Chương 11 ĐI ĐÂY ĐI ĐÓ
1
BEN HANSCOM MƯỢN SÁCH
Richie Tozier bước ra khỏi tắc-xi ở ngã giao giữa ba con đường: đường Kansas, đường Trung Tâm và đường Chính; còn Ben xuống xe ở đỉnh đồi Dặm Trên. Tài xế chính là “anh bạn mộ đạo” của Bill, nhưng cả Richie và Ben đều không biết lần này, Dave trầm tư trong sự im lặng ngột ngạt. Ben thầm nghĩ mình có thể xuống chung với Richie, nhưng chẳng hiểu sao anh lại cảm thấy họ tự đi riêng một mình là hay nhất.
Anh đứng ở góc đường Kansas và Daltrey Close, nhìn chiếc tắc-xi hòa mình vào dòng xe cộ tấp nập, hai tay đút sâu vào túi quần, cố xua đi cái kết hãi hùng của bữa trưa ra khỏi đầu. Song anh bất lực, hình ảnh con ruồi xám đen bò ra từ chiếc bánh quy may mắn trên đĩa của Bill, cặp cánh với đường vân quập ra sau cứ trở đi trở lại trong suy nghĩ của anh. Anh cố sức đánh lạc hướng tâm trí mình khỏi hình ảnh gớm ghiếc ấy, nhưng anh cứ tưởng mình đã thành công thì năm phút sau lại phát hiện ra tâm trí anh vẫn nghĩ về nó.
Dường như mình đang cố chứng minh nó, anh thầm nhủ, nhưng không phải chứng minh theo góc nhìn đúng sai mà là chứng minh theo toán học. Nhà cửa được xây dựng bằng cách tuân theo một số quy luật tự nhiên; quy luật tự nhiên có thể được trình bày bằng phương trình; mà phương trình thì phải được chứng minh. Vậy biết chứng minh thế nào những điều vừa mới xảy ra chưa đầy ba mươi phút trước đây?
Mặc kệ nó đi, anh tự nhủ, chẳng biết anh đã nhắc nhở bản thân mặc kệ nó lần thứ bao nhiêu nữa. Mày không chứng minh được đâu, nên kệ nó đi.
Lời khuyên chí lý đấy; vấn đề là anh không thể chấp nhận nó. Anh nhớ một ngày sau khi anh trông thấy xác ướp trên Kênh Đào đóng băng, cuộc sống của anh vẫn trôi đi như thường lệ. Lúc ấy, cậu bé Ben hiểu rõ bất kể nó là gì, suýt chút nữa nó đã bắt được cậu, thế nhưng nhịp sống của cậu không dừng lại: cậu vẫn đi học, vẫn làm bài kiểm tra số học, vẫn đến thư viện sau giờ học và vẫn ăn lấy ăn để như bình thường. Chỉ đơn giản là cậu đưa thứ mình trông thấy trên Kênh Đào trở thành một phần cuộc sống của mình, và ngay cả khi suýt chút nữa nó đã kết liễu cậu… thì đành chịu thôi, con nít mất mạng suốt mà. Chúng bổ nhào qua đường mà không thèm nhìn, chúng đùa giỡn trên hồ rồi nhận ra mình đã chèo thuyền cao su đi quá xa nên cuống cuồng chèo ngược lại, chúng đu lên xà rồi ngã dập mông hoặc trèo cây rồi ngã cắm đầu.
Lúc này đây, đứng trong cơn mưa lâm thâm trước Cửa hàng Phần cứng Đáng tin cậy mà vào năm 1958 nơi đây là tiệm cầm đồ (Ben nhớ nó có tên là Anh em nhà Frati, cửa sổ đôi lúc nào cũng trưng đầy súng lục, súng trường, dao cạo lưỡi rời và đàn ghi-ta dựng thẳng đứng như những sinh vật kỳ thú), anh chợt ngộ ra trẻ con dễ chết hơn người lớn, mà trẻ con cũng giỏi hợp nhất những điều vô phương lý giải vào cuộc sống của mình. Tuy không nói ra, chúng tin rằng có tồn tại một thế giới vô hình. Ở phải rồi, tất nhiên chúng cũng tin cả những điều kỳ diệu, dù trong sáng hay ngoài tối, nhưng những điều đó không bao giờ khiến thế giới ngừng quay. Một vẻ đẹp trời long đất lở hay nỗi kinh hoàng bất chợt xuất hiện lúc 10 giờ chẳng thể nào cản trở cậu ăn thêm một, hai chiếc bánh kẹp xúc xích phô mai vào bữa trưa.
Song, khi ta lớn lên, mọi thứ chợt đổi khác. Ta không còn trắn trọc nằm trên giường, nơm nớp lo sợ có thứ gì đó đang nấp trong tủ quần áo hoặc cào vào cửa sổ… nhưng khi thứ đó thật sự xảy đến, một thứ nằm ngoài cách lý giải thông thường, mạch thần kinh của ta trở nên quá tải. Sợi trục và sợi nhánh thần kinh nóng lên. Ta bắt đầu nhấp nhổm như ngồi trên đống lửa, ta bắt đầu như đỉa phải vôi, trí tưởng tượng của ta bắt đầu như lên đồng và nhảy chẳng khác nào con gà trong đầu. Ta không thể gắn kết điều vừa xảy ra với cuộc sống của mình. Ta không tiêu hóa nổi. Tâm trí ta cứ trở đi trở lại hình ảnh ấy, mân mê như chú mèo con nghịch cuộn len tròn… cho đến khi cuối cùng, ta phát điện hoặc bị đẩy đến bước đường cùng khiến ta không hoạt động bình thường được nữa.
Nếu điều đó xảy ra, Ben thầm nghĩ, thì Nó bắt được mình rồi. Tất cả bọn mình. Không chút thương xót.
Anh bắt đầu bước lên đường Kansas, vô định chưa biết đi đâu. Và bất chợt, một suy nghĩ hiện lên trong đầu anh: Cả đám đã làm gì với đồng bạc vậy nhỉ?
Anh vẫn chưa nhớ ra.
Đồng bạc, Ben… Beverly đã cứu mạng mình bằng đồng bạc ấy. Mạng mình… hoặc có khi là mạng của tất cả mọi người… đặc biệt là Bill. Suýt chút nữa Nó đã moi ruột mình ra trước khi Beverly kịp… gì nhỉ? Cô ấy đã làm gì? Và nó hoạt động ra sao? Cô ấy đẩy lùi nó với sự hiệp lực của bọn mình. Nhưng bằng cách nào nhỉ?
Bỗng dưng một từ ngữ hiện lên trong đầu anh, một từ vô nghĩa nhưng khiến da thịt anh bủn rủn hết cả: Chüd .
Cúi nhìn vỉa hè, trong khoảnh khắc, anh trông thấy hình con rùa vẽ bằng phấn, và thế gian như trôi tuột trước mắt anh. Anh nhắm nghiệm mắt, rồi khi mở ra, anh thấy nó không phải con rùa mà chỉ là ô lò cò nhòe đi dưới cơn mưa phùn.
Chüd
Nó có nghĩa là gì nhỉ?
“Chịu thôi,” anh nói to, và khi vội vàng nhìn quanh để xem có ai bắt gặp cảnh tượng anh đang nói chuyện một mình không, anh nhận thấy mình vừa rời khỏi đường Kansas và rẽ vào Đại lộ Costello. Hồi trưa, anh nói với mọi người rằng Vùng Đất Cằn là nơi duy nhất mang lại cho anh niềm vui thuở bé… nhưng nói như vậy chưa chuẩn lắm thì phải? Còn một nơi nữa. Và chẳng biết vô tình hay hữu ý, anh đã rảo bước đến nơi ấy: Thư viện công cộng Derry.
Anh đứng trước cửa chừng một hai phút, tay vẫn đút túi quần. Thư viện bao năm vẫn thế, giờ đây, tuy đã trưởng thành, anh vẫn ngưỡng mộ những đường nét của công trình ấy như xưa. Như rất nhiều công trình kiến trúc xây bằng đá được thiết kế xuất sắc, nó khiến bất cứ con mắt nào chiêm ngưỡng cũng phải bối rối với những điểm tương phản: sự vững chãi của đá được cân bằng bởi đường nét thanh thoát của mái vòm và cột nhỏ; tòa kiến trúc trông vừa chắc chắn như ngân khố lại vừa gọn vừa tươm tất (chà, công trình trong đô thị thì gọn là đúng rồi, đặc biệt là những công trình được xây dựng vào thời điểm chuyển giao thế kỷ, cửa sổ bo tròn với những thanh sắt mỏng bắt chéo rất duyên dáng). Những điểm tương phản ấy khiến tòa nhà không hề thô kệch, và anh chẳng lấy làm ngạc nhiên khi trong lòng anh dâng lên tình yêu thương đối với nơi này.
Đại lộ Costello vẫn chẳng thay đổi là mấy. Nhìn dọc theo đại lộ, anh có thể thấy Nhà Cộng đồng Derry, lòng bất giác tự hỏi liệu Chợ Đại lộ Costello còn nằm ở chỗ đại lộ hình bán nguyệt, giao với đường Kansas hay không.
Anh bước qua bãi cỏ của thư viện, chẳng buồn để tâm đôi bốt của mình đang bị ướt, để ngắm nhìn hành lang bằng kính nối giữa thư viện người lớn và thư viện trẻ em. Nơi đây vẫn như xưa, và từ vị trí hiện tại, ngay bên ngoài những nhánh cây liễu rủ, anh có thể trông thấy mọi người rảo bước qua lại. Lòng anh bừng lên niềm vui thích xưa cũ, và lần đầu tiên, anh gần như quên bẵng chuyện vừa xảy ra vào cuối bữa ăn trưa ban nãy. Anh nhớ như in ngày bé, cứ mỗi độ đông về, anh lại đến đúng chỗ này, lội qua đống tuyết cao gần đến hông rồi đứng lặng, lắm lúc đến cả mười lăm phút. Anh nhớ mình sẽ đến đây lúc hoàng hôn buông xuống, những điểm tương phản như hút hồn cậu bé Ben và giữ cậu ở đó, mặc kệ đầu ngón tay tê cóng, mặc kệ tuyết tan chảy trong đôi bốt cao su màu xanh. Bên ngoài, nơi cậu đứng, trời nhập nhoạng tối, cả thế gian dần nhuốm màu tím, tù mù mùa đông, đằng đông, bầu trời xám xịt màu tro, ngả màu đỏ cam ở phía tây. Nơi cậu đứng lạnh cóng, âm đến 10 độ, thậm chí còn rét hơn nếu có gió thổi vào từ Vùng Đất Cằn băng giá, vốn là một điều khá thường trực.
Nhưng đằng kia, cách nơi cậu đứng chưa tới ba mươi lăm mét, người ta đi đi lại lại, chỉ mặc áo sơ-mi ngắn tay. Đằng kia, cách nơi cậu đứng chưa tới ba mươi lăm mét, là một con đường ánh sáng rực rỡ nhờ những ngọn đèn huỳnh quang trên đầu. Đám trẻ nhỏ vui đùa cười khúc khích, các cặp thiếu niên nắm tay nhau tình tứ (nếu thủ thư trông thấy, thể nào bà cũng bắt chúng buông tay nhau cho mà xem). Trong mắt cậu bé, khung cảnh này thật kỳ diệu xiết bao, và may thay, ngày ấy, trí óc non nớt của cậu không tìm cách giải thích điều kỳ diệu này bằng những điều hết sức tẻ nhạt như điện hay dầu đốt nóng. Kỳ diệu nằm ở hành lang hình trụ sáng trưng của ánh sáng, của sự sống, kết nối hai tòa nhà tối đen như huyết mạch; kỳ diệu là khi cậu đứng ngoài tuyết, đưa mắt ngắm nhìn mọi người qua lại trong hành lang ấy, chẳng mảy may bị ảnh hưởng bởi màn đêm và cái lạnh. Nó khiến họ đáng yêu và thần thánh quá đỗi.
Sau hồi lâu, cậu bé Ben sẽ quay đi (như anh lúc này) và bước vòng đến cửa chính (như anh lúc này), nhưng rồi y như rằng, cậu sẽ dừng chân, ngoái lại nhìn lần nữa (như anh lúc này) trước khi bức tường đá to bè của thư viện dành cho người lớn chắn tầm nhìn đến cái rốn thanh nhã ấy.
Hoài niệm quay quắt trong lòng khiến tâm trạng buồn vui lẫn lộn, Ben bước lên bậc thang dẫn đến thư viện dành cho người lớn, khẽ dừng chân trên hàng hiên hẹp bên trong các cột trụ, lúc nào cũng cao và mát mẻ, bất kể thời tiết nóng nực ra sao. Đoạn anh kéo mở cánh cửa bọc sắt gắn lỗ thả sách rồi bước vào không gian tĩnh mịch.
Khi đặt chân vào ánh sáng dịu nhẹ của những ngọn đèn thủy tinh hình cầu treo lơ lửng trên trần nhà, ký ức như thác lũ ùa về khiến anh chếnh choáng trong thoáng chốc. Thác lũ ấy không phải về mặt vật lý - như phát súng vào hàm hay một cái tát. Nó giống cảm giác kỳ lạ khi thời gian chợt lặp lại mà người ta đặt cho cái tên hay hớm là déjà vu . Ben từng trải qua cảm giác này, nhưng chưa lần nào nó bạo liệt đến mức choáng váng như thế, bước vào cửa một lúc rồi mà anh tưởng chừng lạc trong dòng thời gian, chẳng rõ mình bao nhiêu tuổi. Anh ba mươi tám hay mười một tuổi nhỉ?
Vẫn là sự tĩnh lặng rì rầm ngày xưa, thỉnh thoảng bị phá vỡ bởi giọng ai đó thì thầm, tiếng thủ thư xếp sách hoặc giấy báo quá hạn mượn sách, tiếng sách báo lật giở lạo xạo. Ngày xưa anh rất thích ánh sáng nơi đây, và bây giờ vẫn thế. Nó chiếu xuyên qua khung cửa sổ trên cao, xám xịt như cánh chim bồ câu trong chiều mưa, thứ ánh sáng đượm màu ủ ê và chán chường.
Anh bước qua căn phòng rộng lót vải dầu họa tiết đen đỏ gần như đã bạc thếch, và như hồi còn bé, anh cố gắng để bước chân mình không phát ra tiếng động - thư viện người lớn có mái vòm ở chính giữa, thành thử mọi âm thanh đều bị khuếch đại lên.
Anh nhận thấy các cầu thang xoắn bằng thép dẫn lên kệ sách vẫn còn, ở mỗi đầu bàn chính hình móng ngựa lại có một cái, nhưng anh cũng phát hiện có một thang máy nhỏ đã được lắp thêm vào lúc nào đó trong hai mươi lăm năm kể từ ngày anh và mẹ chuyển đi. Nó giúp anh nhẹ nhõm phần nào – bởi nó thọc mũi dao vào cảm giác déjà vu bức bối tâm can.
Anh cảm thấy mình như kẻ không mời đang bước qua căn phòng rộng, như một điệp viên từ đất nước khác. Anh thầm mong thủ thư ngồi ở bàn ngẩng đầu lên, chăm chú nhìn anh rồi thách thức anh bằng giọng nói chói tai, gằn từng tiếng, khiến mọi ánh mắt ở đây đều phải đổ dồn về phía anh: Anh kia! Phải, là anh đấy! Anh làm gì ở đâu? Anh không có nghĩa vụ gì ở đâu cả! Anh là kẻ Bên Ngoài! Anh là kẻ Ngày Xưa! Anh ở đâu thì trở về đấy đi! Đi ngay lập tức, kéo tôi gọi cảnh sát bây giờ!
Và quả thật, thủ thư có ngẩng đầu lên, ấy là một cô gái trẻ xinh xắn, và trong một khoảnh khắc điên rồ, Ben tưởng chừng tưởng tượng của mình sắp trở thành hiện thực, tim anh suýt chút nữa thì chặn ngang họng khi đôi mắt xanh nhạt của cô nhìn thẳng vào mắt anh. Rồi bốn mắt lãnh đạm lướt qua nhau, Ben lấy lại sức để bước tiếp. Giả như anh là điệp viên thì anh vẫn chưa bị phát hiện.
Trên đường đến hành lang nối qua thư viện trẻ em, đi dưới một trong những cầu thang thép rèn hẹp và dốc đứng, anh không khỏi thích thú nhận ra (sau khi sự đã rồi) rằng anh vừa vvô thức hành động y như xưa. Anh vừa ngẩng đầu ngước lên trên, cầu mong như cậu bé Ben năm nào từng mong, sẽ thấy một cô bé mặc váy bước xuống cầu thang. Anh còn nhớ (lúc này, ký ức đã trở về lần nọ, hồi anh tám hay chín tuổi gì đó, anh tình cờ ngước mắt lên thì nhìn thấy ngay trước mắt mình là chiếc váy ka ki của một nữ sinh trung học xinh xắn và nhìn được cả chiếc quần con màu hồng sạch sẽ bên trong. Nếu ánh mặt trời bất ngờ lấp lánh trên lắc chân của Beverly Marsh đã bắn vào tim cậu mũi tên của một thứ cảm xúc chân phương hơn tình yêu và si mê vào ngày cuối học kỳ năm 1958 thì hình ảnh chiếc quần con của nữ sinh trung học cũng có sức ảnh hưởng tương đương; anh vẫn nhớ lúc ấy, anh đã ngồi ngây ra ở bàn trong Thư viện Trẻ em, ngẫm nghĩ về cảnh tượng bất ngờ kia suốt hai mươi phút, hai má và trán nóng bừng, cuốn sách về lịch sử tàu hỏa mở ra trước mặt nhưng chẳng vào đầu chữ nào, cậu bé chĩa thẳng như nhánh cây trong quần, cắm rễ sâu lên tít bụng của Ben. Cậu thả hồn mơ mộng đến viễn cảnh hai người bọn họ kết hôn, sống trong một căn nhà nhỏ ở ngoại ô thị trấn, đắm chìm trong khoái lạc mà cậu chưa đủ sức hiểu hết.
Cảm giác ấy đến rồi đi đột ngột như cơn gió, nhưng kể từ đó, Ben không bao giờ bước qua bên dưới cầu thang mà không ngẩng đầu nhìn. Dù chưa một lần bắt gặp cảnh tượng nào thú vị hoặc cảm xúc (lần nọ, có một bà mập lặc lè bước xuống cầu thang, nhưng cậu vội vàng quay mặt đi khỏi cảnh tượng ấy, cảm thấy xấu hổ như thể mình là kẻ phá rối), song thói quen ấy chẳng bỏ được - và giờ đây, tuy đã là một người đàn ông trưởng thành, anh lại bất giác hành động giống như xưa.
Anh chậm rãi bước qua hành lang bằng kính, để ý một số đổi thay: đề can màu vàng với dòng chữ OPEC RẤT VUI KHI BẠN PHUNG PHÍ NĂNG LƯỢNG, NÊN HÃY TIẾT KIỆM TỪNG OÁT! được dán trên bảng công tắc điện. Khi anh bước vào thế giới thu nhỏ, nơi những bộ bàn ghế bằng gỗ sắc vàng đều có kích thước nhỏ hơn, nơi vòi uống nước chỉ cao một mét hai, bức hình đóng khung trên tường đằng xa không phải hình của Dwight Eisenhower và Richard Nixon mà là hình của Ronald Reagan cùng George Bush - nếu Ben không lầm thì năm anh tốt nghiệp lớp Năm, Reagan vẫn còn dẫn chương trình Rạp hát GE , còn George Bush chưa đến ba mươi tuổi.
Nhưng…
Cảm giác déjà vu lại ập đến. Anh chỉ biết bất lực trước nó, và lần này, anh cảm thấy nỗi hoảng sợ đến tê dại của một người ngỡ ngàng nhận ra sau nửa tiếng đồng hồ chới với trong nước, rằng bờ biển sao quá xa xôi, còn mình thì sắp chết đuối.
Lúc này đang là giờ kể chuyện, và ở góc phòng, một nhóm khoảng mười cô cậu bé chỉnh tề ngôi thành vòng bán nguyệt trên những chiếc ghế con chăm chú lắng nghe. “Ai đang bước qua cầu của ta đấy?” Thủ thư trầm giọng gầm gừ, giả làm con quỷ trong câu chuyện, và Ben nghĩ thầm nghĩ: Khi cô ấy ngẩng đầu lên, mình sẽ nhận ra ấy là cô Davies, phải, cô Davies, và trông cô ấy sẽ chẳng già đi chút nào…
Nhưng khi nữ thủ thư ấy ngẩng đầu lên, người anh trông thấy là một phụ nữ trẻ hơn cả cô Davies năm xưa.
Vài đứa trẻ che miệng, khúc khích cười, nhưng những đứa trẻ còn lại chỉ chăm chú nhìn cô, ánh mắt lấp lánh về câu chuyện cổ tích kỳ thú, trường tồn cùng năm tháng: Liệu con quỷ có bị đánh bại… hay nó sẽ ăn thịt đàn dê?
“Là ta, Dê Billy Gruff đang đi trên cầu của ngươi đây,” nữ thủ thư tiếp tục kể, và Ben bước ngang qua, mặt tái mét.
Làm thế nào mà vẫn là câu chuyện năm xưa kia chứ? Đúng y câu chuyện năm ấy? Mình có thể tin đây chỉ là ngẫu nhiên không? Vì khốn thật… mình không nghĩ là vậy, mình không tài nào nghĩ vậy!
Anh cúi người xuống vòi uống nước, cúi khoằm người đến độ anh cảm thấy mình giống như Richie lúc làm hành động quỳ rạp lạy lục.
Mình phải trao đổi với ai đó, anh hoảng sợ nghĩ. Mike… hoặc Bill… hay ai cũng được. Phải chăng có thứ đang dập quá khứ và hiện tại vào nhau, hay mình chỉ đang tưởng tượng thôi? Vì nếu đây không phải là tưởng tượng thì mình không chắc sức mình kham nổi. Mình…
Anh ngước nhìn bàn kiểm kê sách, và dường như trong khoảnh khắc, tim anh ngừng đập một nhịp rồi đập thình thịch với tốc độ gấp đôi. Tấm áp phích đơn giản, rõ ràng… và quá đỗi quen thuộc ghi vỏn vẹn:
HÃY GHI NHỚ GIỜ GIỚI NGHIÊM
7 GIỜ TỐI
SỞ CẢNH SÁT DERRY
Trong phút chốc, anh chợt thấm thía – tựa như ánh sáng lóe lên trong đầu, anh nhận ra việc họ bỏ phiếu chẳng phải một trò đùa. Quay đầu không còn là bờ, hay đúng hơn, ngay từ đầu đã chẳng có bờ. Họ đang đi trên lối đi đã được định sẵn, giống lối mòn của ký ức đã khiến anh bất giác ngước lên khi đi bên dưới cầu thang dẫn lên kệ sách. Ở Derry này có một tiếng vọng, thứ tiếng vọng chết người, và tất cả những gì họ có thể hy vọng là tiếng vọng ấy sẽ thay đổi theo hướng thuận lợi để họ toàn mạng trốn thoát.
“Chúa ơi,” anh lầm bầm, đưa một tay lên chà xát má.
“Cháu có thể giúp gì cho chú không?” Một giọng nói cất lên phía sau cánh tay anh khiến anh giật nảy mình. Một thiếu nữ áng chừng mười bảy tuổi, mái tóc vàng sậm được kẹp ra sau, nổi bật khuôn mặt xinh xắn. Trợ lý thư viện, tất nhiên rồi, hồi năm 1958 cũng có, những nữ sinh, nam sinh trung học xếp sách, chỉ cho trẻ em cách sử dụng thẻ ghi thông tin sách, thảo luận về các bài báo cáo sách và bài tập trên trường, chuẩn bị ghi chú và thư mục phụ giúp các học giả rối trí. Tiền lương chẳng đáng là bao, nhưng luôn có những đứa trẻ sẵn sàng thực hiện. Bởi công việc này tương đối dễ chịu.
Thời điểm ấy, quan sát kỹ hơn vẻ mặt ôn hòa nhưng có phần thắc mắc của cô gái, anh nhận ra mình không còn thuộc về nơi này - anh như người khổng lồ trong vùng đất người tí hon. Kẻ không mời mà đến. Trong thư viện người lớn, anh cảm thấy khó chịu trước việc có thể bị săm soi, bị bắt chuyện, nhưng ở đây, nó cho anh chút nhẹ nhõm. Chí ít, nó minh chứng rằng anh vẫn là người lớn, và việc rõ ràng cô gái kia không mặc áo ngực bên dưới lớp áo mỏng theo phong cách phương Tây cũng khiến anh nhẹ nhõm nhiều hơn là bị kích thích: nếu cần bằng chứng chứng minh đây là năm 1985 chứ không phải 1958 thì hai nhũ hoa nhô lên bên dưới lần áo sợi bông của cô chính là bằng chứng rõ ràng nhất.
“Không đâu, cảm ơn cháu,” anh đáp, và rồi vì lý do nào đó mà ngay bản thân còn chẳng hiểu nổi, anh bất giác đế thêm: “Chú đang đi tìm con trai chú.”
“Ô? Cậu bé tên là gì ạ? Biết đâu cháu có thấy em ấy.” Cô mỉm cười. “Cháu biết hầu hết các bạn nhỏ ở đây.”
“Tên con chú là Ben Hanscom,” anh nói. “Nhưng chú không thấy nó ở đây.”
“Chú tả cháu nghe vẻ ngoài của con trai chú đi, nếu chú cần nhắn gì thì cháu sẽ chuyển lời.”
“Chà,” Ben nói, cảm thấy hơi không thoải mái, lòng thầm ước ao giá như mình không khơi ra chuyện này, “con chú hơi mũm mĩm một chút, trông hao hao chú. Nhưng không sao đâu. Nếu thấy thằng bé, cháu nhắn giùm chú là bố sẽ ghé qua trên đường về nhà nhé.”
“Dạ vâng,” cô nói và mỉm cười, nhưng nụ cười không hiện lên trong mắt cô, để rồi Ben chợt nhận ra cô không cất công đến tận nơi bắt chuyện với anh vì phép lịch sự đơn thuần và nhiệt tình giúp đỡ. Cô là trợ lý thủ thư của thư viện trẻ em ở một thị trấn đã có chín đứa trẻ bị sát hại trong vòng tám tháng. Trông thấy một người đàn ông lạ mặt trong thế giới thu nhỏ này, nơi người lớn họa hoằn lắm mới xuất hiện trừ những lúc đón đưa con trẻ, bảo sao cô không nhìn anh với ánh mắt nghi ngờ.
“Cảm ơn cháu,” anh nói, nở nụ cười mà anh mong sẽ trấn an cô phần nào rồi rút khỏi đó ngay lập tức.
Anh bước qua hành lang dẫn đến thư viện người lớn, đi đến bàn trong cơn bốc đồng không thể lý giải… nhưng thắc mắc làm chi, chẳng phải chiều nay họ phải làm theo những gì lòng mình thôi thúc sao? Cứ đi theo thôi thúc trong lòng xem nó dẫn đến đâu.
Bảng tên trên bàn đổi trả sách cho anh biết cô thủ thư xinh xắn trẻ trung tên là Carole Banner. Đằng sau cô, Ben có thể trông thấy một cánh cửa bọc kính mờ, bên trên để dòng chữ MICHAEL HANLON THỦ THƯ TRƯỞNG.
“Tôi có thể giúp gì cho anh không?” cô Banner hỏi.
“Vâng, có.” Ben đáp. “Tôi mong là có. Tôi muốn làm thẻ thư viện.”
“Hay quá,” cô nói và rút ra một tờ đơn. “Anh có phải cư dân của Derry không?”
“Hiện thời thì không.”
“Vậy cho tôi xin địa chỉ nhà.”
“Rural Star Đường số 2, Hemingford Home, Nebraska.” Anh thoáng dừng lại, có phần vui thích khi cô nhìn anh chằm chằm, đoạn nói nốt mã bưu điện: “59341.”
“Anh đang đùa tôi đấy à, thưa anh Hanscom?”
“Không hề.”
“Vậy anh dự tính chuyển đến Derry sao?”
“Không, tôi không có dự tính như vậy.”
“Đi mượn sách mà anh phải cất công lặn lội xa đến vậy ư? Chẳng lẽ họ không có thư viện ở Nebraska sao?”
“Tôi làm thế xuất phát từ lý do tình cảm,” Ben đáp. Tưởng đâu kể chuyện này với một người lạ thì muối mặt quá, nhưng hóa ra anh không cảm thấy thế. “Tôi lớn lên ở Derry. Đây là lần đầu tiên tôi trở về thăm cố hương từ lúc tôi chuyển đi hồi còn bé. Từ nãy đến giờ, tôi dạo lòng vòng, xem thứ gì đổi thay, thứ gì nguyên vẹn. Và bất chợt, tôi bỗng nhận ra dù tôi sống ở đây suốt mười năm đời mình, từ năm ba tuổi đến mười ba tuổi, thế mà tôi chẳng có bất cứ điều gì để nhớ về những năm tháng dĩ vãng đó. Đến cả một tấm bưu thiếp cũng không. Tôi có mấy đồng bạc, nhưng tôi đánh mất một đồng, còn bao nhiêu tôi lại đem cho những người bạn của mình hết. Có lẽ thứ tôi muốn là kỷ niệm về tuổi ấu thơ. Giờ đã trễ, nhưng chẳng phải người ta bảo trễ còn hơn không đấy sao?”
Carole Banner mỉm cười, và nụ cười khiến dung mạo xinh xắn của cô trở nên rực rỡ vô cùng. “Tôi thấy như vậy rất lãng mạn,” cô đáp. “Mời anh thong thả xem sách trong vòng mươi, mười lăm phút, tôi sẽ chuẩn bị xong thẻ thư viện cho anh lúc anh quay trở lại bàn.”
Ben khẽ mỉm chi. “Chắc sẽ mất phí phải không,” anh hỏi. “Tôi không phải dân của thị trấn này mà.”
“Chắc anh có thẻ thư viện lúc anh còn bé?”
“Có chứ.” Ben mỉm cười. “Ngoài bạn bè, tôi nghĩ thẻ thư viện là thứ quan trọng nhất…”
“Ben ơi, lên đây được không?” Bỗng dưng một giọng nói ré lên, xẻ ngang qua thư viện như con dao mổ.
Anh quay lại, giật mình đầy tội lỗi, giống người ta hay làm lúc ai đó la hét trong thư viện. Anh không thấy ai quen… và một khắc sau, anh chợt nhận ra không có người nào ngước lên hay tỏ vẻ ngạc nhiên hoặc bực bội. Những cụ ông vẫn chăm chú đọc tờ Derry News , Boston Global , National Geographic , Time , Newsweek , U.S News & World Report . Tại bàn trong Phòng Tham khảo, hai cô nữ sinh vẫn đang chụm đầu bên chồng báo cáo và xấp tài liệu. Một vài khách tha thẩn xem những cuốn sách trên dãy kệ để VĂN HỌC HIỆN TẠI - MƯỢN TRONG 7 NGÀY. Một cụ ông đội chiếc mũ phớt trông đến là buồn cười, trên miệng ngậm điếu tẩu lạnh lẽo, chăm chú lật qua những bức tranh của Luis de Vargas.
Anh quay lại nhìn cô gái trẻ đang quan sát anh bằng ánh mắt bối rối.
“Có chuyện gì sao?”
“Không,” Ben nói, miệng mỉm cười. “Tôi tưởng mình nghe thấy tiếng gì đó. Chắc đi đường xa, tôi mệt hơn mình nghĩ. Ban nãy cô nói gì vậy?”
“À, thật ra nãy giờ anh mới là người nói. Nhưng tôi định nói thêm nếu anh có thẻ thư viện khi còn là cư dân ở đây, tên của anh vẫn sẽ lưu trong hồ sơ,” cô giải thích. “Hiện giờ, chúng tôi lưu giữ mọi giấy tờ bằng vi phiếu. Tôi đoán đây là chút thay đổi so với lúc anh còn là con nít nhỉ?”
“Phải,” anh đáp. “Derry đổi thay nhiều quá… nhưng cũng có rất nhiều thứ vẹn nguyên như thuở ban đầu.”
“Vậy để tôi tìm tên anh và làm mới thẻ cho anh là được. Như vậy không mất phí.”
“Tuyệt quá,” Ben nói, và trước khi anh kịp nói lời cảm ơn, giọng nói ban nãy lại cắt qua không gian tĩnh mịch đầy tôn nghiêm của thư viện, có điều lần này nó to hơn, vui vẻ đầy ám muội: “Lên đây nào, Ben ơi! Lên đây, thằng mập chó đẻ! Cuộc sống của ngươi đây, Ben Hanscom!”
Ben đằng hắng. “Tôi rất trân trọng điều đó,” anh nói.
“Anh đừng khách khí.” cô nghiêng đầu nhìn anh. “Ngoài trời ấm lên rồi à?”
“Một chút,” anh đáp. “Sao cô hỏi vậy?”
“Vì anh…”
“Ben Hanscom là thủ phạm!” Giọng nói rít lên. Nó vang lên bên trên – từ dãy kệ sách. “Ben Hanscom là kẻ giết đám trẻ! Bắt hắn đi! Gô cổ hắn lại!”
”… chảy mồ hôi,” cô nói.
“Thế sao? Anh ngu ngơ hỏi lại.
“Để tôi làm thẻ ngay,” cô nhanh nhảu.
“Cảm ơn cô.”
Cô bước đến góc bàn nơi đặt máy đánh chữ Royal đã cũ.
Ben chậm rãi quay lưng đi, trống ngực đập thình thịch trong lồng ngực. Phải, anh đang đổ mồ hôi, anh có thể cảm thấy mồ hôi chảy xuống trán, xuống nách, làm lông trên ngực anh bết lại. Anh ngước lên, và anh trông thấy gã hề Pennywise đang đứng trên cùng cầu thang bên tay trái nhìn xuống anh. Mặt hắn bôi phấn trắng bệch. Miệng hắn thoa son thành nụ cười của kẻ sát nhân. Chỗ lý ra phải có hai con mắt lại là hai hốc trống hoác. Một tay, hắn cầm chùm bóng bay, tay còn lại cầm cuốn sách.
Không phải là người, Ben thầm nhủ, mà là Nó. Mình đang đứng giữa Thư viện công cộng Derry vào một chiều cuối xuân năm 1985, mình đã là người trưởng thành, và mình đang mặt đối mặt với cơn ác mộng khủng khiếp nhất thuở bé. Mình đang mặt đối mặt với Nó.
“Lên đây đi, Ben,” Pennywise nói vọng xuống. “Ta không làm hại ngươi đâu. Ta có sách cho ngươi đây! Sách… và bóng bay! Lên đây nào!”
Ben mở miệng, toan đáp lại. Nếu mày nghĩ là tao sẽ lên trên đấy thì mày điên rồi, nhưng rồi anh chợt nhận ra nếu anh làm thế, mọi người đây sẽ chĩa ánh mắt về phía anh và nghĩ, Gã điên này là ai vậy?
“Ối chà, ta biết ngươi không thể trả lời mà,” Pennywise lảnh lót, cười khúc khích. “Suýt chút nữa thì ta cho người ăn cú lừa nhỉ? 'Xin lỗi, bác có Hoàng tử Albert đóng trong hộp không ạ?... Có à?... Bác thả ông ta đi kẻo tội nghiệp' ‘Xin chào, cô ơi, tủ lạnh của cô có chạy không ạ? … Có à? …Ơ thế cô không đuổi theo nó sao?’“
Đây là một trò đùa của trẻ con ngày xưa, xuất phát từ tên của dòng thuốc lá Hoàng tử Albert (Prince Albert). Sản phẩm được bán trong hộp thiếc đỏ. Trẻ con thường gọi đến cửa tiệm và hỏi mua “Hoàng tử Albert đóng trong hộp”, nếu người bán nói có thì trẻ con sẽ đáp bằng câu đùa “Hãy thả ông ta ra đi”.
Gã hề đứng trên cầu thang ngửa cổ ra sau, ré lên cười ha hả. Tiếng cười vang vọng khắp mái vòm thư viện như một đám dơi đen đúa, Ben phải vận hết sức bình sinh mới có thể không đưa tay lên bịt tai.
“Lên đây đi, Ben” Pennywise nói vọng xuống. “Rồi từ từ ta nói chuyện. Cho ra ngô ra khoai. Ngươi thấy sao?”
Còn lâu ta mới lên trên đó, Ben nghĩ. Khi ta đến chỗ ngươi, ta nghĩ ngươi sẽ không muốn gặp ta đâu. Bọn ta sẽ kết liễu ngươi.
Gã hề lại tiếp tục ré lên cười. “Kết liễu ta? Kết liễu ta ấy à?” Và bất thình lình, kinh khủng làm sao, giọng của gã biến thành giọng của Richie Tozier, nói chính xác thì không phải là giọng của cậu ấy nhưng là giọng của Richie Tozier khi anh giả Giọng Nhóc Da đen. “Đừng giết con, ông ơi, con sẽ ngoan mà, đừng giết cậu bé da đen tội nghiệp, ông Haystack ơi!” Rồi nó lại sang sảng cười rít lên.
Run như cầy sấy, mặt trắng bệch, Ben bước qua trung tâm gian phòng vang vọng của thư viện người lớn. Anh cảm thấy mình như sắp nôn ra đến nơi. Đứng trước kệ sách, anh giơ bàn tay run lẩy bẩy của mình lên lấy đại một cuốn. Những ngón tay lạnh ngắt lướt qua trang sách.
“Cơ hội ngàn năm có một cho ngươi đấy,Haystack!” Giọng nói vang lên đằng sau và trên đầu anh. “Rời khỏi thị trấn này đi. Rời khỏi đây đêm nay, trước khi trời tối. Tối nay ta sẽ tới rình ngươi… ngươi và cả đám bạn kia của ngươi. Già như ngươi còn khuya mới cản được ta, Ben ạ. Đám các ngươi già cả rồi. Già như thế thì làm được trò trống gì, chỉ có nước chết thôi. Biến đi, Ben. Hay tối nay ngươi muốn chứng kiến cảnh đó?”
Anh từ từ quay người lại, đôi tay lạnh như băng vẫn cầm cuốn sách. Anh không muốn nhìn, nhưng tựa hồ có bàn tay vô hình dưới cằm, kéo mặt anh ngước lên.
Gã hề đã biến mất. Thay vào đó là Dracula đứng trên đỉnh cầu thang phía bên tay trái, nhưng Dracula này không phải nhân vật trong phim, không phải Bela Lugosi hay Christopher Lee hay Frank Langella hay Francis Lederer hay Reggie Nalder thủ vai. Đứng đó là một nhân hình cổ xưa với diện mạo như rễ cây cong vẹo. Khuôn mặt nó mang màu trắng chết chóc, mắt nó đỏ tím, thứ màu của máu tụ. Miệng nó há to, để lộ hàm răng là những lưỡi dao lam Gillette xiên xẹo cắm vào nướu; chẳng khác nào nhìn vào mê cung dao lam chết người mà chỉ cần chệch một nước, ta sẽ bị xắt làm đôi.
“KÉC KÉC!” Nó hét lên rồi ngậm hàm lại. Máu tứa ra từ miệng nó thành dòng màu đen đỏ. Môi nó bị cứa đứt, rơi thành từng mảng xuống chiếc áo sơ-mi trắng bằng lụa sáng rồi trượt xuống, để lại những vết máu như sên bò.
“Stan Uris đã thấy gì trước khi chết?” Ma cà rồng đứng trên đầu cầu thang thét xuống với anh, cất tiếng cười ha hả từ cái miệng trũng máu.”Trông thấy Hoàng tử Albert trong hộp à? Hay thấy Davy Crockett, Chúa tể Biên giới Hoang dã? Hắn ta thấy gì hả Ben? Ngươi muốn thấy luôn không? Hắn ta thấy gì? Hắn ta thấy gì?” Và rồi tiếng cười kia lại rít lên, Ben biết mình sắp sửa thét lên đến nơi, phải, không có cách nào ngừng tiếng thét ấy, đó là chuyện chẳng đặng đừng. Máu lộp độp chảy từ trên cầu thang thành dòng gớm guốc. Một giọt máu rơi lên bàn tay sưng do viêm khớp của cụ già đang đọc tờ Wall Street. Nó chảy xuống giữa những đốt tay của ông, nhưng đương sự không hề nhìn thấy hay cảm nhận.
Nhân vật chính trong sê-ri phim phiêu lưu cùng tên của Mỹ.
Ben thở hồng hộc, anh dám chắc mình sắp sửa thét gào, một điều không tưởng nổi trong bầu không khí tĩnh lặng vào buổi chiều lác đác mưa xuân này, một điều kinh thiên động địa chẳng khác nào nhát dao chém xuống… hoặc một cái miệng đầy lưỡi dao.
Nhưng không, thay vì tiếng thét, lời phát ra run rẩy, to nhỏ thất thường, lầm bầm như lời cầu nguyện là đây: “Tất nhiên, bọn ta đã dùng nó để làm ra viên đạn. Bọn ta dùng xu bạc tạo ra đạn bạc.”
Người đàn ông đội mũ phớt nãy giờ chăm chú nhìn những bức họa của de Vargas ngước nhìn anh với ánh mắt sắc lẹm. “Vớ vẩn,” ông ta nói. Và giờ thì mọi người bắt đầu ngẩng lên; ai đó khó chịu ra hiệu “Suỵt!” cho ông cụ.
“Tôi xin lỗi.” Ben nói, giọng run rẩy, trầm thấp. Anh mơ hồ ý thức mồ hôi đang nhễ nhại trên mặt mình, và áo anh đang bết vào người. “Tôi nghĩ mà phát ra tiếng…”
“Vớ vẩn,” ông cụ lại lên tiếng, lần này giọng to hơn. “Không thể tạo ra viên đạn bạc đúng chuẩn bằng xu bạc được đâu. Ai cũng nhận thức sai. Tiểu thuyết ba xu. Vấn đề ở chỗ với trọng lực nhất định…”
Chợt một phụ nữ xuất hiện, là cô Danner. “Ông Brookhill, xin ông im lặng giùm cháu,” cô hiền hậu. “Mọi người đang đọc…”
“Anh ta ốm rồi,” ông Brookhill đột ngột cắt ngang rồi nhìn xuống cuốn sách của mình. “Cô cho anh ta viên aspirin đi, Carole.”
Carole Danner nhìn Ben, mặt tỏ rõ vẻ lo âu. “Anh bị ốm sao, anh Hanscom? Tôi biết nói vậy thì quả bất nhã, nhưng trông anh kinh khủng quá.”
“Tôi… Tôi mới ăn đồ Trung Hoa lúc trưa. Chắc nó không hợp với tôi rồi,” Ben đáp.
“Nếu anh muốn nằm nghỉ thì trong văn phòng của anh Hanlon có giường xếp đấy. Anh có thể…”
“Thôi. Cảm ơn cô, không cần đâu.” Điều anh muốn làm bây giờ không phải nằm xuống mà là cao chạy xa bay khỏi Thư viện công cộng Derry. Anh ngước nhìn đầu cầu thang. Gã hề đã biến mất. Ma cà rồng cũng mất tăm mất dạng. Nhưng cột bên dưới bóng thép rèn của tay vịn bọc quanh đầu cầu thang là một quả bóng bay. Bên trên bề mặt căng phồng là dòng chữ: NGÀY MỚI TỐT LÀNH! TỐI NAY NGƯƠI SẼ CHẾT!
“Tôi làm xong thẻ thư viện cho anh rồi,” cô nói, ngập ngừng chạm lên cánh tay anh. “Anh còn muốn lấy không?”
“Vâng, cảm ơn cô,” Ben đáp. Anh hít một hơi thật sâu, run rẩy. “Tôi rất lấy làm xin lỗi.”
“Tôi chỉ mong anh không bị ngộ độc,” cô nói.
“Vô hiệu thôi,” ông Brookhill lên tiếng mà chẳng buồn ngẩng đầu khỏi cuốn sách de Vargas hay bỏ tẩu thuốc đã tắt khỏi khóe miệng.”Tiểu thuyết ba xu mới viết thế. Viên đạn sẽ chệch cho xem.”
Và bất giác, không hề định thân mình lại lên tiếng trả lời, Ben đáp: “Viên đạn bi chứ không phải viên đạn đúng nghĩa. Khi đó, chúng cháu nhận ra mình không thể tạo ra viên đạn đúng chuẩn. Lúc ấy chúng cháu mới chỉ là con nít. Nên cháu đã đề ra ý tưởng…”
“Suỵt!” Ai đó lại lên tiếng.
Ông Brookhill nhìn Ben với ánh mắt thoáng giật mình, dường như tính nói gì đó nhưng ông lại chúi đầu vào sách.
Ở bàn đổi trả sách, Carole Danner đưa cho anh một tấm thẻ nhỏ màu cam dập nổi THƯ VIỆN CÔNG CỘNG DERRY bên trên. Ben bối rối, nhận ra đây là thẻ thư viện dành cho người lớn đầu tiên anh có từ trước đến giờ. Thẻ của anh lúc bé có màu vàng của chim hoàng yến.
“Anh có chắc anh không muốn nằm nghỉ không, anh Hanscom?”
“Tôi thấy khỏe hơn rồi, cảm ơn cô.”
“Anh chắc chứ?”
Anh cố nặn nụ cười. “Ừ, tôi chắc mà.”
“Trông anh có vẻ khỏe hơn rồi đấy,” cô nói, nhưng giọng đầy nghi ngờ, tựa hồ đây là điều nên nói chứ cô chẳng tin cho lắm.
Và rồi cô đưa cuốn sách xuống dưới máy quét vi phim hiện nay người ta dùng để lưu trữ thông tin mượn sách, và Ben cảm thấy thấy gần như hoảng hồn. Là cuốn sách mình lấy đại trên kệ lúc gã hề nhái Giọng Nhóc da đen, anh thầm nghĩ. Cô ấy tưởng mình muốn mượn. Mình vừa mượn cuốn sách đầu tiên từ Thư viện công cộng Derry sau hai mươi lăm năm trở lại mà thậm chí còn chẳng biết cuốn sách viết về nội dung gì. Mà kệ đi. Cho mình ra khỏi nơi này là đủ. Thế là quá đủ rồi.
“Cảm ơn cô,” anh nói, kẹp cuốn sách dưới nách.
“Không có gì, anh Hanscom. Anh có chắc anh không muốn uống một viên aspirin chứ?”
“Tôi chắc mà,” anh đáp, đoạn ngần ngừ. “Cô có tình cờ biết tình hình của bà Starrett không? Bà Barbara Starrett? Ngày xưa, bà ấy là thủ thư trưởng của thư viện trẻ em.”
“Bà ấy mất rồi.” Carole Danner nói. “Ba năm trước anh ạ. Theo tôi biết thì bà ấy bị đột quỵ. Quả là đáng tiếc. Bà ra đi lúc chưa già… tôi đoán chừng năm tám, năm chín là cùng. Vào ngày bà ấy mất, anh Hanlon đóng cửa thư viện một hôm.”
“Ồ,” Ben nói, cảm thấy trong lòng trống rỗng. Đó là điều xảy ra khi ta trở về với bản thân ta năm xưa, như lời bài hát nào đó. Lớp đường phủ trên chiếc bánh thì ngọt, nhưng phần bánh bên dưới lại đắng ngắt. Người ta quên anh, hoặc ra đi trước anh, hoặc rụng tóc, rụng răng. Nhiều trường hợp, anh ngỡ ngàng nhận ra người ta phát rồ. Ôi, sống trên đời thật tuyệt làm sao. Ôi chu choa.
“Tôi rất tiếc,” cô nói. “Chắc ngày xưa anh quý bà ấy lắm phải không?”
“Đám con nít ai cũng quý cô Starrett cả,” Ben trầm ngâm, hoảng hốt nhận ra nước mắt sắp lưng tròng.
“Anh có…”
Nếu cô ấy hỏi mình có ổn không thêm một lần nữa, chắc chắn mình sẽ rơi nước mắt mất. Hoặc sẽ thét lên. Hoặc làm gì đó.
Anh liếc nhìn đồng hồ rồi nói, “Tôi phải đi rồi. Cảm ơn cô, cô nhiệt tình quá.”
“Chúc anh một ngày tốt lành, anh Hanscom.”
Hẳn rồi. Vì tối nay tôi sẽ chết.
Anh khẽ vẫy ngón tay về phía cô rồi bước qua gian phòng. Ông Brockhill ngước lên nhìn anh, ánh mắt sắc lẹm, ngờ vực.
Anh nhìn lên phía trên cùng cầu thang bên trái. Quả bóng bay vẫn còn đó, cột bằng dây vào bông thép rèn uốn cong. Nhưng dòng chữ trên quả bóng đã thay đổi:
TA ĐÃ GIẾT CHẾT BARBARA STARRETT!
- CHÚ HỀ PENNYWISE
Anh quay đi, cảm thấy mạch đập thình thịch trong cổ họng mình. Bước ra ngoài, anh giật mình trước ánh mặt trời - đám mây trên đầu đã tản đi, vầng dương cuối tháng Năm ấm áp tỏa xuống, khiến bãi cỏ nhìn xanh và mơn mởn hơn. Ben cảm thấy như có thứ gì đó trút khỏi cõi lòng mình. Dường như anh vừa để lại một gánh nặng vô phương chịu đựng trong thư viện ấy… và khi nhìn xuống cuốn sách vô tình mượn, hàm răng anh chợt mạnh bạo nghiến vào nhau đau nhói. Là cuốn Xe ủi của Stephen W. Meader, một trong ba cuốn sách anh mượn trong thư viện vào cái ngày anh trốn vào Vùng Đất Cằn để thoát khỏi vòng vây của Henry Bowers và bè lũ.
Vết giày của Henry vẫn còn in trên bìa cuốn sách.
Tay anh run bần bật, vụng về lật trang sách rồi giở đằng sau ra. Anh thấy thư viện đã chuyển sang chế độ lưu trên vi phiếu khi mượn sách. Nhưng vẫn còn một túi nhỏ gắn phía sau sách với tấm thẻ kẹp bên trong. Mỗi dòng trên tấm thẻ lại ghi một cái tên và được thủ thư đóng dấu ngày tháng trả sách. Ben thấy thẻ ghi như sau:
Và, dòng cuối cùng trên tấm thẻ chính là chữ của anh ngày bé, với nét bút chì đậm rõ:
Benjamin Hanscom Ngày 8 tháng 6 năm 1958
Đóng dấu trên tấm thẻ, dọc trên trang đầu tiên của cuốn sách, trên bề dày các trang, đóng ngang đóng dọc bằng thứ mực đỏ nhoe nhoét như máu là chữ HỦY BỎ.
“Ôi, lạy Chúa tôi,” Ben thều thào. Anh không biết nói gì hơn; chỉ một lời ấy đã đủ để gói gọn toàn bộ tình hình. “Ôi lạy Chúa tôi, lạy Chúa tôi.”
Tần ngần đứng dưới ánh nắng, anh chợt tự hỏi chuyện gì đã xảy ra với những người khác.
2EDDIE KASPBRAK CHỤP BÓNG
Eddie xuống xe buýt ở góc đường Kansas giao với ngõ Kossuth. Kossuth là một con đường chạy xuống đồi, kéo dài khoảng bốn trăm mét trước khi đột ngột dừng lại ở phần đất đổ nát xuôi theo triền dốc chạy vào Vùng Đất Cằn. Anh hoàn toàn không rõ lý do tại sao mình lại chọn xuống xe ở đây; ngõ Kossuth không có ý nghĩa gì với anh, mà anh cũng chẳng quen ai sống ở khu này của đường Kansas. Song dường như đây là nơi anh phải đến. Anh chỉ biết có vậy, nhưng lúc này, như thế là đủ rồi. Beverly khẽ loạng choạng bước xuống xe buýt ở một trạm dừng trên đường Chính Phố Dưới. Còn Mike thì lái xe trở về thư viện.
Lúc này đây, nhìn chiếc xe buýt Mercedes nhỏ bé và có phần kỳ cục xa dần, anh tự hỏi rốt cuộc thì mình đang làm gì nơi đây, đứng ở góc đường ám muội trong một thị trấn ám muội, cách Myra, người phụ nữ hẳn đang khóc lên khóc xuống vì lo cho anh, gần tám trăm ki-lô-mét. Trong khoảnh khắc, cảm thấy choáng đến đau đớn, anh đưa tay chạm vào túi áo và nhớ ra mình đã để Dramamine cùng bao thuốc thang ở Nhà nghỉ Thị trấn. Nhưng anh còn aspirin. Anh không bao giờ ra ngoài mà thiếu aspirin, giống như việc anh không bao giờ ra ngoài mà không mặc quần vậy. Anh nuốt khan hai viên rồi sải bước dọc theo đường Kansas, mơ màng nghĩ có khi mình sẽ đến Thư viện công cộng Derry hoặc băng qua Đại lộ Costello. Trời đã sáng sủa hơn, và anh nghĩ khéo có khi anh sẽ đi bộ đến Tây Broadway, chiêm ngưỡng những căn nhà cổ xây theo lối Victoria dọc hai dãy dân cư bắt mắt duy nhất ở Derry. Hồi còn bé, thỉnh thoảng anh lại làm thế – tản bộ dọc theo Tây Broadway, thong dong như thể đang trên đường đến đâu đó. Gần góc đường Witcham và Tây Broadway là nhà của gia đình Mueller, một căn nhà đỏ với ngọn tháp hai bên cùng bờ giậu phía trước. Nhà Mueller có một người thợ làm vườn lúc nào cũng nhìn Eddie với cặp mắt dò xét cho đến tận lúc cậu đi ngang qua.
Thuốc trị buồn nôn, chóng mặt.
Tiếp đến là nhà Bowie, cách nhà Mueller bốn căn trên cùng phía, anh đoán đó là một trong những lý do Greta Bowie và Sally Mueller chơi thân với nhau từ thời tiểu học. Căn nhà lợp ngói xanh và cũng có ngọn tháp… nhưng nếu tháp nhà Mueller vuông vắn thì tháp nhà Bowie lại có chóp nhọn thấp lùn nhìn rõ là buồn cười, và trong mắt Eddie, chúng giống như mũ giấy hình nón mà học sinh hư phải đội. Vào mùa hè, họ luôn bày biện trên bãi cỏ bên rìa nhà chiếc bàn với cây dù vàng che nắng loè loẹt, ghế liễu gai, võng dây thừng cột vào hai cái cây. Đằng sau nhà luôn bày sẵn trò croquet. Eddie biết điều đó dù chưa bao giờ được mời đến nhà Greta chơi bóng. Khi đủng đỉnh bước ngang qua (như thể đang trên đường đi đến đâu đó), thỉnh thoảng Eddie lại nghe thấy tiếng bóng lịch kịch, tiếng cười đùa, tiếng cằn nhằn khi bóng bị “văng đi”. Lần nọ, cậu trông thấy Greta một tay cầm cốc nước chanh, một tay cầm gậy chơi bóng, tướng mạo thon thả và xinh xắn mà không thi sĩ nào đủ lời tán tụng (ngay cả bờ vai cháy nắng của cô cũng như ngọc như ngà trong mắt cậu bé Eddie Kaspbrak chín tuổi ngày ấy), chạy theo quả bóng bị “văng đi”; nó đập vào một cái cây rồi nảy lại, đưa Greta vào tầm nhìn của Eddie.
Ngày hôm ấy, cậu cảm thấy lòng mình khẽ rung rinh trước cô – mái tóc vàng óng ả buông xuống đôi vai trong chiếc quần giả váy ống rộng màu xanh dương mát mắt. Cô gái nhìn quanh và trong một khắc, cậu tưởng cô nhìn thấy mình, nhưng hóa ra không phải, bởi khi cậu khẽ khọt đưa tay chào, cô không giơ tay chào đáp lại mà chỉ đập bóng về lại khu vườn bên hông và chạy theo quả bóng. Cậu tiếp tục bước đi, chẳng chút cay cú vì mình chào mà không được đáp lại (cậu thật lòng cho rằng cô không nhìn thấy) hay vì chẳng bao giờ được rủ đến nhà cô tham gia bất kỳ trận croquet nào vào chiều thứ Bảy: đời nào một mỹ nhân như Greta Bowie lại muốn mời thằng nhóc như cậu kia chứ? Cậu vừa ốm o, hen suyễn, mặt lại trông như chuột chết chìm.
Phải rồi, anh thầm nghĩ, chân bước vô định trở ngược lại đường Kansas, lý ra mình nên đến Tây Broadway và ngắm nhìn những ngôi nhà năm xưa… nhà Mueller, nhà Bowie, nhà bác sĩ Hole, Trạm Xe tải của…
Suy nghĩ của anh đột nhiên dừng lại trước cái tên ấy, vì sao mà thiêng quá, vừa nhắc thì anh đã đến ngay trước Trạm Xe tải của Anh em Tracker rồi đây.
“Vẫn ở đây,” Eddie nói to rồi phá lên cười. “Đánh chết vẫn còn!”
Căn nhà ở Tây Broadway thuộc về Phil và Tony Tracker, hai anh em nhà này ở vậy cả đời, có lẽ là căn nhà xinh xắn nhất trong số những căn nhà nguy nga bề thế trên con đường ấy, căn nhà trắng thanh thoát, xây theo lối kiến trúc giữa thời Victoria với bãi cỏ xanh cùng những luống hoa lớn luôn khoe sắc (tất nhiên là một cách trật tự, đẹp mắt) suốt mùa xuân và mùa hạ. Năm nào cũng vậy, vào mùa thu, đường dẫn vào nhà họ lại được trải nhựa mới để giữ cho bề mặt luôn đen bóng như gương, ngói bằng đá phiến xếp trên mái nhà nghiêng nghiêng lúc nào cũng tươi mát một màu xanh bạc hà hoàn hảo, gần như tiệp màu với khu vườn, và thỉnh thoảng, người ta lại dừng chân để chụp hình những song cửa sổ cổ xưa, đầy ấn tượng.
“Đàn ông đàn ang giữ cho nhà đẹp như thế thì chỉ có đám đồng bóng,” mẹ của Eddie từng làu bàu như thế nhưng lúc ấy cậu không dám hỏi thêm cho rõ.
Trạm Xe tải ở Tây Broadway lại một trời một vực so với căn nhà của anh em Tracker. Trạm xây bằng gạch khá thấp, nhiều chỗ gạch cũ nên vỡ cả ra, thứ màu cam dơ dáy chuyển sang màu bồ hóng đen đúa ở chân tòa nhà. Dãy cửa sổ cái nào cái nấy đều bẩn tàn tệ, trừ một khung cửa sổ tầm thấp ở khu văn phòng nhân viên điều độ được lau thành vòng tròn sạch sẽ. Khung cửa này được giữ sạch bong bởi những đứa trẻ trước thời Eddie và các bạn, vì tay nhân viên điều độ treo bộ lịch Playboy sau bàn. Những cậu nhóc đến chơi bóng chày ở khu đất đằng sau cũng sẽ dừng lại, lấy găng bóng chày chùi lên kính để xem tháng này là hình cô nàng nóng bỏng nào.
Bao quanh ba mặt của trạm xe tải là bãi đá sỏi. Tất cả những chiếc xe tải đường dài – hãng Jimmy-Pete, Kenworth, Rio – đều được sơn dòng chữ ANH EM TRACKER, DERRY NEWTON PROVIDENCE HARTFORD NEW YORK, lắm lúc để bừa bãi vô trật tự. Thỉnh thoảng, xe được lắp ráp nguyên vẹn nhưng có khi chỉ có đầu xe hoặc thân xe im lìm đứng trên bánh sau và thanh chống.
Hai anh em nhà này chất xe tải ngoài khu đất đằng sau tòa nhà nhiều nhất có thể, vì cả hai hâm mộ bóng chày cuồng nhiệt và rất thích đám trẻ đến chơi. Phil Tracker trực tiếp lái xe chở hàng nên các cậu bé chẳng mấy khi gặp ông, còn Tony Tracker, một người đàn ông vai u thịt bắp, đảm nhận nhiệm vụ sổ sách kế toán, và Eddie (cậu chẳng bao giờ chơi bóng chày - mẹ cậu sẽ cắt tiết cậu nếu biết cậu xớ rớ chơi, chạy lòng vòng rồi hít bụi vào buồng phổi mỏng manh của mình, rủi may gãy chân, chấn động, và có Chúa mới biết còn ti tỉ nguy cơ gì) không lạ gì gương mặt ông. Ông như một phần bất biến của mùa hè, với Richie, ngày ấy, giọng ông là một phần của trận bóng, giống như sau này, nhắc tới chương trình thể thao là nhắc tới giọng phát thanh của Mel Allen: Tony Tracker, to lớn nhưng có gì đó ma mị, chiếc áo thun trắng ánh lên khi tà dương mùa hạ buông xuống và đom đóm bắt đầu lập lòe trong không trung, giọng vang vang: “Chúi xuống dưới cả bóng rồi hẵng chụp, Tóc Đỏ! … Sao lại rời mắt khỏi cả bóng hả, Nửa Panh! Không nhìn thì đánh bóng bằng niềm tin à! … Trượt đi, Chân Ngựa! Đạp thắng gót đôi Keds vào mặt chốt gôn hai đi, có vậy nó mới không loại cậu được!”
Eddie nhớ ông chẳng bao giờ gọi đám trẻ bằng tên mà suốt ngày ê Tóc Đỏ, ê Tóc Vàng, ê Bốn Mắt, ê Nửa Panh. Ông không gọi quả bóng mà phát âm cả bóng. Ông không gọi gậy đánh bóng mà đặt cái tên cán tần bì, ví dụ “Cầm cán tần bì cao lên thì mới đập được cả banh ấy, Chân Ngựa”.
Miệng nhoẻn cười, Eddie tiến lại… nhưng rồi nụ cười tắt ngúm. Trước đây, tòa nhà bằng gạch dài này là nơi đơn hàng được giải quyết, xe tải được sửa chữa, hàng hóa được lưu trữ tạm thời, song hiện tại, nó im lìm và tối tăm. Cỏ dại len lỏi qua mặt sỏi, và ở hai bên sân không có chiếc xe tải nào… chỉ có một thùng xe gỉ sét và xỉn màu.
Bước lại gần hơn, anh trông thấy tấm biển BÁN NHÀ của công ty nhà đất trên cửa sổ.
Nhà Tracker dẹp tiệm rồi, anh thầm nghĩ, bất ngờ trước nỗi buồn ập đến cùng suy nghĩ kia… tựa hồ ai đó vừa ra đi. Giờ anh mới thấy mừng là mình đã không đi bộ đến Tây Broadway. Nếu Anh em Tracker mà còn sa cơ lỡ vận – Anh em Tracker, những người tưởng chừng sẽ trường tồn cùng năm tháng - vậy điều gì sẽ xảy ra với con phố ngày xưa anh từng thích dạo bộ? Anh khó chịu nhận ra mình chẳng muốn biết điều đó chút nào. Anh không muốn nhìn thấy tóc Greta Bowie lấm tấm bạc, hông và chân cô to bè do ngồi nhiều, ăn nhiều, uống nhiều, khuất mắt trông coi thì tốt hơn – an toàn hơn.
Đó là điều lý ra chúng ta nên làm, lý ra ta phải tránh xa. Ta chẳng có việc gì ở đây. Trở về nơi ta lớn lên chẳng khác nào làm một động tác yoga điên rồ, nhét chân vào miệng của mình rồi tự nuốt bản thân cho đến khi chẳng còn gì sót lại, đó là điều bất khả, và bất cứ người nào đầu óc bình thường nên lấy làm vui mừng vì nó bất khả… nhưng suy cho cùng, chẳng biết chuyện gì đã xảy ra với Tony và Phil Tracker?
Khéo có khi Tony bị trụy tim; ngày xưa người ông phải dôi ba mươi lăm kí lô là ít. Ta phải chú ý xem tim phổi thế nào. Thi sĩ có thể dạt dào những áng thơ về trái tim tan vỡ, Barry Manilow có thể ngân vang về chủ đề ấy, và Eddie chẳng có gì phàn nàn (anh và Myra có tất cả mọi album Barry Manilow thu âm), nhưng bản thân anh mong muốn điện tâm đồ hằng năm của mình giữ ở mức ổn định. Hẳn trái tim của Tony cố quá, để rồi kết cục là quá cố. Còn Phil thì sao nhỉ? Có khi ông gặp vận hạn trên đường cao tốc cũng nên. Eddie cũng lái xe kiếm sống (hay nói đúng hơn ngày xưa là thế, hiện thời, anh chỉ đưa đón người nổi tiếng, còn bao nhiêu thời gian thì lèo lái bàn giấy) nên anh hiểu thế nào là xui rủi trên đường đi. Có khi xe tải mà ông Phil già lái bị trượt khiến rơ moóc bung ra đâu đó ở New Hampshire hoặc ở rừng Hainesville phía Bắc Maine, nơi đường đóng băng, hoặc có khi ông mất phanh khi đang đi lên một ngọn đồi dài phía Nam Derry, chạy về hướng Haven trong cơn mưa xuân. Có thể là thế, hoặc có thể nguyên nhân là những điều ta nghe trong mấy bài hát đồng quê nhảm nhí về tài xế xe tải đội mũ Stetson và nghĩ tới việc ăn chả ăn nem trong đầu. Lắm lúc điều hành bàn giấy là một công việc cô đơn, nhưng bản thân Eddie đã ngồi sau tay lái nhiều lần, ống thở đồng hành cùng anh trên bảng đồng hồ xe, cò ống phản chiếu mờ ảo trên kính chắn gió (và một xô thuốc trong ngăn đựng găng tay), anh biết cô đơn thực sự mang màu nhoe nhoét đỏ: màu đèn kính hậu chiếc xe phía trước phản chiếu trên mặt đường nhựa ướt mưa.
“Ôi khốn thật, thời gian chẳng chừa một ai,” Eddie Kaspbrak thở dài thì thầm, anh thậm chí còn chẳng để ý mình vừa thốt nên lời.
Lòng vừa lặng sóng lại vừa không vui – một cảm giác quá đỗi quen thuộc đến độ anh còn thấy khó tin – Eddie đi vòng qua tòa nhà, đôi giày hiệu Gucci lạo xạo trên mặt sỏi, để nhìn khu đất hay tổ chức chơi bóng chày thời anh còn bé – thời mà dường như chín mươi phần trăm dân số thế giới đều là trẻ con.
Khu đất chẳng thay đổi là bao, nhưng dáng vẻ của nó đủ để anh biết chẳng còn ai chơi bóng chày ở đây nữa – truyền thống ấy đơn giản là đã mai một theo dòng thời gian vì lý do này hay lý do khác.
Năm 1958, hình dạng kim cương của sân cỏ không được vẽ bằng các đường vôi mà in hằn dấu chân bọn trẻ chạy. Những cậu bé chơi bóng chày ở đây (tất cả đều lớn tuổi hơn Hội Cùi Bắp, dù Eddie nhớ ngày đó thỉnh thoảng Stan Uris cũng nhập hội; cậu đập bóng ở mức bình thường nhưng ở sân ngoài, cậu chạy nhanh như bay và phản xạ nhạy như cắt) cũng chẳng có chốt gôn thật, chỉ có bốn miếng bạt dơ dáy lúc nào cũng nhét dưới khu nhập hàng hóa đằng sau tòa n