← Quay lại trang sách

DERRY TAO ĐOẠN THỨ HAI

Mắt tôi trông thấy bao niềm khiếp đảm, trong đó tôi là kẻ dự phần.

Khôn hồn đừng giỡn mặt với thứ vô biên.



Ngày 14 tháng 2 năm 1985

Lễ tình nhân

Tuần trước, ngay lúc tôi bắt đầu nới lỏng cảnh giác thì lại có thêm hai vụ mất tích – nạn nhân đều là trẻ em. Một người là cậu thiếu niên mười sáu tuổi tên là Dennis Torrio, người còn lại là bé gái vừa mới lên năm, lúc ấy đang chơi trượt tuyết sau nhà ở Tây Broadway. Bà mẹ hoảng loạn hô hoán khi chỉ thấy máng trượt bằng nhựa màu xanh hình cái đĩa nhưng không thấy con mình đâu. Đêm hôm trước, tuyết mới rơi chừng mười phân. Khi tôi gọi thì Cảnh sát trưởng Rademacher cho hay không thấy dấu vết của ai ngoại trừ cô bé. Tôi đoán càng lúc ông ấy càng thấy tôi phiền nhiễu. Song chuyện đấy còn lâu mới đủ để khiến tôi mất ngủ, bởi chẳng phải tôi có nhiều thứ kinh khủng hơn phải lo đó sao?

Tôi hỏi xin xem những bức hình cảnh sát chụp nhưng ông từ chối.

Tôi hỏi liệu dấu vết của cô bé có dẫn đến đường cống hay cống thoát nước nào không. Đáp lại tôi là một khoảng lặng rất lâu. Đoạn Rademacher lên tiếng, “Tôi bắt đầu tự nhủ có lẽ anh nên đi khám rồi đấy, Hanlon ạ. Khám bác sĩ nào về thần kinh ấy. Đứa trẻ bị bố nó bắt cóc. Anh không đọc báo à?”

“Thế cậu bé Torrio cũng bị ông bố bắt cóc sao?” Tôi vặn lại. Thêm một khoảng lặng dài dằng dẵng.

“Buông tha giùm tôi đi, Hanlon,” ông nói. “Anh buông tha cho cả tôi nữa.”

Đoạn ông dập máy.

Tất nhiên là tôi đã đọc báo - ngoài tôi ra thì còn ai khác xếp báo ra Phòng Đọc của Thư viện công cộng mỗi sáng kia chứ? Quyền nuôi cô bé Laurie Ann Winterbarger thuộc về người mẹ sau cuộc ly hôn hết sức điều tiếng vào mùa xuân năm 1982. Cảnh sát đang đi theo giả thuyết Horst Winterbarger, hiện đang làm thợ bảo trì máy móc ở Florida, đã lái xe đến Maine và bắt con gái đi. Họ tiếp tục đi sâu vào kịch bản rằng hắn ta đã đậu xe cạnh nhà, gọi con gái của mình – đó là lý do không có dấu vết của ai khác ngoài dấu vết của đứa trẻ. Nhưng họ lại không nhận xét gì về việc cô bé chưa từng gặp bố từ thuở lên hai. Vụ ly hôn của hai vợ chồng nhà Winterbarger vô cùng gay gắt, phần là vì bà vợ tố cáo đã có ít nhất hai lần, Horst Winterbarger quấy rối tình dục con gái mình. Bà đề nghị tòa án cấm Winterbarger mọi quyền thăm hỏi và được tòa đồng ý mặc dù ông chồng hết sức phản đối. Rademacher suy luận có thể chính quyết định của tòa khi buộc Winterbarger phải cắt đứt mọi liên hệ với đứa con duy nhất đã khiến nghi phạm túng quá làm liều mà bắt cóc con gái. Nghe thì cũng xuôi tại đấy, nhưng thử hỏi bản thân mà xem: Liệu cô bé Laurie Ann có nhận ra bố mình sau ba năm xa cách để rồi chạy đến chỗ hắn ta khi được gọi hay không? Rademacher bảo rằng hoàn toàn có thể, dù cô bé chỉ mới hai tuổi lúc gặp cha lần cuối. Song tôi lại không cho là thế. Chưa kể, người mẹ còn cho biết Laurie Ann được dạy dỗ rất kỹ càng về việc không được lại gần hoặc nói chuyện với người lạ, bài học mà hầu hết những đứa trẻ ở Derry đều được trang bị từ sớm. Rademacher tuyên bố ông đã yêu cầu cảnh sát bang Florida truy nã Winterbarger và trách nhiệm của ông đến đó là hết.

“Tranh chấp quyền nuôi con là địa hạt của luật sư chứ không phải của cảnh sát,” câu mà gã béo trương béo nứt, chỉ giỏi thùng rỗng kêu to này phát biểu được đăng lại trong tờ Derry News số ra ngày thứ Sáu.

Nhưng cậu con trai nhà Torrio… trường hợp này hoàn toàn khác. Gia đình cậu bé hết sức hòa thuận. Cậu là cầu thủ bóng bầu dục của đội Những Chú hổ Derry. Học sinh có tên trên bảng vàng. Từng học qua khóa Trường học Sinh tồn Outward Bound vào mùa hè năm 1984 và đậu với kết quả xuất sắc. Không có tiền án dùng chất kích thích. Có một cô bạn gái mà cậu cưng như cưng trứng, hứng như hứng hoa. Đường tương lai vô cùng xán lạn. Cậu như có tất cả ở Derry chí ít là trong vài năm tới.

Vậy mà đột nhiên, cậu lại biến mất.

Cậu đã gặp phải chuyện gì? Bỗng dưng nổi máu phiêu bạt giang hồ ư? Hay một tay tài xế say xỉn nào đó đã tông chết cậu rồi chôn xác phi tang? Hay lẽ nào cậu vẫn ở Derry, lẽ nào cậu lấp ló trong bóng tối của nơi này, bên cạnh những đứa trẻ như Betty Ripsom, Patrick Hockstetter, Eddie Corcoran và còn biết bao cô cậu bé khác? Phải chăng là thế?

(sau đó)

Tôi lại thế nữa rồi. Lại ngựa quen đường cũ, chẳng làm được tích sự gì, chỉ đẩy bản thân muốn hét lên cho thỏa cõi lòng. Tôi giật nảy khi cầu thang sắt dẫn lên kệ sách kêu cót két. Tôi giật nảy khi nhìn thấy bóng đen. Đã bao lần, tôi vô tình tự hỏi mình sẽ phản ứng ra sao nếu tôi đang xếp sách lên kệ, đẩy xe đẩy bánh cao su tới trước thì một cánh tay bất chợt thò ra từ hai hàng sách đang tựa vào nhau, chộp lấy tôi…

Chiều nay, trong lòng tôi bùng cháy mong muốn khôn nguôi nhấc máy lên gọi cho bọn họ. Thậm chí, có lúc tôi đã bấm số 404, mã vùng Atlanta với số điện thoại của Stanley Uris ngay trước mặt. Nhưng rồi tôi chỉ áp điện thoại lên tai, tự hỏi liệu tôi muốn gọi cho họ vì tôi hoàn toàn chắc chắn – chắc chắn tuyệt đối – hay đơn giản chỉ là tôi đang quá sợ hãi, thành thử tôi không tài nào chịu nổi cảnh một thân một mình chống chọi; thành thử tôi phải trò chuyện với người biết (hoặc sẽ biết) tôi đang sợ thứ gì.

Trong một khoảnh khắc, tôi như nghe thấy Richie nói Phù hiệu ?

PHÙ HIỆU Ư? Cần quái gì dăm ba cái phù hiệu thối, bớ ngài! bằng Giọng nói Pancho Vanilla, rõ tựa hồ cậu đang đứng ngay bên cạnh tôi… và rồi tôi dập máy. Vì khi ta muốn gặp một người nhiều như tôi muốn gặp Richie – hoặc bất cứ ai trong số họ – vào phút giây ấy, ta không thể tin vào thôi thúc của chính mình. Những lời nói dối trôi chảy nhất là những lời ta bịa với bản thân ta. Mà sự thật là tôi vẫn chưa dám chắc chắn một trăm phần trăm. Nếu xuất hiện thêm một nạn nhân, tôi sẽ gọi… nhưng giờ, tôi sẽ xem một kẻ ba hoa chích chòe như Rademacher có thể đúng. Biết đâu cô bé ấy vẫn còn nhớ mặt bố mình thì sao, ví dụ như cô bé có hình ông ta chẳng hạn. Và tôi đoán một người lớn biết nói ngon nói ngọt rất có thể sẽ dụ được một đứa trẻ bước vào xe với mình, bất kể đứa bé đã được dạy bảo điều gì.

Câu thoại nổi tiếng trong bộ phim The Treasure of the Sierra Madre năm 1948.

Còn một nỗi sợ khác đang ám ảnh tôi. Rademacher bảo tôi đang phát điên. Tôi không cho là thế, nhưng nếu bây giờ, tôi gọi, có khi họ sẽ cho rằng tôi bị điên. Tệ hơn nữa, biết đâu họ không nhớ tôi là ai thì sao? Mike Hanlon ư? Ai thế? Tôi không quen ai tên Mike Hanlon cả. Tôi không nhớ anh là ai. Lời hứa nào kia?

Tôi cảm giác sẽ đến một thời điểm tôi phải gọi cho họ… và khi thời điểm chín muồi, tôi sẽ tự động biết. Mạch của họ sẽ cùng lúc mở ra. Tựa hồ có hai bánh xe khổng lồ đang từ từ ăn khớp vào nhau, tôi và phần còn lại của Derry trên một bánh, những người bạn thuở bé của tôi nằm trên bánh còn lại.

Khi thời điểm chín muồi, họ sẽ nghe thấy tiếng nói của Con Rùa.

Thế nên tôi đợi, chẳng chóng thì chầy, mọi chuyện rồi sẽ ngã ngũ. Tôi nghĩ tôi không cần băn khoăn gọi hay không gọi cho họ nữa.

Chỉ còn băn khoăn thời điểm mà thôi.

Ngày 20 tháng 02 năm 1985

Vụ cháy ở vũ trường Điểm Đen

“Một ví dụ hoàn hảo về cách Phòng Thương mại viết lại lịch sử đấy, Mike ạ,” ông Albert Carson thế nào cũng nói vậy, với điệu cười khúc khích. “Họ sẽ tìm cách cho mà xem, và nhiều lúc họ suýt thành công… nhưng người già nhớ sự việc thật sự xảy ra thế nào. Luôn luôn nhớ. Và thỉnh thoảng họ sẽ kể cho cậu nghe, nếu cậu biết hỏi đúng cách.”

Có những người sống ở Derry hai mươi năm trời mà không biết ngày trước từng có một doanh trại “đặc biệt” dành cho hạ sĩ quan ở Căn cứ Không lực Lục quân Derry, cách phần còn lại của căn cứ khoảng tám trăm mét – và vào giữa tháng Hai, khi nhiệt độ âm gần 20 độ C, gió lồng lộng gào rít qua đường băng bằng phẳng với vận tốc hơn 60 ki-lô-mét trên giờ, đưa chỉ số phong hàn xuống mức không tưởng, tám trăm mét ấy biến thành thứ có thể khiến ta tê cóng hoặc phát cước, thậm chí mất mạng.

Bảy doanh trại còn lại có lò sưởi bằng dầu, cửa sổ chống bão và cách nhiệt. Không gian ấm cúng và quây quần. Còn doanh trại “đặc biệt” kia, dành cho hai mươi bảy thành viên của Đại đội E, chỉ có một lò gỗ cũ kỹ để sưởi. Họ phải tự xoay xở kiếm nguồn cung gỗ cho lò. Vật liệu cách nhiệt duy nhất là đống gỗ thông và vân sam mà họ chất đầy bên ngoài. Ngày nọ, một thành viên đã hoàn thành bộ cửa sổ chống bão cho doanh trại này, nhưng cùng ngày hôm ấy, hai mươi bảy thành viên của doanh trại “đặc biệt” nọ được điều động lên Bangor để phụ giúp công việc tại căn cứ, và tối đó, khi họ trở về, vừa mệt mỏi vừa rét cóng, toàn bộ cửa sổ đều bị đập vỡ. Không sót một cái nào.

Sự việc xảy ra vào năm 1930, khi một nửa lực lượng không quân của Mỹ vẫn sử dụng máy bay hai tầng cánh. Ở Washington, Billy Mitchell đã bị đưa ra xử ở tòa án quân sự và giáng cấp xuống lo việc văn phòng vì dai dẳng tìm cách xây dựng một lực lượng không quân hiện đại hơn, không may lại khiến các vị chóp bu phía trên xem như cái gai trong mắt mà hạ bệ. Không lâu sau đó, ông từ chức.

Vì thế, năm thì mười họa mới có diễn tập bay ở căn cứ Derry dù có những ba đường băng (một trong số đó được lát đàng hoàng). Các hoạt động tập huấn quân sự được tổ chức ở đây chỉ là cưỡi ngựa xem hoa.

Một trong những thành viên của Đại đội E trở về Derry sau khi thời gian phục vụ kết thúc vào năm 1937 là bố tôi. Ông kể cho tôi câu chuyện như sau:

“Một ngày mùa xuân năm 1930 – chừng sáu tháng trước khi xảy ra vụ cháy ở Điểm Đen – bố trở về cùng bốn đồng đội sau ba ngày rời khỏi đơn vị để đến Boston.

Lúc bọn bố đi qua cổng thì gặp một gã tướng người vạm vỡ, to cao, đứng ngay bên trong trạm kiểm soát, tựa vào xẻng, đang chỉnh lại đũng quần nhà binh màu nâu. Một tay trung úy gốc đâu đó dưới miền Nam. Mái tóc đỏ ngả màu cà rốt. Răng lởm chởm. Mụn nổi thành dề. Chẳng khác nào một con tinh tinh không lông, nếu con hiểu ý bố là gì. Vào giai đoạn Đại khủng hoảng ấy, có rất nhiều gã như thế trong quân ngũ.

Đấy, lúc đó, bốn cậu thanh niên bọn bố vừa trở về, ai nấy đều cảm thấy bình thường, và qua ánh mắt của gã, bọn bố biết rằng gã đang tìm lý do lý trấu gì đó để gây khó dễ cho nhóm bố. Vì vậy, bọn bố giơ tay chào như thể gã là Đại thống tướng Black Jack Pershing. Bố nghĩ như thế là đủ, nhưng đó là một ngày cuối tháng Tư đẹp trời, với những tia nắng như rót mật, và bố lại bất chợt để cái miệng hại cái thân. ‘Chúc trung úy buổi chiều vui vẻ, thưa trung úy Wilson,’ bố vừa lên tiếng thì gã lao vào xối xả như tát nước.

Một sĩ quan cao cấp của Lục quân Hoa Kỳ. Chức vụ nổi tiếng nhất của ông là khi ông làm chỉ huy lực lượng viễn chinh Mỹ trên mặt trận phía Tây trong Thế chiến thứ nhất.

‘Tao đã cho phép mày phát biểu với tao chưa?’ Gã hỏi.

‘Thưa, chưa,’ bố đáp.

Gã nhìn ba người còn lại – Trevor Dawson, Carl Roone và Henry Whitsun, riêng cậu này mất mạng trong vụ cháy mùa thu năm ấy - rồi nói với họ, “Thằng mọi đen khôn ranh này ở lại với tao. Nếu đám mọi đen bọn mày không muốn cùng nó oằn lưng ra làm việc suốt buổi chiều thì trở về doanh trại, sắp xếp đồ quân dụng và đi trực ngay. Rõ chưa?

Bọn họ toan đi tiếp thì Wilson gầm lên, ‘Hành quân nhanh lên, lũ ăn hại! Cho tao thấy gót giày chúng mày xem nào?’

Thế là bọn họ nhanh chân bước đi, còn Wilson đưa bố đến lán trại để trang thiết bị rồi đưa cho bố cái thuổng. Đoạn gã đưa bố ra khoảng đất rộng mênh mông mà ngày nay tọa lạc nhà ga của Northeast Airlines Airbus. Gã nhìn bố, khinh khỉnh nhếch mép cười, chỉ xuống đất và bảo, ‘Mày thấy cái hố ở đó không, thằng mọi đen?’

Chẳng có cái hố nào ở đó cả, nhưng bố đoán tốt nhất hắn ta bảo gì thì cứ hùa theo, nên bố nhìn xuống khoảnh đất gã chỉ và bảo có thấy. Thế rồi hắn đấm vào mũi bố một phát, khiến bố ngã lăn quay ra đất, máu mũi chảy xuống chiếc áo sạch sẽ cuối cùng mà bố có.

‘Mày không thể nhìn thấy cái hố vì thằng băm chết vằm nào đó đã lấp nó rồi, con trai ạ!’ Gã hét vào mặt bố, trên má nổi lên hai mảng đỏ thật to. Nhưng gã đang toét miệng cười, chứng tỏ rõ ràng gã đang rất khoái chí. ‘Vậy nên việc của mày, cái thằng Chúc Trung Úy Buổi Chiều Vui Vẻ kia, là đào cái hố cho tao. Nhanh chân lên!’

Vì thế, bố hì hụi đào suốt hai tiếng liền, và chẳng mấy chốc, cái hố cao đến cằm của bố. Chừng nửa mét cuối cùng là đất sét, và đến lúc đào xong, nước ngập đến cổ chân và giày bố ướt sũng.

‘Ra khỏi đó đi, Hanlon, trung úy Wilson ra lệnh. Gã chễm chệ ngồi trên bãi cỏ hút thuốc. Gã chẳng buồn đỡ bố một tay. Người bố dơ dáy, bẩn thỉu từ đầu đến chân, chưa kể vết máu đang khô lại trên chiếc áo màu cát. Gã đứng dậy tiến lại rồi chỉ vào cái hố.

‘Mày thấy cái gì ở đó, thằng mọi đen?’ Gã hỏi bố.

‘Thấy hố của ngài, thưa trung úy Wilson,’ bố đáp.

‘Ờ, chuẩn, tao mới quyết định là tao không cần nó nữa,’ lão tỉnh bơ. ‘Tao không muốn cái hố do một thằng mọi đen đào. Lấp đất lại cho tao, binh bét Hanlon.’

Vậy là bố phải lấp đất trở lại, và đến lúc bố làm xong, mặt trời đã xuống núi, không khí trở lạnh. Khi bố đập thuổng xuống phần đất cuối cùng, lão lại bước đến nhìn.

‘Giờ thì mày thấy gì ở đó, mọi đen?’ Lão hỏi.

‘Một đống đất, thưa trung úy,’ bố đáp và sau đó lão lại thụi bố. Chúa ơi, Mikey, suýt chút nữa bố đã nhảy bật lên và dùng cán thuổng đập bể đầu gã. Song nếu bố làm vậy, bố sẽ chỉ được nhìn bầu trời này qua song sắt mà thôi. Thế nhưng có những giây phút bố thấy làm vậy cũng đáng. Bố phải chật vật lắm mới giữ được bình tĩnh đấy.

‘Đó không phải là đống đất, thằng đen như quạ ngu si kia!’ Gã hét lên với bố, nước bọt bắn tứ tung. ‘Đó là CÁI HỐ CỦA TAO, và mày liệu thần hồn đào ra ngay lập tức! Nhanh lên!’

Rốt cuộc, bố hết đào đất ra khỏi cái hố của gã rồi lại lấp đất, xong đâu đấy, gã hỏi bố tại sao bố mò đến đây lấp hố ngay lúc gã chuẩn bị đi nặng ở đó. Thế là bố lại đào lên, gã tụt quần xuống rồi chồm hổm hai cái mông trắng trên hai cái chân như cẳng gà qua hố, vừa đại tiện vừa ngước nhìn bố, nhe nhởn cười nói, ‘Mày khỏe chứ, Hanlon?’

‘Tôi vẫn khỏe, thưa trung úy,’ bố đáp lại ngay, vì bố đã tự nhủ sẽ không từ bỏ cho đến khi lão ngã ra bất tỉnh hoặc chết thì thôi. Máu nóng của bố xộc lên não rồi.

‘Thế để tạo chỉnh cho,’ gã nói. ‘Trước nhất, mày lo lấp cái hố cho tao, binh bét Hanlon. Mà làm thì làm hăng hái lên. Tao thấy mày hơi rù rờ rồi đấy.’

Bố lại tiếp tục lấp đất, và nhìn nụ cười khả ố trên mặt gã, bố biết gã chỉ khởi động mà thôi. May sao lúc ấy, một người bạn của gã cầm cây đèn măng-sông đi ngang qua khoảng đất và nói với gã rằng ban nãy có kiểm tra đột xuất, và Wilson dính phốt vì đã bỏ lỡ. Nhờ bạn của bố bao che nên bố mới thoát được, nhưng bạn của Wilson – bạn thì ít mà bè thì nhiều – lại chẳng thèm quan tâm gã.

Gã để bố đi, và bố mong chờ thấy tên của gã xuất hiện trên bảng Chịu phạt ngày hôm sau nhưng chẳng thấy đâu. Bố đoán gã đã trình với cấp trên rằng gã bỏ lỡ buổi kiểm tra vì bận dạy cho một thằng mọi đen cầm đèn chạy trước ô tô về việc ai là kẻ sở hữu mọi cái hố ở căn cứ quân sự Derry – tất cả những cái đã được đào và chưa được đào. Có lẽ họ còn tặng cho gã huân chương chứ không bắt gã gọt khoai cũng nên. Đấy, ở Derry, Đại đội E phải chịu những điều như thế.”

Bố kể với tôi câu chuyện này vào khoảng năm 1958, nếu tôi nhớ không lầm, lúc ấy bố sắp bước sang tuổi ngũ tuần, dù mẹ tôi mới chỉ bốn mươi hay tầm đó. Tôi hỏi tại sao ông vẫn trở về khi Derry là một nơi như thế?

“Chà, năm nhập ngũ, bố mới chỉ mười sáu tuổi thôi, Mikey ạ,” ông giải thích. “Bố khai gian tuổi để tòng quân. Cũng chẳng phải do bố nghĩ ra đâu. Bà nội bảo bố làm thế. Bố đoán lý do lời nói dối không bị phanh phui là vị tướng bố to con. Bố sinh ra và lớn lên ở Burgaw, Bắc Carolina, và khoảng thời gian duy nhất nhà ông bà nội được nhìn thấy thịt là ngay sau khi vào mùa thuốc lá, hoặc thỉnh thoảng vào mùa đông nếu ông nội bắn được gấu mèo hay chồn túi. Điều tốt đẹp duy nhất về Burgaw mà bố nhớ là bánh phô mai sô-cô-la với bánh bột ngô trải xung quanh, nhìn bắt mắt không thể tả.

Ông nội con mất do gặp tai nạn với máy móc nông trại, bà nội bảo bà sẽ đưa Philly Loubird đến Corinth, bởi bà có người giúp đỡ đó. Philly Loubird là con út trong nhà mà.”

“Bố đang nói tới chú Phil phải không ạ?” Tôi hỏi, mỉm cười trước việc chú mình được gọi với cái tên Philly Loubird. Chú làm luật sư ở Tucson, Arizona, và từng tham gia Hội đồng thành phố suốt sáu năm trời. Thuở bé, tôi luôn nghĩ chú Phil rất giàu có. Giờ nhìn lại, tôi thấy đúng là so với mặt bằng chung của dân da đen năm 1958, chú sung túc hơn nhiều. Chú kiếm được những hai mươi ngàn đô-la một năm.

“Ừ, đúng rồi đấy,” bố tôi ôn tồn. “Nhưng ngày ấy, chú của con mới chỉ là một cậu bé mười hai tuổi đội mũ thủy thủ chóp nhọn, mặc quần yếm vá chằng chịt và chẳng có giày để mang. Chú ấy là con út, bố thì kế út. Không tính các anh chị trên – hai người đã chết, hai người đã có gia đình riêng, một người đi tù. Đó là Howard. Bác ấy suốt ngày gây chuyện.

‘Mày nên nhập ngũ đi,’ bà nội Shirley của con bảo bố như thế. ‘Mẹ không biết họ có trả tiền cho mày ngay hay không, nhưng khi nào họ cho, hãy gửi về trợ cấp cho mẹ. Mẹ chẳng vui vẻ gì khi phải để mày bôn ba, con ơi, song nếu mày không đỡ đần mẹ và Philly, mẹ chẳng biết nhà mình làm thế nào để sống cả.’ Bà đưa cho bố giấy khai sinh để trình cho người tuyển binh, và bố thấy bà đã sửa năm để đôn tuổi của bố lên mười tám.

Và rồi bố đến tòa án, chỗ nhân viên tuyển binh đang có mặt để xin đi lính. Ông ấy cho bố xem giấy tờ và chỉ cho bố chỗ đánh dấu. ‘Tôi biết viết tên mình,’ bố nói và ông ấy cười như thể không tin lời bố.

‘Thế thì cậu cứ viết tên mình vào đi, cậu nhóc da đen,’ ông đáp.

‘Hượm đã,’ bố lên tiếng. ‘Tôi xin được hỏi ông vài câu.’

‘Hỏi đi,’ ông ta đồng ý. ‘Tôi sẽ trả lời tất.’

‘Ở trong quân đội, họ cho ăn thịt một tuần hai lần phải không?’ Bố thành thật. ‘Mẹ tôi bảo vậy nhưng có khi mẹ tôi chỉ nói thế để tôi có chí tòng quân.’

‘Không, người ta không cho ăn thịt một tuần hai lần đâu,’ ông nói.

‘Chà, tôi cũng nghĩ vậy,’ bố đáp, thầm nghĩ trong đầu rằng ông này trông như phường ất ơ nhưng chí ít ông ấy là phường ất ơ chân thật .

Đoạn ông ta nói tiếp, ‘Mà là hằng đêm,’ làm bố tự hỏi thế nào mà bố lại có thể nghĩ ông ta chân thật cho được.

‘Chắc ông xem tôi là thằng ngốc có phải không?’ Bố nói.

‘Nói chuẩn đấy, cậu mọi đen,’ ông ta đáp.

‘Chà, nếu tôi nhập ngũ, tôi sẽ có thể làm gì đó cho mẹ tôi cũng như em trai Philly Loubird của tôi,’ bố lên tiếng. ‘Mẹ tôi bảo sẽ có tiền trợ cấp.’

‘Đây này,’ ông ấy đáp và gõ vào tờ đơn trợ cấp. ‘Giờ cậu còn lăn tăn gì trong đầu nữa không?’

‘Chà,’ bố nói, ‘còn huấn luyện để trở thành sĩ quan thì sao ạ?’

Nghe bố nói thế, ông ta ngửa đầu ra sau cười khùng khục cho đến tận lúc bố nghĩ khéo ông ta sẽ sặc nước bọt cho mà xem. Đoạn ông nói tiếp, ‘Con trai, ngày mà trong quân đội có một sĩ quan da đen sẽ là ngày cậu được chiêm ngưỡng Chúa Giê-su xoạc chân nhảy đầm ở Birdland. Giờ thì một là cậu ký, hai là không ký. Tôi mất kiên nhẫn rồi đấy. Với cả cậu khiến nơi này hôi rình cả lên.’

Vì thế, bố ký tên, nhìn ông ta ghim tờ đơn trợ cấp vào tờ đăng ký đi lính, đoạn ông ta tuyên thệ và rồi bố cứ thế mà trở thành lính. Bố đoán họ sẽ cử bố lên New Jersey, nơi quân đội xây cầu vì không có chiến tranh để xung trận. Nhưng không, họ cho bố đến Derry, Maine, ở Đại đội E.”

Bố tôi thở dài và chuyển mình trên ghế, một người đàn ông to lớn với mái tóc bạc trắng xoăn sát đầu. Thời điểm đó, nhà ông bà nội tôi có một trong những nông trại lớn nhất Derry, và có lẽ là sạp rau củ nông sản bên vệ đường hoành tráng nhất phía nam Bangor. Ông bà và bố làm lụng quần quật, ông nội còn phải thuê thêm người khi mùa gặt đến, bán mặt cho đất, bán lưng cho trời.

“Bố quay về vì bố đã bôn ba từ Bắc xuống Nam, và ở nơi nào người ta cũng kỳ thị dân da màu cả,” bố tôi kể tiếp. “Trung úy Wilson không phải kẻ khiến bố thấm thía điều đó. Gã chỉ là một tay da trắng người Georgia, và đi đâu, gã cũng thể hiện đúng chất dân miền Nam của mình. Gã chẳng cần sống ở phía nam tuyến Mason Dixon thì mới ghét người da đen. Sự căm ghét ấy nằm trong bản chất của hắn rồi. Không, thứ khiến bố thấm thía sự phân biệt ấy chính là trận cháy ở Điểm Đen. Con biết không, Mikey, bằng một cách nào đó…”

Bố tôi liếc nhìn mẹ, lúc ấy bà đương đan móc. Bà không ngẩng lên, nhưng tôi biết bà đang lắng tai nghe, và tôi đoán bố tôi cũng biết điều đó.

“Bằng một cách nào đó, trận cháy ấy đã khiến bố lột xác trở thành một người đàn ông. Đám cháy cướp đi sinh mạng của 60 người, trong đó có 18 người thuộc Đại đội E. Khi đám cháy được dập tắt, bố gần như mất hết đồng đội. Henry Whitsun… Stork Anson… Alan Snopes… Everett McCaslin… Horton Sartoris… tất cả bằng hữu của bố đều chết trong đám cháy đó. Kẻ gây ra đám cháy ấy không phải gã Trung úy Wilson và hội bạn bè miền Nam bỗ bã của gã. Mà thủ phạm chính là Binh đoàn Lễ nghi Da trắng nhánh Derry. Con trai à, bố của một vài đứa trẻ học cùng trường với con đã đánh diêm thiêu rụi Điểm Đen. Và bố không chỉ nói về đám trẻ con nhà nghèo đâu.”

“Tại sao hả bố? Tại sao họ lại làm vậy ạ?”

“Chà, một phần là vì bản chất của Derry là như thế,” bố tôi nói, chau mày. Ông chậm rãi châm tẩu thuốc và đánh diêm. “Bố không biết tại sao nó lại xảy ra ở đây; bố không giải thích được, nhưng đồng thời, bố cũng chẳng lấy làm ngạc nhiên cho lắm.”

“Binh đoàn Lễ nghi Da trắng là phiên bản miền Bắc của Ku Klux Klan con ạ. Bọn họ cũng mặc đồ trắng, cũng đốt thánh giá, cũng viết những lời miệt thị người da đen mà họ đánh giá là không biết thân biết phận hoặc giành những công việc đáng lý phải thuộc về dân da trắng. Thỉnh thoảng, họ đặt thuốc nổ ở những nhà thờ thuyết giảng về bình đẳng cho người da đen. Hầu hết các sách lịch sử viết về Ku Klux Klan nhiều hơn về Binh đoàn Lễ nghi Da trắng, thậm chí không ít người còn chẳng biết đến sự hiện diện của tổ chức này. Bố nghĩ có khi tác giả của hầu hết các đầu sách lịch sử là người miền Bắc và họ tự thấy hổ thẹn.

Ku Klux Klan thường được gọi là KKK hoặc Klan, là một nhóm thù ghét của những người Mỹ da trắng, có mục tiêu chính là người Mỹ gốc Phi. Ku Klux Klan đã tồn tại ba thời kỳ khác nhau tại các thời điểm khác nhau trong lịch sử Mỹ.

Tổ chức hoạt động phổ biến nhất ở các thành phố lớn và các khu vực sản xuất. New York, New Jersey, Detroit, Baltimore, Boston, Portsmouth – tất cả đều có chi hội riêng. Họ cũng tìm cách lập hội ở Maine nhưng Derry là nơi duy nhất ghi nhận thành công. Ồ, suốt một khoảng thời gian, chi hội ở Lewiston cũng hoạt động sôi nổi lắm – cùng thời điểm với vụ cháy ở Điểm Đen – nhưng họ không lo về việc dân da đen cưỡng bức phụ nữ da trắng hoặc chiếm công việc lý ra phải thuộc về người da trắng, vì ở đó chẳng có dân da đen nào sinh sống. Ở Lewiston, người ta lo ngại về những kẻ lang thang, đầu đường xó chợ. Binh đoàn Lễ nghi Da trắng cử những người này ra vào thị trấn, đi đi về về như con thoi. Thỉnh thoảng, chúng nhét thường xuân độc sau quần. Thỉnh thoảng, chúng lại tự đốt áo.

Chà, Binh đoàn đã tan đàn xẻ nghé sau vụ cháy ở Điểm Đen. Con thấy đấy, mọi thứ vượt ngoài tầm kiểm soát. Thì ở thị trấn này, lắm lúc sự tình lại thế mà.”

Bố tôi dừng lại, rít thuốc.

“Binh đoàn Lễ nghi Da trắng chỉ là một hạt giống, Mikey ạ, nó tìm được nguồn đất dinh dưỡng để sinh sôi tại đây. Mà trên đời, kẻ có tiền một tay che trời. Sau vụ cháy, cả đám bọn chúng chỉ việc gói ghém cất áo đi, dối trá và ém nhẹm mọi điều.” Trong giọng nói của ông lúc này hằn học sự khinh miệt đến độ mẹ tôi phải ngước lên, chau mày. “Suy cho cùng, ai bị giết? Chỉ là 18 tay lính mọi đen, 14 hay 15 thị dân mọi đen, 4 thành viên của một ban nhạc jazz mọi đen… và một đám ủng hộ mọi đen. Có gì to tát kia chứ?”

“Will,” mẹ tôi nhẹ nhàng lên tiếng. “Thế đủ rồi.”

“Không,” tôi nói. “Con muốn nghe!”

“Sắp đến giờ ngủ rồi, Mikey,” bố nói rồi xoa đầu tôi bằng bàn tay to bè và sần sùi của mình. “Bố chỉ muốn nói với con thêm điều này, dù bố không biết con có hiểu hay không, vì bố không dám chắc bản thân bố hiểu nổi. Thảm kịch xảy ra ở Điểm Đen đêm hôm ấy thật sự rất khiếp đảm… nhưng bố không nghĩ nó xảy ra vì ta là người da đen. Thậm chí không phải vì Điểm Đen nằm ngay đằng sau Tây Broadway, nơi giới nhà giàu da trắng của Derry sống từ bao đời nay. Bố không nghĩ Binh đoàn Lễ nghi Da trắng hoạt động sôi nổi ở chốn này là vì người dân sống ở Derry ghét người da đen và người lang thang hơn ở Portland, Lewiston hay Brunswick. Nguyên nhân là vì thổ nhưỡng nơi đây. Dường như những gì tệ hại, xấu xa đã ăn sâu bám rễ vào đất của thị trấn này. Bố đã suy nghĩ như vậy bao nhiêu năm qua. Bố không biết lý do tại sao… nhưng nó là thế.

Tất nhiên, nơi đây vẫn còn những người tốt, ngày xưa như thế, và bây giờ cũng vậy. Sau trận hoả hoạn, khi tang lễ được tổ chức, hàng nghìn người đã đến phúng viếng, tiếc thương cho những người da đen và cả những người da trắng. Hàng quán đóng cửa cả tuần trời. Bệnh viện chữa trị miễn phí cho người bệnh. Người ta gửi những giỏ trái cây và thư chia buồn từ tận đáy lòng mình. Người ta làm những nghĩa cử lá lành đùm lá rách. Bố gặp cậu bạn Dewey Conroy trong khoảng thời gian ấy, và con hẳn biết chú ấy trắng chẳng kém gì kem va ni, nhưng bố có cảm giác chú ấy như huynh đệ của bố. Bố sẵn sàng xả thân vì Dewey nếu chú ấy yêu cầu, và tuy người ta bảo lòng người khó đoán nông sâu, bố vẫn tin chú ấy cũng sẵn sàng hy sinh vì bố.

Nói tóm lại, sau đám cháy ấy, quân đội điều động những người còn sống sót bọn bố đến nơi khác, tựa hồ họ thấy nhục nhã… và bố đoán thật sự là thế. Bố được chuyển đến Fort Hood, đóng quân ở đó sáu năm. Bố gặp mẹ con ở đó và nên duyên vợ chồng ở Galveston, tại nhà ông bà ngoại. Nhưng đằng đẵng suốt bao năm, bố vẫn không tài nào dứt nổi Derry ra khỏi tâm trí mình. Sau khi chiến tranh kết thúc, bố đưa mẹ trở về đây. Rồi bố mẹ sinh ra con. Và giờ chúng ta ở đây, cách nơi Điểm Đen từng tọa lạc vào năm 1930 chưa tới năm cây số. Mà thôi, đến giờ con đi ngủ rồi đấy, chàng trai của bố.”

“Con muốn nghe thêm về trận cháy!” Tôi la làng. “Bố kể con nghe đi!”

Và bố nhìn tôi, với đôi mày chau lại mà lần nào cũng khiến tôi nín im thin thít… có lẽ vì rất hiếm hoi, bố mới mang vẻ mặt ấy. Bình thường, bố vốn là một người hay cười. “Chuyện đó không kể cho con nít được,” bố tôi bảo. “Để lúc khác nhé, Mikey. Khi bố con mình trải qua thêm vài năm cuộc đời đã.”

Thời gian thấm thoắt thoi đưa, bố con tôi trải thêm bốn năm thì tôi được nghe về chuyện xảy ra ở Điểm Đen vào buổi tối oan nghiệt ấy, và đến lúc đó, bố tôi đã gần đất xa trời. Ông kể cho tôi khi đang nằm trên giường bệnh, người tiêm đủ thứ thuốc, đầu óc lẩn thẩn khi căn bệnh ung thư phá hủy ruột, ăn tươi nuốt sống ông.

Ngày 26 tháng 02 năm 1985

Đọc lại những dòng cuối cùng mình viết trong cuốn sổ này, tôi không khỏi ngạc nhiên khi bỗng dưng nhòa lệ vì nhớ bố, dù ông đã yên nghỉ từ cách đây hai mươi ba năm. Tôi nhớ mình đã thương xót bố suốt gần hai năm trời. Và rồi năm 1965, khi tôi tốt nghiệp trung học, mẹ nhìn tôi và nói, “Bố con mà còn sống, hẳn ông ấy sẽ tự hào lắm!”, và hai mẹ con tôi ôm nhau, ba khóc, tôi thầm nhủ cái kết là đây, mẹ con tôi đã chôn cất bố xong xuôi bằng những giọt nước mắt sau cuối ấy. Nhưng nào ai biết nỗi buồn đau có thể đeo đẳng bao lâu? Khi ta mất đi con cái, anh chị em, thì dù ba mươi hay bốn mươi năm trôi qua chăng nữa, biết đâu ta vẫn thao thức nghĩ về người ấy với nỗi trống vắng trong tim, nỗi cô đơn không bao giờ lấp đầy… ngay cả khi chết?

Bố tôi rời quân ngũ vào năm 1937 với trợ cấp thương binh. Năm ấy, quân đội càng lúc càng nhiễu nhương, có lần, bố từng nói với tôi rằng một người chỉ có nửa con mắt cũng thừa sức nhìn ra chẳng chóng thì chầy, tất cả súng đạn sẽ được lôi ra khỏi kho chứa. Trong khoảng thời gian ấy, ông lên bậc trung úy, và ông mất gần hết bàn chân trái vào lần nọ, khi một cậu lính mới giật lựu đạn mà run như cầy sấy, rồi thay vì ném đi, người này lại lóng ngóng đánh rơi. Quả lựu đạn đã lăn đến chỗ bố tôi và nổ tung với một âm thanh mà theo như lời bố tôi nói, y như tiếng ho giữa đêm.

Ngày xưa, binh sĩ phải tập luyện với rất nhiều đạn dược hoặc là hỏng hóc hoặc là bị bỏ xó quá lâu trong kho nên chẳng sử dụng được nữa. Đạn của họ bắn mãi chẳng ra, thỉnh thoảng, nếu đạn bắn được thì súng trường nổ tung trong tay. Hải quân phải sử dụng những quả ngư lôi nhắm bắn một đằng, đi một nẻo, họa hoằn đi đúng hướng thì lại chẳng nổ. Lục quân Hoa Kỳ và Hải quân, Không quân có những chiếc máy bay rụng cả cánh trong trường hợp tiếp đất mạnh, tôi nghe nói vào năm 1939, ở Pensacola, sĩ quan hậu cần phát hiện một dãy xe tải Chính phủ không chạy được vì gián đã gặm hết ống cao su và dây cu roa.

Vì thế mà bố tôi giữ được mạng (tất nhiên phải kể đến phần trở thành bề tôi trung thành Michael Hanlon) nhờ sự hòa trộn giữa nền chính trị rổ thịt quan liêu nhố nhăng và trang thiết bị kém. Lựu đạn chỉ nổ một nửa, thành thử bố tôi chỉ mất một phần bàn chân chứ không phải toàn bộ từ xương ức trở xuống.

Cũng nhờ khoản tiền trợ cấp thương binh mà bố có điều kiện kết hôn với mẹ sớm hơn một năm so với dự định. Hai ông bà không về Derry ngay mà chuyển đến Houston làm công nhân sản xuất đạn dược cho đến tận năm 1945. Bố làm đốc công trong nhà máy chế tạo vỏ bom. Mẹ thì chuẩn như hình tượng Rosie cô thợ tán đinh. Nhưng như bố nói với tôi vào một đêm năm tôi mười một tuổi, suy nghĩ về Derry cứ “trở đi trở lại trong đầu bố”. Và giờ, tôi tự hỏi phải chăng khi đó, chính thế lực âm thầm ấy đã giật dây đằng sau – lôi kéo bố trở lại để tôi có thể dự phần vào vòng tròn ở Vùng Đất Cằn vào buổi tối tháng Tám ấy. Nếu vòng quay của tạo hóa cân bằng thì cái thiện luôn bù trừ cho cái ác - nhưng cái thiện vẫn có thể đầy nghiệt ngã.

Biểu tượng văn hóa của Mỹ trong Thế chiến thứ hai, đại diện cho những người phụ nữ làm việc trong nhà máy và xưởng đóng tàu hoặc các công việc thay thế cho những công nhân nam nhập ngũ.

Bố tôi đặt mua dài hạn tờ Derry News . Ông để mắt đến những quảng cáo bán đất vì bố mẹ cũng tích góp được chút của để dành. Cuối cùng, ông tìm được một nông trại rao bán trông rất khả thi… chí ít trên báo thì là thế. Bố mẹ tôi lặn lội từ Texas, bắt xe buýt Trailways đến tận nơi xem rồi mua luôn trong ngày hôm ấy. Ngân hàng First Merchants Hạt Penobscot cho bố tôi vay thế chấp mười năm, và rồi bố mẹ tôi cắm dùi nơi ấy.

“Ban đầu cũng chật vật,” lần nọ bố tôi kể. “Một vài hàng xóm không muốn có dân da đen sinh sống trong khu. Bố mẹ biết trước tình hình sẽ như vậy – làm sao bố có thể quên chuyện về Điểm Đen kia chứ – nên cứ cắn răng chờ sóng gió qua đi. Đám con nít đi ngang qua suốt ngày ném đá và lon bia. Năm đầu tiên, chắc bố phải thay đến hai chục cửa sổ. Mà thủ phạm nhiều khi chẳng phải con nít nữa kìa. Một ngày nọ, sáng ra, bố mẹ phát hiện tường chuồng gà sơn chữ Vạn, còn đàn gà đã chết thẳng cẳng. Có kẻ đã bỏ thuốc độc vào cám gà. Đó là những con gà cuối cùng mà bố gắng nuôi.

Ý chỉ chữ trên cờ Phát xít.

Những Cảnh sát trưởng cấp Hạt – ngày ấy không có Trưởng Cơ quan cảnh sát, Derry chưa đạt đến quy mô ấy – vẫn bắt tay vào vụ này và ông ấy làm rất có tâm. Đó là ý bố khi bố nói cái tốt và cái xấu tồn tại xen kẽ trên đời, Mikey ạ. Dù da bố màu nâu, tóc bố cứng quèo như rễ tre, nhưng với ông Sullivan, như thế cũng chẳng có gì khác biệt. Ông đích thân xuống cả năm, sáu lần, nói chuyện với mọi người và cuối cùng cũng truy ra thủ phạm. Và con nghĩ ai là kẻ gây ra trò ấy? Bố cho con đoán ba lần, hai lần đầu không tính!”

“Con chịu thôi,” tôi đáp lời ông.

Bố tôi phá ra cười đến chảy nước mắt. Ông lôi chiếc khăn mùi xoa màu trắng rất to ra khỏi túi để lau. “Trời ơi, còn ai ngoài Butch Bowers trồng khoai đất này! Bố của đứa trẻ mà con bảo bự con nhất và hay hiếp đáp bạn bè ở trường đấy. Đúng là bố nào con nấy.”

“Có nhiều đứa ở trường bảo bố của Henry bị điên,” tôi kể cho ông. Nếu tôi nhớ không lầm, lúc ấy tôi học lớp Bốn – ở tuổi đấy, tôi đã bị Henry Bowers đá đít không biết bao nhiêu lần… và giờ nghĩ lại, tính ra hầu hết những lời lẽ xúc phạm như “mọi đen” hay “da đen” tôi nghe từ năm lớp Một đến tận năm lớp Bốn đều xuất phát từ miệng của Henry Bowers.

“Chà, để bố nói con nghe,” bố tôi nói, “người ta bảo Butch Bowers bị điên cũng không ngoa đâu. Người ta nói sau khi trở về từ Thái Bình Dương, hắn ta đã không bình thường rồi. Ngày xưa, hắn là lính thủy đánh bộ ở đấy. Tóm lại, khi bị cảnh sát trưởng bắt giam, Butch gào rống sự vụ này là gắp lửa bỏ tay người và tất cả chỉ là một đám yêu mọi đen. Ồ, hắn dọa kiện tất tần tật mọi người. Bố đoán hắn phải có một danh sách dài từ đây cho đến đường Witcham. Bố đồ rằng hắn còn chẳng có cái quần cộc nào lành lặn, nhưng hắn vẫn sẽ kiện bố, kiện Cảnh sát trưởng Sullivan, kiện cả thị trấn Derry, cả Hạt Penobscot và có Chúa mới biết còn ti tỉ người nào khác nữa.

Còn về những điều xảy ra tiếp theo… chà, bố không chắc nó có tam sao thất bản hay không, nhưng bố nghe Dewey Conroy kể thế này. Dewey nói cảnh sát trưởng vào nhà tù bang Bangor gặp Butch. Cảnh sát trưởng Sullivan nói, ‘Đến nước này thì anh liệu thần hồn ngậm miệng lắng nghe đi, Butch. Cậu da đen kia không muốn khởi tố anh. Cậu ta không muốn tống anh vào Shawshank mà chỉ muốn bồi thường thiệt hại cho đàn gà. Cậu ta nói chỉ cần hai trăm đô-la là đủ.’

Đáp lại lời của cảnh sát trưởng, Butch liền nói đừng mơ gã nhả ra hai trăm đô-la, nghe thấy thế, Cảnh sát trưởng Sullivan bèn nói với Butch: ‘Ở Shank có một mỏ vôi tôi, Butch ạ, người ta kể với tôi làm việc ở đấy tầm hai năm, lưỡi ai cũng xanh lè xanh loẹt như kem chanh. Giờ thì cậu chọn đi. Hai năm đào vôi hay hai trăm đô-la. Cậu thấy thế nào?’

Butch bèn đáp, ‘Còn lâu hội thẩm đoàn mới kết tội tôi chỉ vì giết dăm ba con gà của thằng mọi đen.’

‘Tôi biết điều đó,’ Sullivan trả lời.

‘Vậy chúng ta gân cổ lên cãi cái gì chứ?’ Butch hỏi.

‘Cậu liệu mà tỉnh táo đi, Butch. Họ không tống giam cậu vì đàn gà, nhưng họ sẽ tống giam cậu vì hình chữ Vạn cậu vẽ lên cửa chuồng sau khi giết gà.’

Chà, Dewey nói Butch lúc ấy chỉ biết há hốc mồm, còn Sullivan bỏ đi để hắn ta có thời gian suy nghĩ. Khoảng ba ngày sau, Butch nói em trai của hắn, cái người mà vài năm sau đó chết cóng khi đi săn lúc có hơi men trong người, bán chiếc xe Mercury mới coóng yêu quý mà hắn mua bằng tiền nhà nước trợ cấp cho binh lính trở về sau Thế chiến thứ hai. Thế là bố được hai trăm đô-la, và Butch thề sẽ thiêu sống bố. Hắn nói với bạn bè mình như vậy. Một chiều nọ, bố đụng mặt hắn. Hắn mua một chiếc Ford tiền chiến cũ để thay thế chiếc Mercury, còn bố thì lái xe bán tải. Bố chặn hắn trên đường Witcham, ngay sân ga rồi vác theo khẩu súng trường Winchester.

’Mày còn quấy phá nhà tao nữa thì đừng trách một thằng da đen xấu tính cho mày ăn kẹo đồng, đại ca,’ bố lừ giọng.

‘Tao cấm mày không được phát ngôn kiểu đấy với tao, thằng mọi đen,’ hắn đáp, và trông mặt hắn như sắp bù lu bù loa đến nơi, nửa tức điên, nửa sợ hãi. ‘Tao cấm mày nói với người da trắng như vậy, một thằng mọi rợ như mày.’

Con biết không, Mikey, con giun xéo lắm cũng quằn. Và bố biết nếu lúc ấy bố không dọa hắn mất mật, bố sẽ không đời nào có thể rũ bỏ được hắn. Khi đó, xung quanh chẳng có ai. Bố vươn tay vào trong chiếc Ford và nắm tóc hắn. Đoạn bố gác báng súng lên khóa thắt lưng và chĩa nòng súng ngay dưới cằm hắn. Bố đe dọa, ‘Lần tới mày mà dám gọi tao là mọi đen này kia, não mày sẽ chảy ròng ròng từ đèn xe xuống đấy. Tao nói được làm được, Butch ạ. Mày mà quấy phá nhà tao thì tao sẽ cho mày xơi kẹo đồng. Có khi tao còn cho cả vợ con mày và thằng em ăn hại của mày xơi kẹo luôn thể ấy chứ. Tao tức nước thì vỡ bờ thôi.’

Nào ngờ, hắn òa lên khóc thật, và cả đời bố chưa bao giờ trông thấy cảnh tượng nào gớm ghiếc đến thế. ‘Trời ơi là trời, tại sao lại ra nông nỗi này, giữa thanh thiên bạch nhật mà một thằng mọi… một thằng da… một kẻ lưu manh có thể dí súng vào đầu một người làm ăn lương thiện ngay bên vệ đường.’

‘Phải, thế gian này chắc sắp sửa trở thành địa ngục rồi nên việc như vậy mới xảy ra,’ bố đồng ý. ‘Nhưng điều đó không quan trọng. Điều quan trọng hiện tại là, chúng ta đã hiểu nhau chưa? Hay mày muốn kiểm tra xem mày có thể học cách hít thở qua trán không?’

Hắn đồng ý hai bên đã hiểu nhau, và rằng kể từ đây, nước sông không phạm nước giếng, có lẽ chỉ trừ lúc chú chó Mr Chips của con qua đời, nhưng bố không có bằng chứng liệu đó có phải là hành vi của Bowers hay không. Có khi Chippy ăn phải bả hay gì đấy.

Kể từ ngày hôm ấy, nhà mình được sống trong bình yên, và khi bố nhìn lại, bố không thấy hối hận con ạ. Nhà mình sống êm đềm, hạnh phúc nơi này, và đúng là thỉnh thoảng có những đêm bố vẫn nằm mơ thấy đám cháy ấy, nhưng suy cho cùng, chẳng ai sống trên đời này mà không mơ thấy dăm ba cơn ác mộng cả.”

Ngày 28 tháng 02 năm 1985

Đã nhiều ngày trôi qua kể từ lúc tôi ngồi viết câu chuyện về trận cháy ở Điểm Đen theo lời kể của bố, và mấy hôm nay tôi chưa viết tiếp. Nếu tôi nhớ không lầm, một nhân vật trong Chúa tể của những chiếc nhẫn từng nói, “đường này lại dẫn tới ngả khác”; và rằng ta có thể bắt đầu ở một nơi khiêm nhường như bậc thềm trước nhà dẫn xuống vỉa hè, và từ đó ta có thể đi… chà, đến bất cứ nơi nào. Các câu chuyện cũng thế. Câu chuyện này lại dẫn tới câu chuyện khác, rồi câu chuyện khác nữa, khác nữa, chúng có thể đi theo hướng ta muốn, hoặc không. Và rồi cuối cùng, có lẽ giọng kể những câu chuyện ấy là thứ quan trọng còn hơn cả bản thân câu chuyện.

Hẳn nhiên, tôi nhớ như in giọng của bố: ông có một chất giọng trầm và chậm rãi, thỉnh thoảng ông lại cười khúc khích hoặc phá lên ha hả. Những khoảng nghỉ trong lúc ông châm tẩu hoặc xì mũi hay đứng lên lấy lon bia Narraganset (bố tôi hay gọi là Nhăn răng Gansett) từ thùng đá. Chất giọng ấy, chẳng hiểu sao đối với tôi lại là giọng của mọi giọng, giọng của bao tháng năm, giọng của vùng đất này – thứ giọng nói chưa bao giờ xuất hiện trong các bài phỏng vấn của Ives hay trong lịch sử nghèo nàn của thị trấn… hay trên bất cứ cuộn băng nào của tôi.

Giọng của bố.

Lúc này đã là 10 giờ tối, thư viện đã đóng cửa một tiếng trước, đâu đó ngoài kia, tay bợm già đang bắt đầu chơi thuốc. Tôi có thể nghe thấy tiếng những mảnh băng tuyết li ti đập vào cửa sổ ở đây và trong hành lang bằng kính nối với thư viện trẻ em. Tôi cũng có thể nghe thấy những âm thanh khác - tiếng cọt kẹt, cục cựa vụng trộm bên ngoài vòng ánh sáng mà tôi đang ngồi, viết lên tập giấy vàng kẻ sẵn. Tòa nhà này cũ rồi nên thế, tôi tự trấn an bản thân mình… nhưng rồi tôi không khỏi băn khoăn. Như tôi băn khoăn liệu đêm nay, đâu đó trong cơn bão ngoài kia, có một gã hề bán bóng bay không.

Thôi… bỏ qua đi. Tôi thấy tôi đã chuẩn bị xong tinh thần chấp bút ghi lại câu chuyện cuối cùng mà bố tôi kể rồi thì phải. Tôi được ông kể cho nghe khi ông nằm trên giường bệnh tầm sáu tuần trước khi nhắm mắt xuôi tay.

Chiều nào cũng vậy, sau khi đi học về, tôi lại cùng mẹ vào thăm bố, tối đến thì tôi đi một mình. Mẹ tôi phải ở nhà dọn dẹp, nhưng bà một mực bảo tôi vào với ông. Tôi tự đạp xe đi. Mẹ không để tôi đi nhờ xe ai, ngay cả khi đã bốn năm trôi qua kể từ lúc những vụ án mạng chấm dứt.

Sáu tuần ấy là khoảng thời gian nhọc nhằn cho một cậu bé chỉ mới lên mười lăm tuổi như tôi. Tôi rất thương bố, nhưng dần dà, tôi đâm ghét những chuyến thăm bệnh vào buổi tối – khi tôi phải chứng kiến ông rúm ró, run lẩy bẩy, phải nhìn những nếp nhăn in hằn trên khuôn mặt ông vì đau đớn. Nhiều lúc ông rơi nước mắt dù đã cố gắng kìm lại. Và khi tôi về nhà thì trời đã nhá nhem tối, tôi lại nghĩ về mùa hè năm 58, nó làm tôi sợ không dám nhìn lại đằng sau vì biết đâu gã hề có thể hiện ra… hoặc Người sói… hoặc xác ướp mà Ben trông thấy… hoặc con chim mà tôi quan sát được. Nhưng dù Nó mang hình dáng gì chăng nữa, điều khiến tôi sợ nhất là Nó sẽ mang khuôn mặt cằn cỗi vì ung thư của bố tôi. Thế là tôi guồng chân điên cuồng đạp xe, mặc kệ tim đập rộn trong lồng ngực, về đến nhà thì mặt đỏ bừng, tóc ướt mèm, thở hồng hộc, và thể nào mẹ tôi cũng hỏi, “Con làm gì mà phóng nhanh thế, Mikey? Con làm vậy cơ thể nào chịu nổi.” Và rồi tôi sẽ đáp, “Con muốn về kịp giờ để phụ mẹ làm việc nhà,” nghe thấy thế, mẹ sẽ ôm hôn tôi rồi khen tôi ngoan.

Thời gian càng trôi qua, càng lúc tôi càng không nghĩ ra được gì để trò chuyện với bố. Trên đường đạp xe vào thị trấn, tôi sẽ nặn óc nghĩ sẵn chủ đề cho cuộc nói chuyện, nơm nớp lo sợ khoảnh khắc hai chúng tôi sẽ không còn gì để nói với nhau. Chứng kiến bố chết dần chết mòn, tôi vừa sợ vừa phẫn nộ, nhưng tôi còn xấu hổ nữa; ngày ấy, và đến tận bây giờ, tôi cho rằng khi một người đàn ông hay một người đàn bà từ giã cõi đời, việc ấy nên gấp rút cho xong. Căn bệnh ung thư không chỉ từ từ giết chết bố, nó còn bào mòn và hạ thấp ông.

Chúng tôi chẳng bao giờ nói về căn bệnh ung thư, nhưng trong một vài khoảng im lặng, tôi cảm thấy chúng tôi buộc phải nhắc đến nó, rằng sẽ chẳng còn gì để nói và hai bố con tôi sẽ mắc kẹt với nó như những đứa trẻ lâm vào thế không tìm được chỗ để ngồi trong trò chơi chiếc ghế âm nhạc lúc tiếng đàn piano dừng lại, những lúc ấy, tôi gần như hoảng loạn, cố nghĩ ra cho bằng được – bất cứ điều gì! – để nói, bởi như vậy, chúng tôi không phải chấp nhận sự hiện diện của thứ đang phá hủy bố tôi, vị quân tử từng nắm tóc Butch Bowers và dí súng vào cằm đối phương, yêu cầu Butch để ông được yên. Chúng tôi sẽ buộc phải nói về nó, mà thể nào tôi cũng khóc lúc bàn đến chủ đề ấy. Tôi sẽ không kìm được. Ở cái tuổi mười lăm, tôi cảm thấy việc rơi lệ trước mặt bố thật đáng sợ và áp lực nhất trần đời.

Chính trong những khoảng ngừng đan xen ghê sợ ấy, tôi lại hỏi bố về trận cháy ở Điểm Đen. Đêm ấy, người ta tiêm cho ông rất nhiều thuốc giảm đau vì cơn đau của ông quằn quại quá, đầu óc ông lúc mê lúc tỉnh, thỉnh thoảng ông nói tròn vành rõ chữ, thỉnh thoảng ông ú ớ thứ tiếng lạ lùng mà tôi đặt tên là Bùn mộng. Nhiều khi, tôi biết bố đang nói chuyện với tôi, nhưng lắm lúc dường như ông nhầm tôi với chú Phil. Không phải tôi có lý do đặc biệt nên mới hỏi ông về Điểm Đen; chỉ đơn giản là nó nhảy vào đâu tôi và tôi chớp lấy nó.

Với đôi mắt sắc sảo, ông khẽ cười, “Con nhất quyết không chịu quên chuyện này thì phải, Mikey nhỉ?”

“Dạ vâng,” tôi đáp và mặc dù chừng ba năm có lẻ, tôi chưa lần nào nghĩ về nó, tôi đế thêm câu mà bố tôi đôi lúc hay nói: “Con không tài nào gạt nó ra khỏi tâm trí mình được.”

“Chà, vậy thì bây giờ, bố sẽ kể cho con,” ông nói. “Bố đoán mười lăm là độ tuổi đủ lớn rồi, và mẹ con không có ở đây để ngăn cản bố. Hơn nữa, đây là chuyện mà con nên biết. Bố nghĩ chuyện như vậy chỉ có thể xảy ra ở Derry mà thôi, và con cũng cần phải biết điều đó. Biết để còn phòng thân. Nơi này dường như luôn hội tụ đủ thiên thời địa lợi cho những tai ương như thế. Con phải cẩn trọng, được chứ, Mikey?”

“Dạ, vâng,” tôi đáp.

“Tốt lắm,” bố tôi nói, đầu ông yên vị trở lại trên gối. “Thế là tốt lắm.” Tôi tưởng bố tôi sắp sửa trôi vào cơn mê lần nữa – đôi mắt ông đã nhắm lại – nhưng không, ông bắt đầu kể.

“Lúc bố hoạt động trong căn cứ quân sự ở nơi này vào năm 29 và 30, có một quán tên NCO Club ở trên đồi, ngay chỗ Cao đẳng Cộng đồng Derry tọa lạc bây giờ. Nó nằm ngay sau Trạm bán hàng Quân đội, nơi ngày trước ta có thể mua một cây thuốc lá Lucky Strike xanh với giá bảy xu. NCOClub chỉ là một gian nhà rất rộng, cũ kỹ dựng bằng tôn tháo lắp được, nhưng người ta tu sửa nội thất bên trong tươm tất – sàn trải thảm, bàn kê dọc tường và một máy hát tự động - và đến cuối tuần, khách khứa sẽ được phục vụ nước ngọt… nếu như họ là người da trắng. Tối thứ Bảy có ban nhạc biểu diễn, thành thử nơi này là một điểm đến miễn chê. Quầy chỉ phục vụ nước ngọt có ga do Luật cấm rượu, nhưng bố nghe bảo ta có thể gọi đồ uống nặng hơn nếu muốn… và nếu có ngôi sao xanh nho nhỏ trên thẻ quân đội. Nôm na đó là dấu hiệu bí mật mà họ ngầm hiểu với nhau. Hầu hết là bia nhà ủ, nhưng vào dịp cuối tuần, khách đến có thể thưởng thức những thức uống nặng đô hơn. Nếu họ là người da trắng.

Tất nhiên, Đại đội E bọn bố không được phép bén mảng đến gần đó. Vì vậy, khi nào được nghỉ vào buổi tối, bọn bố lại mò xuống thị trấn. Ngày ấy, Derry vẫn còn là một thị trấn phát triển nhất mảng khai thác gỗ, có khoảng tám hay mười quán bar, hầu hết quy tụ ở khu vực được gọi với cái tên Nửa mẫu Địa ngục. Các quán bar này không phải dạng quán sang chảnh nơi khách khứa đi nhẹ nói khẽ để mua rượu trái phép; còn lâu mới được như vậy. Ở đó, người ta ồn ào như chợ vỡ. Nó là dạng quán bar mà dân tình gọi là “lợn túy lúy”, mà điều đó cũng chuẩn, bởi hầu hết khách khứa đến đây cư xử như những con lợn khi ở trong quán và túy lúy sau khi bước ra. Cảnh sát trưởng và các cảnh sát thừa biết điều đó, nhưng những nơi này vẫn ầm ĩ cả đêm, giống như cái thời hoàng kim của hoạt động khai thác gỗ vào thập niên 1990. Bố đoán chắc cũng có đút lót gì đấy, nhưng có lẽ không nhiều như con nghĩ đâu; ở Derry, người ta biết cách ngó lơ chỗ khác. Nhiều chỗ phục vụ đồ uống nặng đô và bia, theo như những lời nhận xét mà bố từng nghe, đồ uống con có thể mua trong thị trấn ngon gấp mười lần thứ rượu whiskey bào dạ dày và thứ rượu nhăng nhố kém chất lượng phục vụ ở NCO vào tối thứ Sáu, thứ Bảy. Rượu trong thị trấn được vận chuyển bằng xe chở gỗ qua biên giới từ Canada, hầu hết trên nhãn ghi gì thì bên trong chứa thứ đó. Rượu ngon rất đắt tiền, nhưng đồng thời có rất nhiều thứ dầu đốt lò, uống vào sẽ khiến ta choáng váng dù không chết, và nếu ta túy lúy thì cũng không quá lâu. Đêm nào cũng vậy, ta phải chú ý cúi đầu khi chai lọ bay tứ tung. Ở Nan’s, Thiên Đường, Wallys Spa, Đồng Đô-la Bạc hay quán bar Powderhorn, thỉnh thoảng ta có thể kiếm được gái điếm. Ồ, thật ra ta có thể vô đại một phụ nữ nào đấy ở các quán lợn túy lúy, dễ như trở bàn tay không ít cô gái muốn thử xem lát bánh mì lúa mạch đen có gì khác biệt hay không nhưng đối với những cậu thanh niên như bố, Trevor Dawson và Carl Roone, hai bằng hữu của bố ngày ấy, việc ăn bánh trả tiền- với một cô điếm da trắng - là điều ta phải ngồi xuống và suy xét.”

Như tôi có nói, đêm ấy bố tôi phải dùng rất nhiều thuốc giảm đau. Bởi nếu không nhờ thuốc, tôi không nghĩ ông sẽ nói những chuyện thế này với cậu con trai mới mười lăm tuổi của mình.

“Chà, chẳng bao lâu sau, đại diện từ Hội đồng thị trấn xuất hiện, muốn gặp Thiếu tá Fuller. Người đại diện cho hay ông muốn bàn về ‘một số vấn đề giữa dân cư thị trấn và binh lính’ và ‘lo ngại của cử tri’ cũng như ‘nghi ngờ về sự đúng mực’, nhưng điều mà ông ta muốn Fuller biết thì rõ như ban ngày. Họ không muốn có bất cứ tay lính da đen nào bước vào quán lợn làm phiền các phụ nữ da trắng và uống rượu trái phép – ở nơi mà chỉ người da trắng mới được quyền nhẩn nha nhấm nháp rượu trái phép.

Rõ là một tấn hề. Những bóng hồng trắng e ấp mà họ lo ngại hầu hết chỉ là những cô xấu ma chê quỷ hờn, còn chuyện làm khách khứa chướng mắt…! Chà, tất cả những gì bố có thể nói là bố chưa lần nào thấy một thành viên của Hội đồng thị trấn Derry xuất hiện ở Đồng Đô-la bạc hay Powderhorn. Phần đông khách khứa ở quán xá dạng này là thợ xẻ gỗ, khoác trên mình những chiếc áo khoác ca-rô đen đỏ to đùng, tay chi chít sẹo mới sẹo cũ, nhiều người chột mắt này, cụt ngón tay kia, tất cả đều rụng gần hết răng, ám mùi gỗ, mùi mùn cưa và nhựa cây. Họ mang quần ống loe xanh, mang ủng cao su cũng xanh, tuyết dưới chân nhoe nhoét ra sàn nhà cho đến khi chuyển thành màu đen thui. Mùi cơ thể họ sực nức, Mikey ạ, họ ăn to nói lớn. Tướng người như hộ pháp. Có đêm nọ, bố đến Wally’s Spa thì trông thấy một gã làm tay áo rách toạc khi chơi vật tay với một gã khác. Chắc con nghĩ ý bố là chiếc áo chỉ bị bục ra chứ gì, nhưng không phải thế. Cánh tay áo của gã này thiếu điều nổ tung - nó bay tả tơi thành mảnh từ tay hắn ta con ạ. Mọi người hò reo, hoan hộ, và ai đó vỗ lên lưng bố và nói, ‘Cái này gọi là đánh rắm của dân vật tay đấy, cậu da đen.’

Điều bố muốn nói với con là những người đàn ông kia đã ra khỏi rừng, đến lợn túy lúy vào những tối thứ Sáu và thứ Bảy để uống whiskey và mây mưa với đàn bà thay vì sóc lọ với những cái lỗ trên thân gỗ trét đầy mỡ heo, nếu họ không muốn bọn bố có mặt ở đấy, họ dư sức ném bọn bố ra ngoài. Nhưng con biết không, Mikey, họ chẳng buồn để tâm.

Đêm nọ, có một gã kéo bố ra góc - gã ấy phải cao đến mét tám, mà ngày ấy như thế là to cao lắm, xỉn quắc cần câu, người nồng nặc như gió