← Quay lại trang sách

Chương 10 TÁI NGỘ
1
BILL DENBROUGH GỌI XE

Điện thoại đổ chuông, khiến anh tỉnh dậy từ giấc ngủ sâu không chút mộng mị. Anh mò lấy điện thoại mà chẳng buồn mở mắt, lờ mờ nửa tỉnh nửa mơ. Nếu điện thoại ngừng reo ngay lúc ấy, có lẽ anh đã ngủ lại mà không chút khúc mắc gì, anh dư sức chìm vào giấc ngủ dễ dàng và đơn giản như xưa, anh từng trượt xuống triền dốc phủ tuyết trong công viên McCarron trên máng trượt Flexible Flyer. Ta chạy song song với máng trượt rồi nhảy lên máng và phi thẳng xuống - với tốc độ ngang ngửa tốc độ âm thanh. Khi đã lớn, ta chẳng thể làm như thế nữa, bởi nó khiến ta rụng rời tay chân.

Tay anh lướt qua một số của điện thoại, buông lơi rồi lại đặt lên. Anh lờ mờ linh cảm người gọi là Mike Hanlon, Mike Hanlon gọi từ Derry để nói anh phải quay về, nhắc anh phải nhớ lại chuyện xưa, rằng họ từng hứa với nhau, Stan Uris từng cứa lòng bàn tay cả bọn bằng một mảnh chai cô-ca và họ đã hẹn thề cùng nhau…

Bất chấp những gì đã xảy ra trước đó.

Anh đến nơi vào xế chiều hôm qua - cụ thể là trước 6 giờ tối. Anh suy luận nếu mình là người cuối cùng trong danh sách mà Mike liên lạc thì những người còn lại hẳn đã lần lượt trở về, có khi còn ở đây cả ngày rồi cũng nên. Bản thân anh chưa gặp lại ai trong số họ, mà anh cũng chẳng gấp gáp tái ngộ họ làm gì. Anh chỉ đơn giản là nhận phòng, lên phòng, gọi dịch vụ phòng đặt một bữa ăn, nhưng đến lúc thức ăn được bày ra trước mặt thì anh lại nhận ra mình chẳng có bụng dạ nào mà ăn, bèn nằm lăn ra giường ngủ say như chết đến tận bây giờ.

Bill hé mở một mắt và mò mẫm nhấc ống nghe. Nó rớt xuống bàn, anh chộp lấy rồi mở nốt mắt còn lại. Anh cảm thấy đầu óc mình hoàn toàn trống rỗng, chẳng cắm ổ điện nữa mà chỉ chạy cầm chừng bằng pin.

Sau một hồi chật vật, anh cũng nhấc được ống nghe. Chống một tay dựng người dậy, anh đặt ống nghe lên tai. “A lô?”

“Bill?” Quả đúng là giọng của Mike Hanlon – chí ít anh đoán trúng điều này. Tuần trước, anh còn chẳng nhớ chút gì về Mike, thế mà giờ đây, chỉ một câu ngắn ngủi đã đủ để anh nhận ra bạn mình. Thật kỳ diệu hết sức… nhưng kỳ diệu một cách đáng ngại.

“Ừ, tớ đây, Mike.”

“Tớ đánh thức cậu à?”

“Ừ. Nhưng không sao đâu.” Khoảng tường phía trên ti vi treo một bức tranh xấu tàn tệ vẽ các ngư dân mặc áo mưa vàng và trùm mũ đi mưa đang kéo lưới bắt tôm hùm. Nhìn bức tranh, Bill nhớ lại mình đang ở Nhà nghỉ Thị trấn Derry trên đường Chính Phố Trên. Phía bên kia đường đi lên khoảng tám trăm mét là công viên Bassey… cầu Hôn Nhau… Kênh Đào. “Mấy giờ rồi Mike?”

“10 giờ kém 15 phút.”

“Ngày bao nhiêu ấy nhỉ?”

“Ngày ba mươi rồi.” Giọng Mike xen lẫn chút thích thú.

“Ừ. Được rồi.”

“Tớ đã sắp xếp một cuộc đoàn tụ nhỏ,” Mike nói. Tông giọng anh nghe khác hẳn.

“Thế ư?” Bill vung chân ra khỏi giường. “Mọi người đến đông đủ chứ?”

“Tất cả trừ Stan Uris,” Mike đáp. Giờ trong giọng nói của cậu ấy lại chất chứa một điều gì đó mà Bill không đọc được. “Bev đến cuối cùng. Cô ấy đến khuya hôm qua.”

“Sao cậu lại nói cô ấy là người cuối cùng chứ? Biết đâu hôm nay Stan xuất hiện thì sao?”

“Bill, Stan chết rồi.”

“Hả? Cái gì kia? Máy bay của cậu ấy…”

“Không” Mike ngắt lời. “Nghe này, nếu cậu không phiền thì tớ nghĩ mình nên đợi cho đến lúc cả bọn gặp nhau. Nếu tớ có thể kể với tất cả các cậu cùng lúc thì sẽ tốt hơn.”

“Nó có liên quan đến việc này à?”

“Ừ, tớ nghĩ vậy,” Mike thoáng ngập ngừng. “Tớ dám chắc là như thế.”

Một lần nữa, Bill cảm thấy lòng mình trĩu nặng cảm giác sợ hãi quen thuộc – anh có thể quen với cảm xúc ấy nhanh đến vậy sao? Hay thật ra, bấy lâu nay, anh luôn mang theo mình nỗi sợ hãi ấy, chỉ đơn giản là anh không cảm nhận được nó, không mảy may nghĩ đến nó, tương tự như việc chẳng bao giờ anh ngẫm đến chuyện rồi một ngày anh sẽ trở về cát bụi?

Anh với tay lấy thuốc lá, châm một điếu và thổi tắt diêm sau lần quẹt đầu tiên.

“Hôm qua có ai trong số mọi người gặp nhau không?”

“Không, tớ nghĩ là không.”

“Cậu cũng chưa gặp ai trong số bọn tớ à?”

“Chưa. Tớ mới chỉ nói chuyện điện thoại thôi.”

“Được rồi,” anh đáp. “Thế mình hẹn nhau ở đâu?”

“Cậu nhớ Xưởng đúc ngày xưa không?”

“Có chứ, ở đường Pasture.”

“Cậu đi sau thời đại rồi kìa, bạn hiền. Giờ nó đổi tên thành đường Trung Tâm Thương Mại rồi. Người ta xây trung tâm mua sắm lớn thứ ba trên cả bang ở ngay đó. Bốn mươi tám cửa hàng hội tụ dưới một mái nhà để thuận tiện cho quý khách mua sắm.

“Nghe đúng chất M-M-Mỹ nhỉ?”

“Bill?”

“Sao?”

“Cậu ổn chứ?”

“Ừ.” Nhưng trống ngực anh đang đập thình thịch, đầu điếu thuốc của anh khẽ rung lên. Anh vừa nói lắp và Mike đã nghe thấy.

Có một khoảng lặng, và rồi Mike lên tiếng, “Vừa đi qua trung tâm mua sắm sẽ có một nhà hàng tên là Jade Phương Đông. Họ có phòng riêng cho khách theo nhóm. Hôm qua, tớ đã sắp xếp một phòng rồi. Chúng ta có thể sử dụng thoải mái nguyên buổi chiều nếu ta muốn.”

“Cậu nghĩ nó sẽ mất nhiều thời gian thế à?”

“Tớ cũng chịu.”

“Tài xế tắc-xi biết đường đến đó chứ?”

“Tất nhiên.”

“Được rồi,” Bill nói. Anh viết tên nhà hàng xuống tập giấy để cạnh điện thoại. “Sao cậu lại chọn chỗ đó?”

“Có lẽ là vì nó mới,” Mike chậm rãi trình bày. “Có cảm giác… tớ không biết nữa…”

“Vị thế trung lập?” Bill gợi ý.

“Ừ, chắc thế.”

“Đồ ăn ngon không?”

“Tớ chịu” Mike thành thật. “Khẩu vị cậu thế nào?”

Bill nhả khói và nửa cười nửa ho. “Cũng không tốt lắm, bạn hiền.”

“Ừ.” Mike đáp. “Nghe thấy rồi.”

“Trưa à?”

“Tầm 1 giờ đi cho thong thả. Để Beverly ngủ thêm một chút.”

Bill rít thuốc. “Cậu ấy cưới rồi phải không?”

Mike lại ngập ngừng. “Mai cả đám cập nhật tình hình nhau luôn,” cậu đáp.

“Cứ như mình quay về dự buổi họp lớp cấp ba sau mười năm ấy nhỉ?” Bill nhận xét. “Mình có thể xem ai mập, ai hói, ai có c-con.”

“Tớ ước giá mà được như thế.” Mike bâng quơ.

“Ừ, tớ cũng thế, Mikey ạ. Tớ cũng thế.”

Anh dập máy, đi tắm thật lâu và sau đó lại gọi dịch vụ phòng để đặt một bữa sáng dù anh chỉ ăn qua loa cho có thứ bỏ bụng. Không, anh chẳng có lòng dạ nào mà ăn.

Bill gọi điện cho công ty tắc-xi Big Yellow và hẹn tài xế đến đón lúc 12 giờ 45 phút, áng chừng mười lăm phút là dư sức để đến đường Pasture (anh không tài nào tin nổi giờ con đường ấy đã đổi tên thành đường Trung Tâm Thương Mại, dù anh đã tận mắt nhìn thấy khu mua sắm ấy), nhưng anh đã không lường trước giao thông vào giờ ăn trưa… và tốc độ phát triển của Derry.

Vào năm 1958, nơi đây chỉ là một thị trấn rộng lớn, không hơn. Dân cư ghi nhận khoảng 30.000 người trong nội thành Derry và khoảng 7.000 người ở các khu vực phụ cận.

Ngoảnh đi ngoảnh lại, nó đã lột xác thành một thành phố – tuy chỉ là một thành phố bé tí xíu nếu lấy London hoặc New York làm chuẩn, nhưng so với chuẩn mực của Maine thì nó được ra phết, bởi Portland, thành phố lớn nhất của bang, cũng chỉ có khoảng 300.000 người.

Tắc-xi thong thả chạy xuống đường Chính ( chúng ta đang đi qua Kênh Đào, Bill thầm nhủ, tuy không thấy nhưng nó vẫn ở dưới kia, ào ào trong bóng tối ) rồi rẽ lên đường Trung Tâm, suy nghĩ đầu tiên trong đầu anh khá dễ đoán: cảnh vật thay đổi ra sao. Nhưng suy nghĩ ấy còn kéo theo một cảm giác chênh vênh đến tột cùng mà anh không ngờ sẽ ập đến. Anh nhớ thời thơ ấu của mình là chuỗi ngày sợ hãi và ngập tràn âu lo… không phải chỉ vì mua hè năm 58, khi nhóm bảy người bọn họ phải đối mặt với nỗi kinh hoàng kia, mà còn vì sự ra đi của George, vì cơn mộng mị mà bố mẹ anh đã rơi vào sau khi cậu con trai út của mình qua đời, vì người ta suốt ngày cười nhạo tật nói lắp của anh, vì bè lũ Bowers, Huggins và Criss suốt ngày kiếm chuyện với họ sau trận chiến nảy lửa ở Vùng Đất Cằn

(Bowers, Huggins và Criss, trời ơi! Bowers, Huggins và Criss, trời ơi!)

ngoài ra, còn vì trong lòng, anh cảm thấy Derry sao mà lạnh lẽo đến thế, cay nghiệt đến thế, rằng Derry chẳng buồn quan tâm họ sống hay chết, cũng chẳng màng liệu họ có thắng được gã hề Pennywise hay không. Người dân Derry đã bao đời nay sống với Pennywise dưới tất cả những vỏ bọc của hắn… và có lẽ, theo một cách điên rồ nào đó, họ còn thấu hiểu được hắn. Thích hắn, cần hắn. Thậm chí thương yêu hắn? Dám lắm. Phải, dám lắm.

Vậy tại sao anh lại có cảm giác chênh vênh này?

Có lẽ là vì nơi này đã thay đổi đến chóng mặt. Hoặc có thể là vì trong lòng anh, dường như Derry đã mất đi cốt cách vốn có.

Rạp Bijou đã biến mất, nhường chỗ cho một bãi đậu xe (tấm biển trên dốc đề dòng chữ CHO PHÉP MỚI ĐƯỢC ĐẬU; XE VI PHẠM SẼ BỊ KÉO ĐI). Tiệm Thuyền giày và Bữa trưa Của Bailley, hai gian hàng đứng cạnh nhau, cũng không còn nữa. Chúng đã bị thay thế bởi chi nhánh Ngân hàng Quốc gia phía Bắc. Một bảng số điện tử thò ra ở mặt tiền tòa nhà xây bằng gạch tẻ nhạt, hiển thị thời gian và nhiệt độ – bằng cả độ F và độ C. Nhà thuốc đường Trung Tâm, hang ổ của ông Keene, nơi Bill đến mua thuốc suyễn cho Eddie vào ngày hôm ấy, cũng đã biến mất. Ngõ nhà Richard cũng biến thành một cửa hàng râu ông nọ cắm cằm bà kia với cái tên “Trung tâm mua sắm mini”. Tranh thủ nhìn vào trong lúc tắc-xi dừng đèn đỏ, Bill có thể trông thấy một cửa hàng băng đĩa, một cửa hàng bán thực phẩm thiên nhiên, một cửa hàng bán đồ chơi đang chạy chương trình khuyến mãi thanh lý SẢN PHẨM TRÒ CHƠI RỒNG VÀ NGỤC TỐI.

Chiếc tắc-xi chạy giật tới trước. “Chắc mất thời gian đây,” bác tài lên tiếng. “Phải chi mấy ngân hàng chết dịch này phân chia nhau nghỉ trưa thì tốt biết mấy. Tôi nói hơi bỗ bã, nếu anh là dân mộ đạo thì mong anh thông cảm.”

“Không hề gì” Bill nói. Bên ngoài, trời sầm sì mây đen, và giờ thì mưa đã rơi lâm thâm lên kính chắn gió của xe tắc-xi. Ra-đi-ô líu ríu báo tin một bệnh nhân tâm thần trốn viện có vẻ nguy hiểm, và lát sao lại líu ríu thông tin về đội Red Sox vô hại. Cơn mưa thoáng qua, rồi tạnh dần. Khi Barry Manilow bắt đầu cất tiếng ca về Mandy, cô gái một lòng cho đi mà chẳng mong nhận lại, người tài xế tắt đài. Bill hỏi, “Chúng mọc lên từ khi nào thế?”

“Cái gì kia? Ý anh là ngân hàng?”

“Vâng.”

“Ồ, cuối thập niên 60, đầu thập niên 70, đa số là thế,” bác tài đáp. Tướng người ông to lớn với cái cổ bè. Ông khoác chiếc áo ca rô đen đỏ. Trên đầu ông đội chiếc mũ lưỡi trai màu cam dạ quang dây một chút dầu nhớt. “Họ có một khoản ngân sách cải tạo đô thị tên là Phân phối Thu nhập. Họ phân phối bằng cách dỡ bỏ mọi thứ, sau đó ngân hàng nhảy vào. Tôi đoán chỉ ngân hàng mới có đủ nguồn vốn để làm điều đó. Bất ngờ phải không, anh bạn? Họ bảo đấy là cải tạo đô thị. Tôi bảo đấy là chặn miếng cơm manh áo. Xin lỗi anh nếu tôi nói chuyện bỗ bã quá. Thời điểm ấy, họ tranh cãi về phương án vực dậy khu trung tâm thị trấn nhiều lắm. Ừ đấy, họ vực dậy nó tài tình quá mà. Dỡ bỏ gần hết những cửa hàng cũ rồi xây dựng cả dãy ngân hàng và bãi đậu xe. Đấy, làm cho lắm mà người dân cũng chẳng tìm nổi một chỗ đậu xe chết tiệt nào cho mình. Hội đồng thị trấn đáng bị cột dái hết cả lũ. Trừ cái bà gốc Ba Lan ở trong Ủy ban ấy ra, phải cột hai quả mướp của bà ta lên. Nhưng nói đi cũng phải nói lại, bà ta làm gì có mướp mà cột. Trước sau như một ấy. Nếu anh là dân mộ đạo thì thứ lỗi cho tôi nếu tôi bỗ bã quá.”

“Vâng, tôi đúng dân mộ đạo đây,” Bill nói và mỉm cười.

“Thế thì mời anh xuống xe phắn đến nhà thờ ngay và luôn,” bác tài nói rồi cả hai cùng phá lên cười nắc nẻ.

“Anh sống ở đây lâu chưa?” Bill hỏi.

“Tôi chôn rau cắt rốn ở đây. Sinh ra tại Bệnh viện Derry, và họ cũng sẽ chôn tôi ở nghĩa trang Mount Hope.”

“Hay đấy,” Bill nhận xét.

“Ừ, phải,” tài xế đáp. Anh khạc trong cổ họng hạ kính xe xuống rồi nhổ một bãi đờm xanh vàng to tướng vào bầu không khí ướt mưa. Thái độ của anh ta dù mâu thuẫn nhưng vẫn có điểm gì đó rất thu hút – thậm chí rất duyên là đằng khác - cho thấy anh độc mồm độc miệng song vui tính. “Ai dính đống đấy thì chẳng cần mua kẹo cao su trong suốt cả tuần ấy chứ. Thứ lỗi cho tôi nếu tôi bỗ bã quá.”

“Mọi thứ chưa thay đổi hoàn toàn,” Bill nhận xét. Khung cảnh ngân hàng và bãi đậu xe rồng rắn nối đuôi nhau chán ngán dần trôi ra sau khi họ chạy lên đường Trung Tâm. Đi hết ngọn đồi, băng qua ngân hàng First National, chiếc tắc-xi dần tăng tốc. “Rạp Aladdin vẫn còn đây.”

“Đúng vậy,” bác tài công nhận. “Nhưng được ngày nào hay ngày đó thôi. Đám chết toi kia đang tìm cách dỡ bỏ nó.”

“Để xây ngân hàng tiếp à?” Bill hỏi, một phần trong anh ngạc nhiên khi thấy một phần khác trong mình bàng hoàng trước ý tưởng ấy. Anh không tài nào tưởng nổi kẻ nào đầu óc bình thường lại muốn dỡ bỏ tòa nhà mái vòm nguy nga với dàn đèn chùm bằng thủy tinh lấp lánh ấy, với cầu thang uốn lượn hai bên trái phải, chạy theo đường xoắn ốc lên tới ban công, cùng bức màn hết sức hoành tráng, khi buổi diễn bắt đầu, rèm không kéo sang một bên mà nâng lên theo những nếp gấp duyên dáng, sau đó xô vào nhau, kéo lại, mờ mờ ảo ảo dưới những ánh đèn tuyệt vời màu đỏ, xanh dương, vàng, xanh lá trong lúc các máy kéo đằng sau sân khấu lóc cóc xoay chuyển. Ngay cả rạp Aladdin mà không tha sao, phần bị chấn động trong anh thét gào. Sao họ có thể nghĩ đến chuyện phá bỏ rạp Aladdin để xây một NGÂN HÀNG kia chứ?

“Ờ, phải, ngân hàng” bác tài nói. “Tiên sư chứ, thứ lỗi cho tôi nói chuyện bỗ bã. Chính ngân hàng First Merchants hạt Penobscot để mắt đến rạp Aladdin chứ ai. Chúng muốn dỡ bỏ rạp để xây một công trình mà chúng hô hào là ‘trung tâm ngân hàng toàn diện’. Bọn chúng xin giấy tờ từ Hội đồng thị trấn rồi, thế là rạp Aladdin bị tuyên bố quá xuống cấp. Sau đó, một nhóm cư dân lập ra ủy ban - những người dân sống lâu năm ở đây - và họ làm đơn kiến nghị, tổ chức diễu hành, la ó, trời không phụ lòng người, Hội đồng thị trấn đồng ý công khai tổ chức một buổi họp về vấn đề này, và Hanlon đã hất cẳng cái lũ chết dịch ấy.” Người tài xế thỏa mãn ra mặt.

“Hanlon?” Bill giật mình hỏi. “Ý anh là Mike Hanlon?”

“Chính xác,” bác tài gật gù. Anh ta thoáng quay lại để nhìn Bill, để lộ khuôn mặt tròn nứt nẻ, đeo gặp kính gọng sừng với những chấm sơn trắng đã cũ trên gọng. “Anh thủ thư da đen đấy. Anh biết anh ta à?”

“Phải,” Bill trả lời, nhớ lại cơ duyên đưa đẩy mình quen Mike vào tháng Bảy năm 1958. Tất nhiên, ngoài bè lũ bọn Bowers, Huggins và Criss thì còn ai trồng khoai đất này… Bowers, Huggins và Criss

(ôi trời)

hết lần này đến lần khác chỉ giỏi đè đầu cưỡi cổ kẻ khác, nhưng vô hình trung lại là những gọng kìm đưa bảy người họ lại gần nhau hơn – thật chặt, kề vai sát cánh, không thể tách rời. “Thuở bé chúng tôi có chơi với nhau. Trước khi tôi chuyển đi nơi khác.”

“Chậc, thế đấy anh ạ,” bác tài nói. “Trái Đất này tròn vãi, thứ lỗi cho…”

”… tôi nếu tôi bỗ bã quá,” Bill thay anh tài xế nói nốt.

“Thế đấy anh ạ,” bác tài thư thái lặp lại, và chiếc xe bon bon chạy trong im lặng được một lúc thì tiếp tục lên tiếng. “Derry đã thay đổi chóng mặt, nhưng ừ, rất nhiều thứ vẫn còn vẹn nguyên. Ví dụ như Tòa nhà thị trấn, nơi tôi đón anh. Standpipe trong công viên Tưởng niệm. Anh còn nhớ nơi ấy không? Ngày chúng tôi còn bé, bọn tôi từng nghĩ nơi đó bị ma ám.”

“Tôi nhớ chứ,” Bill trả lời.

“Anh xem, bệnh viện kìa. Anh có nhận ra nó không?”

Lúc ấy, họ đang chạy ngang qua Bệnh viện Derry Home phía bên tay phải. Đằng sau, con sông Penobscot róc rách chảy về nơi giao với sông Kenduskeag. Dưới bầu trời mưa xuân, dòng sông mang một màu xám xịt. Bệnh viện vẫn giống như trong ký ức của Bill – một tòa nhà khung gỗ màu trắng, có hai cánh, cao ba tầng - nhưng giờ nó được bao quanh, hay nói đúng hơn là lọt thỏm, giữa một khu phức hợp có khi phải đến chục tòa nhà khác nhau. Anh có thể thấy bãi đậu xe phía bên trái, áng chừng có đến hơn 500 chiếc đậu ở đó.

“Chúa ơi, thế này mà là bệnh viện gì, là cả một trường đại học chết tiệt thì có!” Bill không khỏi ngạc nhiên.

Người tài xế khúc khích cười. “Người gì chẳng ngoan đạo, tôi sẽ thứ lỗi cho anh. Anh nói phải, nó tám lạng nửa cân so với bệnh viện Maine miền Đông trên Bangor rồi đấy. Họ có cả phòng xạ trị, trung tâm trị liệu, 600 phòng bệnh, khu giặt giũ riêng và có Chúa mới biết ngoài ra còn có gì. Bệnh viện cũ vẫn ở đó, nhưng giờ chỉ dành cho công việc hành chính thôi.”

Bill cảm thấy đầu óc mình nhập nhằng đến lạ, giống cảm giác mà anh có được vào lần đầu tiên xem phim 3D. Ta phải cố đưa hai hình ảnh không đồng nhất khớp vào nhau. Anh nhớ ta có thể phỉnh phờ mắt và não của mình làm điều đó, nhưng thể nào đầu ta cũng nhức ong lên… và anh có thể cảm nhận mình sắp sửa đau đầu đến nơi. Derry mới, cũng được thôi. Nhưng Derry cũ vẫn ở đó, như tòa nhà Bệnh viện Derry bằng gỗ kia. Derry cũ hầu như đã bị chôn vùi dưới bao công trình mới… nhưng bất chấp điều đó, mắt ta vẫn sẽ bị lôi kéo để nhìn bóng hình cũ… để tìm kiếm nó.

“Sân ga chắc không còn nữa nhỉ?” Bill hỏi.

Bác tài phá lên cười thích thú. “Với một người chuyển đi từ thuở bé thì anh có trí nhớ tốt đấy.” Bill thầm nghĩ trong đầu: Anh mà gặp tôi tuần trước thì anh sẽ thấy khác đấy, anh bạn bỗ bã của tôi ơi. “Nó vẫn còn đó, nhưng chẳng còn gì ngoài một đống đổ nát và đường ray gỉ sét. Thậm chí các toa tàu chở hàng chẳng buồn dừng lại nữa rồi. Có một ông muốn mua lại miếng đất để xây dựng trung tâm giải trí hoành tráng ven đường - mấy trò như pitch ‘n putt, sân đập bóng, các đường chạy xe, sân gôn mini, đua xe, trò chơi điện tử, vân vân và mây mây - nhưng người ta tranh cãi nảy lửa về chủ sở hữu đất. Tôi đoán đằng nào ông ấy cũng giành được miếng đất ấy thôi – ông ấy nổi tiếng bền chí mà – nhưng giờ vẫn còn trên tòa.”

“Còn Kênh Đào,” Bill thì thầm khi họ rẽ khỏi đường Ngoại Vi Trung Tâm vào đường Pasture – đúng như Mike nói, có một tấm biển màu xanh đề ĐƯỜNG TRUNG TÂM THƯƠNG MẠI. “Kênh Đào vẫn còn đó.”

“Chuẩn rồi,” bác tài đồng tình. “Tôi nghĩ chắc nó sẽ luôn còn đó.”

Và rồi trung tâm thương mại Derry hiện lên phía bên tay trái của Bill, trong lúc họ chạy ngang qua, anh lại cảm thấy đầu mình nhập nhằng. Ngày họ còn bé, nơi đây chỉ là một cánh đồng mênh mông, um tùm cỏ dại cùng những hàng hướng dương khổng lồ gật gù trong gió, đánh dấu rìa phía đông bắc của Vùng Đất Cằn. Đằng sau, về phía tây, là khu nhà dành cho người thu nhập thấp mang tên Mũi Đất Cũ. Anh còn nhớ năm xưa, họ từng thám hiểm cánh đồng này, cẩn thận để không rơi vào miệng hầm toang hoác của Xưởng đúc Kitchener bị nổ vào Chủ nhật lễ Tạ ơn năm 1906. Cánh đồng đầy những mảnh đổ nát, và bọn họ đã khai quật chúng với lòng đam mê không thua kém gì các nhà sử học thám hiểm tàn tích Ai Cập: nào gạch, nào muôi, nào những mảnh sắt gắn bu-lông gỉ sét, khung kính, chai lọ đựng đầy chất nhầy chẳng rõ nhãn mác, hôi thối không khác gì thứ thuốc độc ghê gớm nhất thế giới. Ở đây cũng từng xảy ra biến cố gì đó khủng khiếp, trong bãi đá dăm gần bãi rác, nhưng anh chưa thể nhớ ra ngay. Anh chỉ nhớ một cái tên, Patrick Humboldt, và nhớ nó có liên quan gì đó đến tủ lạnh. Và một con chim từng đánh đuổi Mike Hanlon. Gì cơ…?

Anh lắc đầu. Những mảnh vỡ. Những cọng rơm trong gió. Chỉ có thế mà thôi.

Khu đất cũng như tàn tích của Xưởng đúc nay đã không còn nữa. Bỗng dưng, hình ảnh của ống khói khổng lồ ở Xưởng đúc hiện về trong tâm trí Bill. Lợp bằng ngói, ba mét cuối cùng được nung đen với bồ hóng, ống khói yên vị giữa đám cỏ cao như một cái ống khổng lồ. Bọn họ đã loay hoay trèo lên và bước dọc theo ống, hai tay dang ngang như người đi trên dây, miệng cười nắc nẻ… Anh lắc đầu, như cố gạt đi ảo ảnh của trung tâm thương mại, một tổ hợp các tòa nhà xấu xí với những tấm biển đề SEARS, J.C. PENNEY, WOOLWORTH’s, CVS, NHÀ HÀNG BÍT TẾT YORK, WALDENBOOKS và chục gian hàng khác. Đường ngoằn ngoèo dẫn vào ra các bãi đậu xe. Nhưng hình ảnh trung tâm thương mại nhất quyết không biến đi, vì nó không phải ảo ảnh. Chỉ có Xưởng đúc Kitchener biến mất, cánh đồng um tùm cây cỏ mọc xung quanh đống đổ nát ấy cũng không còn. Trung tâm thương mại ấy là thật, chứ không phải ký ức.

Nhưng chẳng hiểu sao, anh không tài nào tin nổi.

“Ta đến nơi rồi đây,” bác tài nói. Anh ta chạy vào bãi đậu xe của tòa nhà trông như ngôi chùa khổng lồ bằng nhựa. “Hơi trễ một chút, nhưng trễ còn hơn không, anh nhỉ?”

“Quá chính xác,” Bill đáp. Anh đưa cho tài xế tờ năm đô. “Anh cứ giữ tiền thối.”

“Ngon ăn thế không biết!” Người tài xế cảm thán. “Nếu anh cần ai chở thì cứ gọi đến Big Yellow và bảo họ cử Dave nhé. Anh cứ gọi tôi bằng tên.”

“Tôi sẽ bảo họ cử một anh chàng mộ đạo,” Bill nói, nhe răng cười. “Cái anh chàng đã lựa sẵn huyệt cho mình ở Mount Hope.”

“Anh nhanh nhạy thật đấy,” Dave phá lên cười. “Chúc anh ngày mới tốt lành.”

“Anh cũng vậy nhé, Dave.”

Anh đứng dưới làn mưa lâm thâm một lúc, nhìn chiếc tắc-xi rời đi. Anh nhận ra anh định hỏi người tài xế thêm một câu nhưng quên bẵng mất – mà cũng có thể là anh cố tình quên.

Anh toan hỏi liệu Dave có thích sống ở Derry không.

Bất thình lình, Bill Denbrough quay lưng bước vào nhà hàng Jade Phương Đông. Mike Hanlon đang ở trong sảnh, yên vị trên một chiếc ghế mây với phần lưng ghế loe rộng. Anh đứng dậy, và một cảm giác phi thực tế đến cùng cực tràn lên trong anh - tràn qua cơ thể anh. Cảm giác nhập nhằng kia cũng trở lại, nhưng tệ hại, tệ hại hơn rất nhiều.

Trong đầu anh vẫn còn hình ảnh một cậu bé cao khoảng một mét sáu, gọn gàng và nhanh nhẹn. Trước mặt anh là một người đàn ông cao một mét bảy. Anh ốm nhom, bộ quần áo như treo trên người. Và những nếp nhăn trên mặt như ngầm bảo anh rằng anh ấy phải ở cuối tuổi tứ tuần thay vì ba mươi tám.

Xem chừng sự kinh ngạc đã lộ hết trên khuôn mặt Bill, bởi Mike đã khẽ khàng lên tiếng: “Tớ biết bề ngoài tớ trông thế nào.”

Ngượng ngùng, Bill khỏa lấp, “Không tệ đến thế đâu, Mike, đơn giản là do tớ chỉ nhớ hình ảnh cậu ngày bé. Thế thôi.”

“Vậy sao?”

“Nhìn cậu có vẻ mệt mỏi.”

“Thật sự thì tớ hơi mệt,” Mike nói, “nhưng tớ vẫn gắng gượng được. Chắc thế.” Đoạn anh nhoẻn cười, khiến cả khuôn mặt bừng sáng. Bill nhìn thấy cậu bé mà anh từng biết hai mươi bảy năm trước. Nếu tòa nhà bằng gỗ xưa cũ của Bệnh viện Derry Home bị choáng ngợp trước những tòa nhà xây bằng gạch không nung cùng kính hiện tại thì cậu bé ngày xưa Bill từng quen cũng dạn dày trước những phong ba bão táp không thể tránh khỏi của tuổi trưởng thành. Trên trán Mike đầy nếp nhăn, từ khóe miệng xuống cằm chi chít những đường hằn sâu và phần tóc phía trên tai đã ngả màu muối tiêu. Nhưng giống như bệnh viện cũ kỹ ấy, dù bị choáng ngợp vẫn đứng đó, vẫn hiện diện, thì cậu bé mà Bill từng biết cũng vậy.

Mike chia tay ra và nói, “Chào mừng cậu trở lại Derry, Bill To Bự.”

Bill mặc kệ bàn tay ấy mà ôm chầm lấy Mike. Mike cũng đáp lại bằng cái ôm thật chặt, Bill có thể cảm nhận mái tóc cứng thẳng đơ của bạn cọ vào vai và cổ mình.

“Nếu có gì không ổn thì bọn mình sẽ lo hết, Mike,” Bill lên tiếng. Anh nghe thấy họng mình nghẹn ngào nhưng anh chẳng quan tâm. “Chúng ta đã đánh bại nó một lần, và chúng ta đủ sức đ-đánh bại nó l-l-lần nữa.”

Mike buông tay ra, đứng cách anh một sải tay; và mặc dù khuôn miệng vẫn vương nụ cười, đôi mắt anh lấp lánh ánh lệ. Anh rút khăn mùi xoa ra lau. “Hẳn rồi, Bill nhỉ,” anh nói. “Chuẩn không cần chỉnh.”

“Quý khách có cần tôi đưa lên phòng không ạ?” cô phục vụ cất tiếng hỏi. Cô là một phụ nữ phương Đông với nụ cười ý nhị, mặc bộ kimono màu hồng tinh xảo có hình con rồng uốn lượn đuôi mạ vàng. Mái tóc đen của cô được búi cao sau đầu, kẹp lại bằng trâm cài bằng ngà voi.

“Tôi biết đường rồi, Rose,” Mike đáp.

“Tốt quá, thưa anh Hanlon.” cô mỉm cười với hai người bọn họ. “Tình bạn của các anh hẳn keo sơn gắn bó lắm.”

“Có lẽ là thế” Mike đáp. “Lối này, Bill.”

Mike dẫn anh đi dọc một hành lang mờ tối, băng qua phòng ăn chính đến một cánh cửa buông rèm hạt.

“Mọi người đến hết chưa?” Bill bắt chuyện.

“Họ đến hết rồi,” Mike trả lời. “Ai đến được đều có mặt cả rồi.”

Đứng ngoài cửa, Bill thoáng lưỡng lự, lòng váng vất sợ hãi. Thứ khiến anh sợ không phải là thực thể kỳ lạ, hay thế lực siêu nhiên; thứ khiến anh sợ là sự thật giản đơn rằng anh đã cao thêm gần bốn mươi phân so với bản thân mình vào năm 1958 và ít tóc hơn hẳn. Chợt anh thấy bứt rứt - gần như hoảng sợ – khi nghĩ đến chuyện gặp lại tất cả mọi người, chứng kiến những khuôn mặt trẻ thơ của họ phai mờ, khỏa lấp dưới bao đổi thay như bệnh viện cũ kia bị chôn vùi. Ngân hàng đã mọc lên trong đầu họ, nơi ngày trước vốn tọa lạc những rạp chiếu phim thần tiên.

Bọn mình lớn cả rồi, anh thầm nghĩ. Lúc xưa, chẳng ai nghĩ nó sẽ xảy ra với bọn mình. Thế mà nó vẫn xảy ra đấy thôi, và nếu mình bước vào trong, điều đó sẽ biến thành sự thật: rằng cả bọn đều đã trưởng thành cả rồi.

Anh nhìn Mike, bất giác bối rối và rụt rè. “Mọi người trông thế nào?” Anh nghe thấy giọng mình run run cất lên. “Mike… Mọi người trông thế nào?”

“Cậu vào trong rồi biết,” Mike hiền từ đáp rồi dẫn Bill vào một gian phòng riêng.

2

BILL DENBROUGH TẬN MỤC SỞ THỊ

Có lẽ chỉ là do căn phòng tranh tối tranh sáng gây ra ảo ảnh, dù chỉ kéo dài trong tích tắc, nhưng về sau, nó cũng khiến Bill tự hỏi liệu đó có phải thông điệp gửi gắm đến riêng anh: rằng vận mệnh vẫn có cái từ bi.

Trong khoảnh khắc thoáng qua ấy, anh có cảm tưởng không ai trong số họ đã lớn lên, rằng bằng cách nào đó, nhóm bạn của anh giống với Peter Pan, vẫn mãi là những đứa trẻ.

Richie Tozier đang nghiêng ghế ra sau, dựa lên tường, tán hươu tán vượn gì đó với Beverly Marsh, khiến cô đưa tay che miệng, khúc khích cười, Richie nhe răng cười rộng đến mang tai, một nụ cười sao thân thuộc đến thế. Còn phía bên trái Beverly là Eddie Kaspbrak, ngay trước mặt cậu, cạnh ly nước trên bàn là bình xịt bằng nhựa với tay nắm dạng cò súng cong cong từ chóp. Những phần râu ria nhìn có vẻ hiện đại hơn xưa, nhưng mục đích rõ ràng vẫn thế: nó là ống thở. Ngồi ở cuối bàn, quan sát ba người bạn của mình với nét mặt trộn lẫn giữa lo âu, thích thú và tập trung, là Ben Hanscom.

Bill chợt nhận ra trong vô giác, anh muốn đưa tay lên đầu, để rồi khoái chí, dù có phần ngậm ngùi trong giây phút suýt chút nữa anh đã xoa đầu để xem tóc anh có vi diệu mọc lại hay không - mái tóc màu hung xinh xắn mà anh cứ dần mất đi ngay từ lúc còn học năm hai đại học.

Hành động ấy chọt vỡ bong bóng. Thấy Richie không còn đeo kính, anh thầm nhủ: Chắc giờ cậu ấy đeo kính áp tròng rồi. Hẳn thế. Ngày xưa cậu ấy chúa ghét cặp kính của mình. Áo thun và quần nhung kẻ mà cậu hay mặc trước đây đã bị thay thế bằng bộ vest hẳn không phải hàng được treo trên mắc áo – Bill đoán trước mặt anh là một bộ vest được may đo vô cùng kỹ lưỡng trị giá khoảng chín trăm đô-la.

Beverly Marsh (nếu cô ấy vẫn còn mang họ Marsh) đã trở thành một phụ nữ đẹp nghiêng nước nghiêng thành. Thay vì đuôi ngựa bình thường năm xưa, mái tóc của cô - gần như y như màu tóc anh trước kia -buông dài xuống vai chiếc áo cánh trắng giản dị của hãng Ship ‘n Shore, mượt mà sắc tối. Dưới ngọn đèn mù mờ, mái tóc cô óng ánh như than hồng âm ỉ lửa cháy. Anh thấy mình tự nhủ cảm giác sẽ ra sao nếu luồn tay vào tóc cô. Câu chuyện xưa như Trái Đất, anh nghĩ đầy mỉa mai. Anh yêu vợ anh nhưng ôi, tình nhân ơi .

Bill đang nhắc tới bài hát I Love, I Love, I Love My Wife – But Oh! You Kid! viết vào năm 1909 với nội dung về ngoại tình.

Eddie trưởng thành mang nét hao hao tài tử Anthony Perkins, dù điều này có vẻ kỳ cục nhưng thật sự là thế. Gương mặt anh mang nhiều nếp nhăn hơn so với tuổi thật (dù cử chỉ của anh xem chừng nhanh nhẹn hơn Richie hay Ben), và lại càng đứng tuổi vì cặp kính không gọng anh đang đeo – kiểu kính ta có thể tưởng tượng một vị luật sư người Anh sẽ mang khi tiến đến băng ghế hoặc xem qua hồ sơ pháp lý. Tóc anh ngắn, cắt theo một kiểu khá lỗi mốt có tên là Ivy League, thịnh hành vào cuối những năm 50, đầu những năm 60. Anh mặc chiếc áo khoác ca rô lòe loẹt trông như vừa lôi xuống từ kệ Hàng thanh lý trong một cửa hàng quần áo nam sắp sửa dẹp tiệm đến nơi… nhưng đồng hồ đeo trên tay lại là của hãng Patek Philippe, và nhẫn đeo trên ngón út tay phải lại là nhẫn hồng ngọc. Viên ngọc to đến gớm guốc và phô trương đến độ chắc hẳn nó là đồ thật.

Ben là nhân vật thay đổi đến choáng váng, và khi nhìn cậu bạn lần nữa, Bill thấy cảm giác vô thực đang ồ ập đập vào mình. Khuôn mặt Ben vẫn thế, mái tóc anh, dù đã chớm bạc và dài hơn, vẫn được chải ngôi phải một cách kỳ cục. Nhưng người Ben ốm hẳn. Anh ngồi thoải mái trên ghế, áo khoác da giản dị, để lộ áo sơ-mi vải chambray màu xanh. Anh mặc quần jean Levi’s ống suông, mang bốt cao bồi, thắt lưng bản rộng với khóa dập bằng bạc. Bộ quần áo ôm dễ dàng tướng người gọn gàng và có eo. Một tay anh đeo vòng mắt xích nặng nề – không phải bằng vàng mà bằng đồng. Cậu ấy ốm đi nhiều quá, Bill thầm nghĩ. Cậu ấy chỉ còn là cái bóng của con người ngày xưa… Ben năm nào giờ đã thay da đổi thịt. Đời đúng là lắm chữ ngờ.

Có một khoảnh khắc im lặng khó tả giữa sáu người bọn họ. Ấy là một trong những phút giây lạ lùng nhất mà Bill Denbrough từng trải qua trong đời. Stan không có mặt, nhưng thành tố thứ bảy cũng đã tới đây. Trong gian phòng riêng ở nhà hàng này, Bill cảm nhận rõ mồn một sự hiện diện ấy đến mức nó gần như hiện thành hình người – nhưng không phải hình ảnh một ông già mặc chiếc áo choàng trắng, vác lưỡi hái trên vai. Nó là chấm trắng trên bản đồ trải dài từ năm 1958 đến năm 1985, một khu vực mà nhà thám hiểm có thể đặt tên Vùng đại Bí ẩn. Bill tự hỏi rốt cuộc ở nơi ấy có thứ gì. Liệu có cô Beverly Marsh nào mặc váy ngắn cũn cỡn khoe gần hết đôi chân dài, ngượng nghịu của mình, có cô Beverly Marsh mang bất trắng, mái tóc rẽ ngôi ngay giữa và duỗi thẳng? Liệu có cậu Richie Tozier giơ tấm bảng một mặt đề DỪNG CUỘC CHIẾN, còn mặt sau đề ĐƯA ROTC RA KHỎI TRƯỜNG hay không? Liệu có cậu Ben Hanscom đội chiếc mũ bảo hộ lao động màu vàng dán hình quốc kỳ phía trước, lái chiếc xe ủi với tấm bạt căng trên đầu, cởi trần, để lộ cái bụng càng lúc càng ít thò ra ngoài cạp quần hay không? Sinh vật thứ bảy kia có phải là một người da đen không? Người đàn ông này không can hệ gì đến H. Rap Brown hay Grandmaster Flash, anh ta mặc áo trắng trơn, mang quần J. C. Penney nhạt nhòa, anh ngồi một góc thư viện ở Đại học Maine, viết luận về nguồn gốc chú thích và tác dụng khả dĩ của số ISBN trong việc phân loại sách trong lúc đoàn người biểu tình ngoài kia, trong lúc Phil Ochs ca vang “Richard Nixon, hãy tìm một đất nước khác mà dung thân”, trong lúc bao người ngã xuống, ngũ tạng nát bấy vì những ngôi làng họ còn chẳng biết đọc tên, anh ta ngồi đó, cắm cúi vào đống sách vở (Bill trông thấy anh ta) xeo xéo dưới ánh trời mùa đông trắng xóa, khuôn mặt chăm chú, đăm chiêu, biết rõ để trở thành thủ thư chẳng khác nào việc con người tiến gần nhất có thể để ngự trị trên chiếc ghế cao nhất của động cơ vĩnh hằng. Liệu anh ta có phải người thứ bảy? Hay đó chính là chàng thanh niên trẻ đứng trước gương, nhìn cái trán ngày càng cao của mình, nhìn mới tóc đỏ bị rụng khi chải, nhìn hình ảnh phản chiếu trong gương của chồng vở trên trường đại học để trên bàn, những cuốn vở chứa bản thảo đầu tiên đầy đủ, còn rối rắm của cuốn tiểu thuyết tên Joanna sắp sửa được xuất bản trong năm tới?

ROTC là viết tắt của Reserve Officers’ Training Corps, là các chương trình đào tạo sĩ quan cấp cao đẳng và đại học để đào tạo sĩ quan cho lực lượng vũ trang Mỹ.

Mã số hiệu chuẩn quốc tế có tính chất thương mại duy nhất để xác định một cuốn sách.

Vài điều trong số đó, tất cả trong số đó, hoặc chẳng có gì trong số đó.

Mà thật ra nó cũng chẳng quan trọng. Người thứ bảy hiện diện đây, trong khoảnh khắc ấy, tất cả bọn họ đều cảm nhận được nó… và có lẽ họ thấm thía sức mạnh ghê gớm của thứ kéo họ lại với nhau. Nó còn sống, Bill nghĩ, lạnh người dưới lần áo. Mắt sa giông, đuôi rồng, Bàn tay xác ướp… bất kể Nó là gì, Nó đã xuất hiện trở lại, ở Derry này. Chính Nó.

Rồi anh chợt cảm thấy Nó chính là nhân vật thứ bảy; rằng Nó và thời gian là hai đại lượng có thể thay thế nhau, rằng Nó mang khuôn mặt của tất cả bọn họ cũng như của bao nạn nhân khác mà Nó đã đe dọa và giết hại… và chẳng hiểu sao, ý tưởng cho rằng Nó có thể là bọn họ lại là điều đáng kinh sợ nhất. Bao nhiêu phần trong chúng ta đã bị bỏ lại phía sau? Anh nghĩ, lòng chợt dâng sợ hãi. Bao nhiêu phần trong chúng ta vẫn mắc kẹt trong cống rãnh và cống thoát nước nơi Nó trú ngụ… nơi Nó ăn tươi nuốt sống? Liệu đó có phải lý do chúng ta đã quên? Vì một phần trong mỗi chúng ta chẳng có tương lai, chẳng lớn lên, cũng chẳng rời khỏi Derry này? Lẽ nào là thế?

Anh không thấy câu trả lời trên khuôn mặt họ… chỉ có câu hỏi anh đặt ra phản chiếu lại nơi anh.

Ý nghĩ đến và đi trong vỏn vẹn vài giây, hoặc mi-li-giây, tự tạo khung thời gian của riêng mình, và tất cả những suy tưởng trên vụt qua đầu Bill Denbrough trong chưa tới năm giây.

Đoạn Richie Tozier, lúc ấy đang tựa vào tường, nhoẻn cười và nói: “Ôi trời, nhìn kìa – Bill Denbrough chuyển sang một đầu mái vòm kim loại. Cậu lấy sáp Turtle chà bóng quả đầu của mình đấy hả, Bill To Bự?”

Nghe đến đấy, chưa kịp định thần, Bill đã mở miệng và nghe bản thân mình thốt lên: “Tiên sư cái ngữ miệng ăn mắm ăn muối nhà cậu, Tía Lia.”

Trong một khắc, cả bọn đều im lặng - rồi căn phòng ầm ĩ tiếng cười giòn tan. Bill bước đến, bắt tay mọi người, và dù trong lòng vẫn nhen nhóm một cảm giác tệ hại, anh cũng cảm thấy mình được xoa dịu đôi phần: cảm giác rằng anh đã trở về nhà mãi mãi.

3

BEN HANSCOM ỐM ĐI

Mike Hanlon gọi đồ uống, và như để bù đắp cho khoảng im lặng trước đó, mọi người cùng rôm rả chuyện trò. Hóa ra Beverly Marsh giờ đã là Beverly Rogan. Cô kể đã kết hôn với một đấng phu quân tuyệt vời ở Chicago, nhờ anh mà cuộc đời cô một bước lên tiên, bằng phép thần thông quảng đại nào đó, anh đã biến tài khâu vá của vợ mình thành cơ ngơi kinh doanh váy áo phát đạt. Eddie Kaspbrak hiện sở hữu một công ty xe limousine ở New York. “Tớ đoán có khi vợ tớ đang mây mưa với Al Pacino lúc này ấy chứ,” anh nói, khẽ mỉm cười, và mọi người cười nắc nẻ.

Cả hội đều biết Bill và Ben công thành danh toại ra sao, nhưng Bill vẫn không tránh khỏi cảm thấy kỳ khôi khi phải đến gần đây, rất gần là đằng khác, mới phát sinh những mối liên hệ cá nhân giữa tên tuổi của họ - Ben là kiến trúc sư, anh là nhà văn - với những người mà họ đã biết từ thuở bé. Beverly mang theo cuốn Joanna và con nước đen trong túi xách, còn đề nghị anh ký tặng. Bill đồng ý, và trong lúc ký, anh để ý cả hai cuốn sách đều còn mới coóng - như thể cô vừa mua chúng trên kệ sách ở sân bay khi bước xuống máy bay vậy.

Bằng cung cách tương tự, Richie ca tụng với Ben rằng cậu ngưỡng mộ trung tâm truyền thông BBC ở London ra sao… nhưng trong mắt anh lấp lửng một đốm sáng đầy bối rối, như thể anh không tài nào liên kết được tòa nhà ấy với người đàn ông này… hoặc với cậu bé mập ú chân thành từng chỉ cho họ cách làm phân nửa Vùng Đất Cằn bị ngập bằng những tấm ván chôm chỉa và một cánh cửa gỉ sét.

Richie làm phát thanh viên ra-đi-ô ở California. Anh kể với nhóm bạn mình nổi danh là Người đàn ông Nghìn giọng, nghe thấy thế, Bill càm ràm, “Chúa ơi, Richie, Giọng nói của cậu nghe kinh chết đi được.”

“Thưa quý ông, nịnh bợ không được tích sự gì đâu.”

Khi Beverly hỏi có phải anh đã chuyển sang đeo kính áp tròng hay không, Richie trầm giọng thì thầm, “Xích lại gần đây, người yêu ơi. Nhìn vào mắt anh đi.” Beverly làm theo, rồi khe khẽ reo lên khi Richie nghiêng đầu để cô trông thấy rìa dưới kính áp tròng loại mềm của Hydromist mà anh đang đeo.

“Thư viện vẫn thế à?” Ben hỏi Mike Hanlon.

Mike lấy ví và rút ra từ đó một bức hình chụp thư viện từ trên xuống. Trông anh tự hào như một người bố đang khoe hình con của mình khi người ta hỏi thăm về gia đình. “Một cậu lái máy bay trọng lượng nhỏ đã chụp bức hình này,” anh giải thích trong lúc mọi người chuyền tay nhau. “Bấy lâu nay tớ đang tìm cách thuyết phục Hội đồng thị trấn hoặc mạnh thường quân nào đó tài trợ vốn để phóng to bức hình này thành một bức bích họa cho thư viện trẻ em nhưng vẫn xôi hỏng bỏng không. Nhìn nó đẹp đấy chứ?”

Mọi người đều gật gù đồng ý. Ben cầm lâu nhất, đăm chiêu ngắm nghía bức ảnh. Cuối cùng, anh gõ vào hành lang nối giữa hai tòa nhà. “Cậu có nhác thấy nó ở chỗ nào khác không, Mike?”

Mike mỉm cười. “Ở trung tâm truyền thông cậu thiết kế chứ đâu,” anh nói và cả bọn phá lên cười.

Đồ uống được đem ra. Họ ngồi vào bàn.

Sự im lặng bất ngờ, ngột ngạt và khó chịu một lần nữa bao trùm. Họ đưa mắt nhìn nhau.

“Sao nào?” Beverly cất giọng nói ngọt ngào, có phần khàn đục của cô. “Chúng mình nâng ly vì gì bây giờ?”

“Vì chúng ta,” Richie chợt lên tiếng. Khuôn mặt anh không nhoẻn nụ cười. Anh nhìn thẳng vào mắt Bill, và với một nguồn lực mãnh liệt đến khó cưỡng, Bill nhớ lại hình ảnh anh và Richie đứng giữa đường Neibolt, sau khi thứ sinh vật chẳng rõ là một gã hề hay một gã Người sói kia biến mất, ôm nhau thật chặt, nước mắt giàn giụa. Khi nhấc ly lên, tay anh run lẩy bẩy, khiến đồ uống vương vãi ra khăn trải bàn.

Richie chầm chậm đứng dậy, mọi người lần lượt làm theo: đầu tiện là Bill, sau đó là Ben và Eddie, Beverly rồi cuối cùng là Mike Hanlon. “Vì chúng ta,” Richie khai màn, và giống như tay Bill, giọng anh run run. “Nâng ly vì Hội Cùi Bắp năm 1958.”

“Vì Hội Cùi Bắp,” Beverly nói với vẻ thích thú.

“Vì Hội Cùi Bắp,” Eddie cất giọng. Mặt anh nhợt nhạt và già nua sau cặp kính không gọng.

“Vì Hội Cùi Bắp,” Ben đồng tình. Một nụ cười mỉm chi, đau xót thoáng qua trên khóe môi anh.

“Vì Hội Cùi Bắp,” Mike Hanlon khẽ nói.

“Vị Hội Cùi Bắp,” Bill kết thúc.

Tất cả cụng li với nhau rồi uống.

Im lặng lại choán lấy không gian, nhưng lần này, Richie không phá vỡ nó nữa. Lần này, sự im lặng là cần thiết.

Cả bọn ngồi xuống, Bill lên tiếng, “Nào, bật mí đi, Mike. Nói cho bọn tớ biết dạo này có chuyện gì xảy ra và chúng ta có thể làm gì.”

“Ăn đã,” Mike nói. “Rồi bọn mình bàn chuyện.”

Đoạn họ dùng bữa… họ ăn thoải mái và thật lâu. Bill nghĩ đến câu chuyện cười ngày xưa về người tù bị kết án, nhưng đã lâu lắm rồi, anh mới cảm thấy ngon miệng thế này… từ lúc anh còn bé đến giờ, anh chợt nghĩ. Món ăn không quá xuất sắc nhưng cũng không tệ, phần ăn lại rất nhiều. Sáu người bọn họ bắt đầu san sẻ cho nhau - sườn heo, gà nấm xốt dầu hào, cánh gà om kỹ, trứng cuộn, củ năng bọc thịt heo hun khói, xiên thịt bò.

Họ khởi đầu bằng khay các món khai vị pu-pu , gồm nhiều loại thịt nhỏ và hải sản. Richie nghịch ngợm làm trò trẻ con khi lấy mỗi thứ một ít, nướng trên ngọn lửa ở giữa khay mà anh và Beverly dùng chung - trong đó có nửa miếng trứng cuộn và vài hạt đậu đỏ. “ Flambé ngay tại bàn, quá xá ngầu,” anh nói với Ben. “Tớ sẵn sàng ăn cứt trên ván nếu được flambé ngay tại bàn cho tớ.”

Flambé là kỹ thuật đốt rượu trong nấu ăn chuyên nghiệp, thường áp dụng trong chế biến các món Âu.

[^anc] Shit on the Shingle, đây là tiếng lóng của quân đội Hoa Kỳ chỉ món thịt bò băm xốt kem phết trên bánh mì nướng.

“Chắc cậu từng ăn rồi chứ gì,” Bill chọc. Beverly cười lăn cười bò, đến độ suýt chút nữa thì phun hết đồ ăn trong miệng lên khăn ăn.

“Ôi Chúa ơi, tớ sắp ói mất thôi,” Richie bắt chước giống y giọng của Don Pardo, Beverly được thể lại càng cười nắc nẻ, đỏ mặt tía tai.

“Thôi đi, Richie,” cô nói. “Tớ cảnh cáo cậu đấy.”

“Lời cảnh cáo được chấp nhận,” Richie đáp. “Ăn mạnh vào, bạn hiền.”

Đích thân Rose mang tráng miệng đến cho bọn họ - một chiếc bánh kem lạnh nướng Alasaka, đoạn cô đứng ở đầu bàn, chỗ Mike ngồi, sau đó châm lửa.

“Lại có thêm flambé ở bàn tớ kìa,” Richie mãn nguyện nói bằng giọng của một người đã chết và thăng lên thiên đường. “Chắc đây là bữa ăn tuyệt nhất mà tớ được thưởng thức trong đời.”

“Anh cứ nói quá,” Rose ngượng ngùng nói.

“Nếu tôi thổi tắt lửa thì điều tôi ước có trở thành sự thật không?” Richie hỏi.

“Ở Jade Phương Đông, mọi điều ước đều biến thành hiện thực.”

Nụ cười của Richie chợt tắt. “Tôi quý tấm thịnh tình của cô nhưng thú thực, tôi có phần e ngại độ xác đáng.”

Họ đánh chén rất nhiệt tình món bánh tráng miệng. Khi ngả ra sau ghế, với cái bụng ních vào cạp quần, Bill vô tình để ý đến chiếc ly bày trên bàn. Chẳng hiểu sao anh trông thấy cả trăm cái ly một bữa ăn và có Chúa mới biết anh đã uống bao nhiêu chai bia Kirin. Mọi người cũng đã ngà ngà say. Trong tình trạng này, có cho họ ăn con ki bowling chiên lên thì khéo có khi họ cũng khen ngon. Vậy mà anh chẳng cảm thấy say chút nào.

“Từ lúc còn bé tới giờ, tớ mới ăn nhiều như vậy đấy,” Ben thốt lên. Mọi người quay sang nhìn anh, khiến đôi má anh ửng đỏ. “Tớ nói thật. Đây có lẽ là bữa ăn hoành tráng nhất tớ từng ăn từ lúc lên lớp Mười.”

“Cậu ăn kiêng à?” Eddie hỏi.

“Ừ” Ben trả lời. “Tớ theo chế độ ăn kiêng Tự do Ben Hanscom.”

“Sao cậu lại ăn kiêng thế?” Richie tò mò.

“Cậu không muốn nghe câu chuyện xưa như diễm ấy đâu…” Ben cựa người bối rối.

“Tớ không biết các cậu ấy nghĩ thế nào,” Bill lên tiếng, “nhưng tớ thì muốn đấy. Kể đi, Ben. Cơ duyên nào đã khiến Haystack Calhoun thành người mẫu tạp chí trước mắt chúng ta thế này?”

Richie phì cười. “Haystack, đúng thật. Tí nữa thì tớ quên cái tên này.”

“Cũng không có gì nhiều nhặn,” Ben nói. “Đúng hơn là chẳng có chuyện gì là đằng khác. Sau mùa hè năm ấy – sau năm 1958 – nhà tớ ở Derry thêm hai năm. Sau đó mẹ tớ mất việc, nên mẹ con tớ phải chuyển đến Nebraska, vì mẹ tớ có một người em gái ở đó đồng ý cưu mang hai mẹ con cho đến khi mẹ tớ lo được công ăn việc làm. Chẳng tuyệt vời gì đâu. Em gái của mẹ tớ, dì Jean, là một người ki bo bủn xỉn, suốt ngày rao giảng về vị trí của mỗi người chúng ta trong nhân gian, rằng mẹ con tớ may mắn ra sao khi mẹ tớ có một người em sẵn sàng giang tay cứu giúp, mẹ con tớ hạnh phúc ra sao khi không phải sống nhờ trợ cấp, vân vân và mây mây. Tớ béo ú khiến dì khó chịu ra mặt. Dì ấy nhất quyết không nhắm mắt làm ngơ. ‘Ben, cháu lo tập thể dục nhiều hơn đi. Ben, cháu sẽ bị đau tim trước tuổi bốn mươi nếu cháu không giảm cân. Ben, trên thế giới có bao trẻ em đang chết đói, cháu phải biết xấu hổ vì bản thân chứ.’” Anh thoáng dừng lại, uống ngụm nước.

“Vấn đề là dì cũng lôi chuyện trẻ em chết đói ra ca thán nếu tớ không rửa chén.”

Richie gật gù và phá lên cười.

“Tóm lại, đất nước mới vừa thoát khỏi suy thoái, mẹ tớ mất gần cả năm ròng mới tìm được công việc ổn định. Đến lúc hai mẹ con tớ chuyển khỏi nhà dì Jean ở La Vista và đến sống ở Omaha, tớ nặng thêm bốn mươi kí lô so với lúc các cậu biết tớ. Tớ đoán tớ lên cân như vậy chỉ để chọc giận bà dì.”

Eddie huýt sáo. “Thế tức là cậu tầm…”

“Tầm chín lăm kí lô,” Ben sa sầm nói. “Tớ học trường Trung học Miền Đông ở Omaha, và tiết thể dục thì… chậc, tệ hại lắm. Đám bạn trên lớp gọi tớ là Vếu. Đủ để các cậu hình dung rồi đấy.

“Cái trò trêu chọc ấy kéo dài suốt bảy tháng trời, rồi một ngày, lúc thay đồ trong phòng sau khi tiết học kết thúc, hai ba đứa bạn cùng lớp giở trò… vỗ bụng tớ. Bọn chúng gọi việc đó là ‘đập mỡ’. Hai ba đứa khác bèn hùa theo. Rồi lại thêm bốn, năm đứa. Chốc sau, cả bọn xúm xít đuổi tớ khắp phòng, lên sảnh, hết vỗ bụng lại vỗ mông, lưng và chân tớ. Sợ quá, tớ bắt đầu la hét thì bọn chúng cười như điên như dại.

“Các cậu biết không,” Ben tiếp tục, mắt nhìn xuống, tay cẩn trọng sắp xếp lại dao nĩa, “đó là lần cuối cùng tớ nghĩ đến Henry Bowers, cho đến lúc Mike gọi cho tớ hai hôm trước. Đứa đầu têu là một cậu con nhà nông với bàn tay xù xì to bè, và khi chúng đuổi theo, tớ nhớ tớ đã tự nhủ trong đầu Henry đã trở lại. Tớ nghĩ – à không, chính xác hơn là tớ biết – đó là lúc tớ phát hoảng.

Bọn chúng rượt đuổi tớ lên hành lang, ngang qua ngăn tủ nơi những thành viên chơi thể thao cất đồ. Tớ không mảnh vải che thân và người đỏ như con tôm hùm. Tớ đoán có thể nói tớ đã đánh mất tự tôn và đánh mất chính mình. Không ý thức được mình đang ở đâu, tớ cứ thế hét lên cầu cứu. Rồi bọn chúng rượt tới phía sau, hét lên ‘Đập mỡ! Đập mỡ! Đập mỡ!’ Có một băng ghế…”

“Ben ơi, cậu không cần gắng gượng kể như vậy đâu,” Beverly chợt lên tiếng. Mặt cô trắng bệch. Cô nghịch ly nước của mình, suýt chút nữa đánh đổ ra ngoài.

“Cứ để cậu ấy nói nốt,” Bill ôn tồn.

Ben đưa mắt nhìn anh một chốc rồi gật đầu. “Có một băng ghế cuối hành lang. Tớ vấp phải nó và đập đầu. Bọn chúng bao vây tớ khoảng một hai phút gì đó thì một giọng nói cất lên, ‘Thôi. Đủ rồi đấy. Các trò đi thay đồ mau.’

Hóa ra huấn luyện viên đang đứng ngay hành lang, thầy mặc quần thể thao màu xanh có sọc trắng dọc hai bên và áo thun trắng. Chẳng rõ thầy đứng đó tự lúc nào. Cả bọn nhìn thấy, đứa thì cười, đứa thì hối lỗi, đứa thì cứ nghệt mặt ra. Bọn chúng tản đi. Còn tớ òa lên khóc.

Huấn luyện viên cứ đứng ở hành lang dẫn đến phòng tập, nhìn tớ, nhìn thằng bé béo ú không mảnh vải trên người, da đỏ tấy vì bị vỗ mạnh, nhìn thằng bé béo ú ấy bù lu bù loa trên sàn.

Cuối cùng, thầy ấy lên tiếng, ‘Benny, tiên sư nhà em, em thôi đi được chưa?’

Tớ vô cùng kinh ngạc khi nghe thấy nói như thế. Tớ bèn ngước nhìn thầy, thầy tiến tới, ngồi lên băng ghế tớ bị vấp ban nãy. Thầy chúi người về phía tớ, cái còi trên cổ thầy đung đưa đập vào trán tớ. Trong một khắc, tớ cứ tưởng thầy định hôn tớ hay làm gì đó nên tớ rụt người lại, nhưng hóa ra điều thầy làm là chộp lấy ngực tớ và bóp chặt. Đoạn thầy ấy bỏ ra, chùi lên quần như thể vừa chạm vào thứ gì đó dơ bẩn lắm.

‘Em nghĩ là tôi sẽ an ủi em à?’ Thầy hỏi. ‘Đừng có mà mơ. Em như cái gai trong mắt chúng nó và cả trong mắt tôi nữa. Bọn tôi có lý do khác nhau, nhưng đó là vì chúng là trẻ con, còn tôi là người lớn. Chúng nó không biết tại sao em khiến chúng nó gai mắt, còn tôi thì biết. Là vì tôi thấy em chôn vùi thân thể đẹp đẽ mà Chúa ban tặng trong đống mỡ gớm ghiếc ấy. Em chỉ biết ăn thùng uống vại cho sướng mồm, điều đó làm tôi muốn mửa. Giờ thì nghe tôi đây, Benny, vì đây là lần duy nhất tôi nói thẳng với em. Tôi làm huấn luyện viên cho đội bóng đá, bóng rổ và điền kinh, thỉnh thoảng tôi còn phải lo cho đội bơi. Nên tôi chỉ nói một lần thôi. Em béo ở đây này.’ Đoạn thầy ấy gõ vào trán tớ, ngay chỗ còi đập vào ban nãy. ‘Em hãy bắt cái đầu của mình ăn kiêng đi, rồi em sẽ giảm được cân. Nhưng những đứa như em còn lâu mới làm được điều đó.’“

“Lão khốn này!” Beverly căm phẫn nói.

“Ừ.” Ben nói, miệng nhoẻn cười. “Song thầy ấy không nghĩ mình là một gã tồi, thầy ấy ngu ngốc đến thế kia mà. Có lẽ thầy ấy xem Jack Webb trong phim D.I. cả sáu chục lần rồi, nên thầy ấy cứ tưởng thầy ấy đang cứu giúp tớ. Hóa ra đúng là thế thật. Vì lúc ấy, tớ chợt nghĩ đến một điều. Tớ nghĩ…”

Anh quay đi, mày chau lại-và Bill cảm nhận được một cảm giác lạ lùng rằng anh biết Ben sắp sửa nói gì.

“Tớ vừa nói lần cuối cùng tớ nghĩ đến Henry Bowers là lúc đám bạn rượt theo, vỗ vào người tớ phải không. Chậc, khoảnh khắc huấn luyện viên đứng dậy bỏ đi là lần cuối cùng tớ thực sự nghĩ về những gì chúng ta đã làm vào mùa hè năm 58. Tớ đã nghĩ…”

Anh lừng khừng, đưa mắt nhìn từng người bạn, tựa hồ thăm dò nét mặt của họ. Đoạn anh cẩn thận lựa chọn câu chữ.

“Tớ nghĩ việc chúng ta đã đồng hành bên nhau tuyệt vời biết mấy. Tớ n