CHƯƠNG 9 DỌN DẸP
1
Buổi chiều ngày 29 tháng 5 năm 1985, khi đang bay trên bầu trời New York, Beverly Rogan lại bắt đầu phá lên cười nắc nẻ. Cô lấy tay bịt miệng, sợ người ta nghĩ đầu óc mình chập cheng, nhưng vô ích, cô chẳng tài nào nhịn được.
Ngày ấy bọn mình cười nhiều lắm, cô chợt nghĩ. Đấy, lại thêm một ngọn đèn lóe lên trong đêm tối. Cả bọn lúc nào cũng sợ, nhưng cứ cười mãi không thôi, hơn cả mình lúc này.
Chàng thanh niên ngồi cạnh cô trong dãy ghế còn khá trẻ, tóc dài và khôi ngô. Anh ta đã lén liếc nhìn cô vài lần với ánh mắt đầy ý nhị kể từ lúc máy bay cất cánh ở Milwaukee lúc 2 giờ 30 phút (cách đây gần hai tiếng rưỡi, với một lần dừng ở Cleveland và một lần dừng khác ở Philly) nhưng giữ kẽ vì thấy cô rõ ràng không muốn nói chuyện phiếm; sau vài câu xã giao mà cô chỉ trả lời ngắn gọn vì phép lịch sự, anh này bèn mở túi vải và lấy ra cuốn tiểu thuyết của Robert Ludlum.
Bây giờ, anh ta đóng sách lại, tay giữ ghế và hỏi han với vẻ lo lắng: “Cô ổn chứ?”
Cô gật đầu, cố làm vẻ mặt nghiêm túc nhưng lại tiếp tục phì cười. Anh khẽ mỉm cười, bối rối và thắc mắc.
“Không có gì đâu,” cô nói, một lần nữa cố gắng tỏ ra nghiêm nghị nhưng bất khả; càng tìm cách tỏ ra chỉnh tề thì khuôn mặt cô lại càng muốn phụt cười. Cứ như ngày xưa ấy. “Chỉ là tự dưng tôi nhận ra tôi thậm chí còn không biết mình đang lên máy bay hãng nào. Tôi chỉ nhớ có hình một con v-v-vịt cỡ bự ở b-b-bên hông…” Suy nghĩ ấy lại khiến cơn cười trào dâng như vỡ đê, cô phá lên cười ha hả. Hành khách hướng mắt nhìn cô, một số người chau mày.
“Republic,” anh ta trả lời.
“Gì kia?”
“Cô đang vùn vụt lướt qua tầng không với tốc độ 750 ki-lô-mét trên giờ nhờ dịch vụ của hãng hàng không Republic Airlines. Biểu tượng ấy nằm trên tập tài liệu LBT trong túi đựng gắn sau ghế đấy.”
“LBT?”
Anh ta rút tập tài liệu (quả thật, nó có logo của hãng Republic trên bìa) ra khỏi túi. Tập tài liệu trình bày vị trí các cửa thoát hiểm, áo phao, cách dùng mặt nạ dưỡng khí, cách định vị trí hạ cánh khẩn cấp. “Đây là tập tài liệu Lên Bàn Thờ,” anh nói, và lần này cả hai cùng cười ngặt nghẽo.
Phải công nhận anh ta khôi ngô thật, cô chợt nghĩ – suy nghĩ ấy mới mẻ, có gì đó thật sáng tươi, suy nghĩ mà ta có thể có khi vừa thức dậy, lúc đầu óc chưa bộn bề lo âu. Anh mặc áo len chui đầu và quân jean bạc màu. Mái tóc vàng ngả tối của anh được cột ra sau bằng mẩu dây thừng, và chi tiết ấy gợi cho cô nhớ lại ngày còn bé, lúc nào cô cũng cột tóc đuôi gà. Cô thầm nghĩ: Mình cá cậu bé của anh ta giống của một sinh viên gia giáo ngon lành đây. Đủ dài để đùa nghịch nhưng không đủ to để vênh váo.
Cô lại cười nắc nẻ, không tài nào nhịn nổi. Cô nhận ra cô còn chẳng có khăn mùi xoa để lau nước mắt đang chảy, và điều này càng làm cô cười tợn.
“Tốt nhất cô nên kiềm chế bản thân lại nếu không tiếp viên hàng không tống cô khỏi máy bay bây giờ,” anh nghiêm túc nói, cô chỉ biết lắc đầu, miệng vẫn cười ngặt nghẽo: hông và bang của cô quặn đau.
Anh đưa cho cô một chiếc khăn mùi xoa trắng sạch. Một phần nhờ vậy mà cuối cùng, cô đã kiểm soát được cơn cười của mình. Dù thế, cô không ngưng cười được ngay. Chúng chỉ thuyên giảm thành những tràng cười khúc khích và thở hổn hển. Thỉnh thoảng, hình ảnh con vịt to tướng bên hông máy bay lại hiện lên trong đầu khiến cô rinh rích cười.
Hồi sau, cô đưa lại khăn mùi xoa cho anh thanh niên. “Cảm ơn anh.”
“Chúa ơi, tay cô bị gì vậy?” Anh cầm lấy tay cô, giọng e ngại.
Nhìn xuống, cô trông thấy móng tay mình bị gãy do cô trượt tay lúc vội vàng đẩy tủ lên người Tom. Ký ức về hành động ấy còn đau đớn hơn nhiều so với vết thương trên móng tay, nó khiến tràng cười của cô ngưng bặt. Cô rút tay về, nhưng không bất nhã mà nhẹ nhàng.
“Tôi kẹt tay vào cửa ô tô lúc đến sân bay,” cô bịa, trong đầu thầm ngẫm về bao lần mình đã nói dối về những lần Tom thượng cẳng chân hạ cẳng tay với cô, về bao lần cô đã nói dối về những vết bầm mà bố để lại trên người cô. Liệu đây có phải lần cuối và là lời dối trá cuối cùng không? Nếu thế thì tuyệt vời xiết bao… tuyệt đến độ không tưởng. Cô mường tượng đến cảnh vị bác sĩ bước vào gặp một bệnh nhân mắc ung thư giai đoạn cuối và nói, Hình chụp X-quang cho thấy khối u đang nhỏ lại. Chúng tôi không rõ lý do tại sao, chỉ biết tình hình như vậy mà thôi.
“Chắc đau lắm phải không,” anh hỏi thăm.
“Tôi uống thuốc giảm đau rồi.” Cô lại mở cuốn tạp chí trên máy bay ra, dù có lẽ chắc anh cũng thừa biết cô đã đọc đi đọc lại nó hai lần.
“Cô bay đến đâu thế?”
Đóng tờ tạp chí lại, cô nhìn anh và mỉm cười. “Anh rất tốt bụng,” cô nói, “nhưng tôi không muốn nói chuyện. Được chứ?”
“Được thôi,” anh ta đáp với nụ cười. “Nhưng nếu cô muốn uống một ly vì chú vịt to bự bên hông máy bay khi ta đến Boston thì để tôi mời cô nhé.”
“Cảm ơn anh, nhưng tôi còn phải bắt chuyến khác.”
“Trời ạ, tử vi của tôi sáng nay nói sai bét hay sao thế nhỉ,” anh ta lầm bầm mà lại mở cuốn tiểu thuyết của mình. “Nhưng khi cười, cô rất thu hút. Đàn ông hẳn sẽ bị hớp hồn cho mà xem.”
Cô lại mở tạp chí, nhưng chẳng tài nào chú tâm vào bài báo về thú vui ở New Orleans mà chỉ chăm chăm nhìn những móng tay nham nhở của mình. Trong đó có hai móng bị rộp màu tím ngắt. Cô như nghe thấy tiếng Tom hét vọng xuống cầu thang: “Tao sẽ giết mày, con khốn! Tiên sư con khốn!” cô rùng mình, lạnh người. Một con khốn trong mắt Tom, một con khốn trong mắt các thợ may hễ đến trước những buổi trình diễn quan trọng là lại sai sót và khiến Beverly Rogan thét ra lửa, một con khốn trong mắt bố cô từ ngày xửa ngày xưa, trước khi Tom hay những thợ may bất hạnh kia trở thành một phần cuộc sống của họ.
Một con khốn.
Con khốn.
Con khốn chết tiệt.
Cô nhắm mắt lại trong chốc lát.
Bị những mảnh thủy tinh của chai nước hoa cứa vào lúc chạy ra khỏi phòng, hai chân cô đau còn hơn cả tay. Kay chuẩn bị cho cô băng cá nhân, một đôi giày và một tấm séc trị giá một nghìn đô-la, được Beverly chuyển thành tiền mặt vào lúc 9 giờ tại ngân hàng First Bank ở Chicago, tọa lạc ngay Quảng Trường Watertower.
Dù Kay phản đối, Beverly vẫn tự viết một tờ séc trị giá một nghìn đô lên tờ giấy trắng. “Tớ từng đọc bất kể viết trên vật liệu gì, séc vẫn được chấp nhận,” cô nói với Kay. Giọng cô như mang từ một nơi nào đó khác. Như chiếc ra-đi-ô ở phòng bên kia chẳng hạn. “Có người từng đi rút tiền mặt bằng tấm séc viết trên vỏ pháo đấy. Nếu tớ nhớ không làm thì tớ đọc được trong Cuốn sách Liệt kê như vậy.” Đoạn cô im lặng, gượng cười. Kay nhìn cô thật lung, ánh mắt gần như nghiêm nghị. “Nhưng tớ sẽ đi rút sớm trước khi Tom nghĩ tới chuyện đóng băng tài khoản.”
Mặc dù không thấy mệt (tuy vậy, cô ý thức rõ mình có được đến lúc này là nhờ ý chí tinh thần và cà phê đen Kay pha cho), cô vẫn có cảm tưởng đêm qua tựa hồ một giấc mơ.
Cô vẫn nhớ có ba cậu thiếu niên bám theo đằng sau, chòng ghẹo và huýt sáo nhưng không dám bén mảng lại gần cô. Cô vẫn nhớ lòng mình như trút được đá tảng khi trông thấy ánh đèn huỳnh quang màu trắng từ cửa hàng Seven-Eleven hắt ra vỉa hè chỗ bùng binh. Cô bước vào trong, để cậu nhân viên trực quầy mặt chi chít mụn nhìn xuống chiếc áo cánh cũ của cô và năn nỉ cậu cho cô mượn bốn mươi xu để gọi nhờ điện thoại. Với bộ dạng như thế thì thật ra chẳng có gì khó khăn.
Cô lục tìm số điện thoại trong trí nhớ và gọi cho Kay McCall đầu tiên. Điện thoại reng cả chục lần, cô bắt đầu sợ Kay đang ở New York. Ngay lúc Beverly đang tính dập máy thì giọng nói ngái ngủ của Kay vang lên, “Gọi giờ này thì nên là chuyện quan trọng đấy nhé.”
“Bev đây, Kay,” cô nói, ngập ngừng rồi vào thẳng vấn đề. “Tớ cần cậu giúp.”
Có một khoảng lặng, và rồi Kay lên tiếng, giọng hoàn toàn tỉnh táo. “Cậu đang ở đâu? Có chuyện gì xảy ra vậy?”
“Tớ đang ở cửa hàng Seven-Eleven tại góc phố Streyland giao với đường gì đó. Tớ… Kay, tớ bỏ Tom rồi.”
Nhanh như cắt, Kay reo lên như bắt được vàng: “Tốt quá! Cuối cùng cũng dứt! Hoan hô! Để tớ đến đón cậu! Thằng khốn đấy! Rõ là thứ rác rưởi! Để đấy, tớ sẽ lái con xe Mercedes đến rước cậu! Tớ sẽ thuê một dàn nhạc khua chiêng gõ trống! Tớ sẽ…”
“Tớ đi tắc-xi được rồi,” Bev nói, cầm hai xu mười đồng trong lòng bàn tay ướt đẫm mồ hôi. Qua tấm gương tròn ở cuối cửa hàng, cô có thể trông thấy cậu nhân viên mặt mụn cứ nhìn chằm chằm vào mông mình đầy mơ màng. “Nhưng khi tớ đến nơi, cậu trả tiền giùm tớ nhé. Tớ không còn đồng nào trong người. Một xu cũng không.”
“Tớ còn bo thêm cho ông tài xế năm đô ấy chứ.” Kay ré lên. “Đây là tin tuyệt nhất quả đất từ lúc Nixon từ chức? Cậu lê thân đến đây ngay và luôn cho tớ xem nào. Vả lại…” Cô lặng im, và khi cất tiếng trở lại, giọng nói cô nghiêm túc và đầy dịu dàng, yêu thương đến độ Beverly thấy sống mũi mình cay cay. “Cảm ơn Chúa vì cuối cùng cậu cũng dứt áo ra đi, Bev ạ. Tớ nói thật đấy. Tạ ơn Chúa.”
Kay McCall ngày trước là một nhà thiết kế, đã kết hôn với một người giàu có, ly hôn xong còn giàu hơn, bắt đầu bước chân vào con đường chính trị theo chủ nghĩa nữ quyền vào năm 1972, khoảng ba năm trước khi Beverly gặp cô lần đầu tiên. Vào thời điểm nổi tiếng cũng như tai tiếng nhất, dư luận quy kết cô đi theo hướng nữ quyền sau khi lôi những bộ luật cực đoan, cổ lỗ sĩ để lấy từng đồng xu cắc bạc từ ông chồng vốn làm bên mảng sản xuất của mình mà luật pháp cho phép.
“Vớ vẩn!” Kay từng bất bình nói với Beverly. “Đám người phát ngôn thế này chưa bao giờ phải lên giường với Sam Chacowicz. Quệt quệt hai ba cái đã xong chuyện, đó là châm ngôn của Sammy đấy. Lần duy nhất hắn ta giữ được trên bảy mươi giây là lúc xóc lọ trong phòng tắm. Tớ không lừa dối hắn; xả thân chiến đấu chừng nào, tớ lấy đúng chừng đó tiền.”
Cô viết ba cuốn sách – một cuốn về nữ quyền và phụ nữ lao động, một cuốn về nữ quyền và gia đình, cuốn còn lại về nữ quyền và phát triển tinh thần. Hai cuốn đầu tiên khá nổi tiếng. Nhưng ba năm sau cuốn sách cuối, dư luận ít săn đón cô hơn, và Beverly nghĩ Kay lấy thể làm mừng. Các khoản đầu tư của cô rất thành công (cô từng nói với Bev, “May mà nữ quyền và tư sản không phải hai thứ loại trừ lẫn nhau”) và hiện tại, cô là một phụ nữ giàu có, sở hữu nhà phố, điền trang ở quê, có tầm hai, ba người tình đủ sung sức để mây mưa với cô nhưng không sung sức đến độ đánh bại cô trong bộ môn quần vợt. “Gã nào chơi giỏi đến mức đấy là tớ đá ngay lập tức,” cô nói, và dù Kay chỉ nghĩ đây là lời nói đùa vô thưởng vô phạt, Beverly lại tự nhủ khéo có khi là thế.
Beverly gọi tắc-xi, khi xe đến, cô chất va li lên cốp sau, mừng vì không bị ánh mắt của cậu nhân viên săm soi nữa, đoạn cho người tài xế địa chỉ nhà Kay.
Kay đứng đợi cô ở đầu đường chạy vào nhà, mặc áo khoác lông chồn bên ngoài váy ngủ vải flannel. Cô mang giày hở gót với phần mũi bít phủ lớp lông và gắn hai cục bông to. Cũng may đó không phải cục bông cam, tạ ơn Chúa – cảnh tượng ấy sẽ khiến Beverly hét thất thanh mất. Cuốc tắc-xi đến nhà Kay thật kỳ cục: những chuyện ngày xưa chợt ùa về trong tâm trí cô, bao ký ức dồn dập ập đến, nhanh và rõ mồn một đến đáng sợ. Cô có cảm giác như ai đó đã cho chiếc xe ủi chạy vào đầu cô rồi bắt đầu khai quật ngôi mộ trong tâm trí mà ngay bản thân cô còn không biết đến sự hiện diện của nó. Chỉ có điều, thứ được đào bới lên không phải tử thi mà là những cái tên mà đã bao năm nay cô chẳng hề nghĩ đến: Ben Hanscom, Richie Tozier, Greta Bowie, Henry Bowers, Eddie Kaspbrak… Bill Denbrough. Cô nhớ nhất là Bill – Bill Cà Lăm, như cách đám trẻ ngày ấy hay gọi cậu với sự vô tư thỉnh thoảng xuất phát từ tính ngây ngô, thỉnh thoảng lại hàm chứa nanh nọc. Trong mắt cô ngày ấy, cậu cao to và hoàn hảo vô cùng (cho đến khi cậu mở miệng ra nói).
Những cái tên… những địa điểm… những chuyện đã xảy ra.
Hết nóng lại lạnh, cô nhớ lại những giọng nói vang lên bên dưới lỗ thoát nước. Cô đã hét toáng lên và bị bố cho ăn đập. Bố cô –ông Tom…
Nước mắt cô chực rơi… và rồi Kay trả tiền cho tài xế tắc-xi, bo cho ông nhiều đến độ ông phải kinh ngạc reo lên, “Cảm ơn quý cô! Ôi trời ơi!”
Kay đưa cô vào nhà, bắt cô vào phòng tắm, đưa áo choàng tắm lúc cô ra ngoài, pha cà phê, xem xét vết thương, bôi thuốc đỏ lên vết cắt trên chân cô rồi dán băng cá nhân lên, cô đổ kha khá rượu brandy vào ly cà phê thứ hai của Bev rồi hối bạn mình uống cho bằng hết. Đoạn cô nấu nướng cho cả hai, mỗi người một miếng bít tết tái và xào chút nấm tươi ăn kèm.
“Được rồi,” cô lên tiếng. “Giờ thì kể tớ nghe có chuyện gì xem nào. Mình cần phải báo cảnh sát hay chỉ cần chuyển hộ khẩu của cậu đến Reno là đủ rồi?”
Reno, Nevada nổi tiếng là nơi thủ tục ly hôn rất dễ thực hiện.
“Tớ không thể kể quá nhiều,” Beverly thành thật. “Vì nghe nó rất điên rồ. Nhưng đa phần là lỗi của tớ…”
Kay dộng tay xuống bàn, tạo nên một âm thanh nghe như tiếng đạn bắn từ súng lục cỡ nhỏ trên mặt bàn gỗ dái ngựa bóng loáng. Bev giật nảy mình.
“Tớ cấm cậu nói như vậy,” Kay nghiêm giọng. Má cô đỏ lên vì giận giữ, đôi mắt nâu như tóe lửa. “Chúng mình là bạn của nhau bao năm rồi? Chín hay mười năm? Nếu tớ nghe cậu nhận đó là lỗi của cậu thêm lần nữa, tớ sẽ mửa mất. Cậu nghe không? Tớ sẽ mửa mật xanh mật vàng cho cậu xem. Lần này, hay lần trước, hay lần trước nữa, hay bất kỳ lần nào, tất cả đều không phải lỗi của cậu. Cậu không biết sao? Bạn bè cậu đều lo ngại chẳng chóng thì chày, tên vũ phu ấy sẽ cho cậu bó bột từ đầu đến chân hoặc có khi còn tiễn cậu về chầu ông bà luôn đấy.”
Beverly trợn mắt nhìn cô.
“Và nếu điều đó xảy ra, đúng thật, phần nào ấy là lỗi của cậu vì đã cam chịu ở lại để mọi chuyện xảy ra. Nhưng giờ cậu đã dứt áo ra đi rồi. Cảm ơn Chúa vì sự tiến triển này. Tuy nhiên, tớ cấm cậu không được ngồi đây với bộ móng tay gần như gãy mẻ hết cả, chân cứa chi chít, vai chằng chịt vết thắt lưng mà bảo với tớ đấy là lỗi của cậu.”
“Anh ấy không dùng thắt lưng quật tớ,” Bev bao biện. Cô máy móc dối trá theo thói quen… và như bao lần, cảm giác nhục nhã đến bẽ bàng lại khiến hai má cô ửng đỏ một cách thảm thương.
“Nếu cậu đã chấm dứt với Tom, thì cậu cũng thôi nói dối đi là vừa,” Kay chua xót nói, cô nhìn Bev thật lâu, ánh mắt đong đầy yêu thương đến mức Bev không chịu nổi mà phải cúi mặt xuống. Cô có thể cảm thấy vị nước mắt mặn chát dâng lên trong họng mình. “Cậu nghĩ cậu lừa được ai vậy?” Kay hỏi, giọng dịu dàng. Cô với tay qua bàn và nắm lấy tay Bev. “Nào là kính đen, áo cao cổ và tay dài… cậu có thể lừa một, hai khách hàng. Nhưng cậu không thể lừa bạn bè đâu, Bev ạ. Cậu không thể lừa những người yêu quý cậu.”
Và rồi Beverly òa lên khóc thật to, nước mắt cứ thế tuôn rơi trong vòng tay Kay, lát sau, trước khi đi ngủ, cô kể với Kay những gì mình có thể nói: Một người bạn cũ ở Derry, Maine, nơi cô sinh ra và lớn lên, gọi điện thoại nhắc cô về một lời hứa từ ngày xưa. Người bạn ấy bảo đã đến lúc hoàn thành lời hứa ấy và hỏi liệu cô có trở về không. Cô trả lời là có. Và rồi, vấn đề với Tom bắt đầu phát sinh.
“Lời hứa ấy là gì?” Kay hỏi.
Beverly chầm chậm lắc đầu. “Tớ không thể nói ra được, Kay à. Dù tớ rất muốn.”
Kay ngẫm nghĩ rồi gật đầu. “Được rồi. Vậy cũng không sao. Cậu dự tính giải quyết với Tom thế nào sau khi trở về từ Maine?”
Mặc dù dự cảm rằng mình sẽ không có ngày trở về từ Derry càng lúc càng lớn lên trong lòng Bev, cô chỉ đáp: “Tớ sẽ đến chỗ cậu trước, sau đó chúng mình cùng bàn. Có được không?”
“Quá được ấy chứ.” Kay nói. “Đó cũng là lời hứa chứ nhỉ?”
“Ngay khi tớ quay về,” Bev ôn hòa, “cứ an tâm, tớ sẽ giữ lời.” Và cô ôm Kay thật chặt.
Sau khi rút tiền từ tờ séc Kay viết, chân mang đôi giày của Kay, cô bắt chuyến xe khách Greyhound lên phía bắc, hướng về Milwaukee, bởi cô sợ Tom đã đến sân bay O’Hare để lùng sục cô. Kay đến ngân hàng và nhà chờ xe khách với cô, liên tục thuyết phục cô lựa chọn phương tiện khác.
“Ở sân bay O’Hare có đầy nhân viên an ninh mà,” cô nói. “Cậu chẳng cần lo lắng đến hắn ta đâu. Nếu hắn dám lại gần, cậu chỉ cần vận hết sức bình sinh hét thật to là được.”
Beverly lắc đầu. “Tớ muốn tránh mặt anh ta tuyệt đối. Chỉ có cách này thôi.”
Kay nhìn cô với ánh mắt sắc bén. “Cậu sợ anh ta nói ra nói vào làm cậu thôi không đi nữa à?”
Beverly nhớ lại cảnh bảy người bọn họ đứng dưới con suối, nhớ đến hình ảnh Stanley cùng mảnh chai Coca-Cola bị bể lấp loáng sắc xanh dưới ánh mặt trời; cô nhớ lại cảm giác nhói đau khi cậu khẽ cứa dọc lòng bàn tay cô, cô nhớ lại lúc họ đứng thành vòng tròn rồi siết chặt tay, hứa với nhau sẽ trở về nếu nó tái diễn… trở về và kết liễu nó mãi mãi.
“Không,” cô nói. “Anh ta không thuyết phục được tớ đâu. Nhưng anh ta có thể làm tớ bị thương, dù có nhân viên an ninh hay không. Đó là do cậu không thấy anh ta đêm qua như thế nào thôi, Kay ạ.”
“Tớ đã thấy anh ta vào những lần khác rồi.” Kay nói, mày nhíu lại. “Thể loại cặn bã không đáng mặt đàn ông.”
“Anh ta phát điên rồi,” Bev kể. “Nhân viên an ninh không cản được anh ta đâu. Thế này tốt hơn. Hãy tin lời tớ.”
“Thôi được.” Kay lưỡng lự nói, và Bev vẩn vơ nghĩ có khi Kay đang thất vọng vì sẽ không có cảnh ba mặt một lời hay trận đụng độ kinh thiên động địa nào.
“Cậu rút tiền từ séc sớm nhé,” Beverly lại nhắc bạn mình, trước khi anh ta kịp nghĩ đến chuyện đóng băng tài khoản. Ngữ như anh ta sẽ làm thế cho mà xem.”
“Rồi rồi,” Kay nói. “Nếu hắn ta làm vậy, tớ sẽ xách roi đến gặp mặt tên khốn ấy và lấy cả vốn lẫn lời.”
“Cậu tránh xa anh ta ra cho tớ,” Beverly nghiêm nghị. “Hắn nguy hiểm lắm, Kay ạ. Hãy tin lời tớ. Hắn chẳng khác nào…” Suýt chút nữa cô đã run rẩy thốt lên chẳng khác nào bố tớ . Nhưng không, cô chỉ nói, “Hắn chẳng khác nào một gã thần kinh.”
“Được.” Kay đáp. “Cậu cố duy trì tinh thần cho thoải mái. Cứ đi thực hiện lời hứa. Rồi ngẫm nghĩ về chuyện sau này.”
“Tớ sẽ làm thế,” Bev nói, nhưng ấy chỉ là lời nói dối. Cô có quá nhiều thứ để nghĩ: ví dụ như những gì đã xảy ra vào mùa hè năm cô mười một tuổi chẳng hạn. Ví dụ như chỉ Richie Tozier cách thả yo yo sao cho nó quay vòng vòng ở cuối dây. Ví dụ như những giọng nói vang lên từ lỗ thoát nước. Hay cảnh tượng mà cô từng chứng kiến, cảnh tượng kinh hoàng đến độ ngay cả lúc cô ôm Kay lần cuối trước chiếc xe khách Greyhound dài màu bạc, tâm trí cô vẫn chưa chịu để cô nhìn thấy.
Và lúc này, khi chiếc máy bay với hình con vịt bên hông bắt đầu hạ xuống khu vực Boston, tâm trí cô lại quay quắt những hình ảnh ấy… về Stan Uris… về bài thơ không rõ người sáng tác trên tấm bưu thiếp… về những tiếng nói… về những phút giây ngắn ngủi cô tận mắt chứng kiến thứ tưởng chường như vô tận.
Cô hướng mắt ra cửa sổ và nhìn xuống, chợt nghĩ Tom dù có ác độc đến mức nào cũng chỉ là vụn vặt so với thứ ma quỷ đang chực chờ cô ở Derry. Điều bù lại duy nhất là Bill Denbrough cũng sẽ ở đó… Ngày xưa, có một khoảng thời gian cô bé mười một tuổi mang tên Beverly Marsh đã đem lòng yêu Bill Denbrough. Cô nhớ tấm bưu thiếp với bài thơ đáng yêu viết ở mặt sau, nhớ ngày ấy cô biết ai là người viết. Tuy nhiên, giờ cô quên mất rồi, cũng chẳng nhớ rõ nội dung bài thơ thế nào… nhưng cô nghĩ có khi Bill là tác giả cũng nên. Ừ, đúng vậy, có thể Bill Cà Lăm chính là tác giả.
Cô chợt nhớ lại chuyện xảy ra lúc mình chuẩn bị đi ngủ vào buổi tối hôm Richie và Ben đưa cô đi xem hai bộ phim kinh dị. Buổi hẹn hò đầu tiên của cô. Cô đã lôi chuyện này ra đùa giỡn với Richie – ngày ấy, đó là cách cô phòng thủ khi bước ra thế giới bên ngoài – nhưng đâu đó trong lòng cô đã rung động, phấn khích và có chút sợ hãi. Quả thật, đó là buổi hẹn hò đầu tiên của cô, dù có đến hai cậu bạn chứ không chỉ một. Richie trả cho cô từ đầu đến cuối, như khi hẹn hò thật sự. Sau đó, một đám côn đồ rượt đuổi họ… và họ dành cả buổi chiều vui chơi ở Vùng Đất Cằn… rồi Bill Denbrough đến cùng một cậu bạn nữa, cô không nhớ đó rõ là ai, nhưng cô nhớ ánh mắt của Bill đã neo lại nơi cô trong chốc lát, nhớ cảm giác lúc ấy người cô như có điện chạy qua… sự bất ngờ như điện giật và bao cảm xúc dâng trào khiến cả người cô nóng bừng.
Cô nhớ mình đã nghĩ đến những điều này lúc mặc váy ngủ và đi vào nhà vệ sinh đánh răng rửa mặt. Cô nhớ lúc ấy, mình đã nghĩ chắc đêm nay sẽ thao thức mãi mới ngủ được, vì có quá nhiều thứ để ngẫm… và ngẫm theo hướng tốt, vì bọn họ có vẻ là người tốt, là những cậu bạn mà cô có thể đùa giỡn, thậm chí tin cậy phần nào. Thế thì hạnh phúc quá. Thế thì… ừ, chẳng khác nào thiên đường.
Vừa vẩn vơ nghĩ, cô vừa lấy khăn mặt, cúi người tới bồn rửa để vò khăn thì bỗng dưng, một tiếng nói
2thì thầm vang lên từ lỗ thoát nước.
“Cứu…”
Beverly lùi lại, giật mình đánh rơi khăn mặt xuống sàn. Cô khẽ lắc đầu như để đầu óc mình minh mẫn hơn, đoạn cô chúi tới bồn rửa mặt và hiếu kỳ nhìn vào lỗ thoát nước. Nhà vệ sinh nằm ở cuối căn nhà bốn phòng mà gia đình cô đang ở. Cô có thể nghe thấy tiếng chương trình châu Âu nào đó đang phát trên ti vi vọng lại. Khi chương trình kết thúc, chắc bố cô sẽ chuyển kênh để xem bóng chày hoặc đấu vật rồi lăn ra ngủ trên ghế bành.
Giấy dán tường trong nhà tắm gớm ghiếc vô cùng với những con ếch ngồi trên lá súng, vừa phồng vừa nhăn do bề mặt thạch cao bên dưới không bằng phẳng. Nhiều chỗ thấm nước, có chỗ còn tróc hẳn ra. Bồn tắm lỗ chỗ gỉ sét, bệ xí thì nứt. Một bóng đèn tròn bốn mươi watt thò ra từ ổ cắm bằng sứ phía trên bồn rửa mặt. Beverly nhớ mang máng ngày trước từng có chụp đèn, nhưng từ lúc bị bể vài năm trước, chẳng bao giờ có cái mới để thay. Sàn nhà được lót một lớp vải dầu đã bạc hết họa tiết, trừ một khoảng nhỏ ngay dưới bồn rửa.
Căn phòng không mấy tươm tất, nhưng bấy lâu nay Beverly đã dùng quen nên cô chẳng buồn để tâm căn phòng trông ra sao.
Bồn rửa mặt cũng ố theo thời gian. Lỗ thoát nước cũng chỉ là một hình tròn chặn bằng lưới, đường kính khoảng năm xen-ti. Ngày trước từng có một miếng phủ bằng crôm, nhưng giờ không còn nữa. Nút chặn cao su nối vào sợi xích được vòng qua loa quanh vòi nước đánh dấu chữ C. Lỗ thoát nước đen thui, và khi chúi người săm soi, lần đầu tiên cô để ý có một thứ mùi hôi thoang thoảng - mùi hơi tanh – bốc lên từ lỗ thoát. Cô khẽ nhăn mũi vì khó chịu.
“Cứu với…”
Cô nín thở. Có tiếng nói. Cô cứ tưởng có tiếng lạo xạo trong ống… hoặc có khi chỉ là cô tự tưởng tượng ra.. chút dư âm còn sót lại từ hai bộ phim…
“Cứu với, Beverly…”
Người cô run lên vì những đợt nóng lạnh dồn dập ập đến. Ban nãy cô đã tháo dây thun buộc tóc, nên hiện giờ suối tóc sáng màu của cô buông rũ xuống vai. Cô có thể cảm nhận thấy chân tóc mình như muốn dựng đứng.
Trong lúc đầu óc chưa kịp nghĩ ngợi gì, cô cúi người đến bồn rửa và thì thầm, “Xin chào? Có ai không?” Tiếng nói phát ra từ lỗ thoát nước là của một đứa bé có lẽ chỉ vừa mới học nói. Mặc dù da gà nổi rần rật trên cánh tay, đầu óc cô vẫn cố gắng tìm cách lý giải. Khu nhà này là chung cư. Gia đình cô sống ở căn hộ phía sau, dưới tầng trệt. Ngoài ra còn bốn căn khác. Có lẽ đứa nhóc nào đó trong tòa chung cư đang nghịch bằng cách nói vọng vào lỗ thoát nước. Chắc là có mẹo gì đó…
“Có ai ở đó không?” cô hỏi lỗ thoát nước trên bồn rửa mặt, lần này giọng to hơn. Nói xong, cô mới chợt nghĩ lỡ may bố cô bước vào đúng lúc này, hẳn lão ta sẽ nghĩ cô bị điên.
Không có lời đáp từ lỗ thoát nước, song thứ mùi hôi hám kia dường như nồng hơn. Nó gợi cô nhớ đến rặng tre ở Vùng Đất Cằn cùng bãi rác phía sau; nó khiến cô hình dung cảnh tượng khói cay sè, bảng lảng và bùn đen muốn kéo tuột cả giày của ta.
Mấu chốt nằm ở chỗ trong tòa chung cư này không có trẻ con. Nhà Tremont ngày trước có một bé trai năm tuổi, hai bé gái lần lượt ba tuổi và sáu tháng, nhưng ông Tremont mất việc ở cửa hàng bán giày trên Đại lộ Tracker, họ trễ tiền nhà suốt một thời gian, và trước khi kết thúc năm học ít lâu, cả gia đình lặn không sủi tăm trong chiếc Buick Power-Flite cũ mèm của Tremont. Căn hộ mặt trước tầng hai có Skipper Bolton, nhưng Skipper đã mười bốn tuổi rồi.
“Bọn em đều muốn gặp chị, Beverly…”
Cô đưa tay lên bụm miệng, hai mặt trợn trừng kinh hãi. Trong một khắc… chỉ trong một khắc ngắn ngủi… dường như cô đã thấy thứ gì đó nhúc nhích bên dưới. Bỗng có sực nhớ tóc mình đang buông xõa trên vai thành hai nửa dày, và tóc đang đung đưa gần sát – sát rạt – lỗ thoát nước. Theo bản năng, cô vội vàng đứng thẳng người để mái tóc không dính vào đó.
Cô nhìn quanh. Cửa nhà vệ sinh đang đóng kín. Cô có thể nghe tiếng ti vi văng vẳng, Cheyenne Bodie đang thuyết phục kẻ xấu bỏ súng xuống trước khi có người bị thương. Cô đang ở một mình. Tất nhiên đó là chưa kể đến giọng nói ấy.
“Ai vậy?” cô khẽ khọt nói vọng xuống bồn rửa.
“Matthew Clements,” giọng nói thì thầm. “Gã hề đưa em xuống cống, em chết rồi, và chẳng mấy chốc, gã hề sẽ đến bắt chị, Beverly, và cả Ben Hanscom, cả Bill Denbrough và Eddie…”
Tay cô giơ lên bấu chặt lấy hai má. Mắt cô không ngừng mở to. Cô thấy cả người lạnh toát. Giờ tiếng nói lại chuyển thành một giọng nghèn nghẹt và xưa cũ… nhưng vẫn khiến cô rùng mình với vẻ hoan hỉ đầy bệnh hoạn.
“Rồi mày sẽ lơ lửng dưới đây với chúng bạn, Beverly, dưới này chúng ta đều lơ lửng, nhắn với Bill là Georgie gửi lời chào nhé, nhắn luôn cho Bill là Georgie nhớ anh trai lắm nhưng hai anh em sắp được đoàn tụ rồi, nhắn nó là một đêm nào đó, Georgie sẽ nấp sẵn trong tủ quần áo, thủ sẵn dây đàn piano để đâm lủng mắt nó, nhắn…”
Âm thanh vỡ thành chuỗi nấc cụt liền tù tì, và bỗng dưng một bong bóng màu đỏ tươi nổi lên từ lỗ thoát nước rồi nổ tung, khiến máu phọt lên mặt sứ xỉn màu của bồn rửa.
Giọng nói nghèn nghẹt chợt hối hả hơn, và mỗi lần cất lên là một lần thay đổi: giờ là giọng của một đứa trẻ cô mới nghe lần đầu, rồi giọng một thiếu nữ, rồi kinh khủng hơn, nó chuyển sang giọng nói của một người mà Beverly biết… Veronica Grogan. Nhưng Veronica không còn sống, người ta đã tìm thấy thi thể cô trong cống thoát nước thải…
Matthew đây… Betty đây… Veronica đây.... bọn ta ở dưới này… ở dưới này cùng gã hề… cùng con quái vật.... cùng xác ướp… cùng Người sói… cùng mày nữa, Beverly… bọn ta ở dưới này với mày, và cả bọn cùng lơ lửng, biến dạng…”
Bất thình lình, máu phọt lên từ lỗ thoát nước, bắn tung tóe lên bồn rửa, tấm gương và giấy dán tường có hình ếch ngồi trên lá súng. Beverly hét lên, hoảng hồn và thất thanh. Cô lùi khỏi bồn rửa, tông vào cửa, vội lùi lại, xoáy vặn mở bằng được, ba chân bốn cẳng chạy lên phòng khách đúng lúc bố cô vừa đứng dậy.
“Mày ăn phải bả à?” Lão hỏi, hàng lông mày nhíu lại. Tối đó, chỉ có hai bố con ở nhà. Mẹ của Bev đang làm việc theo ca từ 3 giờ chiều đến 10 giờ tối ở Nông trại Xanh, nhà hàng ngon nhất Derry.
“Nhà vệ sinh!” cô hãi hùng la lên. “Nhà vệ sinh, bố ơi, trong nhà vệ sinh…”
“Có ai nhìn lén mày sao, Beverly?” Lão vươn tay ra, nắm chặt lấy tay cô, siết chặt. Trên khuôn mặt lão thể hiện sự quan tâm, nhưng đó là vẻ quan tâm của kẻ săn mồi, chẳng những không khiến cô an lòng mà còn làm cô kinh sợ hơn.
“Không ạ… bồn rửa… trong bồn rửa… có… có…” Cô hoảng loạn bật khóc trước khi kịp lắp bắp hết câu. Trống ngực cô đập dồn dập trong lồng ngực đến độ cô còn tưởng nó sẽ khiến mình ngạt thở mà chết.
Al Marsh gạt cô sang một bên với nét mặt “Lần này lại là cái giống gì đây” rồi bước thẳng vào nhà vệ sinh. Lão ở trong lâu đến độ Beverly đâm lo.
Đoạn lão hét to: “Beverly! Mày xuống đây cho tao!”
Lão đã nói thì không có chuyện cự cãi gì ở đây. Giả sử hai người bọn họ đứng ở mép vực sâu và lão bảo cô nhảy xuống - ngay lập tức – thì bản năng phục tùng của cô chắc chắn sẽ đưa cô sa chân xuống vực trước khi lý trí kịp lên tiếng.
Cửa nhà vệ sinh đang mở. Bố cô đứng đó, tướng người to lớn với mái tóc đỏ mà Beverly thừa hưởng đang thưa thớt dần. Vẫn mặc quần lính màu xám và áo thun xám trên người (lão làm lao công trong Bệnh viện Derry), lão nhìn chòng chọc Beverly. Lão không uống rượu, không hút thuốc và cũng chẳng chạy theo đàn bà. Ở nhà có đủ đàn bà tao cần rồi, lần nọ, lão đã tuyên bố như thế, lúc ấy, lão nói với một nụ cười úp úp mở mở nhếch trên môi – nụ cười chẳng khiến gương mặt lão sáng hơn mà còn khiến nó thêm phần ám muội. Nhìn nụ cười ấy chẳng khác nào nhìn bóng mây bay qua khoảng đất lởm chởm đất đá. Bọn nó chăm sóc tao, khi nào chúng cần, tao lại chăm bọn chúng.
“Mày nói tao nghe tấn trò hề vừa rồi là sao?” Lão hỏi khi cô bước vào.
Beverly có cảm giác họng mình như bị nhét đầy đá phiến. Tim cô như chạy đua trong lồng ngực. Khéo cô nôn thốc nôn tháo ra mất. Máu trên gương nhoe nhoét chảy xuống thành vệt dài. Máu bắn lưa thưa lên cả bóng đèn phía trên bồn rửa, cô có thể ngửi thấy mùi máu khét lẹt trên ngọn đèn bốn mươi watt. Máu chảy xuống thành bồn cầu sứ và lộp độp rơi xuống sàn nhà.
“Bố…” cô khẽ rên lên.
Lão quay lại, khó chịu ra mặt với cô (khi nào chẳng thế) rồi bình thản rửa tay trong bồn rửa máu me lênh láng.”Tao xin mày, con với chả cái. Có miệng để làm gì? Mày làm thằng bố mày hết cả hồn. Giải thích cho tao nghe mau.”
Lão đứng rửa tay trong bồn và cô có thể trông thấy máu dây vào quần ở vị trí quần cạ vào mép bồn, và nếu trán lão đụng vào gương (nó đang ở gần sát), máu sẽ dính lên người lão. Cô khẽ khọt khẹt vì nghẹn trong họng.
Lão tắt vòi nước, lấy chiếc khăn dính hai vệt máu bắn từ lỗ thoát nước để lau khô tay. Cô nhìn mà thiếu điều lăn ra bất tỉnh khi lão trét máu lên những khớp ngón tay to bè và đường chỉ tay của mình. Cô có thể thấy máu dính bên dưới móng tay lão như dấu vết cho thấy lão vừa phạm tội.
“Sao? Tao đang đợi đây.” Lão ném chiếc khăn máu me lên thanh treo.
Máu rất nhiều… tung tóe khắp nơi… vậy mà bố cô không nhìn thấy.
“Bố…” cô chưa biết nói tiếp điều gì, nhưng bố cô đã chặn họng.
“Mày làm tao lo đấy,” Al Marsh nói. “Tao nghĩ cứ cái đà này, mày sẽ chẳng trưởng thành nổi con ạ. Mày suốt ngày chơi bời lêu lổng bên ngoài, chẳng bao giờ lo việc nhà, nấu ăn cũng không biết, may vá cũng không. Nếu không mơ mộng hão huyền, chúi mũi vào cuốn sách thì bản mặt mày lại u ám như đưa đám. Mày bảo sao tao không lo.”
Tay lão chợt vung lên và đập thật đau vào mông cô. Cô hét lên, mắt dán chặt vào lão. Có chút máu li ti dính trên hàng lông mày rậm rạp phía bên phải của lão. Nếu mình cứ nhìn vào đó thật lâu, mình sẽ phát điên và những thứ thế này sẽ chẳng thành vấn đề nữa, cô thoáng nghĩ.
“Bảo sao tao không lo nhiều thế này,” lão nói và lại đánh mạnh hơn, lần này là vào phần thịt trên khuỷu tay. Cẳng tay cô nhói lên rồi như lịm đi. Sang ngày hôm sau, phần bị đánh bầm lại tím vàng.
“Rõ là nhiều ,” lão chưa thôi, tiếp tục thui vào bụng cô. Giây cuối, may sao lão không dồn lực vào cú đấm, Beverly suýt chút tí nữa ngạt thở. Cô quặp người, thở hổn hển, nước mắt bắt đầu ứa ra. Ông bố lẳng lặng nhìn cô. Lão thọc đôi tay máu me vào túi quần.
“Liệu mà trưởng thành đi, Beverly,” lão nói, lúc này giọng lão hiền từ và bao dung. “Bố nói đúng chứ?”
Cô gật đầu. Đầu cô ong lên. Cô khóc không thành tiếng. Nếu cô khóc to hơn – hay theo như cách bố cô gọi “lại làm mình làm mẩy như con nít” – khéo lão ta sẽ tiếp tục tấn cho cô một trận lên bờ xuống ruộng. Al Marsh sống cả đời ở Derry, nếu ai hỏi (hoặc thỉnh thoảng không hỏi) thì lão cũng bảo lão muốn được lìa đời ở đây - hy vọng là ở tuổi trăm mười. “Chẳng có lý do gì tôi không bách niên giai lão,” nhiều lúc lão bảo với Roger Aurlette, chỗ lão cắt tóc hằng tháng như vậy. “Tôi bất khả chiến bại mà.”
“Giờ thì giải thích đi,” lão nói, “và liệu hồn nhanh lên.”
“Có…” cô nuốt nước bọt, đau nhói vì họng quá khô khốc. “Có một con nhện. Con nhện rất to mà đen thui. Nó… nó bò từ lỗ thoát nước… nhưng con nghĩ nó bò xuống trở lại rồi.”
“Ồ,” Lão khẽ mỉm cười với cô, tựa như hài lòng với lời giải thích đó. “Ra là thế. Chết tiệt! Nếu con bảo với bố thì bố đã không đập con rồi. Con gái đứa nào chẳng sợ nhện nhỉ. Khốn thật! Sao con không nói bố biết?”
Lão cúi xuống lỗ thoát nước, cô phải cắn môi để ngăn mình bật lên lời cảnh báo… sâu bên trong cô vang lên một tiếng nói, một tiếng nói kinh khiếp mà cô dám chắc không thể nào thuộc về bản thân mình mà là của quỷ dữ: Cứ để nó bắt lão ta đi nếu nó muốn. Để nó kéo lão ta xuống đi. Cái thứ đầu trâu mặt ngựa.
Cô gạt tiếng nói ấy đi trong kinh hãi. Nếu để suy nghĩ ấy nán lại trong đầu dù chỉ một khắc, cô sẽ bị tống xuống địa ngục mất.
Lão nhìn vào lỗ thoát nước. Tay lão lép nhép tì vào đống máu trên thành bồn rửa. Beverly chật vật để không nôn ọe những thứ cô đã nuốt vào trong bụng. Vị trí bụng bị bố đấm quặn đau.
“Bố không thấy gì cả,” lão nói. “Mấy tòa nhà này cũ quá rồi, Beverly. Ống thoát nước to cỡ xa lộ ấy chứ, con biết không? Thời bố làm lao công ở trường trung học cũ, thỉnh thoảng trong bồn cầu lại có mấy con chuột chết đuối. Lũ con gái cứ gọi là hồn xiêu phách tán.” Lão cười thích thú khi nghĩ đến sự hoảng hốt của đám đàn bà. “Đa phần là khi nước sông Kenduskeag lên cao. Nhưng từ khi người ta lắp đặt hệ thống thoát nước mới, trong ống ít sinh vật sống hơn hẳn.”
Lão vòng một tay ôm cô.
“Thôi. Con vào giường ngủ đi, đừng nghĩ về nó nữa. Được chứ?”
Cô cảm nhận được tình thương mình dành cho bố. Bố không bao giờ đánh khi con không xứng ăn đòn, Beverly ạ, có một lần, lão đã nói với cô bé như vậy khi cô khóc thét rằng nhiều khi bố trừng phạt cô vô cớ. Và chắc hẳn điều đó đúng, vì bố vẫn dành tình thương cho cô. Thỉnh thoảng, bố sẽ ở bên cô cả ngày trời, chỉ cho cô làm hết thứ này đến thứ khác, kể chuyện trên trời dưới biển hoặc đi lòng vòng quanh thị trấn với cô, và mỗi lần bố hiền từ như thế, cô lại nghĩ trái tim cô sẽ đong đầy hạnh phúc đến chết mới thôi. Thương bố, cô tìm cách thấu hiểu bố phải thường xuyên uốn nắn cô vì đó là thiên chức được Chúa giao cho bố (bố nói thế). Al Marsh nói con gái cần được uốn nắn nhiều hơn con trai. Lão không có con trai, và cô mơ hồ cảm giác phần nào, đó cũng là lỗi của mình.
“Dạ,” cô đáp. “Con sẽ không nghĩ về nó nữa.”
Hai bố con bước vào phòng ngủ be bé của cô. Tay phải của cô đau dữ dội sau cú đánh ban nãy. Cô nhìn ra sau vai và trông thấy bồn tắm, gương, tường và sàn nhà bê bết máu. Đến cả khăn tắm bố dùng và vắt trên thanh treo cũng nhoe nhoét máu. Cô thầm tự hỏi: Làm thế nào mà mình dám vào trong đó tắm rửa bây giờ? Chúa ơi, con xin lỗi vì đã nghĩ xấu cho bố, Người có thể trừng phạt con nếu Người muốn, con đáng bị trừng phạt, Người cứ cho con vấp ngã, đau nhức hay cho con bị cúm như mùa đông năm ngoái khi con ho dữ đến độ ói mửa, nhưng con xin Người hãy làm cho đống máu ấy biến mất vào sáng mai, con xin Người. Con xin Người.
Như mọi hôm, bố đưa cô vào giường ngủ rồi đặt lên trán cô một nụ hôn. Đoạn lão đứng đó một lát trong tư thế vô cùng đặc trưng mà cô nghĩ đó là cách đứng của “riêng bố”, thậm chí là cách tồn tại của lão: hơi chúi người tới trước, hai tay thọc sâu quá cổ tay – vào túi, đôi mắt xanh ngời trên khuôn mặt chảy dài như giống chó săn chân ngắn đầy sầu não cái nhìn cô từ trên cao. Và những năm sau đó, dù chẳng bao giờ nghĩ về Derry nữa, khi vô tình nhìn thấy người đàn ông ngồi trên xe buýt hoặc đứng nơi góc đường với cà mèng trên tay, cô lại thấy nhân hình, ôi nhân hình của đàn ông, thỉnh thoảng khi ngày tàn, thỉnh thoảng bên kia Quảng trường Watertower vào buổi trưa một ngày thu trong veo lộng gió, nhân hình của đàn ông, quy tắc của đàn ông, hoài bão của đàn ông: hoặc nơi Tom, sao mà anh ta giống bố cô đến thế, nhất là khi gã cởi áo và khẽ khom lưng đứng trước gương nhà vệ sinh để cạo râu. Nhân hình của đấng làm trai.
“Thỉnh thoảng bố lo cho con lắm, Bev ạ” lão nói, nhưng trong giọng của lão lúc này không còn hiềm khích hay tức giận. Lão nhẹ nhàng chạm vào tóc cô, vuốt ve dọc trán.
Nhà vệ sinh đầy máu, bố ơi! Suýt chút nữa, cô đã hét lên. Bố không thấy à? Máu vương khắp nơi! Nó dây lên cả bóng đèn phía trên bồn rửa! Bố MÙ hay sao mà không thấy?
Nhưng cô chỉ ngậm bồ hòn khi lão bước ra ngoài và đóng cửa, để căn phòng cô chìm trong bóng tối. Cô vẫn thức, thao láo nhìn vào màn đêm, khi mẹ cô về nhà lúc 11 giờ 30 và rồi ti vi tắt ngúm. Cô nghe thấy tiếng bố mẹ vào phòng, nghe thấy tiếng giường kêu cót két đều đặn khi bố mẹ cô làm chuyện người lớn. Beverly từng tình cờ nghe Greta Bowie kể với Sally Mueller rằng “chuyện người lớn” này đau như cắt và con gái ngoan chẳng ai muốn làm vậy cả (“Và đến lúc cuối, tên con trai sẽ tè hết lên người mình,” Greta nói khiến Sally ré lên: “Eo ôi, tớ sẽ không để thằng con trai nào làm thế với mình đâu!”). Nếu việc này đau như Greta mô tả thì có lẽ mẹ của Bev chỉ im lặng giữ đau đớn ấy trong lòng. Cô từng nghe thấy mẹ khẽ hét lên một hai lần nhưng chẳng giống tiếng hét vì đau chút nào.
Tiếng cót két chậm chạp bỗng tăng tốc lên nhịp độ gần như chóng mặt, sau đó ngưng hắn. Có một khoảng im lặng, rồi tiếng nói chuyện rì rầm, theo sau là tiếng chân mẹ bước vào nhà vệ sinh. Beverly nín thở, đợi xem mẹ có hét lên hay không.
Nhưng chẳng có tiếng hét nào – chỉ có tiếng nước chảy ở bồn rửa mặt, tiếp đến là tiếng hất nước. Sau đó, nước rút khỏi bồn tạo nên tiếng ùng ục quen thuộc. Mẹ cô đang đánh răng. Vài phút sau, chiếc giường trong phòng bố mẹ lại cót két khi bà chui vào trong nệm.
Chừng năm phút sau, bố cô bắt đầu ngáy khò khò.
Một nỗi sợ hãi tối đen choáng ngợp trái tim cô và bóp nghẹt họng cô. Cô không dám quay người sang phải – tư thế nằm ưa thích của cô – vì cô sợ nhỡ may thấy thứ gì đó đang lom lom nhìn mình từ cửa sổ. Vậy nên cô chỉ nằm thẳng, người đờ ra như khúc gỗ nhìn trần nhà ép thiếc. Mãi lúc sau - vài phút hoặc vài giờ, cô cũng chẳng rõ – cô mới chìm vào giấc ngủ không sâu, đầy mộng mị.
3Beverly luôn tỉnh giấc trước khi chuông báo thức trong phòng ngủ của bố mẹ vang lên. Phải nhanh chân nhanh tay, vì báo thức vừa kêu thì đã bị bố cô tắt ngóm. Cô nhanh lẹ thay đồ trong lúc bố dùng nhà vệ sinh. Cô dừng lại (hiện trở thành thói quen gần như hằng ngày) để nhìn ngực mình trong gương, xem đêm qua nó có nhú thêm chút nào không. Cô bắt đầu có ngực từ năm ngoái. Ban đầu nó hơi đau, nhưng giờ thì không còn đau nữa. Ngực cô vẫn rất nhỏ – chẳng to hơn quả táo mùa xuân là bao, thật là thế – nhưng có còn hơn không. Ngực phát triển rồi, cô sẽ hết là con nít mà sẽ trở thành thiếu nữ.
Cô mỉm cười với hình ảnh phản chiếu của mình rồi đưa tay ra sau tóc, đẩy tóc lên và ưỡn ngực về phía trước. Cô khúc khích nụ cười ngây thơ của một bé gái… nhưng rồi chợt nhớ đến cảnh máu phọt ra từ lỗ thoát nước trong nhà vệ sinh tối qua. Tiếng cười của cô tắt ngóm.
Nhìn cánh tay mình, cô trông thấy vết bầm đã nổi lên trong đêm qua - vết ố xấu xí giữa vai và khuỷu tay, vết ố hình những ngón tay biến màu.
Trong nhà vệ sinh vang lên tiếng bộp và tiếng xả nước.
Cô thoăn thoắt chuẩn bị, không muốn mới sáng sớm mà bố đã nổi xung với mình (thậm chí không muốn bố để ý đến sự hiện diện của mình). Beverly lấy quần jean và áo nỉ trường Trung học Derry ra mặc. Sau đó, không thể chần chừ được nữa, cô ra khỏi phòng để vào nhà vệ sinh. Trong phòng khách, bố cô đi ngang qua lúc quay lại phòng riêng để thay đồ. Bộ đồ ngủ màu xanh lạch phạch quanh người lão. Lão lầm bầm câu gì đó với cô nhưng cô nghe không ra.
“Dạ vâng,” cô vẫn đáp.
Cô đứng trước nhà vệ sinh lúc này đang đóng cửa, cố gắng lên dây cót tinh thần để bình tĩnh trước cảnh tượng có thể trông thấy bên trong. Chí ít giờ cũng là ban ngày, cô tự trấn an, và điều đó khiến cô dễ chịu phần nào. Không nhiều nhưng cũng được chút ít. Cô chộp lấy tay nắm cửa, xoay nó và bước vào trong.
4Sáng hôm ấy là một buổi sáng bận rộn đối với Beverly. Cô chuẩn bị bữa sáng cho bố – nước cam, trứng bác, bánh mì nướng theo kiểu ưa thích của Al Marsh (bánh mì nóng nhưng không nướng tới). Lão ngồi ở bàn, dựng thành lũy sau tờ News và ăn sạch.
“Thịt xông khói đâu?”
“Hết rồi bố ạ. Nhà mình vừa ăn hết hôm qua.”
“Làm cho bố một cái hamburger đi.”
“Chỉ còn một ít thịt, c…”
Tờ báo sột soạt rồi hạ xuống. Ánh nhìn chòng chọc từ đôi mắt xanh nặng như chì.
“Con nói gì cơ?” Lão nhẹ nhàng hỏi.
“Con nói là con làm ngay, thưa bố.”
Lão nhìn cô thêm một lúc. Đoạn tờ báo lại dựng lên, Beverly vội vàng chạy đến tủ lạnh để lấy thịt.
Cô làm cho bố mình một cái hamburger, cố dàn chút thịt băm còn sót lại trong hộp đông sao cho miếng thịt nhìn to hơn. Vừa ăn, lão vừa đọc chuyên mục Thể thao, còn Beverly chuẩn bị bữa trưa cho lão- vài miếng bánh mì bánh mì kẹp phết bơ đậu phộng và mứt trái cây, miếng bánh to mà đêm qua mẹ đem về từ nhà hàng Nông trại Xanh, bình giữ nhiệt đựng cà phê nóng với rất nhiều đường.
“Nhắn với mẹ là bố bảo hôm nay dọn dẹp sạch sẽ nơi này đi,” lão nói và xách cà mèng lên. “Nhà cửa gì mà dơ dáy bẩn thỉu không thua gì chuồng lợn. Tiên sư! Bố mày đã dành cả ngày lau dọn bệnh viện rồi. Bố không muốn về mà thấy nhà dơ. Nhớ lời bố dặn đấy, Beverly.”
“Dạ vâng. Con sẽ nói với mẹ.”
Lão hôn lên má cô, ôm tạm biệt cô rồi đi làm. Lần nào cũng thế, Beverly lại bước đến cửa sổ phòng mình và nhìn bố bước xuống đường. Và lần nào cũng thế, cô âm thầm cảm thấy lòng mình nhẹ nhõm hơn khi lão rẽ ở khúc quanh… thứ cảm xúc khiến cô dằn vặt khôn nguôi.
Rửa chén xong, cô mang cuốn sách mình đang đọc dở ra cầu thang sau nhà một lúc. Lars Theramenius, cậu bé với mái tóc vàng lấp lánh đầy xinh xắn chập chững bước qua từ tòa chung cư bên cạnh để khoe với Beverly chiếc xe tải Tonka mới và những vết trầy xước mới trên đầu gối của cậu. Beverly trầm trồ trước cả hai. Đoạn cô nghe thấy tiếng mẹ gọi mình.
Hai mẹ con cùng thay ga trải giường, lau nhà và chà bóng sàn bếp. Mẹ cô chà luôn cả sàn nhà vệ sinh, khiến Beverly thấy biết ơn vô hạn. Elfrida Marsh là một phụ nữ nhỏ con với mái tóc muối tiêu và vẻ mặt âu sầu. Những nếp nhăn trên gương mặt bà như muốn nói với thế gian rằng bà đã đi qua nhiều năm tháng và dự là sẽ đi tiếp một khoảng thời gian dài… Nó cũng là thông điệp cho biết bà đã trải qua nhiều đắng cay khổ sở, và bà chẳng định thay đổi tình hình mọi sự trong thời gian tới.
“Con lau cửa sổ phòng khách cho mẹ nhé, Bevvie?” Bà hỏi khi bước ra từ nhà bếp. Bà đã thay bộ đồng phục hầu bàn. “Mẹ phải lên Saint Joe’s ở Bangor để thăm cô Cheryl Tarrent. Đêm qua, cô ấy bị gãy chân.”
“Dạ, mẹ cứ để con,” Beverly nói. “Cô Tarrent gặp chuyện gì ạ? Cô ấy bị ngã hả mẹ?” Cheryl Tarrent là đồng nghiệp cùng chỗ làm với Elfrida.
“Cô ấy và lão chồng trời đánh thánh vật kia bị tông xe,” mẹ của Beverly rầu rĩ kể. “Hắn ta uống rượu say. Con liệu mà cảm tạ Chúa hằng đêm vì may mà bố con không uống rượu bia đấy, Bevvie ạ.”
“Dạ vâng,” Beverly đáp. Và cô bé làm thế thật.
“Kiểu này chắc cô ấy mất việc quá, còn hắn ta cứ lông ba lông bông. Giờ thì giọng của Elfrida thấp thoáng nỗi kinh hãi đầy đáng sợ. “Mẹ đoán chắc hai vợ chồng phải nhận trợ cấp của hạt rồi đây.”
Đó là viễn cảnh khủng khiếp nhất Elfrida Masih có thể nghĩ đến. Mất con hay phát hiện mình bị ung thư chẳng là đinh gỉ gì so với điều này. Con người có thể nghèo; có thể cả đời chỉ mòn mỏi “nhặt nhạnh từng đồng” – như cách bà hay nói. Nhưng tận cùng dưới đáy mọi thứ, thậm chí còn mạt hạng hơn cả cống rãnh, là lúc ta phải nhận trợ cấp của hạt và đủng đỉnh bòn rút mồ hôi nước mắt của người khác. Bà biết rồi đây, Cheryl Tarrent sẽ phải đối mặt với viễn cảnh này.
“Sau khi lau cửa sổ và đổ rác, con cứ đi chơi một lát nếu muốn. Tối nay bố con đi chơi bowling nên con không cần chuẩn bị bữa tối, nhưng mẹ muốn con về nhà trước khi trời tối nhé. Con biết lý do rồi đấy.”
“Dạ vâng.”
“Chúa ơi, con lớn nhanh quá,” Elfrida cảm thán. Bà nhìn phần nhú lên trên chiếc áo nỉ mà Beverly mặc. Ánh mắt bà yêu thương nhưng gay gắt. “Mẹ chẳng biết rồi đây mẹ sẽ làm gì ở nơi này khi con cưới chồng và có một nơi ở của riêng mình.”
“Con còn ở đây lâu lắm mẹ ơi,” Beverly nói và mỉm cười. Mẹ khẽ ôm cô, hôn lên khóe môi cô với đôi môi ấm nhưng khô.
“Mẹ thấy khó đây,” bà đáp. “Nhưng mẹ thương con rất nhiều, Bevvie!”
“Con cũng rất thương mẹ.”
“Con nhớ kiểm tra xem còn vết bẩn nào sót lại trên cửa kính sau khi làm xong không nhé,” bà dặn, cầm ví tiến đến cửa. “Nếu còn dơ, coi chừng bố con lại nổi trận lôi đình đấy.”
“Con sẽ cẩn thận ạ.” Khi mẹ mở cửa bước ra ngoài, Beverly cố ra vẻ bình thản hỏi. “Mẹ có thấy gì lạ trong nhà vệ sinh không?”
Elfrida quay lại nhìn cô, khẽ chau mày. “Lạ?”
“Dạ… Đêm qua con thấy nhện trong đó. Nó bò ra từ lỗ thoát nước. Bố không kể với mẹ ạ?”
“Đêm qua con lại làm bố con nổi cáu đấy à, Bevvie?”
“Dạ đâu có! Không hề! Con kể với bố có con nhện bò ra từ lỗ thoát nước làm con sợ, bố kể thỉnh thoảng người ta còn phát hiện chuột chết trong nhà vệ sinh trường trung học cũ. Nguyên nhân là do hệ thống thoát nước. Bố không kể với mẹ là con nhìn thấy nhện ạ?”
“Không.”
“Ồ. Thế thôi ạ. Con muốn hỏi mẹ có thấy không ấy mà.”
“Mẹ không thấy con nhện nào hết. Phải chi nhà mình có tiền để trải tấm lót mới cho sàn nhà vệ sinh.” Bà ngước nhìn bầu trời trong xanh, không một gợn mây. “Người ta nói nếu mình mà giết nhện, trời sẽ mưa đấy. Con không giết nó chứ hả?”
“Không ạ” Beverly đáp. “Con không giết.”
Mẹ lại nhìn cô, môi mím chặt đến độ gần như biến mất. “Có thật là đêm qua bố không nổi giận với con không?”
“Bevvie, bố có bao giờ đụng chạm vào con không?”
“Dạ?” Beverly nhìn mẹ, hoang mang cực độ. Chúa ơi, hôm nào bố chẳng đụng vào người cô. “Con không hiểu ý mẹ…”
“Thôi, bỏ qua đi,” Elfrida gọn lỏn.”Đừng quên đổ rác nhé. Và nếu cửa sổ lem nhem, con sẽ không cần bố con nổi cơn tam bành đâu.”
“Con sẽ
(bố có đụng chạm vào con không)
nhớ ạ.”
“Nhớ về nhà trước khi trời tối đấy.”
“Dạ vâng.”
(bố có)
(lo lắng nhiều không)
Elfrida rời nhà. Beverly lại bước vào phòng mình, nhìn theo mẹ rẽ ở khúc cua và biến mất khỏi tầm mắt như bố ban nãy. Khi đã chắc chắn mẹ đang trên đường đến trạm xe buýt, Beverly lấy xô nước, nước rửa kính Windex và giẻ lau từ dưới bồn rửa chén. Cô bước vào phòng khách và bắt đầu lau chùi cửa sổ. Dãy nhà im ắng quá. Mỗi lần sàn nhà cót két hay cửa đóng rầm, cô lại giật mình nhảy dựng lên. Khi nhà Bolton xả nước bồn cầu ở tầng trên, cô ré lên, to chẳng khác nào tiếng hét.
Cứ chốc chốc, cô lại nhìn về phía cửa nhà vệ sinh đang đóng.
Cuối cùng, cô bước xuống, mở cửa và nhìn vào trong. Sáng nay, mẹ cô đã lau dọn nhà vệ sinh, và hầu hết máu me đóng thành vũng dưới bồn rửa đã trôi hết. Máu trên thành bồn cũng vậy. Nhưng vẫn còn những vết màu nâu sẫm khô lại trong bồn, lấm tấm vệt bắn trên gương và giấy dán tường.
Beverly nhìn vào hình ảnh phản chiếu xanh xao của mình trong gương và chợt hãi hùng nhận ra máu dính trên gương khiến khuôn mặt cô trông như đang chảy máu. Cô lại tự hỏi: Mình biết làm gì đây? Mình phát điên rồi sao? Lẽ nào tất cả là do mình tưởng tượng?
Bất thình lình, lỗ thoát nước phát ra tiếng khục khác.
Beverly thét lên, đóng sập cửa, và đến năm phút sau, tay cô vẫn run lẩy bẩy đến độ suýt chút nữa đánh rơi chai Windex lúc lau cửa sổ phòng khách.
5Khoảng 3 giờ chiều ngày hôm ấy, sau khi khóa cửa chung cư và cất chìa khóa phụ cẩn thận trong túi quần jean, Beverly Marsh rẽ vào hẻm Richard, con hẻm nhỏ nối đường Chính và đường Trung Tâm, thì tình cờ gặp Ben Hanscom, Eddie Kaspbrak và một cậu con trai tên Bradley Donovan đang chơi trò ném xu.
“Chào Bev!” Eddie lên tiếng. “Hôm qua xem phim xong, cậu có gặp ác mộng không?”
“Không,” Beverly đáp rồi ngồi xuống xem mọi người chơi. “Sao cậu biết chuyện đó?”
“Haystack kể tớ nghe,” Eddie đáp và bật ngón cái về phía Ben, Beverly chẳng hiểu vì nguyên nhân gì mà mặt cậu bạn đỏ bừng bừng.
“Phin dì tế?” Bradley hỏi, và giờ thì Beverly đã nhận ra cậu bạn này: đây là người xuống Vùng Đất Cằn cùng Bill Denbrough một tuần trước. Hai người có lớp trị liệu âm ngữ ở Bangor. Beverly đã loại hình ảnh cậu này ra khỏi tâm trí. Nếu được hỏi lý do thì có lẽ cô sẽ nói dường như cậu ta không quan trọng như Ben và Eddie – cậu ít thuộc về nơi ấy .
“Hai bộ phim về quái vật ấy mà,” cô trả lời rồi nhích người tới trước để ngồi giữa Ben và Eddie. “Tới lượt cậu ném hả?”
“Ừ.” Ben nói. Cậu quay sang nhìn cô thật nhanh rồi lại quay mặt đi.
“Ai đang thắng vậy?”
“Eddie,” Ben đáp. “Eddie chơi hay lắm.”
Cô nhìn Eddie chà chà móng t