bụi cỏ và trên rừng cây thứ sinh. Eddie chỉ phải dùng ống thở một lần, rồi ngực cậu nhẹ bẫng và kỳ diệu chưa, họng cậu như mở to chẳng kém gì xa lộ. Suốt buổi sáng hôm đó, cậu thậm chí quên bẵng ống thở nhét trong túi sau.

Mới hôm trước, trông Ben Hanscom còn có vẻ rụt rè và ngần ngại, thế mà hôm nay, cậu ấy đã thoát xác thành một vị tướng tài ba, dốc hết tâm sức vào công cuộc xây dựng đập. Thỉnh thoảng, cậu lại trèo lên bờ, hai tay đầy bùn chống nạnh, sừng sững đứng quan sát công trình, lẩm bẩm gì đó. Nhiều khi cậu lại vò đầu bứt tóc, và đến 11 giờ trưa, mái tóc của cậu đã dựng lĩa chỉa, bù xù y như tổ quạ.

Ban đầu, Eddie thấy phân vân, nhưng rồi cậu thấy vui, để rồi một cảm giác hoàn toàn mới mẻ tràn vào lòng cậu – một cảm giác vừa kỳ lạ, vừa choáng ngợp và thích thú. Cảm giác ấy quá đỗi lạ lùng so với tâm trạng bình thường của cậu, đến độ cậu loay hoay mãi mà chẳng biết gọi tên cảm xúc ấy là gì, và phải tới tối, khi nằm trên giường, mắt nhìn trần nhà, trong đầu hiện lên những gì xảy ra thì cậu mới hiểu: đó là Quyền năng. Cảm giác ấy là Quyền năng. Nhờ Chúa, cái đập sẽ hoạt động, và nó sẽ hoạt động tốt hơn những gì cậu với Bill – thậm chí ngay đến Ben - có thể mường tượng.

Cậu thấy Bill cũng dành tâm sức cho công trình – ban đầu chỉ một chút, bởi lúc ấy cậu còn bận tâm suy nghĩ chuyện gì đó, nhưng rồi dần dần, cậu toàn tâm toàn ý xây đập. Có một hoặc hai lần, cậu lại vỗ lên phần vai mập mạp của Ben và cảm thán Ben quả là xuất chúng. Lần nào cũng vậy, mặt Ben lại chuyển sang màu mận chín vì sung sướng.

Ben chỉ Eddie và Bill đặt một tấm ván ở giữa suối rồi giữ nó để cậu dùng búa tạ đóng ván xuống lòng suối. “ Đấy – nó xuống rồi kìa, nhưng cậu phải giữ chặt vào, kẻo dòng nước sẽ khiến nó bị lỏng,” cậu bảo Eddie, thế là Eddie đứng giữa suối, tay giữ tấm ván, mặc dòng nước chảy tràn qua ván và róc rách quanh tay cậu thành hình sao biển đung đưa.

Ben và Bill dựng tấm ván thứ hai cách đó chừng sáu mươi phân, xuôi xuống hạ nguồn. Một lần nữa, Ben dùng búa để đóng ván xuống lòng suối, Bill lãnh nhiệm vụ giữ ván trong khi Ben đổ đất cát lấy trên bờ suối xuống khoảng trống giữa hai tấm ván. Mới đầu, đất cát cứ thế trôi thành từng mảng theo cạnh ván, Eddie ái ngại có khi nó chẳng ăn thua, nhưng khi Ben bắt đầu chất thêm đá và bùn từ bờ sông thì lượng đất cát bị trôi giảm hẳn. Trong chưa tới hai mươi phút, cậu đã chất xong một Kênh Đào màu nâu làm từ đất đá giữa hai tấm ván ở ngay chính giữa dòng suối. Trong mắt Eddie, công trình này chẳng khác nào một ảo giác.

“Nếu chúng mình có xi măng thật… chứ không phải chỉ… bùn và đá, giữa tuần sau, người ta sẽ phải di chuyển toàn bộ thị trấn… sang phía Mũi Đất Cũ đấy,” Ben nói, để xẻng qua một bên rồi ngồi trên bờ suối cho đến khi hơi thở bình thường trở lại. Bill và Eddie phá lên cười, Ben cũng toét miệng cười theo. Khi cậu cười, bóng hình một người đàn ông khôi ngô tuấn tú ẩn hiện giữa những đường nét trên khuôn mặt. Lúc này, nước đã bắt đầu dồn ứ đằng sau tấm ván hướng về phía thượng nguồn.

Eddie hỏi cả đám phải làm thế nào với phần nước chảy hai bên.

“Cứ để nó chảy thôi. Không sao đâu.”

“Không sao hả?”

“Ừ.”

“Tại sao thế?”

“Tớ cũng không biết giải thích thế nào. Nói chung là phải để nước chảy bớt.”

“Sao cậu biết hay thế?”

Ben nhún vai như muốn nói Tớ biết vậy thôi . Eddie đành nín thinh.

Khi đã lấy lại sức, Ben cầm tấm ván thứ ba - tấm dày nhất trong bốn, năm tấm ván cậu hì hụi mang đến tận Vùng Đất Cằn – và cẩn thận đặt nó chống vào tấm ván hướng xuống hạ nguồn, chèn thật chặt một đầu xuống lòng suối, kê đầu còn lại vào tấm ván Bill đang giữ, tạo nên thanh giằng mà hôm trước cậu vẽ trong hình.

“Được rồi, cậu nói và lùi lại. Nụ cười nở rộng trên môi. “Các cậu thả ra được rồi đấy. Phần bùn giữa hai tấm ván sẽ chịu phần lớn áp lực nước. Còn lại thanh giằng này sẽ gánh.”

“Nước không khiến nó bị trôi à?” Eddie hỏi.

“Không. Nước chỉ đẩy nó xuống sâu hơn thôi.”

“Và nếu cậu s-s-sai, bọn tớ s-sẽ k-k-kết l-liễu c-cậu đấy nhé.” Bill nói.

“Nghe kinh nhỉ,” Ben vui vẻ hùa theo.

Bill và Eddie lùi lại. Hai tấm ván tạo hình cho con đập ken két một chút, nghiêng ngả một chút… nhưng chỉ có vậy.

“Ôi thiên địa ơi!” Eddie hét lên thích thú. “T-T-Tuyệt quá,” Bill nhận xét và toét miệng cười. “Ừ.” Ben nói. “Bọn mình ăn thôi.”

4

Cả bọn ngồi trên bờ sông dùng bữa, không trò chuyện gì nhiều, mắt dõi theo nước dồn ứ đằng sau con đập và luồn lách chảy qua hai đầu ván. Eddie thấy cả đám vừa tác động đến địa lý của bờ suối: có thể thấy rõ dòng nước bị chệch hướng ăn vào bờ thành những chỗ lõm như vỏ sò. Chốc sau, dòng chảy mới của con suối xói vào phía bên kia bờ khiến đất lở ra chút ít.

Phía thượng nguồn của con đập hình thành một hồ nước tròn, có chỗ nước còn tràn bờ. Những dòng nước lấp lánh chảy vào cỏ và vào bụi cây. Eddie dần vỡ lẽ điều Ben đã biết ngay từ đầu: con đập đã được hình thành. Khoảng trống giữa hai tấm ván và bờ suối chính là cửa thoát nước. Ben không rõ nên giải thích với Eddie điều này ra sao vì cậu thiếu từ ngữ để mô tả. Phía trên tấm ván, nước sông Kenduskea bị dồn ứ lại. Tiếng róc rách của con nước nông chảy qua đá sỏi giờ không còn nữa, thay vào đó, tất cả đá sỏi phía thượng nguồn con đập giờ đều chìm trong nước. Thỉnh thoảng vài mảng cỏ và đất cát bị suối xói mòn, lõm bõm rơi xuống nước.

Phía hạ nguồn con đập, dòng nước gần như tiêu biến, chỉ còn chút nước ri rỉ chảy xuống. Những hòn đá bấy lâu nay chịu cảnh chôn thân dưới nước giờ đã phơi mình dưới nắng. Eddie nhìn chúng khô dần mà lòng đầy thán phục… và đầy cảm giác lạ kỳ kia. Cả đám đã xây dựng thứ này. Chính họ. Cậu nhìn thấy một con ếch nhảy qua và thầm nhủ có lẽ bác ếch già đang tự hỏi chẳng biết nước đi đâu cả rồi. Eddie phá lên cười.

Ben xếp gọn ghẽ bọc đựng vào túi đồ ăn mà cậu mang theo. Eddie và Bill ngẩn ngơ trước bữa ăn hoành tráng mà Ben xếp ra một cách thuần thục: hai phần bánh mì kẹp phết bơ đậu phộng và mứt trái cây, một phần bánh mì kẹp kẹp xúc xích hun khói, một quả trứng luộc (còn đi kèm dúm muối cất trong miếng giấy sáp), hai bánh nhân mứt sung, ba chiếc bánh quy sô-cô-la cỡ lớn và hai bánh Ring-Ding.

“Mẹ cậu có nói gì lúc trông thấy bộ dạng thê thảm của cậu không?” Eddie hỏi.

“Hả?” Đang nhìn hồ nước to dần phía sau đập, Ben ngước lên, che tay lên miệng khẽ ợ một cái. “À! Ờ, tớ biết chiều hôm qua mẹ tớ sẽ đi mua thực phẩm nên tớ tranh thủ về nhà trước mẹ. Tớ tắm táp rồi gội đầu luôn. Sau đó tớ vứt quần jean và chiếc áo nỉ tớ đang mặc đi. Tớ không biết mẹ tớ có phát hiện bộ đồ ấy mất tích hay không nữa. Có lẽ mẹ tớ không để ý chiếc áo đâu, vì tớ có nhiều áo nỉ lắm, nhưng tớ nghĩ tớ phải đi mua quần jean mới trước khi mẹ kiểm tra đồ đạc trong ngăn tủ của tớ.”

Nghĩ đến việc phải phung phí tiền bạc vào một món đồ không thiết yếu như vậy, mặt Ben sa sầm lại trong thoáng chốc.

“C-C-Còn m-mấy v-vết b-bầm thì sao?”

“Tớ nói với mẹ vì được nghỉ học nên tớ vui quá, vui đến độ đâm sầm vào cửa, ngã xuống bậc thang,” Ben kể, nét mặt vừa ngạc nhiên vừa có chút tổn thương khi Eddie và Bill phá lên cười nắc nẻ. Đang ăn dở miếng bánh sô-cô-la đắng mẹ làm, Bill phụt ra phần bánh nâu và ho sặc sụa. Vẫn đang cười ha hả, Eddie vỗ bộp bộp lên lưng cậu bạn.

“Thật mà, suýt chút nữa tớ ngã dập mặt xuống bậc thang đấy,” Ben kể. “Nhưng lý do là vì Victor Criss đẩy tớ chứ không phải vì tớ chạy.”

“Mặc a-áo nỉ như vậy chắc tớ n-ngốt không k-kém gì b-bánh ngô hấp trong nồi,” Bill nói và ăn nốt miếng bánh.

Ben tần ngần. Cứ tưởng cậu sẽ im lặng thì một lúc sau, cậu lên tiếng. “Mặc như vậy tốt hơn nếu cậu mập. Ý tớ là mặc áo nỉ ấy.”

“Vì bụng bự hả?” Eddie hỏi.

Bill phì cười. “Vì bộ ng-ng-ngư-…”

“Ừ, vì ngực của tớ. Rồi sao?”

“À thì,” Bill khẽ nói. “R-Rồi sao đâu?”

Có một khoảng im lặng kỳ cục, nhưng rồi Eddie lên tiếng. “Xem chỗ nước chảy qua thành đập đen thui kìa.”

“Thôi chết!” Ben bật dậy. “Dòng nước đang xói mòn phần đất đá! Trời ơi, ước gì mình có xi măng!”

Cả nhóm nhanh chóng sửa sang phần bị trôi, nhưng ngay đến Eddie cũng có thể thấy điều gì xảy ra nếu không có người liên tục dùng xẻng bổ sung thêm đất: sau một thời gian, xói mòn sẽ làm tấm ván thượng nguồn đập vào tấm ván hạ nguồn, và con đập sẽ vỡ.

“Vậy mình bồi đắp hai bên thành đập đi.” Ben đề nghị. “Tuy không ngăn được xói mói hoàn toàn nhưng sẽ làm quá trình chậm lại.”

“Nếu mình dùng cát và bùn thì nó vẫn bị trôi mà?” Eddie hỏi.

“Mình sẽ đắp thật nhiều bùn.”

Bill gật gù, mỉm cười rồi vòng ngón cái và ngón trỏ tay phải thành hình chữ O. “Làm th-th-thôi. Tớ s-sẽ đào, còn c-cậu ch-chỉ tớ chỗ đ-đắp b-bùn nhé, Ben To Bự.”

Bỗng dưng từ đằng sau, một giọng nói the thé reo lên: “Ôi lạy Chúa tôi, ai lại xây cái hồ trong Vùng Đất Cằn thế này, đâu ra mà lắm đất cát vậy!”

Eddie quay lại, để ý thấy Ben cứng người trước giọng nói lạ, môi cậu mím thành đường chỉ. Đứng phía trên bọn họ, về phía thượng nguồn, trên đoạn đường hôm qua Ben đi ngang là Richie Tozier và Stanley Uris.

Richie nhanh nhảu bước xuống suối, liếc Ben với vẻ tò mò rồi nhéo má Eddie.

“Thôi ngay trò đấy đi! Tớ ghét khi cậu làm thế lắm, Richie.”

“Á à, thích mà ra vẻ, Eds nhỉ.” Richie nói và toét miệng cười. “Sao? Nay cậu có tràng nào hay ho không?”

5

Nhóm năm người bọn họ ngơi tay vào khoảng 4 giờ. Cả đám ngồi trên phần bờ cao - nơi Bill, Ben và Eddie ăn trưa ban nãy đã chìm xuống nước - và nhìn xuống công trình của mình. Đến cả Ben còn thấy phần nào khó tin vào mắt mình. Tuy rã rời nhưng cậu cảm thấy mãn nguyện và có chút sợ hãi không yên khi hoàn thành con đập. Cậu thơ thẩn nghĩ về bộ phim hoạt hình Fantasia, và về việc chú Chuột Mickey biết cách để khiến cây chổi cử động… nhưng lại chẳng biết cách làm chúng dừng lại.

“Tuyệt vời ông mặt trời,” Richie Tozier khe khẽ cảm thán, tay đẩy kính lên mũi.

Eddie liếc về phía cậu nhưng lần này Richie không xỏ xiên gì, khuôn mặt cậu trầm tư, hết sức nghiêm trang.

Phía bên kia con suối, nơi đất vừa nhô lên rồi thoai thoải xuôi theo triền dốc, cả đám đã tạo ra một đầm lầy mới. Dương xỉ và cây bụi ngập trong nước chừng một bàn chân. Vừa ngồi, cả đám vừa trông thấy đầm lầy đẩy bùn lan xuống phía tây. Sông Kenduskeag sáng nay nông và vô hại là thế, vậy mà giờ đây, đằng sau con đập, dòng sông đã tụ thành hồ nước phẳng lặng.

Đến 2 giờ, hồ nước phía sau đập càng lúc càng rộng, ăn vào bờ sông nhiều đến độ lối thoát ra cho nước thừa rộng gần bằng kích thước con suối. Ngoại trừ Ben, ai nấy đều vội vã đến bãi rác để tìm thêm vật liệu. Ben ở lại tìm cách bit phần nước rỉ một cách tuần tự. Sau một hồi sục sạo, họ quay lại mang theo ván và bốn lốp xe nhẵn thín, một cánh cửa gỉ sét của chiếc ô tô Hudson Hornet 1949 và một tấm tôn lượn sóng lớn. Dưới sự chỉ huy của Ben, họ dựng thêm hai cánh vào con đập ban đầu, chặn hết phần nước rò rỉ quanh mép ván- và nhờ hai cánh dựng theo góc cản dòng nước, con đập còn hoạt động tốt hơn trước.

“Hết bị xói mòn ngay và luôn,” Richie nhận xét. “Cậu đúng là thiên tài.”

Ben mỉm cười. “Có gì nhiều nhặn đâu.”

“Tớ có mang vài điếu Winston,” Richie nói. “Ai hút không?”

Nói đoạn, cậu lôi một túi màu đỏ và trắng nhàu nhĩ từ túi quần ra và chuyển cho cả đám. Thầm nghĩ hút thuốc chỉ tổ khiến cơn suyễn nặng thêm, Eddie từ chối. Stan cũng không hút. Bill lấy một điếu, và Ben sau chốc lát nghĩ ngợi cũng rút một điếu. Richie lấy bao diêm với dòng chữ ROI-TAN bên ngoài rồi châm thuốc cho Ben, sau đó đến Bill. Cậu đang định châm điếu của mình thì Bill thổi tắt diêm.

“Cảm ơn nhiều nha, Denbrough, tên chết tiệt,” Richie nói.

Bill mỉm cười hối lỗi. “B-B-Ba người châm m-m-một đ-điếu.” câu giải thích. Như thế x-xui l-lắm.”

“Từ khi cậu sinh ra là đã thấy xui rồi,” Richie nói và châm thuốc bằng một que diêm mới. Cậu nằm xuống và gác hai tay ra sau đầu. Điếu thuốc dựng thẳng giữa hàm răng. “Winston ngon nhỉ, chuẩn thuốc lá đấy.” Cậu khẽ quay đầu và nháy mắt với Eddie. “Đúng không, Eds?”

Eddie thấy Ben nhìn Richie với ánh mắt vừa khâm phục vừa có phần e ngại. Eddie có thể hiểu điều đó. Quen Richie Tozier bốn năm, thế mà đến giờ cậu vẫn chưa thật sự hiểu con người của Richie. Cậu biết Richie luôn được điểm A và B trong các môn học ở trường, nhưng cậu cũng biết rõ Richie hay lãnh điểm C và D ở điểm hạnh kiểm. Bố cậu thét ra lửa về việc này, còn mẹ cậu thì khóc lên khóc xuống mỗi lần Richie báo điểm rèn luyện kém, Richie thề thốt sẽ cố gắng hơn, và có thể cậu sẽ có được… trong một, hai quý. Tiếc là giang sơn dễ đổi, bản tính khó dời, Richie không thể ngồi yên quá một phút và chẳng bao giờ biết giữ mồm giữ miệng. Ở Vùng Đất Cằn, cậu chẳng chuốc lấy quá nhiều rắc rối, nhưng Vùng Đất Cằn không phải Vùng đất Thần tiên, mà họ cũng chẳng thể làm các Cậu bé Hoang dã quá vài tiếng một lần (ý tưởng Cậu bé Hoang dã với ống thở trong túi sau khiến Eddie phì cười). Vấn đề với Vùng Đất Cằn là ta đến rồi lại phải đi. Còn ở thế giới rộng lớn ngoài kia, cái mồm của Richie luôn hại cái thân - với người lớn đã to chuyện, với những kẻ như Henry Bowers lại còn bung bét hơn.

Màn xuất hiện hôm nay của cậu là một ví dụ hoàn hảo. Ben Hanscom vừa bắt đầu nói thì Richie đã quỳ gối xuống ngay chân Ben. Đoạn cậu cúi lạy hết sức hoành tráng, hai tay duỗi thẳng, đập lép bép xuống bờ suối đầy bùn mỗi lần rạp người. Vừa lạy, cậu vừa sử dụng một trong các Giọng nói của mình.

Richie có hơn chục Giọng nói khác nhau. Vào một chiều mưa khi hai đứa ở trong căn phòng nhỏ dưới ga-ra nhà Kaspbrak đọc truyện tranh Lulu bé nhỏ , cậu kể với Eddie rằng ước mơ của cậu là trở thành người nói tiếng bụng tài ba nhất thế giới. Cậu bảo cậu sẽ xuất chúng hơn cả Edgar Bergen, và tuần nào cậu cũng sẽ xuất hiện trên Chương trình Ed Sullivan . Eddie ngưỡng mộ giấc mơ ấy, nhưng cậu cũng thấy những vấn đề có thể phát sinh. Một, tất cả các Giọng nói của Richie đều nghe khá giống giọng của Richie Tozier. Đó là chưa kể nhiều lúc, Richie nói chuyện kém duyên; dù đôi khi cậu cũng rất hài hước. Richie dùng chung một thuật ngữ khi nhắc đến chơi chữ và đánh rắm thành tiếng: cậu ấy gọi nó là Làm Phát Ngon Lành, mà cậu ấy làm rất nhiều phát ngon lành ở cả hai lĩnh vực… nhưng thường không đúng lúc, và cũng chẳng đúng chỗ. Thứ hai, khi nói tiếng bụng, môi của Richie mấp máy. Không chỉ ở những âm “p” hay “b” mà cậu mấp máy rất nhiều âm, nói trắng ra là không chừa âm nào. Thứ ba, khi Richie nói mình sẽ nói thật vang, nhưng giọng của cậu đi không xa. Mà các bạn của cậu đa số đều tốt bụng - hoặc hứng thú trước sự thu hút thỉnh thoảng có duyên, nhiều lúc vô duyên của Richie - nên chẳng nhắc đến những thiếu sót ấy bao giờ.

Một diễn viên, diễn viên hài, nghệ sĩ kịch nói, nổi tiếng với khả năng nói tiếng bụng thành thạo.

Quỳ rạp lia lịa trước Ben Hanscom đang giật mình bối rối, Richie nói bằng giọng mà cậu đặt tên là Giọng Nhóc Da đen.

“Lạy Chúa lòng lành, là Haystack Calhoun kìa!” Richie hét lên. “Thưa ngài Haystack, cắn rơm cắn cỏ xin Ngài đừng thượng chân lên con! Ngài mà làm thế chắc con bẹp ruột mất! Lạy Chúa lòng lành, lạy Chúa lòng lành! Trăm tư ký thịt phục phịch, vòng ngực hơn hai trăm xen-ti, Haystack sặc mùi con xe xúc hạng nặng! Con xin đưa Ngài lên sàn đấu, thưa Ngài Haystack! Con xin cung kính nghiêng mình đưa ngài đi! Chỉ xin Ngài đừng ngã vật lên tên mọi đen này!”

“C-Cứ k-kệ cậu ta,” Bill nói. “R-R-Richie là th-thế đấy. Cậu ta đ-điên lắm.”

Richie bật dậy. “Tớ nghe thấy rồi nha, Denbrough. Để tớ yên nếu không tớ bảo Haystack làm gỏi cậu bây giờ.”

“C-Cái gì t-t-tuyệt nhất ở cậu tr-trôi xuống ch-ch-chân b-b-bố cậu rồi,” Bill nói.

“Đúng” Richie đáp, “nhưng vẫn ngon lành cành đào đấy chứ. Cậu thế nào, Haystack? Tên tớ là Richie Tozier, sở trường của tớ là nhái Giọng nói.” Cậu chìa tay ra. Bối rối ra mặt nhưng Ben cũng giơ tay bắt lại. Richie bèn rụt tay lại. Ben ngẩn tò te, Richie thôi đùa và bắt tay.

“Tên tớ là Ben Hanscom, trong trường hợp cậu quan tâm,” Ben nói.

“Tớ có thấy cậu ở trường,” Richie nói. Cậu vung tay về phía hồ nước đang lan rộng. “Đấy là ý tưởng của cậu phải không? Mấy tên ăn hại này còn chẳng châm được ngòi nổ với khẩu súng phun lửa ấy chứ.”

“Hơi bị sai rồi nhé, Richie,” Eddie chen ngang.

“Ủa, té ra đây là ý tưởng của cậu hả, Eds? Chúa ơi, tớ xin lỗi.” Cậu bèn quỳ mọi trước mặt Eddie và bắt đầu màn dập đầu cúi lạy.

“Đứng lên, thôi đi ông tướng, cậu hất hết bùn lên người tớ rồi kìa!” Eddie ré lên.

Richie một lần nữa đứng bật dậy và véo má Eddie. “Cưng chưa, cưng chưa, cưng chưa!” Richie cảm thán.

“Thôi ngay đi, tớ ghét như vậy lắm!”

“Khai thật đi, Eds, ai xây đập thế?”

“B-B-Bench-chỉ bọn tớ,” Bill nói.

“Tuyệt cú mèo.” Richie quay lại và phát hiện Stanley Uris đứng ngay sau lưng mình, tay thọc túi quần, im lặng nhìn Richie pha trò. “Đây là Stan Uris Quân Tử, Richie giới thiệu. “Stan là dân Do Thái. Cậu ấy cũng là kẻ giết Chúa Giê-su đấy nhé. Chí ít đó là điều một ngày nọ, Victor Criss nói với tớ. Kể từ đấy, tớ bám Stan như sam. Tớ suy luận nếu cậu ấy già cỡ đó, cậu ấy có thể đủ tiền mua cho bọn mình vài chầu bia. Đúng không, Stan?”

“Tớ đoán người giết chắc là bố tớ,” Stan nói, giọng trầm và âm dịu, câu nói khiến cả bọn phá lên cười, kể cả Ben. Eddie cười đến độ thở phì phò, chảy cả nước mắt.

“Phát ngon lành nhỉ!” Richie ré lên, rảo bước đi lại với hai tay giơ thẳng qua đầu như trọng tài môn bóng bầu dục ra hiệu được thêm điểm phụ. “Stan Quân Tử Làm Phát Ngon Lành! Khoảnh khắc Lịch sử! Hoan hô, hoan hô, hoan hô!”

“Chào cậu,” Stan chào Ben, chẳng buồn để tâm đến Richie.

“Xin chào,” Ben đáp. “Bọn mình có học chung lớp Hai. Cậu là cậu nhóc…”

”… lúc nào cũng im thin thít,” Stan nói và khẽ mỉm cười.

“Đúng rồi.”

“Stan sẽ không nói gì nếu miệng đang đầy,” Richie chen vào. “Mà cậu ấy thì suốt ngày đầy miệng… Hoan hô, hoan hô, hoan…”

“I-I-Im đi, Richie,” Bill can ngăn.

“Được rồi, nhưng trước hết, tớ phải nói thêm với các cậu một điều dù ruột đau như cắt. Tớ nghĩ các cậu sắp mất con đập rồi đó. Thung lũng sắp ngập rồi, các chiến hữu. Đưa đàn bà và trẻ em đi sơ tán trước đi.”

Vừa dứt lời, chẳng buồn xắn quần hoặc thậm chí là cởi giày, Richie nhảy xuống nước và bắt đầu đắp bùn vào phần mé đập, ở chỗ dòng nước lì lợm cuốn trôi bùn đất thành dòng. Một bên gọng kính được quấn bằng băng keo Chữ thập đỏ, phần keo bị bong lệt quệt quẹt vào má trong quá trình cậu làm. Vô tình bắt gặp ánh mắt của Eddie, Bill khẽ mỉm cười và nhún vai. Con người Richie là thế. Cậu ấy có thể làm mọi người phát khùng… nhưng có cậu ấy ở bên thật vui.

Cả đám cùng sửa sang con đập thêm khoảng một tiếng nữa. Richie răm rắp làm theo yêu cầu của Ben – lời câu nói có phần rụt rè hơn vì có thêm hai người trong nhóm – không chút thắc mắc và hoàn thành với tốc độ tên lửa. Xong nhiệm vụ nào, cậu lại báo cáo với Ben để nhận thêm lệnh mới, mỗi lần như thế, cậu ngửa lòng bàn tay chào kiểu quân sĩ Anh và giậm hai gót giày sũng nước với nhau. Thỉnh thoảng, cậu lại ra lệnh cho những cậu bạn bằng các Giọng nói như: Sĩ quan Chỉ huy Đức, Quản gia Anh Toodles, Thượng nghị sĩ miền Nam (có giọng hao hao Foghorn Leghorm và về sau, dần dà thêm thắt để trở thành nhân vật mang tên Buford Kissdrivel), Phát thanh viên thời sự MovieTone.

Công việc không chỉ tiến lên mà là phi nước đại . Hiện tại còn chưa tới 5 giờ, cả đám ngồi nghỉ trên bờ hồ và ngẫm lại thấy Richie nói rất đúng: họ đã ngăn chặn việc xói mòn ngay và luôn. Cửa xe, tấm tôn lượn sóng và bánh xe cũ trở thành chặng hai của con đập, chúng được chặn bằng một đống đất đá thoai thoải đổ xuống. Bill, Ben và Richie hút thuốc, còn Stan nằm thẳng cẳng. Người ngoài nhìn vào ắt sẽ tưởng cậu chỉ đang nhìn trời, nhưng Eddie biết không phải thế. Stan đang nhìn vào hàng cây phía bên kia suối, quan sát một, hai con chim để tối đến có thể viết lại vào sổ tay các loài chim. Eddie ngồi xếp bằng, cảm thấy mệt nhoài nhưng dễ chịu. Lúc ấy, trong mắt cậu, nhóm bạn này như hội những người tuyệt nhất quả đất để đàn đúm mà con trai mong ước. Họ hòa hợp với nhau, họ bổ khuyết cho nhau. Cậu cũng chẳng biết giải thích cho bản thân thế nào, mà thật ra điều này cũng chẳng cần giải thích nhiều lời, cứ để cho mọi chuyện diễn ra thật tự nhiên.

Cậu liếc mắt nhìn Ben, lúc này đang vụng về cầm điếu thuốc hút dở và khạc nhổ hết bãi này đến bãi khác, xem chừng cậu ấy không thích vị của thuốc lá cho lắm. Eddie nhìn đến lúc Ben dập điếu thuốc và hất đất cát lên lấp đầu thuốc mới thôi.

Ben ngẩng lên thì trông thấy Eddie đang quan sát mình, cậu ngượng ngùng quay đi.

Liếc sang Bill, Eddie nhận thấy nét mặt Bill có gì đó khiến cậu bất an. Bill nhìn phía bên kia con suối, xa xa trong rừng cây và bụi cỏ, đôi mắt xám xịt và trĩu nặng ưu tư. Vẻ trầm ngâm ấy lại xuất hiện trên khuôn mặt cậu. Eddie có cảm giác trông Bill chẳng khác nào vừa gặp ma.

Như đọc được suy nghĩ của bạn, Bill quay lại nhìn cậu. Eddie mỉm cười song Bill không cười lại. Cậu dập điếu thuốc và đưa mắt nhìn mọi người. Đến cả Richie cũng im lặng chìm trong suy nghĩ riêng, một điều hiếm có khó tìm chẳng kém gì hiện tượng nguyệt thực.

Eddie biết chỉ khi nào thật yên tĩnh, Bill mới cất tiếng nói, vì cậu ấy phải chật vật lắm mới nói được thành lời. Và bất chợt, cậu ước cậu nảy ra ý tưởng gì đó để nói, hoặc Richie sẽ pha trò bằng giọng nói của mình. Bỗng dưng, cậu có cảm giác Bill sắp sửa mở miệng thốt lên một điều gì đó tồi tệ, một điều gì đó sẽ khiến mọi thứ thay đổi. Trong vvô thức, Eddie đưa tay chạm vào ống thở, lôi nó ra khỏi túi sau và cầm trong tay. Cậu thậm chí còn không biết mình đã làm như thế.

“T-Tớ có thể nói với c-các c-c-cậu ch-chuyện này không?” Bill hỏi.

Tất cả quay sang nhìn cậu. Pha trò gì đi, Richie! Eddie thầm van. Pha trò hoặc nói gì đó thật lố lăng, làm cậu ấy ngượng, sao cũng được, bịt miệng cậu ấy đi. Dù điều Bill muốn nói là gì, tớ cũng không muốn nghe, tớ không muốn mọi thứ thay đổi, tớ không muốn sống trong sợ hãi.

Bỗng một giọng nói khàn khàn u tối thều thào trong đầu cậu: Tao chỉ tính mười xu thôi.

Eddie run rẩy, cố gắng gạt giọng nói ấy ra khỏi đầu, và bất thần, một hình ảnh hiện lên trong tâm trí cậu: căn nhà trên đường Neibolt, khoảng sân phía trước đây cỏ dại, những bông hoa hướng dương to nghiêng ngả trong khu vườn không người chăm sóc.

“Được chứ, Bill To Bự,” Richie đáp. “Sao thế?”

Bill mở miệng (căng thẳng dâng cao trong Eddie), rồi lại đóng lại (Eddie thở phào nhẹ nhõm), nhưng lại mở miệng lần nữa (căng thẳng được dịp trào lên).

“N-N-Nếu các c-cậu c-c-cười, t-tớ sẽ không bao giờ ch-chơi với các cậu nữa,” Bill mào đầu. “Chuyện này rất đ-đ-điên rồ, nhưng tớ thề tớ không b-bịa đặt. Nó th-th-thực sự đã xảy ra.”

“Bọn tớ không cười đâu,” Ben trấn an. Cậu nhìn những người còn lại. “Nhỉ?”

Stan lắc đầu. Richie cũng thế.

Eddie những muốn thét lên, Ừ bọn tớ sẽ cười đấy, Billy, bọn tớ sẽ cười thúi mũi cậu và chửi cậu là đồ mít đặc ngu si, thế nên cậu ngậm miệng lại cho tớ nhờ đi? Nhưng tất nhiên không đời nào cậu nói thế. Suy cho cùng, đây là Bill To Bự mà. Cậu lắc đầu một cách khốn khổ. Không, cậu sẽ không cười. Cả đời cậu chưa bao giờ cảm thấy khó nhếch mép cười đến thế này.

Cả đám ngồi đó, phía trên con đập Ben chỉ cả đám cách xây, hết nhìn khuôn mặt Bill lại nhìn hồ nước và đầm lầy đằng xa, rồi lại nhìn khuôn mặt Bill, im lặng lắng nghe cậu kể chuyện xảy ra khi cậu mở cuốn album ảnh của George – chuyện bức ảnh chụp Georgie quay đầu nháy mắt với cậu, chuyện máu me bê bết chảy từ cuốn sách khi cậu ném nó vào tường. Lời cậu kể vừa dài vừa đau lòng. Và đến lúc nói xong, mặt Bill đỏ lựng và đổ mồ hôi như tắm. Eddie chưa bao giờ thấy cậu nói lắp dữ dội đến thế.

Nhưng cuối cùng thì câu chuyện cũng đã được kể xong. Bill đưa mắt nhìn mọi người, vừa ngang ngạnh vừa sợ hãi. Eddie thấy khuôn mặt Ben, Richie và Stan có chung một nét biểu cảm. Ai nấy đều nghiệm mặt và kinh hãi, không vẩn chút nghi ngờ. Trong cậu nổi lên một thôi thúc muốn bật dậy và hét toáng lên: Câu chuyện điên rồ gì thế hả! Cậu có tin câu chuyện thần kinh đó không mà kể? Nếu có đi chăng nữa, cậu nghĩ bọn tớ sẽ tin à? Thế quái nào mà bức ảnh chụp nháy mắt được chứ! Sách cũng không chảy máu được đâu! Cậu bị điên rồi, Bill To Bự!

Song cậu không thể làm thế, bởi nói đâu xa, gương mặt cậu cũng đang đanh lại vì sợ hãi. Tuy không thấy nhưng cậu cảm nhận được điều đó.

Quay lại đây đi, nhóc, giọng nói khàn khàn ấy thì thào. Ta sẽ thổi miễn phí. Quay lại đây đi!

Không, Eddie nên lên. Xin hãy đi đi, tôi không muốn nghĩ về chuyện đó.

Quay lại đây đi, nhóc.

Và rồi Eddie thấy một điều khác - nét biểu cảm ấy không xuất hiện trên mặt Richie, chí ít cậu cảm thấy thế, mà xuất hiện trên khuôn mặt của Stan và Ben. Cậu biết điều đó là gì, cậu biết vì nét biểu cảm ấy cũng đang hiện lên trên mặt cậu.

Đó là sự công nhận.

Ta thổi miễn phí cho.

Căn nhà số 29 đường Neibolt nằm ngay bên ngoài sân ga Derry. Căn nhà cũ kỹ, cửa đóng ván gỗ kín mít, hiên nhà gần lún xuống mặt đất, vườn tược um tùm. Trong lùm cỏ cao có một chiếc xe ba bánh cũ, gỉ sét nằm chỏng chơ, một bánh chỉa lên xeo xéo.

Nhưng phía bên trái hiên nhà có một khoảng vườn trống trơn rất rộng ta có thể thấy cửa sổ tầng hầm dơ bẩn ở phần móng gạch đổ nát của căn nhà. Một trong những khung cửa sổ ấy là nơi Eddie Kaspbrak nhìn thấy khuôn mặt của gã hủi kia lần đầu tiên vào sáu tuần trước.

6

Vào những ngày thứ Bảy, khi không có ai chơi cùng, Eddie hay đến sân ga. Chẳng có lý do gì cho cam; cậu thích thì đi, thế thôi.

Cậu thường đạp xe đến đường Witcham rồi rẽ theo hướng Tây Bắc, đi dọc theo Tuyến số 2 ở nút giao với đường Witcham. Trường Nhà thờ đường Neibolt nằm ở góc Tuyến số 2 và đường Neibolt cách đó chừng một cây rưỡi. Ngôi trường là một tòa nhà khung gỗ, tuy cũ nhưng rất tươm tất với cây thánh giá to lớn phía trên và dòng chữ HÃY ĐỂ CON TRẺ ĐẾN CÙNG TA viết trên cửa chính bằng chữ mạ vàng cao chừng sáu mươi phân. Thỉnh thoảng, vào những ngày thứ Bảy, Eddie nghe thấy tiếng nhạc và tiếng hát ca vang lên từ bên trong. Họ đang hát nhạc Phúc Âm, nhưng người chơi đàn piano tài ba chẳng kém gì Jerry Lee Lewis chứ không chỉ là một nhạc công nhà thờ bình thường. Eddie cảm nhận lời ca tiếng hát cũng không mang nặng tính tôn giáo, dù có rất nhiều nội dung sùng đạo trong “Zion tươi đẹp” và “huyết chiên con bôi sạch lòng” và “Giê-su Chúa ta là bạn thật”. Theo như Eddie thấy, những người cất tiếng ca dường như đang vui vẻ nên chẳng thấy họ sùng kính hát cho lắm. Nhưng cậu thích tiếng hát này - giống như cậu thích nghe Jerry Lee Lewis hát vang bài Lắc hết mình . Thỉnh thoảng, cậu lại dừng một lúc phía bên kia đường, dựng xe vào cây và giả vờ ngồi đọc sách trên cỏ, nhưng thật ra cậu đang lắc lư theo điệu nhạc.

Một nghệ sĩ piano vô cùng nổi tiếng và tài năng.

Những ngày thứ Bảy còn lại, trường Nhà thờ đóng cửa và tĩnh lặng, cậu chạy xe đến sân ga mà chẳng buồn dừng chân, cậu đi đến cuối đường Neibolt, vốn là một bãi gửi xe với cỏ dại mọc qua những vết nứt trên mặt đường nhựa. Đến nơi, cậu dựng xe vào hàng rào gỗ rồi ngắm xe lửa đi qua. Có rất nhiều xe lửa chạy ngang vào thứ Bảy. Mẹ cậu từng nói ngày trước, ta có thể bắt gặp chuyến tàu chở khách của hãng tàu Tây Nam Đệ Nhất ở nhà ga đường Neibolt, nhưng những chuyến tàu chở khách dừng hoạt động vào lúc trận chiến Triều Tiên nổ ra. “Nếu lên tàu đi về hướng Bắc, ta sẽ đến nhà ga Brownsville,” mẹ kể, “rồi từ Brownsville, ta có thể bắt tàu đến hẳn Canada nếu muốn, đến hẳn bờ Thái Bình Dương. Còn con tàu xuôi về phương Nam sẽ đưa ta đến Portland và rồi xuống Boston, từ Ga Miền Nam, ta có thể chu du khắp đất nước. Nhưng hình như bây giờ tàu chở khách chạy theo đường xe goòng. Chẳng còn ai muốn đi xe lửa vì như thế rách việc lắm, khi họ có thể nhảy lên một chiếc Ford và cứ thế vi vu. Có khi con sẽ không còn cơ hội đi xe lửa ấy chứ.”

Nhưng những chuyến tàu chở hàng cực dài vẫn đi qua Derry. Tàu hướng về phía Nam, chở đầy gỗ sản xuất giấy, giấy và khoai tây, còn tàu lên phía Bắc mang theo mặt hàng sản xuất cho các thị trấn mà người ở Maine hay gọi là Đại Miền Bắc - bao gồm Bangor, Millinocket, Machias, Presque Isle và Houlton. Bản thân Eddie rất thích quan sát các con tàu hướng lên phía Bắc, chở những chiếc xe Ford và Chevrolet láng coóng. Một ngày nào đó, mình sẽ có một chiếc xe như thế, cậu tự nhủ với lòng. Như vậy hoặc còn ngầu hơn vậy. Có khi là một chiếc Cadillac ấy chứ!

Có tổng cộng sáu đường ray, đổ vào sân ga như những sợi tơ trong mạng nhện hội tụ về trung tâm: tuyến Bangor và Phía Bắc Đệ Nhất từ phía bắc, Phía Nam Đệ Nhất và Phía Tây Maine từ phía tây, tuyến Boston và Maine từ phía nam, tuyến Duyên hải Miền Nam từ phía đông.

Hai năm trước, một ngày nọ, khi Eddie đứng gần đường ray cuối và nhìn xe lửa chạy ngang, một nhân viên say xỉn trên tàu đã ném vào cậu một cái thùng từ toa tàu chở hàng đang chạy với tốc độ chậm rãi. Eddie cúi đầu và rụt người lại, dù thùng hàng văng vào đống xỉ than cách đó chừng ba mét. Bên trong có thứ gì đó, nhúc nhích và tanh tách. “Chuyến cuối rồi đấy nhóc!” Lão nhân viên say mèm nọ hét lên. Ông lối chai rượu màu nâu dẹt từ túi áo khoác denim, đưa lên tu rồi lẳng nó vào đống xỉ than làm chai bể tan tành. Lão nhân viên trên tàu chỉ vào cái thùng. “Đem về nhà cho mẹ đi! Lời hỏi thăm của tuyến Phúc Lợi chay hướng Duyên hải Miền Nam chết tiệt nhé!” Ông loạng choạng nhoài tới trước để hét nốt những từ cuối cùng bởi con tàu đang dần xa và từ từ tăng tốc, trong một phút hoảng hồn, Eddie cứ tưởng ông ấy sẽ nhào đầu ra ngoài.

Khi con tàu đã mất hút, Eddie bước đến chỗ thùng hàng và dè chừng cúi xuống xem. Lại gần quá thì cậu cũng sợ. Những thứ bên trong vừa lúc nhúc vừa lạo xạo. Nếu lão nhân viên trên tàu hét lên thùng này dành cho Eddie thì cậu còn khuya mới dám đụng vào. Nhưng ông ấy bảo cậu đem về cho mẹ, và giống như Ben, cứ nghe ai nhắc đến mẹ là Eddie lại nhảy dựng lên.

Cậu sục sạo kiếm được đoạn dây thừng từ một trong những nhà kho bằng tôn bỏ trống rồi cột thùng vào giá chở hàng của xe đạp. Mẹ cậu nhìn thùng với ánh mắt còn ngại ngần hơn cả Eddie, và rồi bà thét lên – nhưng không phải vì sợ hãi mà là thích thú. Trong thùng có bốn con tôm hùm, con nào con nấy nặng cả kí lô, càng được cột gọn. Bà nấu tôm hùm cho bữa tối, nhưng thấy Eddie không chịu ăn dù chỉ một miếng, bà khó chịu cằn nhằn.

“Con nghĩ nhà Rockefeller ăn gì vào tối nay ở dinh thự của họ tại Bar Harbor hả?” Bà cấm cảu hỏi. “Con nghĩ những kẻ giàu nứt đố đổ vách đến ăn tại Twenty-One và Sardios ở thành phố New York sao? Con tưởng họ ăn bánh mì kẹp phết bơ đậu phộng và mứt trái cây chắc? Họ ăn tôm hùm đấy, Eddie ơi, như mẹ con mình bây giờ! Nào, ăn thử đi con.”

Một trong những gia tộc tài phiệt của Mỹ.

Nhưng Eddie không chịu – mẹ nói thế chứ ai mà biết được. Có thể lời mẹ nói là đúng, nhưng sâu thẳm trong lòng, Eddie cảm thấy cậu không thể ăn chứ không phải không muốn ăn. Cậu không tài nào gạt được cảnh chúng bò lúc nhúc trong thùng và tiếng lách cách từ càng của chúng. Mẹ khen lấy khen để tôm hùm ngon ngọt ra sao, trách cứ sơn hào hải vị thế này mà cậu chê, đến độ cậu lên cơn khó thở và phải sử dụng ống thở. Đến đây thì mẹ mới chịu thôi.

Eddie về phòng ngủ đọc sách. Mẹ cậu gọi điện cho cô bạn Eleanor Dunton của bà. Eleanor ghé qua nhà, hai người cùng đọc số cũ của tạp chí Photoplay và Screen Secrets , vừa cười rinh rích ở cột tin ngồi lê đôi mách, vừa ăn món salad tôm hùm đã nguội. Sáng hôm sau, khi Eddie dậy đi học, mẹ cậu vẫn còn ngủ, ngáy o o, thỉnh thoảng đánh rắm thành những tiếng nghe như tiếng kèn dài và êm (Richie thể nào cũng nhận xét bà có được vài tràng hay ho cho xem). Trong tủ đựng salad tôm hùm hôm qua trống trơn, chẳng còn gì ngoài vài vết mayonnaise.

Đó là chuyến tàu tuyến Duyên hải Miền Nam cuối cùng mà Eddie từng thấy, về sau, khi gặp ông Braddock, Trưởng tàu Derry, cậu dè dặt hỏi đã có biến cố gì xảy ra. “Công ty tạch rồi,” ông Braddock đáp. “Thế thôi chứ gì nữa. Cháu không đọc báo à? Cả nước vỡ trận rồi. Giờ thì đi ra ngay. Đây không phải là nơi dành cho trẻ con.”

Sau đó, Eddie thỉnh thoảng đi bộ dọc theo đường ray số 4, tức đường ray tuyến Duyên hải Miền Nam ngày trước, lắng nghe trong đầu mình âm vang tiếng trưởng tàu hô tên địa danh bằng một giọng đều đều, vô cảm nhưng rất có duyên, những cái tên kỳ diệu ấy: Camden, Rockland, Bar Harbor (phát âm nghe như Baa Haabaa), Wiscasset, Bath, Portland, Ogunquit, Berwicks, cậu sẽ đi dọc theo đường ray số 4 về phía đông cho đến khi hai chân mỏi nhừ, nhìn cỏ dại mọc giữa các thanh tà vẹt mà chạnh lòng. Lần nọ, cậu nhìn lên trời và trông thấy những con mòng biển (chúng có thể chỉ là đám mòng biển ở bãi rác vừa già vừa béo, chẳng quan tâm liệu có được ngắm biển hay không, nhưng lúc ấy, cậu không nghĩ đến điều đó) bay