Chương 8 PHÒNG CỦA GEORGIE VÀ CĂN NHÀ TRÊN ĐƯỜNG NEIBOLT
1
Richard Tozier tắt ra-đi-ô từ nãy đến giờ đang xập xình bài hát Như gái tân của Madonna trên WZON (một đài phát thanh tuyên bố mình là “Phát thanh AM nhạc chất chơi!” với tần suất rõ là cuồng loạn), tấp vào lề đường, tắt máy chiếc Mustang mà nhân viên của Aois cho anh thuê ở sân bay Quốc tế Bangor rồi bước ra ngoài. Anh nghe thấy tiếng mình hít vào thở ra trong tai. Số là anh vừa nhìn thấy một tấm biển khiến lưng anh đột ngột nổi hết cả da gà.
Anh bước đến đầu xe, đặt một tay lên mui. Anh lắng nghe tiếng động cơ khẽ lách cách trong quá trình nguội dần. Anh nghe thấy tiếng một chú chim giẻ cùi hót vang rồi im bặt. Có tiếng dế kêu réc réc. Chừng nào chúng còn kêu thì cứ để chúng kêu.
Sau khi nhìn thấy tấm biển, anh chạy ngang qua nó, và rồi đột nhiên anh lại có mặt ở Derry. Sau hai mươi lăm năm ròng rã, Richie Tozier “Tía Lia” đã về lại quê cũ. Anh đã…
Nỗi đau đớn như thiêu đốt mắt anh, khiến bao suy nghĩ chợt vỡ òa. Anh nghẹn ngào thét lên khe khẽ, hai tay bưng mặt. Lần duy nhất anh thấy đau đớn chỉ bằng một góc cơn đau như lửa đốt này là khi sợi lông mi mắc kẹt dưới kính áp tròng hồi đại học – mà đó chỉ là một bên mắt. Còn lần này, cả hai mắt anh đau buốt khủng khiếp.
Trước khi anh kịp đưa tay lên bưng mặt, cơn đau đã biến mất.
Anh lại chầm chậm buông tay, ưu tư nhìn xuống Tuyến số 7. Anh bỏ qua đường cao tốc thu phí tại lối ra Etna-Haven, bởi một vài lý do mà bản thân anh cũng chẳng rõ, anh không muốn đi vào bằng lối cao tốc ấy, cái đường cao tốc vẫn còn đang thi công ở khu vực Derry vào lúc anh và nhóm bạn giũ bỏ khỏi gót chân mọi bụi đất của thị trấn bé nhỏ ám muội này rồi bôn ba đến miền Trung Đông. Không - cao tốc thu phí ấy nhanh hơn thật, nhưng như thế không chuẩn.
Vậy là anh lái dọc theo Tuyến số 9, ngang qua khu nhà đang say giấc mang tên làng Haven rồi rẽ vào Tuyến số 7. Ngày rạng dần theo con đường anh đi.
Và rồi tấm biển ấy. Nó cũng như bao tấm biển khác đánh dấu địa phận của hơn sáu trăm thị trấn ở Maine, nhưng riêng tấm biển ấy lại bóp nghẹt trái tim anh!
Penobscot
Quận
D
E
R
R
Y
Maine
Đằng sau là biển hiệu của Elks; biển hiệu của Câu lạc bộ Rotary; và góp mặt cho đủ bộ là một tấm biển hô vang tinh thần SƯ TỬ DERRY MỘT LÒNG VÌ QUỸ LIÊN HỢP! Đi qua hết những tấm biển báo này vẫn là đường Tuyến số 7, chạy dài tăm tắp giữa hai hàng thông và vân sam. Dưới ánh sáng tĩnh lặng khi ngày mới dần lên, hàng cây trồng hư hư thực thực, tựa hồ những điếu thuốc lá đặt trong bầu không khí tù đọng của căn phòng kín như bưng.
Derry, anh thầm nhủ. Derry, lạy Chúa giúp con. Derry. Tiên sư.
Và giờ thì anh ở đây, trên Tuyến số 7. Đi thêm tám cây số nữa, nếu thời gian hay bão lốc chưa cuốn nó đi sau ngần ấy năm, anh sẽ gặp Nông trại Rhulin, nơi mẹ anh đã mua hết trứng và gần hết rau củ của họ. Đi tiếp ba ki-lô-mét trên Tuyến số 7, anh sẽ đến phố Witcham, và tất nhiên phổ Witcham rốt cuộc cũng trở thành đường Witcham, xin Người ban cho con phước lành đời đời chẳng cùng a-men. Và trên đoạn đường từ Nông trại Rhulin đến thị trấn, anh sẽ lái ngang qua nông trại nhà Bowers và nông trại nhà Hanlon. Đi chừng một cây số rưỡi từ nhà Hanlon, anh sẽ trông thấy con sông Kenduskeag lấp lánh ló dạng và bụi thường xuân độc đầu tiên. Vùng đất trũng um tùm cây cỏ chẳng biết vì lý do gì lại mang tên Vùng Đất Cằn.
Còn khuya mình mới đủ sức để đối mặt với tất cả những nơi ấy, Richie nghĩ. Thì có sao nói vậy thôi, bạn hiền ơi. Có lẽ mình không kham nổi.
Cả đêm hôm trước trôi qua như một giấc mơ đối với anh. Chừng nào anh còn lái, còn băng băng chạy xe, còn tăng thêm ki-lô-mét, chừng ấy giấc mơ sẽ tiếp tục. Nhưng giờ, anh đã dừng lại – hay nói đúng hơn, tấm biển dừng anh lại – anh tỉnh giấc, đối diện với sự thật kỳ dị: giấc mơ là thực. Derry là thực.
Anh không tài nào ngăn mình thôi nhớ lại chuyện xưa, thậm chí anh còn nghĩ dòng thác lũ ký ức này sẽ khiến anh phát cuồng, anh cắn môi, áp hai lòng bàn tay vào nhau, chặt thật chặt, như giữ cho bản thân mình không tứ tán. Nhưng anh cảm thấy rồi mình cũng sẽ tan tác thôi, chẳng bao lâu nữa. Đúng là trong anh vẫn có phần điên rồ nào đấy mong đợi những điều sắp sửa xảy đến, nhưng đa phần tâm trí anh chỉ tự hỏi làm thế nào để anh sống qua những ngày tiếp theo. Anh…
Đấy, suy nghĩ của anh lại đứt đoạn nữa rồi.
Một con nai bước ngang qua đường. Anh có thể nghe thấy tiếng móng guốc mát hương xuân của nó lốc cốc trên mặt đường nhựa.
Đang thở ra thì Richie nín lại, đoạn anh từ từ thở phào. Anh ngẩn ngơ nhìn nó, trong đầu tự nhủ anh chưa từng thấy thứ gì như vậy xuất hiện trên đại lộ Rodeo. Không – anh cần phải về cố hương để được chiêm ngưỡng những thứ thế này.
Một nàng nai (“Nàng nai, tức nai, một con nai cái,” Giọng nói réo rắt vang lên trong đầu anh). Bước ra khỏi khu rừng phía bên phải con đường, nàng nai dừng chân ngay giữa Tuyến số 7, hai chân trước phía bên kia vạch vôi đứt gãy, hai chân sau phía bên này. Đôi mắt đen của nó mơ màng nhìn Rich Tozier. Anh nhìn thấy chút kỳ thú không vương sợ hãi ánh lên trong mắt nai.
Anh quan sát nàng nai ấy, ngỡ ngàng, tự nhủ có lẽ nó là một dấu hiệu, một điềm báo hoặc chỉ điểm như của bà đồng Azonka. Và bất chợt, một ký tức liên quan đến ông Nell ùa về. Ngày hôm ấy, ông hù cả bọn mất mật như thét ra lửa ngay sau khi Bill, Ben và Eddie kể câu chuyện của mình! Nhờ ông, cả đám được dịp hồn xiêu phách tán.
Vẫn ngắm nhìn con nai, Rich hít vào một hơi thật sâu, bất giác thốt lên bằng một giọng nói của mình… nhưng đây là lần đầu tiên trong hơn hai mươi lăm năm qua, anh nói giọng của Tay cớm Ireland, giọng nói mà anh đã cập nhật vào kho lưu trữ sau ngày khó quên ấy. Tiếng nói bật lên giữa buổi sáng im ắng như một quả bóng bowling lớn ngất ngưỡng - giọng âm vang và to hơn hẳn Richie tưởng.
“Lạy Chúa tôi, thế này thì Người nhảy dựng trên nạng do ngựa kéo ấy chứ! Đám trẻ con các cháu lang thang ngoài chốn hoang sơ này làm gì thế hả? Lạy Chúa tôi! Đi về nhà ngay, kẻo ta mách với Cha O’Staggers bây giờ!”
Trước khi tiếng nói hết oang vọng, trước khi chú chim giẻ cùi đầu tiên thất kinh ré lên nhiếc móc anh vì tội báng bổ thánh thần, nàng nai hất đuôi về phía anh như phất cờ rồi biến mất vào hàng linh sam ám màu khói bên trái con đường, chỉ để lại một bãi nóng hổi con con phía sau như muốn nói, dù ở tuổi ba mươi bảy, thỉnh thoảng Richie Tozier vẫn có thể có được một tràng hay ho.
Richie bắt đầu phá lên cười. Ban đầu, anh chỉ khúc khích, sau đó sự lố lăng của bản thân khiến anh vỡ òa – đứng trên đường, trong buổi sớm mai ở Maine, cách nhà gần 5.500 ki-lô-mét, hét toáng lên với một nàng nai bằng giọng Tay cớm Ireland. Tiếng khúc khích biến thành chuỗi nắc nẻ, nắc nẻ chuyển sang ha ha, ha ha chuyển sang cười lăn cười bò, và sau một hồi, anh phải vịn vào xe, cười chảy cả nước mắt, lòng mơ hồ tự nhủ khéo có khi mình cười đến són ra quần cũng nên. Cứ lần nào cơn cười sắp được kiểm soát, ánh mắt anh lại hướng đến bãi con con kia, thể là y như rằng anh lại cười như điên như dại.
Vẫn phì cười phùn phụt, anh lần mò trở lại ghế lái và khởi động chiếc Mustang. Một chiếc xe tải chở phân bón hóa học Orinco ầm ầm chạy ngang qua như một cơn gió. Xe ngang qua rồi, Rich mới đánh xe mình ra, tiếp tục hướng về Derry. Anh cảm thấy tốt hơn, lấy lại kiểm soát… hoặc chỉ đơn giản là vì anh đang di chuyển, đang cộng thêm ki-lô-mét nên giấc mơ kia lại tiếp tục diễn ra.
Anh bâng quơ nghĩ về ông Nell – ông cảnh sát và ngày hôm đó ở con đập năm xưa. Ông Nell hỏi cả bọn ai là kẻ đầu têu. Anh nhớ năm đứa đã ái ngại nhìn nhau, nhớ Ben rốt cuộc đã tiến lên phía trước, hai má không còn giọt máu, mắt nhìn xuống đất, mặt run bần bật khi cố không òa lên khóc. Giờ nghĩ lại, Rich đoán có lẽ lúc ấy, cậu nhóc tội nghiệp tưởng mình sẽ phải bóc lịch trong Shacoshank từ năm đến mười năm vì cái tội tích nước gây ngập kênh rạch đường Witcham, nhưng cậu vẫn dũng cảm đứng ra nhận tội. Và vì thế, cậu buộc cả đám còn lại tiến lên bênh vực cho cậu. Nếu không làm vậy, chẳng khác nào chúng tự nhận mình là người xấu. Đồ hèn nhát. Đi ngược lại những anh hùng chúng vẫn thấy trên ti vi. Điều đó đã khiến tình bạn của cả đám keo sơn gắn bó, dù điều gì xảy ra. Dễ thấy, điều đó đã kết nối bọn họ suối hai mươi bảy năm qua. Đôi lúc, các sự kiện như những quân cờ domino. Quân cờ đầu làm đổ quân cờ thứ hai, quân cờ thứ hai làm đổ quân cờ thứ ba, và cứ thế.
Richie tự hỏi từ khi nào anh không còn có thể quay đầu lại? Từ lúc anh và Stan xuất hiện, góp một tay cùng mọi người xây đập? Lúc Bill kể chuyện bức hình chụp em trai cậu ấy quay đầu lại và nháy mắt? Có thể lắm… nhưng với Rich Tozier, dường như thời khắc những quân cờ domino thật sự bắt đầu ngã đổ là khi Ben Hanscom bước tới trước và nói “Là cháu chỉ
2mọi người cách làm. Đây là lỗi của cháu.”
Ông Nell đứng yên nhìn cậu, môi mím chặt, tay đặt lên thắt lưng da màu đen. Nhìn Ben một hồi, ông lại quay sang nhìn hồ nước đang phình to phía sau con đập rồi lại đưa mắt nhìn Ben, khuôn mặt ông bàng hoàng như thể không tin nổi vào mắt mình. Ông Nell là người Ireland to cao, mái tóc chưa gì đã ngả bạc, chải chuốt gọn gàng bên dưới chiếc mũ cảnh sát màu xanh. Đôi mắt ông màu xanh rực rỡ, mũi cũng đỏ rực không chịu kém cạnh. Trên má ông hẳn những vết mạch máu đã vỡ be bé. Ông cao chỉ tầm thước, nhưng trong mắt năm cậu bé xếp hàng trước mắt ông, trông ông phải cao đến hai mét rưỡi.
Ông Nell mở miệng toan nói gì đó, nhưng ông chưa kịp phát biểu thì Bill Denbrough đã tiến tới cạnh Ben.
“L-L-L-Là y-y-y-ý t-t-t-t-tưởng c-c-của ch-cháu,” mãi cậu mới nói thành lời. Cậu thở một hơi thật sâu và mạnh trước mặt ông Nell đang im lìm quan sát với ánh mặt trời phản chiếu đầy uy nghi trên phù hiệu, chật vật lắp ba lắp bắp nói nốt những điều muốn nói: đó không phải lỗi của Ben; Ben chỉ tình cờ đi ngang qua và chỉ cho cả đám cách làm hay hơn vì chúng cháu làm chẳng ra thể thống cống rãnh gì.
“Cháu cũng thế,” Eddie chợt lên tiếng, bước đến cạnh Ben.
“Cái gì mà cháu cũng thế?” Ông Nell hỏi. “Tên hay địa chỉ của cháu đấy à, cao bồi con?”
Mặt Eddie đỏ như gấc - màu đỏ lan lên cả chân tóc. “Cháu có mặt với Bill từ trước khi Ben tới cơ ạ,” cậu nói. “Ý cháu là thế.”
Richie tiến tới cạnh Eddie. Ban đầu, cậu còn nảy ra ý tưởng nếu cậu pha trò bằng một, hai Giọng nói của mình, khéo mặt ông Nell sẽ bớt khó đăm đăm và nghĩ theo chiều hướng vui tươi hơn. Nhưng suy xét sâu hơn (một điều cực kỳ hiếm hoi, không khác gì mặt trời mọc đằng Tây với Richie), có khi Giọng nói của cậu chỉ tổ đổ thêm dầu vào lửa. Trông ông Nell không có vẻ mang tâm trạng mà Richie hay gọi là muốn được mua vui. Hay nói đúng hơn, khuôn mặt ông như muốn nói nụ cười là thứ cuối cùng ông nghĩ đến trong đầu. Nên cậu chỉ khe khẽ nói “Cháu cũng tham gia ạ” rồi ngậm miệng lại ngay lập tức.
“Cháu nữa,” Stan nói, tiến tới cạnh Bill.
Giờ thì cả năm đứa đứng thành một hàng trước mặt ông Nell. Ben hết nhìn bên này lại quay sang bên kia, hơn cả choáng váng - cậu gần như sửng sốt khi mọi người sát cánh bên mình. Trong một khoảnh khắc, Richie còn tưởng Haystack sẽ òa lên khóc vì cảm kích.
“Chúa ơi,” ông Nell lại lên tiếng, và dù giọng ông hết sức cáu giận, nhưng khuôn mặt ông giãn ra như thể ông sắp phì cười. “Ta chưa từng gặp đám nhóc nào tội nghiệp như mấy đứa. Nếu các cháu biết thân biết phận thì tự hiểu tối nay sẽ nát mông đi nhé. Ta dám cá chẳng còn đường nào khác đâu.”
Không tài nào nhịn nổi nữa, miệng Richie ngứa ngáy tuôn ra một tràng như vỡ đê, chuyện thường ngày ở huyện của cậu.
“Tình hình ở quê nhà thế nào rồi ông Nell?” Miệng cậu rít rít giả giọng Ireland. “Ôi, ông quả là suối nguồn tưới mát đôi mắt héo, thề có Chúa, ông quả là người đáng mến, giúp rạng danh…”
“Ta sẽ giúp rạng mông cháu trong vòng ba giây đấy, cậu bạn bé nhỏ,” ông Nell lạnh lùng.
Bill quay sang Richie và gắt lên: “Vì Ch-Ch-Chúa, R-R-Richie, i-i-im gi-giùm đi!”
“Lời khuyên đúng đắn đấy, cậu William Denbrough,” ông Nell nói. “Ta đoán bố Zack không biết cháu lang thang xuống Vùng Đất Cằn nghịch dại thế này phải không?”
Bill cúi mặt lắc đầu. Hai má cậu bừng bừng hồng dại.
Ông Nell nhìn Ben. “Cháu tên gì nhỉ, ta không nhớ.”
“Dạ, cháu là Ben Hanscom,” Bell lẩm bẩm.
Ông Nell gật đầu rồi quay sang nhìn con đập. “Đây là ý tưởng của cháu à?”
“Vâng, cách xây là ý của cháu” Ben nói lí nhí trong họng.
“Chà, cháu có tiềm năng làm kỹ sư lắm đấy, cậu bé to con, nhưng cháu không biết gì về Vùng Đất Cằn hay hệ thống thoát nước của Derry phải không nào?”
Ben lắc đầu.
Ông Nell bèn ôn tồn giải thích. “Hệ thống có hai phần. Một phần thải chất thải rắn của chúng ta – tức là phân đấy, ta nói thẳng, mong các cháu không phật ý. Phần còn lại mang theo nước xám - tức nước xả từ bồn cầu hoặc chảy xuống kênh rạch từ bồn rửa chén, máy giặt và vòi sen; đó cũng là nước chảy xuống rãnh và trôi ra cống thị trấn.
Chà, các cháu không gây ra vấn đề gì với phần xử lý chất thải rắn, tạ ơn Chúa – bởi tất cả được thải xuống sông Kenduskeng cách đây khá xa. Có thể cách đó chừng tám trăm mét sẽ có những đống phân khố queo dưới ánh mặt trời do hành động của các cháu, nhưng các cháu cứ an tâm rằng không có phân dính vào nóc nhà ai cả.
Tuy nhiên, phần thoát nước xám… chà, chúng ta không có máy bơm cho nước thải xám. Nước thải chảy xuống đồi theo hệ thống mà kỹ sư gọi là hệ thống tiêu nước trọng lực. Và ta đoán cháu biết hệ thống tiêu nước trọng lực này nằm ở đâu, phải không cậu bé to con?”
“Ở trên kia ạ,” Ben trả lời. Cậu chỉ lên khu vực đằng sau con đập, chỗ bị cả đám nhấn chìm nguyên một khoảng rộng. Cậu không dám ngẩng lên. Những giọt nước mắt to tròn thi nhau lăn xuống hai gò má cậu. Ông Nell giả vờ không để ý.
“Đúng vậy, cậu bạn non nớt to lớn của ta. Hệ thống tiêu nước trọng lực chảy vào các con suối, sau đó các con suối này chảy vào phía trên Vùng Đất Cằn. Thật ra, rất nhiều suối nhỏ chảy xuống đây chỉ là nước thải xám chứ chẳng có gì khác, chúng chảy từ những con kênh mà các cháu thậm chí còn không thể thấy vì chúng chôn sâu dưới tầng cây thấp. Phân đi một hướng, còn lại đi hướng khác. Khá khen cho tài trí của con người, mà các cháu có nhận ra mình đã lội cả ngày trời trong nước tiểu, nước rửa ráy của Derry không vậy?”
Eddie bỗng khò khè và phải lấy ống thở ra dùng.
“Điều các cháu làm khiến nước dồn lại ở sáu trong tám bể thu nước thải phục vụ đường Witcham, Jackson và Kansas, cũng như bốn, năm con ngõ nhỏ chạy giữa các đường này,” ông Nell liếc nhìn Bill Denbrough một cách nghiêm nghị. “Một trong những bể thu ấy cũng phục vụ nhà cháu đấy, cậu Denbrough con. Thế là chúng ta phải chịu cảnh bồn rửa không trôi, máy giặt không trôi, khi ống nước quá tải, nước sẽ tràn vào tầng hầm…”
Ben rưng rức khóc rống lên. Nhóm bạn quay sang nhìn cậu rồi lại đánh mặt đi. Ông Nell đặt bàn tay to lớn lên vai cậu. Tay ông chai sần và cứng rắn, nhưng lúc ấy nó cũng dịu dàng vô cùng.
“Nào, nào. Không việc gì phải khóc, cậu bé to con. Có thể tình hình chưa tệ đến thế, chí ít hiện tại thì chưa; có thể ta đã nói quá một chút để các cháu thấm thía được điều ta muốn truyền đạt. Bên trên cử ta xuống kiểm tra xem có phải cây đổ ngang qua suối hay không. Thỉnh thoảng điều đó cũng xảy ra. Ta và năm người các cháu cùng giữ bí mật, không cho ai biết chuyện là được. Hiện giờ, thị trấn chúng ta có nhiều vấn đề quan trọng phải lo nghĩ hơn chút nước bị nghẽn lại này. Ta sẽ viết vào báo cáo là ta đã xác định được vị trí cây đổ và một nhóm các cậu bé đã đến giúp ta khiêng cây ra khỏi suối. Ta sẽ không nhắc đến tên các cháu. Mấy đứa sẽ không bị dính tội xây đập trong Vùng Đất Cắn đâu.”
Ông nhìn năm đứa trẻ dò xét. Ben liên tục lấy khăn mùi xoa chùi nước mắt, Bill ưu phiền nhìn con đập; Eddie nắm chặt ống thở trong tay Stan đứng sát Richie, để hờ tay trên cánh tay của cậu bạn, canh lúc cần là siết – siết thật chặt – nếu Richie có vẻ sẽ mồm mép tép nhảy nói câu gì khác ngoài lời cảm ơn.
“Trẻ con các cháu đến một nơi dơ dáy như này làm gì,” ông Nell nói tiếp. “Ở đây có sáu chục căn bệnh sinh sôi là ít.” Ông phát âm từ sinh sôi nghe như xinh xoi . “Con suối chỉ toàn nước tiểu và nước thải xám, rác rến và nước rửa ráy, giòi bọ, sình lầy… nơi dơ bẩn thế này, các cháu không nên đến thì hơn. Ở thị trấn mình có bốn công viên sạch sẽ cho các cháu chơi bóng cả ngày, thế mà ta lại bắt gặp các cháu ở đây là sao? Lạy Chúa tôi!”
“Ch-Ch-Chúng ch-cháu th-th-th-thích đ-đ-đến đ-đây ạ,” Bill chợt ngang ngạnh đáp lời. “Kh-Khi b-b-bọn ch-cháu đ-đến đây, kh-kh-không ai l-la m-m-mắng b-b-bọn ch-ch-cháu.”
“Bạn cháu nói gì thế?” Ông Nell hỏi Eddie.
“Cậu ấy bảo khi bọn cháu đến đây, không ai la mắng bọn cháu.” Eddie giải thích. Giọng cậu mỏng tang và hụt hơi nhưng cũng rất chắc chắn. “Cậu ấy nói đúng đấy ạ. Đám bọn cháu mà đến công viên và muốn chơi bóng chày thì những bạn khác chỉ bảo, được thôi, thế các cậu muốn làm chốt gôn hai hay chốt gôn ba?”
Richie ré lên cười. “Eddie có được tràng hay ho phết nhỉ! Thật… chuẩn không cần chỉnh !”
Ông Nell quay đầu quắc mắt nhìn cậu.
Richie nhún vai. “Cháu xin lỗi. Nhưng cậu ấy nói phải. Bill cũng vậy. Chúng cháu thích đến đây chơi hơn.”
Richie thầm nhủ có lẽ ông Nell sẽ lại nổi giận khi nghe cậu nói thế, nhưng vị cảnh sát tóc bạc khiến cậu - và cả đám – bất ngờ với nụ cười hiện trên môi. “Ây chà,” ông nói. “Thuở còn bé, ta cũng thích đến đây lắm. Và ta cũng sẽ không cấm các cháu. Nhưng các cháu phải nhớ lời ta dặn.” Ông chĩa một ngón tay vào đám trẻ, khiến cả bọn nghiêm trang nhìn ông. “Nếu các cháu xuống đây chơi thì phải đi cả nhóm như thế này. Đi cùng nhau. Các cháu hiểu lời ta chứ?”
Đám trẻ gật đầu.
“Nghĩa là các cháu phải đi cùng nhau mọi lúc. Không được chơi trốn tìm rồi mỗi đứa nấp một nơi. Các cháu biết thị trấn mình đang có chuyện gì đúng không. Nói trắng ra thì ta không cấm các cháu đến đây, bởi ta có cấm thì đằng nào các cháu cũng chẳng nghe. Nhưng để bảo vệ bản thân, dù có đến đây hay đi bất cứ đâu cũng phải đi theo hội.” Ông nhìn Bill. “Cháu có bất đồng với ta không, cậu Bill Denbrough?”
“D-D-Dạ không ạ” Bill nói. “Ch-Chúng ch-cháu s-sẽ đ-đ-đi c-c-c…”
“Thế là được rồi,” ông Nell nói. “Cháu đưa tay đây.” Nói đoạn, ông Nell bắt tay Bill.
Richie hất tay Stan rồi bước tới trước.
“Thề với Chúa, ông quả là đấng chí tôn, thưa ông Nell! Ông quả là đại trượng phu! Một bậc đại trượng phu chí tôn!” Cậu chìa tay ra, nắm lấy bàn tay to lớn của vị cảnh sát người Ireland, lắc lấy lắc để miệng cười ngoác rộng đến mang tai. Trong đôi mắt sửng sốt của ông Nell, cậu bé trông như phiên bản nhạo báng xấu xí của Franklin D. Roosevelt.
“Cảm ơn cậu bé,” ông Nell nói và thu tay lại. “Cháu phải cố gắng luyện giọng thêm đi. Chứ giọng cháu bây giờ nghe giống Groucho Marx nói giọng Ireland ấy.”
Bốn cậu bé còn lại phá lên cười, đa phần là nụ cười nhẹ nhõm. Miệng cười nhưng Stan vẫn ném cho Richie một ánh mắt cáu giận: Lớn giùm đi, Richie!
Ông Nell bắt tay cả đám, Ben là người sau cùng.
“Cháu không có gì phải xấu hổ vì mình đánh giá thiếu sót cả, cậu bé to con ạ. Còn công trình kia… cháu thấy cách làm trong sách à?”
Ben lắc đầu.
“Cháu tự nghĩ ra sao?”
“Dạ phải.”
“Trời, đúng là tài không đợi tuổi! Ta dám chắc sau này, cháu sẽ làm được những điều lớn lao lắm. Nhưng Vùng Đất Cằn không phải nơi để cháu làm những điều đó.” Ông trầm tư nhìn quanh. “Ở nơi này chẳng có gì hay hớm cả. Chốn rừng thiêng nước độc.” Ông thở dài. “Dỡ công trình kia đi, các cháu. Dỡ ngay cho ta. Có lẽ ta sẽ ngồi trong bóng râm ở bụi cây đằng kia, ở lại xem các cháu làm.” Ông mỉa mai nhìn Richie khi nói câu cuối, như thể muốn khơi thêm một màn xướng ngôn khùng điên khác.
“Dạ vâng,” Richie khẽ khọt nói, và chỉ dừng tại đó. Ông Nell gật đầu hài lòng, và đám trẻ trở lại làm việc, một lần nữa, chúng quay sang nhìn Ben – lần này là để cậu chỉ cách dỡ công trình mà cậu vừa chỉ cả đám dựng lên sao cho nhanh nhất. Trong lúc đó, ông Nell lôi một cái chai màu nâu từ bộ quân phục ra và uống một ngụm. Ông húng hắng ho rồi thở dài thườn thượt, quan sát nhóm các cậu bé bằng đôi mắt nhân từ, ươn ướt.
“Cho cháu hỏi thứ trong chai là gì vậy ạ?” Đứng ngập đầu gối trong nước, Richie hỏi với lên.
“Richie, cậu không nói thì có ai bảo cậu câm à?” Eddie rít lên.
“Đây à?” Ông Nell quan sát Richie với vẻ thoáng ngạc nhiên rồi lại nhìn cái chai. Cái chai chẳng có nhãn hiệu gì. “Đây là thuốc ho của thần linh đấy, cậu bé. Giờ thì để ta xem tay chân của cháu có được nhanh nhẹn như mồm mép cháu không nhé.”
3Sau đó, Bill và Richie cùng cuốc bộ leo con dốc đường Witcham. Bill đẩy Ánh Bạc, bởi sau quá trình hết xây lại phá đập, cậu chẳng bói đâu ra sức lực để guồng chân đạp nữa. Người ngợm cả hai cậu bé vừa bẩn thỉu, vừa lôi thôi và kiệt sức.
Ban nãy, Stan đã hỏi cả bọn có muốn đến nhà cậu chơi Monopoly, Parcheesi hay trò gì không, nhưng chẳng ai muốn. Ngày đã gần qua. Ben, mệt mỏi và ủ rũ như đưa đám, nói mình phải về nhà xem có ai trả mấy cuốn sách thư viện cho cậu không. Cậu vẫn nuôi hy vọng, bởi thư viện Derry bắt người mượn phải ghi địa chỉ cũng như họ tên trên thẻ của từng cuốn sách. Eddie nói cậu dự tính xem Chương trình nhạc Rock trên ti vi vì lần này sẽ có Neil Sedaka xuất hiện và cậu muốn xác nhận xem liệu Neil Sedaka có phải dân da đen hay không. Stan bảo Eddie đừng nói vớ va vớ vẩn, bởi Neil Sedaka vốn là người da trắng, nghe nhạc của anh ấy là biết. Eddie bất bình, cho hay không phải cứ nghe là biết, tỉ dụ như đến năm ngoái, cậu vẫn đinh ninh Chuck Berry là người da trắng, nhưng khi thấy anh xuất hiện trong Bục trình diễn , cậu mới biết hóa ra anh ấy là người da đen.
“Mẹ tớ vẫn nghĩ anh ấy là người da trắng, nên chẳng sao cả,” Eddie nói. “Nếu mẹ phát hiện anh ấy là người da đen, còn khuya mẹ mới cho tớ nghe nhạc anh ấy sáng tác.”
Stan cá với Eddie bốn cuốn truyện tranh rằng Neil Sedaka là người da trắng, thế là cả hai cùng đến nhà Eddie để phân định thắng thua.
Rốt cuộc, sau một hồi đi theo hướng dẫn về nhà Bill, Bill và Richie chẳng mở miệng nói gì. Richie mải nghĩ đến chuyện Bill kể về việc bức hình quay đầu lại nháy mắt. Và dù mệt lử, một ý nghĩ hiện ra trong đầu cậu. Suy nghĩ ấy rõ là điên rồ… nhưng đồng thời lại có gì đó thu hút.
“Billy bạn hiền,” cậu lên tiếng. “Mình dừng lại nghỉ đi. Năm phút thôi cũng được. Tớ ngủm đến nơi rồi.”
“M-Mơ đi,” Bill nói nhưng dừng chân, cẩn thận đặt Ánh Bạc lên rìa bãi cỏ Chủng viện Thần học xanh mướt, và rồi hai cậu bé ngồi trên những bậc đá rộng rãi dẫn lên công trình kiến trúc phong cách Victoria đồ sộ màu đỏ.
“Ngày hôm n-n-nay d-dài thật,” Bill rầu rĩ nói. Mắt cậu thâm quầng. Khuôn mặt trắng nhợt và thâm trầm. “Khi về đến nhà tớ, cậu nh-nhớ gọi ch-cho nhà cậu đấy. Kẻo b-bố mẹ cậu l-lại lo lắng.”
“Ừ. Chắc chắn rồi. Bill này, tớ bảo…”
Richie ngưng bặt, nhớ lại câu chuyện xác ướp Ben nói, gã hủi Eddie gặp, và câu chuyện mà suýt chút nữa Stan đã kể với cả bọn. Trong thoáng chốc, có điều gì đó manh nha hiện lên trong đầu cậu, liên quan đến bức tượng Paul Bunyan ở trung tâm thị trấn. Nhưng vì Chúa, đó chỉ là một giấc mơ mà thôi.
Cậu gạt suy nghĩ lạc quẻ ấy đi và lên tiếng.
“Tụi mình về nhà cậu nhé, cậu thấy sao? Vào phòng Georgie xem thế nào. Tớ muốn nhìn tấm hình ấy.”
Bill trố mắt nhìn Richie. Cậu muốn nói gì đó nhưng sốc đến độ không thốt nên lời, chỉ biết lắc đầu nguầy nguậy.
“Cậu nghe chuyện của Eddie rồi. Của Ben nữa. Cậu có tin lời bọn họ không?” Richie tiếp tục.
“Tớ kh-kh-không biết. Tớ ng-nghĩ chắc họ đ-đ-đã th-thấy gì đ-đó.”
“Ừ, tớ cũng vậy. Cả những đứa trẻ bị giết ở đây nữa, tớ nghĩ tất cả đều gặp những chuyện riêng. Điểm khác biệt duy nhất giữa Ben và Eddie với lũ trẻ kia là Ben và Eddie không bị bắt đi.”
Bill nhướng mày song không có vẻ gì là ngạc nhiên. Richie đoán hẳn Bill cũng suy luận được điều đó. Cậu ấy nói năng không trôi chảy nhưng đầu óc không hề ngu si.
“Cậu thử ngẫm mà xem, Bill To Bự,” Richie phân tích tiếp. “Có thể có một gã mặc trang phục hề đi giết trẻ con. Tớ không biết tại sao hắn lại muốn làm thế, nhưng ai mà biết trong đầu đám điên ấy nghĩ gì, cậu công nhận không?”
“Đ-Đ-Đúng…”
“Đúng thế. Không khác gì Joker trong truyện tranh Người dơi.” Nội việc nghe thấy ý tưởng của mình vang thành tiếng đã khiến Richie hào hứng hẳn lên. Cậu còn bâng quơ tự hỏi thật ra cậu đang cố chứng minh luận điểm đưa ra hay chỉ nói quàng nói xiên cốt để được nhìn thấy căn phòng và bức hình ấy. Mà thôi, chuyện đó chẳng mấy quan trọng. Rốt cuộc, thấy ánh mắt Bill lấp lánh hào hứng là đủ rồi.
“Nh-Nh-Những bức h-hình ấy thì l-liên quan gì?”
“Cậu nghĩ sao, Billy?”
Không nhìn thẳng vào Richie, Bill trầm giọng nói mình cho rằng nó không liên quan đến những vụ án mạng. “Tớ nghĩ nó là h-hồn ma của G-G-Georgie.”
“Hồn ma trong tấm hình sao?” Bill gật đầu.
Richie nghĩ thật lung. Ý tưởng về ma quỷ chẳng làm khó được đâu óc của cậu bé ấy. Cậu dám chắc trên đời có những thứ như vậy. Bố mẹ của cậu là tín hữu Giám lý, Richie đi nhà thờ vào mỗi Chủ nhật và dự các cuộc họp Hội Thanh niên Giám lý vào tối thứ Năm. Cậu cũng nắm trong tay khá nhiều kiến thức trong Kinh Thánh, và cậu biết Kinh Thánh tin đủ thứ kỳ cục. Theo như Kinh Thánh, một trong ba phần của Thiên Chúa là Thánh linh, mà đấy mới chỉ là khởi đầu thôi nhé. Cậu thấy Kinh Thánh tin vào ma quỷ, vì Chúa Giê-su đuổi cả đống ma quỷ ra khỏi một người. Chuyện này rõ là buồn cười. Khi Chúa Giê-su hỏi người này tên gì, ma quỷ trả lời và bảo Chúa gia nhập vào Binh đoàn. Hay điều gì đó tương tự. Kinh Thánh cũng tin rằng trên đời có phù thủy, nếu không, sao trong đó lại có câu “Ngươi không được để cho một phù thủy được sống sót”? Một vài điều trong Kinh Thánh còn ghê hơn cả truyện tranh kinh dị. Người bị ninh trong vạc dầu hoặc treo cổ như Judas Iscariot; câu chuyện về vua Ahaz rơi xuống tòa tháp, đàn chó bèn tiến lại liếm sạch máu của ông ta; hoặc những vụ giết hại trẻ sơ sinh khi Moses và Chúa Giê-su ra đời, những kẻ đội mồ sống dậy hoặc bay trong không trung, những binh lính đồng thanh hô cho tường sụp đổ, nhà tiên tri thấy trước tương lai và chiến đấu với quái vật. Tất cả đều có trong Kinh Thánh và từng từ từng chữ đều là sự thật – Đức Cha Craig đã nói như vậy, bố mẹ của Richie và Richie cũng cho là như vậy. Cậu hoàn toàn sẵn lòng tin tưởng lời Bill giải thích, chỉ là cậu thấy tiền hậu có phần bất nhất.
Một trong mười hai tông đồ đầu tiên của chúa Giê-su. Có rất nhiều câu chuyện khác nhau về cái chết của Jadas nhưng phiên bản truyền thống cho rằng ông đã treo cổ tự tử sau khi phản bội chúa Giê-su.
“Nhưng cậu bảo cậu sợ lắm phải không? Sao hồn ma của George lại muốn hù cậu sợ chứ, Bill?”
Bill đưa tay lên chùi miệng. Tay cậu khẽ run rẩy. “C-Có lẽ em ấy gi-gi-giận tớ. Vì t-tại tớ mà e-em ấy bị gi-giết. Là l-l-lỗi của tớ. Tại tớ ch-cho thằng b-bé ra ngoài với cái th-th-th…” Không tài nào nói nổi thành lời, cậu đành vung vẩy tay trong không khí. Richie gật đầu ra hiệu mình hiểu ý Bill… nhưng cái gật đầu ấy không mang nghĩa tán thành.
”Tớ không cho là vậy,” cậu nói. “Nếu cậu đâm sau lưng hoặc bắn thằng bé thì lại là chuyện khác. Hoặc thậm chí, giả dụ như cậu đưa em trai cậu khẩu súng đã lên đạn của bố cậu để em ấy nghịch, và rồi em ấy tự bắn mình. Nhưng đó không phải khẩu súng mà chỉ là một con thuyền. Cậu không muốn làm em trai cậu bị thương, hay nói đúng hơn,” Richie giơ ngón tay và ve vẩy trước mặt Bill như vị luật sư thứ thiệt – “cậu chỉ muốn em cậu vui vẻ một chút, đúng chứ?”
Bill nghĩ lại – vắt óc ngẫm nghĩ. Lần đầu tiên sau nhiều tháng, lời Richie vừa nói giúp cậu bớt cảm thấy nặng nề khi nhắc đến cái chết của George, nhưng đâu đó trong con người cậu lại có một phần âm ỉ đinh ninh rằng cậu không được phép thấy nhẹ lòng. Cái phần ấy đay nghiến: tất nhiên, đó là lỗi của cậu; có thể không phải hoàn toàn nhưng chí ít là phần nào.
Nếu không, tại sao lại có khoảng trống lạnh lẽo giữa bố mẹ mày trên ghế sô pha? Nếu không, tại sao chẳng ai trò chuyện lúc ngồi vào bàn ăn nữa? Giờ chỉ còn tiếng dao nĩa lanh canh, lanh canh mãi cho đến lúc này không chịu nổi mà xin ch-ch-ch-cho con về phòng.
Tựa hồ chính cậu mới là bóng ma, cậu hiện diện đấy, cậu trò chuyện và cử động đấy, nhưng không ai nghe, cũng chẳng ai thấy, một thứ mơ hồ nhưng không được chấp nhận là thật.
Cậu không thích ý nghĩ mình là kẻ đáng trách, nhưng cậu chỉ có thể nghĩ ra thêm một kịch bản để giải thích cho cách bố mẹ cư xử, mà nguyên nhân ấy tệ hơn rất nhiều: rằng ngày trước, bố mẹ yêu thương và quan tâm đến cậu chỉ vì George hiện diện, giờ đây, khi George lìa đời, chẳng còn gì dành cho cậu… tất cả những điều đó xảy ra ngẫu nhiên, không vì lý do gì. Và nếu áp tai vào cánh cửa ấy, ta có thể nghe thấy tiếng gió cuồng loạn thổi ngoài kia.
Vì thế, cậu hồi tưởng lại hành động, cảm xúc và lời nói của mình vào cái ngày Georgie chết, đâu đó trong lòng, cậu hy vọng Richie nói đúng, nhưng một phần khác trong cậu lại cầu mong điều ngược lại. Cậu không ra dáng một người anh cả đối với George, đó là điều chắc chắn. Hai anh em chành chọe nhau rất nhiều. Hôm ấy có lần nào không nhỉ?
Không. Không có. Hôm ấy Bill cũng đang cảm thấy lợn cợn trong người nên chẳng có tâm trạng nào mà cãi cọ với George. Trước đó, cậu ngủ và nằm mơ thấy một thứ gì đó,
(một con rùa)
một con vật nhỏ bé, cậu không nhớ rõ là con gì, rồi cậu tỉnh giấc dưới tiếng mưa rả rích ngoài kia và George lầm bầm bực bội trong phòng ăn. Câu hỏi George gặp vấn đề gì. George bước vào, than vãn mình đang cố gấp thuyền giấy theo hướng dẫn trong cuốn Những hoạt động thú vị nhất nhưng gấp mãi không được. Bill nói George cầm cuốn sách đến cho mình xem. Lúc này đây, khi ngồi cạnh Richie trên bậc thang dẫn đến chủng viện, cậu nhớ như in đôi mắt George bừng sáng khi chiếc thuyền giấy thành hình, và ánh mắt ấy khiến cậu vui sướng vô cùng, tựa hồ Georgie nghĩ Bill là một kẻ anh hào, một kẻ đầu đội trời chân đạp đất, kẻ làm bằng được mới thôi. Nói tóm lại, ánh mắt ấy khiến cậu cảm thấy mình là một người anh lớn thật sự.
Con thuyền ấy khiến George chết, nhưng Richie nói đúng - nó không giống với việc đưa cho George nghịch một khẩu súng đã lên nòng. Bill không biết chuyện gì sẽ xảy ra. Đó là điều chắc chắn.
Cậu hít một hơi thật sâu, run rẩy, cảm nhận tảng đá mà cậu còn không biết bấy lâu đè nặng như được nhấc ra khỏi lồng ngực. Bỗng dưng cậu cảm thấy nhẹ nhõm hơn, nhẹ nhõm về mọi chuyện.
Toan mở miệng nói với Richie điều đó, thế mà cậu lại òa lên nức nở.
Hoảng hồn, Richie vòng một tay qua vai Bill (sau khi liếc quanh để phòng hờ có người tưởng nhầm hai cậu là một cặp xăng pha nhớt).
“Không sao,” cậu an ủi. “Không sao đâu, Billy ơi. Thôi nào. Khóa van nước cho tớ nhờ.”
“Tớ không m-m-muốn e-em tớ b-bị gi-gi-giết đ-đâu!” Bill khóc nấc lên. “T-TỚ KH-KH-KH-KHÔNG BAO GIỜ NGH-NGHĨ Đ-Đ-Đ-ĐẾN ĐIỀU Đ-ĐÓ!”
“Chúa ơi, Billy, tớ biết mà,” Richie trấn an. “Nếu cậu muốn hại em cậu, cậu đã đẩy em ấy ngã cầu thang hay gì đó rồi.” Richie vụng về vỗ vai Bill và ôm cậu thật chặt rồi mới buông tay. “Nào nào, đừng mít ướt nữa, được chứ? Cậu cứ như con nít ấy.”
Dần dà, Bill ngừng khóc. Cậu vẫn đau, nhưng nỗi đau ấy dường như rõ ràng hơn, tựa hồ cậu rạch mở bản thân mình và lấy ra thứ đang mục ruỗng bên trong. Cảm giác nhẹ nhõm vẫn còn đó.
“T-Tớ không m-muốn em tớ b-bị gi-gi-giết,” Bill lặp lại, và n-nếu c-c-cậu k-kể với ai chuyện tớ kh-kh-khóc, tớ s-s-sẽ đấm v-vỡ m-m-mũi cậu.”
“Tớ sẽ giữ bí mật,” Richie nói. “Đừng lo. Đó là em trai cậu mà, vì Chúa. Nếu em tớ mà bị giết, tớ cũng khóc lên khóc xuống cho mà xem.”
“C-C-Cậu l-làm gì có e-em.”
“Ừ, ý là nếu tớ có.”
“C-Cậu s-s-sẽ khóc à?”
“Còn phải hỏi.” Richie ngừng nói, nhìn Bill với ánh mắt dè chừng, cố thăm dò xem Bill đã bình tĩnh lại chưa. Cậu vẫn lau đôi mắt đỏ ngầu bằng khăn mùi xoa, nhưng Richie nghĩ có lẽ bạn mình đã lấy lại tinh thần rồi. “Ý tớ muốn nói là tớ không hiểu tại sao George lại muốn ám cậu. Nên có khi bức hình lại liên quan đến… ừ, yếu tố khác. Như gã hề kia chẳng hạn.”
“C-C-Có thể G-G-George kh-kh-không b-b-biết. Có thể n-nó ngh-nghĩ…”
Richie hiểu điều Bill muốn nói nhưng cậu gạt đi. “Sau khi ngủm củ tỏi, mình biết mọi điều người khác nghĩ về mình, Bill To Bự à.” Cậu nói với phong thái của một ông giáo tuyệt vời rộng lượng đang sửa chữa những suy nghĩ dấm dớ của một kẻ đầu đất. “Trong Kinh Thánh có nói đấy. Kinh Thánh bảo dù hiện tại, ta không thấy nhiều thứ trong gương, nhưng sau khi chết, ta sẽ nhìn xuyên qua nó như một tấm gương. Trong Tê-sa-lô-ni-ca Một hoặc Babylon Hai gì đấy, tớ quên mất rồi. Nó có nghĩa là…”
“Tớ h-h-hiểu nó c-có ngh-ngh-nghĩa gì?” Bill ngắt lời.
“Thế cậu thấy sao?”
“Hả?”
“Mình lên phòng em trai cậu xem thử nhé. Có khi mình lại tìm được manh mối về kẻ giết hại những đứa trẻ cũng nên.”
“Tớ s-s-sợ lắm.”
“Tớ cũng vậy,” Richie nói cốt để hùa theo, để Bill chịu cục cựa, và rồi bụng cậu chợt nặng như chì, và cậu phát hiện thật sự là thế: mặt cậu ấy xanh như tàu lá vì sợ hãi.
4Hai cậu bé âm thầm bước vào nhà Denbrough như hai bóng ma.
Bố của Bill đang đi làm. Sharon Denbrough ngồi trong bàn bếp đọc sách. Mùi của bữa tối – món cá tuyết – bay ra tận phòng khách phía trước. Richie dùng điện thoại nhà Bill gọi về để mẹ cậu biết con trai bà vẫn còn sống nhăn răng.
“Ai đó?” Bà Denbrough gọi với lên khi Richie gác điện thoại. Hai cậu bé cứng người, nhìn nhau với vẻ tội lỗi. Và rồi Bill lên tiếng: “C-Con đây mẹ. Và R-R-R-R-R…”
“Cháu, Richie Tozier đây ạ,” Richie đáp.
“Chào cháu, Richie,” bà Denbrough nói, giọng bà xa xôi, tưởng dường như không có mặt ở đó. “Cháu có muốn ở lại dùng bữa tối không?”
“Cháu cảm ơn cô, nhưng chừng nửa tiếng nữa mẹ cháu sẽ đến đón ạ.”
“Cho cô gửi lời chào mẹ cháu nhé.”
“Vâng, cháu sẽ chuyển lời ạ.”
“N-Nào,” Bill thì thầm. “Ch-Chào hỏi thế đủ rồi.”
Hai cậu bé lên lầu và đi dọc hành lang đến phòng của Bill. Phòng gọn gàng kiểu con trai, có nghĩa là mẹ của cậu bé chỉ hơi hơi nhức đầu khi nhìn vào căn phòng này. Kệ sách chất đầy truyện. Trên bàn la liệt truyện tranh, các mô hình, đồ chơi và một chồng đĩa than. Ngoài ra còn có một chiếc máy đánh chữ văn phòng hiệu Underwood. Hai năm trước, bố mẹ tặng cho cậu vào dịp Giáng sinh, và thỉnh thoảng Bill vẫn hay dùng nó để sáng tác truyện. Kể từ khi George qua đời, cậu viết lách nhiều hơn. Dường như bịa chuyện giúp tâm trí cậu khuây khỏa.
Có một chiếc máy hát để trên sàn, đối diện chiếc giường với đống quần áo đã gấp đặt trên nóc. Bill cất quần áo vào ngăn tủ rồi lấy chồng đĩa than trên bàn. Cậu xem qua một lượt rồi lựa khoảng năm, sáu cái. Cậu đặt lên trục quay của máy hát rồi bật nhạc. Nhóm nhạc The Fleetwoods ngân nga bài Dịu dàng đến bên em .
Richie bịt mũi.
Bill nhoẻn miệng cười dù trống ngực đập thình thịch. “B-Bố mẹ tớ kh-không th-th-thích nhạc rock and r-roll,” cậu giải thích. “Bố mẹ t-tặng tớ đ-đĩa này vào s-s-sinh nhật của tớ. Ngoài ra c-còn hai đĩa P-Pat B-B-Boone và T-T-Tommy Sands. Tớ để dành R-Richard Nh-Nhỏ Bé và J- Jay Hawkins G-Gào Thét khi nào bố mẹ đi v-vắng. Nhưng nếu mẹ tớ nghe thấy tiếng nh-nhạc, mẹ sẽ t-tưởng mình ở tr-trong ph-phòng. Đ-Đ-Đi th-thôi.”
Phòng của George ở bên kia hành lang. Cửa đóng kín. Richie nhìn cánh cửa và liếm môi.
“Bố mẹ cậu có khóa cửa không?” Cậu thì thầm hỏi Bill. Bất chợt, cậu thầm mong căn phòng bị khóa. Bất chợt cậu thấy khó lòng tin nổi mình là kẻ nảy ra ý tưởng này.
Mặt tái mét, Bill lắc đầu và xoay tay nắm cửa. Cậu bước vào rồi quay lại nhìn Richie. Sau phút lưỡng lự, Richie theo sau. Bill đóng cửa lại, khiến giọng hát của The Fleetwoods bị át đi. Richie thoáng nhảy dựng khi then cửa đóng cạch.
Cậu nhìn quanh, vừa sợ hãi vừa hết sức hiếu kỳ. Điều đầu tiên cậu để ý là mùi khô mốc của không khí – Lâu rồi chưa ai mở cửa sổ căn phòng này, cậu thầm nghĩ. Chết tiệt, lâu rồi chưa ai hít thở ở đâu. Nơi này tạo cảm giác như vậy. Cậu khẽ rùng mình trước suy nghĩ ấy rồi liếm môi.
Ánh mắt cậu dừng lại ở giường George, trong đầu thầm nhủ hiện giờ George đang yên nghỉ dưới đất mẹ trong nghĩa trang Mount Hope. Đang thối rữa ở đó. Tay em ấy không chắp lên nhau vì nếu muốn làm động tác này thì phải có hai tay, trong khi đó George chỉ được chôn với một cánh tay mà thôi.
Tiếng rên khe khẽ phát ra từ họng Richie. Bill quay đầu lại, nhìn cậu thắc mắc.
“Cậu nói đúng,” Richie khàn khàn nói. “Ở đây u ám quá. Tớ không hiểu nổi sao cậu có thể vào căn phòng này một mình.”
“Đ-Đó là em tr-trai tớ,” Bill thật thà đáp. “Thỉnh thoảng tớ m-m-muốn vào, thế th-thôi.”
Trên tường dán vài tấm áp phích của trẻ con. Một bức là hình Tom Tuyệt đỉnh, một nhân vật hoạt hình trong chương trình Đội trưởng Kangaroo. Tom đang nhào qua đầu và đôi tay nắm chặt của Crabby Appleton, nhân vật Thối nát Tận Gốc rễ. Một tấm áp phích có hình ba chú vịt cháu của Vịt Donald, bao gồm Huey, Louie và Dewie đang bước vào miền hoang dã, đầu đội mũ gấu mèo của đội hướng đạo Junior Woodchucks. Tấm áp phích thứ ba, do chính tay George tô màu, là hình bức tranh Ông Điều Hay đang điều khiển phương tiện giao thông để một đám nhóc băng qua đường đến trường. Bên dưới để ÔNG ĐIỀU HAY DẶN PHẢI ĐỢI NGƯỜI LỚN DẮT QUA!
Cậu nhóc này tô lem quá, Richie thầm nghĩ mà rùng mình. Cậu bé ấy chẳng bao giờ còn cơ hội học cách tô sao cho khéo nữa rồi. Richie nhìn chiếc bàn cạnh cửa sổ. Bà Denbrough đã dựng tất cả các cuốn sổ liên lạc của George lên đó, hé mở. Nhìn sổ liên lạc, biết rõ sau này sẽ không có thêm cuốn sổ nào mới, biết rõ George đã lìa đời trước khi biết cách tô màu không lem, biết rõ cuộc đời cậu bé đã khép lại vĩnh viễn, mãi mãi chỉ còn sót lại một vài cuốn sổ liên lạc và phiếu bé ngoan, lần đầu tiên, Richie thấm thía thế nào là chết chóc. Tựa hồ một cái két sắt thật to đã rơi vào não cậu và mắc kẹt ở đó. Mình có thể mất mạng! Tâm trí cậu lật mặt, hét toáng lên đầy sợ hãi. Ai cũng có thể mất mạng! Bất cứ ai!
“Ôi trời ơi,” cậu nói, giọng run rẩy. Cậu không trụ được nữa rồi.
“Ừ.” Bill thều thào. Cậu ngồi xuống giường George. “Nhìn kìa.”
Richie nhìn theo ngón tay Bill đang chỉ và trông thấy cuốn album ảnh đóng lại trên sàn. HÌNH CHỤP CỦA TỚ. Richie đọc. GEORGE ELMER DENBROUGH, 6 TUỔI.
Sáu tuổi! Tâm trí cậu rít lên, vẫn bằng cái giọng lật lọng ấy. Mãi mãi tuổi lên sáu! Ai cũng có thể mất mạng! Khốn kiếp! Chết tiệt!
“Hôm b-bữa nó vẫn m-m-mở,” Bill nói.
“Giờ nó đóng rồi,” Richie bứt rứt nói. Cậu ngồi xuống cạnh Bill và nhìn cuốn album. “Nhiều cuốn sách tự đóng lại mà.”
“Tr-Trang giấy thì có thể, nhưng b-b-bìa sách thì kh-không. Nó t-tự đóng đấy.” Cậu nghiêm mặt nhìn Richie, đôi mắt đen tương phản với khuôn mặt trắng nhợt, mệt mỏi. “Nh-Nhưng nó m-m muốn m-mình mở r-ra một lần nữa. Tớ ngh-nghĩ thế.”
Richie đứng dậy, chậm rãi tiến đến gần cuốn album. Nó nằm ngay bên dưới bệ cửa sổ với lớp rèm mỏng. Nhìn ra ngoài, cậu có thể trông thấy cây táo ở sân sau nhà Denbrough. Xích đu đung đưa từ một cành cây đen đúa, cong quèo.
Cậu lại hướng mắt xuống cuốn album của George.
Một vết ố màu nâu sậm đã khô vương ở ngay giữa sách. Có thể đó chỉ là vết xốt cà chua. Đúng rồi, biết đâu lúc ấy George vừa xem album vừa ăn bánh mì kẹp xúc xích hoặc một chiếc bánh hamburger to nhồi đủ thứ nhân; cậu bé cắn một miếng thật to khiến xốt cà chua rớt xuống cuốn album. Trẻ con lúc nào cũng làm những trò ngớ ngẩn như vậy. Chỉ là xốt cà chua thôi. Nhưng trong thâm tâm mình, Richie biết là không phải.
Cậu chạm tay lướt qua cuốn album rồi rụt lại. Nó lạnh ngắt. Tuy nằm ở vị trí ánh mặt trời chói chang của mùa hạ chiếu xuống cả ngày, chỉ bị tấm rèm mỏng chặn lại chút đỉnh, thế mà nó lạnh như băng.
Thôi, cứ để nó ở sân đấy cho rồi, Richie thầm nghĩ. Mình cũng chẳng ham hố xem cuốn album ảnh ngớ ngẩn của cậu nhóc làm gì, toàn ảnh của người lạ. Chắc mình sẽ bảo Bill rằng mình đổi ý rồi, và bọn mình có thể trở lại phòng cậu ấy, ngồi đọc truyện tranh một lát, sau đó mình sẽ về nhà ăn tối rồi đi ngủ sớm vì mình mệt đứ đừ, sáng hôm sau, khi tỉnh dậy, chắc chắn mình sẽ nghĩ vết bẩn đó là xốt cà chua. Ừ, làm vậy đi. Thế là ngon.
Nhưng rồi cậu lại mở cuốn album bằng đôi tay tưởng chừng cách xa cậu cả nghìn cây số, và ở cuối cánh tay dài ngoằng bằng nhựa, cậu nhìn những khuôn mặt, địa điểm trong cuốn album của George, cô dì, chú bác, trẻ con, nhà cửa, xe Ford và Studebaker cũ mèm, đường dây điện thoại, hòm thư, hàng rào bằng cọc, rãnh xe chạy đọng đầy nước bùn, vòng đu quay ở Hội chợ Hạt Etsy, Standpipe, tàn tích của Xưởng đúc Kitchener…
Cậu lật nhanh dần, nhanh dần và các trang giấy đột nhiên trống trơn. Cậu lật ngược trở lại, tuy không muốn nhưng chẳng tài nào kìm được. Tấm hình cuối cùng chụp trung tâm thị trấn Derry, đường Chính và đường Kênh Đào khoảng năm 1930, ngoài ra không còn tấm nào khác.
“Làm gì có hình chụp George ở đây đâu,” Richie lên tiếng. Cậu nhìn Bill với vẻ mặt vừa nhẹ nhõm vừa cáu kỉnh. “Cậu lừa tớ đấy hả, Bill To Bự?”
“C-C-Cái gì cơ?”
“Bức hình chụp trung tâm thị trấn ngày xưa là bức cuối trong cuốn album này rồi. Còn lại đều trống không.”
Bill rời khỏi giường, đến chỗ Richie. Cậu nhìn bức hình chụp trung tâm thị trấn Derry phải gần ba mươi năm trước là ít, xe ô tô và xe tải cũ, đèn đường kiểu cũ với chụp đèn như những quả nho trắng khổng lồ, dọc Kênh Đào là khách bộ hành đang rảo bước. Cậu lật trang giấy và nhận ra đúng như lời Richie nói, chẳng có gì phía sau.
À, không phải – không phải không có gì. Vẫn có một góc kẹp hình để ta lồng ảnh.
“Nó o-o-ở đây này, cậu nói và gõ vào góc kẹp. “Cậu nhìn x-xem.”
“Ôi trời! Cậu nghĩ có chuyện gì xảy ra với nó?”
“Tớ kh-không b-b-biết.”
Bill lấy cuốn album từ Richie rồi đặt vào lòng. Cậu lật ngược trở lại, tìm kiếm bức hình chụp George. Được chừng một phút thì cậu dừng lại, nhưng kìa, các trang vẫn tự lật. Chúng tự chuyển động, chậm rãi lật từng tờ, cố tình tạo ra tiếng loạt soạt thật vang. Bill và Richie trợn tròn mắt nhìn nhau rồi cùng nhìn xuống.
Trang ảnh lật đến bức hình cuối cùng rồi ngừng lại. Trong tấm hình đen trắng chụp trung tâm thị trấn Derry, khung cảnh từ thời trước khi Bill hay Richie sinh ra đời.
“Trời!” Richie chợt ré lên và giật cuốn album từ tay Bill. Giọng của cậu không còn sợ hãi nữa, và khuôn mặt cậu bỗng sáng bừng lên hào hứng. “Chết tiệt!”
“C-Cái gì? Cái g-g-gì vậy?”
“Bọn mình kìa! Đây này! Chết tiệt, cậu nhìn kìa!”
Bill cầm một bên của cuốn album. Chúi đầu vào đó, hai người bọn họ trông chẳng khác nào các cậu bé đang tập hát trong ca đoàn. Bill hít vào một hơi thật sâu, và Richie biết bạn mình cũng trông thấy.
Bên dưới bề mặt sáng bóng của bức hình trắng đen cũ kỹ là hai cậu bé đang bước dọc theo đường Chính về phía ngã giao giữa đường Chính và đường Trung Tâm, ở vị trí này, Kênh Đào đi ngầm vào lòng đất khoảng hai cây rưỡi. Hai cậu bé xuất hiện rõ ràng phía bên kia bức tường bê tông thấp tũn ở rìa Kênh Đào. Một trong hai cậu mặc quần ngắn ngang đầu gối. Người còn lại mặc một bộ đồ trông như thủy thủ. Đầu đội chiếc mũ bằng vải tuýt. Trong hình, hai người nghiêng mặt góc ba phần tư về phía ống kính, đưa mắt nhìn thứ gì đó xa xa phía bên kia đường. Không còn nghi ngờ gì nữa, cậu bé mặc quần ngang đầu gối là Richie Tozier. Và người mặc bộ đồ thủy thủ và đội mũ vải tuýt chính là Bill Cà Lăm.
Như bị thôi miên, cả hai nhìn chằm chằm vào bản thân trong bức hình với tuổi đời gần gấp ba lần tuổi hai người bọn họ. Trong miệng Richie chợt khô khốc như bụi và trơn tuột như thủy tinh. Cách hai cậu bé vài bước chân là một người đàn ông cầm chiếc mũ phớt, áo khoác ngoài lật phật bay ra sau dưới cơn gió đột ngột thổi qua. Trên đường có vài chiếc xe Model-T, một chiếc Pierce-Arrow và dăm ba chiếc Chevrolet gắn sẵn bậc lên xuống.
“T-T-T-Tớ kh-không t-t-tin…” Bill nói, đúng lúc ấy bức hình bắt đầu chuyển động.
Chiếc Model-T lý ra phải vĩnh viễn nằm giữa ngã tư (hoặc chí ít đến lúc các chất hóa học trong bức hình cũ này phân hủy hoàn toàn) lúc này đang băng qua đường, để lại làn khói phụt ra từ ống pô. Nó chạy tới đồi Dặm Trên. Một cánh tay nhỏ màu trắng thò ra từ cửa tài xế, ra hiệu rẽ trái. Chiếc xe rẽ lên đường Tòa Án, chạy ra ngoài đường viền trắng của bức hình nên biến mất.
Chiếc Pierce-Arrow cùng mấy chiếc Chevrolet, Packard bắt đầu lăn bánh, chạy ngược chạy xuôi qua ngã tư. Sau khoảng hai mươi tám năm, đuôi áo khoác của người đàn ông trong hình hoàn thành vòng bay phấp phới. Ông kéo mũ chặt hơn rồi bước tiếp.
Hai cậu bé vòng lại, xoay mặt hẳn về phía ống kính, và liền sau đó, Richie biết hai người trong tấm hình đang quan sát thứ gì, bởi một con chó ghẻ lở lê bước băng qua đường Trung Tâm. Cậu bé mặc đồ thủy thủ – Bill – đưa hai ngón tay lên khóe miệng và huýt sáo. Sững sờ đến độ không tài nào cử động hay suy nghĩ nổi, Richie nhận ra cậu có thể nghe thấy tiếng huýt sáo, có thể nghe thấy tiếng động cơ xe ầm ì. Âm thanh bập bùng như thể nghe qua lớp kính dày, nhưng vấn đề là chúng thực sự vang lên.
Con chó liếc nhìn về phía hai cậu bé rồi đi tiếp. Hai cậu nhìn nhau, phá lên cười rinh rích. Họ tiếp tục bước đi, đoạn Richie trong chiếc quần ngang gối chộp lấy tay Bill và chỉ về phía Kênh Đào. Họ rẽ sang hướng đó.
Đừng, Richie thầm nghĩ, đừng làm thế, đừng…
Hai người đi đến bờ tường bê tông thì bất thình lình, một gã hề bật lên từ bờ đê như món đồ chơi khăm gớm ghiếc, gã hề với khuôn mặt của Georgie Denbrough, tóc vuốt ngược ra sau, miệng nhăn nhở nụ cười tàn độc, máu me nhoe nhoét, hai hốc mắt là hai lỗ đen đúa. Một tay hắn cầm dây cột một chùm ba quả bóng bay. Hắn thò tay kia về phía cậu bé mặc đồ thủy thủ và chộp lấy cổ cậu.
“Kh-Kh-KHÔNG!” Bill ré lên, đưa tay về phía bức hình.
Cậu đưa tay vào trong bức hình ấy!
“Ngừng lại, Bill!” Richie hét lên và chộp lấy bạn mình.
Suýt chút nữa thì đã quá muộn. Cậu trông thấy đầu ngón tay của Bill đi qua bề mặt tấm hình và bước vào thế giới bên trong. Cậu trông thấy đầu ngón tay biến từ màu hồng hào của da thịt sang màu đục xám như xác ướp trong những bức hình cũ. Cùng lúc, chúng trở nên nhỏ và xa xôi, tựa hồ ảo ảnh thị giác ta trông thấy khi thọc một tay vào tô thủy tinh đựng nước: phần tay dưới nước trông như đang trôi lềnh phềnh, chia tách và cách xa phần tay ở ngoài mặt nước vài phân.
Một loạt vết cắt chi chít rạch lên phần đầu ngón tay Bill ở vị trí giao với tấm hình; tựa hồ cậu vừa đút tay vào cánh quạt chứ không phải vào trong một bức ảnh.
Richie chộp lấy tay cậu và kéo thật mạnh. Cả hai ngã vật ra sau. Cuốn album của George văng xuống sàn và đóng sập lại khô khốc. Bill đút tay vào miệng. Mắt cậu nhòe lệ vì đau. Richie có thể thấy máu rỉ thành đường chảy từ lòng bàn tay xuống khuỷu tay Bill.
“Để tớ xem nào,” cậu nói.
“Đ-Đau quá,” Bill lắp bắp. Cậu ngửa lòng bàn tay, chìa ra cho Richie xem. Ngón trỏ, ngón giữa và ngón áp út của cậu bị rạch những đường song song như bậc thang. Ngón út chưa chạm vào bề mặt bức hình (ấy là giả như nó có bề mặt), và dù ngón út chưa bị cứa vào, lúc sau, Bill kể với Richie móng tay của cậu bị xén gọn như cắt bằng kéo bấm móng chuyên dụng.
“Lạy Chúa, Bill,” Richie nói. Băng cá nhân. Cậu chỉ nghĩ được chừng đó. Chúa ơi, cũng may số hai người bọn họ còn đỏ – nếu cậu không kéo tay Bill ra, có khi ngón tay cậu ấy đã đứt lìa chứ không chỉ bị cắt thế này. “Mình phải băng bó lại. Mẹ cậu có thể…”
“Đ-Đ-Đừng l-lôi m-mẹ t-tớ vào.” Bill nói. Đoạn cậu cầm cuốn album lên, khiến máu nhỏ giọt xuống nền nhà.
“Đừng mở nó ra nữa!” Richie ré lên, cuống cuồng chộp lấy vai Bill. “Lạy Chúa tôi, Billy, suýt chút nữa cậu cụt tay rồi đó!”
Bill đẩy tay bạn mình ra. Đoạn cậu lật cuốn album với vẻ mặt đầy kiên định khiến Richie lạnh gáy. Đôi mắt Bill như phát cuồng. Những ngón tay bị thương khiến album của George nhoe nhoét máu – hiện giờ, trông nó chưa giống xốt cà chua cho lắm, nhưng qua thời gian, khi khô lại, nó cũng sẽ giống y như vậy mà thôi. Chắc chắn là thế.
Và khung cảnh trung tâm thị trấn lại hiện ra trước mặt cậu.
Chiếc Model-T vẫn đứng giữa ngã giao. Những chiếc xe khác vẫn yên vị ở chỗ vốn có. Người đàn ông tiến về ngã tư giữ vành chiếc mũ phớt của mình, áo khoác của ông ta bay phất lên.
Hai cậu bé kia đã biến mất. Trong tấm hình không còn đứa trẻ nào. Nhưng…
“Nhìn này,” Richie thì thầm và đưa tay chỉ. Cậu cẩn trọng giữ cho đầu ngón tay cách bức ảnh một khoảng xa. Có gì đó cong cong lấp ló bên k