Chương 13 TRẬN NÉM ĐÁ ĐỊNH MỆNH
1
Bill đến đầu tiên. Anh ngồi trên chiếc ghế bành ngay bên trong cửa Phòng Đọc nhìn Mike giải quyết những vị khách cuối cùng của thư viện buổi tối hôm ấy – một cụ bà cầm theo chồng sách văn học Gothic, một người đàn ông cầm cuốn sách khổng lồ về Lịch sử Nội chiến cùng một cậu con trai gầy gò xếp hàng đợi mượn cuốn tiểu thuyết có dán mác cho mượn bảy ngày bên góc trên cùng của bìa nhựa. Bill nhìn mà chẳng có chút ngạc nhiên hay thần kỳ nào khi nhận ra đó chính là cuốn tiểu thuyết mới nhất của mình. Anh cảm thấy bất ngờ nằm ngoài tầm với của anh, còn thần kỳ là một thực tế mà ta tự huyễn hoặc để rồi nhận ra nó chỉ là giấc mộng.
Một cô gái xinh xắn, mặc váy ca rô giữ cố định bằng một kim băng vàng rất to (Chúa ơi, mấy năm rồi mình mới thấy kim băng, Bill thầm nghĩ, chúng thành xu hướng trở lại rồi sao?) đang bỏ giấy vào máy in Xerox và sao lại phiên bản bổ sung của cuốn sách, mắt dẫn theo dõi nhất cử nhất động của chiếc đồng hồ quả lắc đồ sộ đằng sau quầy mượn trả sách. Tiếng động nhẹ nhàng, dễ chịu điển hình của thư viện: tiếng gót giày, tiếng giày cao gót khẽ lóc cóc trên sàn nhà lót vải dầu họa tiết đen đỏ; tiếng đồng hồ đều đặn tích tắc điểm từng phút từng giây, tiếng máy in nghe như tiếng mèo gầm gừ.
Cậu thiếu niên cầm cuốn tiểu thuyết của William Denbrough đến chỗ cô gái đứng ở máy phô-tô lúc cô vừa làm xong và bắt đầu sắp xếp các trang giấy sao cho vuông vức.
“Cháu cứ để bản in bổ sung trên bàn nhé, Mary,” Mike nói. “Để chú cất cho.”
Cô gái nở nụ cười biết ơn. “Cảm ơn chú Hanlon.”
“Chúc cháu ngủ ngon. Cháu cũng ngủ ngon nhé, Billy. Hai đứa về nhà ngay đi.”
“Kẻo ông ba bị bắt cóc bây giờ… liệu… hồn!” Billy, cậu nhóc gầy gò ngân nga, đoạn vòng tay qua cái eo con kiến của cô bé.
“Chà, chú đoán ông ấy chẳng cần cặp đôi thấy mà ghê như hai đứa đâu,” Mike đùa, “nhưng cẩn tắc vô áy náy.”
“Bọn cháu sẽ về ngay, chú Hanlon,” Mary nghiêm nghị đáp, đoạn cô đấm yêu lên vai cậu bạn trai của mình. “Đi nào, thấy mà ghê,” cô nói rồi cười khúc khích. Khi cô bé làm thế, cô biến từ một cô nữ sinh trung học xinh xắn, với vài anh chàng trồng cây si thành cô bé Beverly Marsh mười một tuổi tràn đầy năng lượng, có chút vụng về ngày xưa… và khi hai đứa trẻ đi ngang qua, Bill thoáng rùng mình trước vẻ đẹp của cô bé… đồng thời, anh thấy sợ hãi; anh những muốn đến chỗ cậu thiếu niên chân thành kia khuyên cậu phải đi về nhà bằng con đường đèn đuốc sáng trưng, dù có ai bắt chuyện cũng không được ngó quanh quất.
Trượt ván sao mà cẩn thận được ạ, giọng nói ma mị vang lên trong đầu anh, để rồi Bill nở nụ cười của một người lớn phiền muộn.
Anh nhìn cậu mở cửa cho người yêu. Hai đứa trẻ cùng bước ra tiền sảnh, nhích lại gần nhau hơn, và Bill dám đem phí bản quyền của cuốn sách mà cậu nhóc tên Bill ấy đang cắp dưới nách rằng cậu vừa lén hôn cô bé trước khi mở cửa cho cô. Nếu không làm được thì cháu là đồ vứt đi, Billy ạ, anh thầm nhủ. Giờ thì đưa cô bé về nhà an toàn. Vì Chúa, hãy đưa bạn của mình về nhà an toàn cháu nhé!
Mike gọi anh, “Tớ vào với cậu ngay đây, Bill To Bự! Đợi tớ xếp xong hồ sơ đã nhé.” Bill gật đầu và bắt tréo chân. Túi giấy trong lòng anh khẽ loạt soạt. Bên trong để chai bourbon, và anh nhận ra cả đời anh chưa bao giờ muốn nhấp một ly như hiện tại. Mike có thể cho anh thêm chút nước, đá thì càng tốt – và theo như những gì anh cảm nhận hiện tại, châm một chút nước là đủ rồi.
Anh nghĩ về Ánh Bạc, chiếc xe đang tựa vào tường ga-ra của Mike ở ngõ Palmer. Từ đó, dòng suy nghĩ của anh trôi miên man về cái ngày họ gặp nhau ở Vùng Đất Cằn – chỉ thiếu mỗi Mike – mỗi người lại kể về câu chuyện mà mình gặp phải: gã hủi dưới hiên nhà; xác ướp bước trên băng, máu phọt ra từ lỗ thoát nước, những cậu bé chết trong Standpipe; bức hình chuyển động và Người sói đuổi theo bọn họ xuống con đường vắng.
Giờ thì anh đã nhớ ra, ngày hôm ấy, trước ngày 4 tháng 7 một ngày, họ đã đi sâu hơn vào Vùng Đất Cằn. Trong thị trấn rất oi bức, nhưng trong những bóng râm um tùm bên bờ phía Đông của con sông Kenduskeag thì vô cùng mát mẻ. Anh nhớ cách đó không xa là ống trụ bê tông, ầm ì kêu như chiếc máy Xerox lúc cô bé kia thao tác. Bill đã nhớ ra rồi, nhớ cả chi tiết sau khi mọi người kể hết mọi chuyện, họ quay sang nhìn anh ra sao.
Mọi người muốn anh nói cho họ biết họ nên làm gì tiếp theo, họ nên hành xử thế nào, nhưng anh nào có hay. Vì không biết mà lòng anh cảm thấy rối như tơ vò.
Nhìn bóng của Mike đổ xuống, to lớn trên bức tường kẻ ô tối màu trong phòng tham khảo, bất chợt một cảm giác chắc chắn ập đến: ngày ấy anh không biết là vì khi đối mặt với buổi chiều ngày 3 tháng 7, họ vẫn chưa hoàn thiện. Phải đến sau đó, sự hoàn thiện mới gõ cửa, ở bãi đá dăm bị bỏ hoang phía bên kia bãi rác, nơi ta có thể dễ dàng trèo ra khỏi Vùng Đất Cằn từ hai hướng: hướng đường Kansas hoặc đường Merit. Hiện tại, nó chính là vị trí của cầu vượt Liên tiểu bang. Bãi đá dăm không có tên; nó đã cũ lắm rồi, rìa bãi đá vụn bở, lác đác cỏ dại và bụi cây. Được cái, ở đó có thừa đạn dược - dư sức cho trận ném đá một mất một còn.
Nhưng trước đó, trên bờ sông Kenduskeag, cậu bé Bill chẳng biết nói gì – chúng bạn muốn cậu nói gì mới được? Còn bản thân cậu muốn nói gì? Anh nhớ mình đã đưa mắt nhìn từng khuôn mặt: Ben; Bev, Eddie; Stan; Richie. Và anh nhớ một bản nhạc. Richard Nhỏ Bé. “Whomp-bomp-a-lomp-bomp…” Âm nhạc. Ì ầm. Những tia sáng lóe lên trong mắt. Anh nhớ những tia sáng ấy là vì…
2Richie treo đài xách tay lên cành thấp nhất của cái cây mà cậu đang tựa vào. Cả bọn đang ngồi trong bóng râm, nhưng mặt trời vẫn phản chiếu từ mặt sông Kenduskeag vào lớp vỏ crôm bọc đài, hay háy vào mắt Bill.
“B-Bỏ cái th-thứ đó x-x-xuống đi, R-R-Richie,” Bill nói. “Kẻo tớ m-mù b-b-bây giờ.”
“Được thôi, Bill To Bự,” Richie liền đáp, không láu táu chen thêm bất cứ lời nào và tháo đài khỏi cành cây. Cậu cũng tắt nó đi, nhưng Bill ước gì bạn mình không làm thế, bởi nó khiến sự tĩnh mịch, chỉ bị gián đoạn bởi tiếng nước róc rách và tiếng máy bơm nước thải ầm ì khe khẽ, trở nên thật to. Bọn họ đưa mắt dõi theo cậu, và cậu những muốn bảo họ nhìn qua chỗ khác, họ nghĩ cậu là gì, đồ quái dị chắc ?
Song tất nhiên, cậu không thể làm thế, bởi tất cả những gì nhóm bạn đang làm là đợi cậu nói cho họ biết hành động nên làm lúc này là gì. Họ đã phát hiện ra những điều khủng khiếp, và họ cần cậu cho họ định hướng. Tại sao lại là tớ? Cậu chỉ muốn hét vào mặt cả bọn, nhưng tất nhiên, cậu thừa hiểu lý do. Là vì dù thích hay không thích, cậu vẫn là người được lựa chọn cho vị trí ấy. Vì cậu là người đưa ra ý tưởng, vì cậu là người mất em trai mình vào tay thứ đó, nhưng phần nhiều là bởi cậu đã trở thành Bill To Bự, bằng những cách kỳ lạ mà bản thân cậu cũng chẳng tài nào hiểu hết.
Liếc nhìn Beverly, cậu vội quay đi trước sự tin cẩn đầy an tâm trong đôi mắt cô. Chẳng hiểu sao, cứ nhìn Beverly là cậu cảm thấy bụng mình chộn rộn, rung rinh không yên.
“Chúng ta kh-không thể đến gặp c-c-cảnh sát,” cuối cùng, cậu lên tiếng. Bản thân cậu nghe mà còn thấy giọng mình đanh lại, quá vang vọng. “Chúng ta cũng kh-kh-không thể nh-nhờ b-b-bố mẹ. Ngoại trừ…” Cậu nhìn Richie với nét mặt đầy hy vọng. “Còn b-b-bố m-mẹ cậu th-thì sao, bốn mắt? Hai bác c-có vẻ kh-khá b-b-bình thường.”
“Thưa quý thân hữu,” Richie bắt chước giọng Quản gia Toodles, “rõ ràng anh không hiểu gì về hai đấng phụ mẫu của tôi. Họ…”
“Nói tiếng Mỹ đi, Richie,” Eddie lên tiếng từ chỗ ngồi bên cạnh Ben. Cậu ngồi cạnh Ben đơn giản là vì Ben tạo bóng râm đủ lớn cho Eddie hưởng sái. Mặt cậu trông thỏ thó, quắt lại đầy âu lo - gương mặt của một ông già. Tay phải của cậu nắm chặt ống thở.
“Bố mẹ tớ sẽ đưa tớ vào Đồi Juniper thì có,” Richie nói. Hôm nay, cậu đeo cặp kính cũ. Hôm trước, một thằng bạn của Henry Bowers mang tên Card Jagermeyer đã rình Richie lúc cậu vừa rời khỏi Quầy kem Derry với que kem ốc quế vị hồ trăn trên tay. “Bắt được mày rồi nhé!” Jagermeyer, đô con hơn Richie gần hai mươi cân, hét toáng lên, hai tay khuỳnh lại, tông đánh rầm vào lưng Richie. Cậu bay thẳng xuống mương, đi tong cặp kính và que kem ốc quế. Tròng kính bên trái bể vụn khiến mẹ cậu nổi trận lôi đình, chẳng buồn đếm xỉa đến lời giải thích của Richie.
“Con đùa giỡn quá trớn rồi đấy,” bà nghiêm giọng. “Đến bó tay với con, Richie ạ, con tưởng kính mọc trên cây, hễ khi nào con làm bể thì mình chỉ việc tới đấy hái cặp kính mới hả?”
“Nhưng mẹ ơi, tại cậu ta đẩy con mà, nó rình sau lưng con, đã vậy còn to con nữa…” Đến lúc này, nước mắt Richie đã lưng tròng. Không giải thích cho mẹ hiểu được còn tổn thương hơn việc bị Card Jagermeyer, cái thằng đầu óc ngu si đến độ nhà trường chẳng buồn bắt nó học hè, xô xuống cống gấp vạn lần.
“Mẹ không muốn nghe con lý do lý trấu nữa,” bà Maggie Tozier thẳng thừng. “Nhưng lần tới, khi con thấy bố về, mệt nhoài sau ba đêm liên tục làm khuya, con hãy biết nghĩ một chút đi, Richie. Liệu mà biết nghĩ.”
“Nhưng mẹ..”
“Thôi ngay. Mẹ nói rồi mà.” Giọng bà cộc lốc, và còn tệ hơn nữa, bà chực khóc. Đoạn mẹ cậu rời khỏi phòng, tiếng ti vi oang oang điếc cả tai. Richie bị bỏ lại một mình, bơ vơ ngồi ở bàn bếp.
Ký ức ấy khiến Richie lắc đầu nguầy nguậy. “Bố mẹ tớ bình thường, nhưng còn khuya họ mới tin những chuyện như vậy.”
“C-Còn nh-những người khác th-thì sao?”
Nhiều năm sau, Bill nhớ lại cảnh cả đám nhìn quanh như thể tìm một người vắng mặt lúc ấy.
“Ai kia?” Stan nghi ngờ hỏi. “Tớ chẳng nghĩ ra ai mình có thể tin cả.”
“Tớ c-c-cũng vậy…” Bill nói đầy trầm tư, và sự im lặng bao trùm cả bọn trong lúc Bill nghĩ xem nên nói gì tiếp theo.
3Nếu được hỏi, Ben Hanscom sẽ nói Henry Bowers ghét cậu hơn bất cứ thành viên nào trong Hội Cùi Bắp vì chuyện xảy ra vào cái ngày cậu và Henry chơi trò trượt máng xuống thẳng Vùng Đất Cằn từ đường Kansas, vì chuyện xảy ra vào cái ngày cậu, Richie và Beverly trốn khỏi tay bọn chúng ở rạp Aladdin, nhưng lý do lớn nhất là vì cậu không chịu để Henry quay cóp bài khiến hắn ta bị bắt đi học phụ đạo hè và chịu trận lôi đình của ông bố Butch Bowers nổi tiếng điên khùng.
Nếu được hỏi, Richie Tozier sẽ đáp Henry ghét cậu hơn bất cứ ai trong nhóm, nguyên nhân là vì cái ngày cậu lừa Henry cùng hai thằng lính ngự lâm kia ở Freese’s.
Stan Uris sẽ nói Henry ghét cậu nhất trong số mọi người vì cậu là người Do Thái (khi Stan học lớp Ba và Henry học lớp Năm, có lần Henry từng lấy tuyết chà lên mặt Stan cho đến khi chảy máu, cậu hoảng loạn la hét vì đau và sợ hãi).
Bill Denbrough lại cho rằng Henry ghét cậu nhất vì cậu ốm nhom, vì cậu nói lắp và vì lúc nào cậu cũng ăn mặc chỉnh tề (“Nh-Nh-Nhìn c-c-cái th-thằng đ-đồng bóng ch-chết t-t-t-toi kìa!” Vào tháng Tư, trường Derry tổ chức Ngày việc làm, Henry đã ré lên như thế khi thấy Bill đeo cà vạt tham gia; ngày hôm ấy chưa kết thúc thì cà vạt đã bị giật khỏi cổ cậu và treo lủng lẳng trên cái cây lưng chừng đường Charter).
Đúng là hắn ta ghét cả bốn người bọn họ, nhưng đối tượng số một trong danh sách căm ghét của Henry ở Derry chưa tham gia Hội Cùi Bắp vào ngày mùng 3 tháng 7, đó chính là cậu bé da đen tên là Michael Hanlon, sống cách nông trại nhà Bowers khoảng bốn trăm mét.
Bố của Henry, điên rồ đúng như bàn dân thiên hạ đồn đại, tên đầy đủ là Oscar “Butch” Bowers. Butch Bowers quy sự xuống dốc về mặt tài chính, sức khỏe và tinh thần của mình cho nhà Hanlon nói chung và cho bố của Mike nói riêng. Hắn suốt ngày rền rĩ với nhóm bằng hữu ít ỏi và cậu con trai của mình rằng Will Hanlon đã khiến hắn bị tống vào nhà tù hạt khi đàn gà của nhà Hanlon chết. “Để nó ăn được tiền bảo hiểm chứ gì nữa,” Butch nói, đưa mắt nhìn cử tọa của mình với ánh nhìn gây hấn đầy nanh nọc thử-nhảy-vào-mồm-tao-xem của Thuyền trưởng Billy Jones trong Đô đốc Benbow . “Nó có vài người bạn hùa vào bịa chuyện, đó là lý do tao phải bán con xe Mercury.”
“Ai đã bịa chuyện vậy bố?” Henry hỏi câu này lúc lên tám tuổi, lòng sôi sùng sục trước sự bất công mà bố mình phải chịu đựng. Hắn tự nhủ khi nào lớn lên, hắn sẽ tìm cho ra những kẻ bịa chuyện, phết mật ong đầy người bọn chúng rồi trói bọn chúng trên đồi kiến như trong mấy bộ phim phương Tây người ta chiếu ở rạp Bijou vào chiều thứ Bảy.
Có thằng con trai lắng nghe như nuốt từng lời vàng ý ngọc (dù nếu được hỏi, Butch sẽ cho rằng đó là điều dĩ nhiên), Bowers bố rót đầy tai con mình những tràng căm ghét và xui rủi. Hắn giải thích với con rằng dân mọi đen rặt một lũ ngu si, nhiều kẻ còn ranh mãnh như cáo – trong thâm tâm, bọn chúng căm ghét dân da trắng và chỉ muốn cày nát đám đàn bà da trắng. Butch bảo có khi không chỉ dừng lại ở tiền bảo hiểm, có khi Hanlon quyết định đổ vấy việc đàn gà chết ngoéo vào đầu hắn vì Butch sắp sửa thu hoạch nông sản đem bán ở sạp hàng dưới đường. Mà dù gì thì thằng mọi đen cũng đã chơi Butch một vố, đó là điều chắc chắn như cứt bám trên chăn. Hắn gắp lửa bỏ tay người, bắt một đám mọi da trắng rứt gan rứt ruột phản trắc thị trấn này, hùa theo hắn bịa chuyện và đe dọa tống Butch vào nhà tù bang nếu hắn không chịu xì tiền cho thằng mọi đen. “Mà tại sao không?” Butch hỏi thằng con cổ đầy ghét và đang tròn xoe mắt nhìn mình. “Tại sao không? Tao chỉ là một gã chống Nhật cho đất nước này. Có khối người như bố mày, nhưng hắn là gã da đen duy nhất trong hạt.”
Họa vô đơn chí, sau vụ gà qué lại đến chuỗi tai nạn xui xẻo khác – chiếc xe tải Deere của hắn bị gãy thanh truyền; cái bừa xịn của gã bị hỏng ở cánh đồng phía Bắc, bản thân hắn bị nhọt ngay cổ, nó bị nhiễm trùng nên phải chọc vỡ, rồi lại bị nhiễm trùng lần nữa và lần này phải phẫu thuật để lấy ra; thằng mọi đen bắt đầu dùng số tiền ăn chặn từ hắn để bán phá giá so với giá của Butch, báo hại hắn mất khách.
Ra rả vào tai Henry là những tràng rủa xả: thằng mọi đen, thằng mọi đen, thằng mọi đen. Tất cả là lỗi của thằng mọi đen. Thằng mọi đen có căn nhà sơn trắng xinh xắn, một lầu, có cả lò sưởi bằng dầu trong khi vợ chồng Butch cùng con trai phải sống trong một nơi xập xệ chẳng khác gì lều tranh vách đất. Khi Butch không kiếm đủ tiền từ công việc làm nông và phải vào rừng làm việc suốt thời gian dài, đó là lỗi của thằng mọi đen. Năm 1956, giếng nhà hắn cạn khô, ấy cũng là lỗi của thằng mọi đen.
Cuối năm đó, Henry, khi ấy mười tuổi, bắt đầu cho Mr Chips của Mike xí quách và khoai tây chiên. Dần dà, Mr Chips sẽ vẫy đuôi chạy đến mỗi khi Henry gọi. Thấy con chó đã quen với mình và đồ ăn mình cho, một ngày nọ, Henry cho chú chó ăn nửa ký thịt xay trộn thuốc diệt côn trùng. Hắn tìm được lọ thuốc diệt côn trùng trong nhà kho sau nhà; còn thịt xay được hắn mua ở Costello’s bằng tiền tiết kiệm ba tuần của hắn.
Mr Chips ăn được một nửa phần thịt tẩm độc thì ngưng. “Tiếp đi, ăn nốt đi nào, Chó mọi đen” Henry nói. Mr Chips vẫy đuôi. Ngay từ ban đầu, Henry gọi chú chó với cái tên này và cứ đinh ninh ấy là tên của nó. Khi chú chó bắt đầu quằn quại, Henry lấy dây phơi quần áo cột nó vào cây cáng lò để chú chó không thể chạy về nhà. Đoạn hắn ngồi trên tảng đá bằng phẳng, ấm áp do được mặt trời sưởi nắng, chống cằm lên hai lòng bàn tay và nhìn chú chó ngắc ngoải. Mất một khoảng thời gian rất lâu nhưng Henry thấy khoảng thời gian ấy vô cùng đáng giá. Cuối cùng, Mr Chips bắt đầu co giật và bọt màu xanh sùi ra từ giữa hai hàm răng của nó.
“Mày thấy sao, Chó mọi đen?” Henry hỏi chú chó, nó ngước đôi mắt đang thoi thóp về phía giọng nói của hắn và cố gắng vẫy đuôi. “Mày có thích bữa trưa của mày không, con chó chết giẫm kia?”
Khi chú chó đã chết, Henry tháo dây, về nhà rồi kể với bố điều mình vừa làm. Lúc ấy, Oscar Bowers đã hoàn toàn phát điên; một năm sau, vợ hắn bỏ của chạy lấy người sau khi bị hắn đánh cho thừa sống thiếu chết. Henry cũng sợ bố một phép, thỉnh thoảng còn ghét ông ta tận xương tủy, nhưng đồng thời, hắn cũng thương bố mình. Và chiều hôm ấy, sau khi kể lại chiến tích, hắn cảm thấy cuối cùng mình đã tìm ra chìa khóa dẫn vào tình thương của bố, vì bố đã vỗ rất mạnh vào lưng hắn (mạnh đến độ Henry suýt chút nữa ngã lăn), đưa hắn vào phòng khách uống bia. Đó là chai bia đầu tiên Henry uống trong đời, và kể từ đó, hắn gắn liền hương vị ấy với cảm xúc tích cực: chiến thắng và yêu thương.
“Chúc mừng chiến tích quá sức tuyệt vời, ông bố điên khùng của Henry nói. Bọn chúng cụng hai chai bia nâu rồi tu ừng ực. Theo như Henry biết, nhà mọi đen không tìm ra thủ phạm giết con chó, nhưng hắn đoán chúng có nghi ngờ trong đầu. Hắn mong chúng nghi ngờ cho bõ ghét.
Các thành viên khác trong Hội Cùi Bắp đều đã biết mặt Mike - trong thị trấn có mỗi mình cậu là người da đen thì không biết mới lạ - nhưng chỉ có thế, vì Mike không đi học ở trường Tiểu học Derry. Mẹ cậu là tín hữu Baptist mộ đạo nên Mike được gửi vào trường Nhà thờ đường Neibolt. Đan xen với các môn Địa lý, Ngữ văn và số học có các giờ học về Kinh Thánh, bài học về các chủ đề như Ý nghĩa của Mười điều răn trong Thế giới Vô thần, thảo luận nhóm về cách hành xử trước các vấn đề đạo đức hằng ngày (ví dụ, nếu thấy bạn ăn cắp vặt hay nghe thấy giáo viên báng bổ Chúa).
Mike thấy trường Nhà thờ cũng ổn. Thỉnh thoảng, cậu ngờ ngợ không biết mình có đang bỏ lỡ mất thứ gì hay không - tỉ dụ như giao lưu với những bạn bè đồng trang lứa chẳng hạn – nhưng cậu sẵn lòng đợi lên trung học cho những điều này xảy ra. Viễn cảnh tương lại khiến cậu hơi lo vì cậu có làn da nâu, nhưng Mike cảm thấy cả bố lẫn mẹ mình đều được người trong thị trấn đối xử rất tốt, thành thử cậu tin mình cũng sẽ được đối xử tốt nếu sống tốt với mọi người.
Tất nhiên, ngoại lệ của quy tắc này chính là Henry Bowers.
Dù cố gắng khỏa lấp được chừng nào hay chừng đó, Mike vẫn rất sợ Henry. Vào năm 1958, Mike có tướng người mảnh khảnh và cao ráo, cao hơn Stan Uris nhưng không cao bằng Bill Denbrough. Nhờ nhanh nhẹn và lanh lợi mà không ít lần, cậu thoát khỏi tay của Henry. Chưa kể, cậu học khác trường. Vì điều này và vì khoảng cách tuổi tác, con đường của hai người ít khi chạm nhau. Mike trầy vi tróc vảy mới giữ được tình thế ấy. Tóm lại, trớ trêu ở chỗ dù Henry ghét Mike Hanlon hơn bất cứ đứa trẻ nào ở Derry, Mike lại là người ít bị tẩn nhất.
Ồ, nhưng cậu cũng từng lên bờ xuống ruộng. Mùa xuân sau khi giết chú chó nhà Mike, một ngày nọ, Henry nhào ra từ bụi cây khi Mike đang trên đường đến thư viện. Lúc ấy đang là cuối tháng Ba, tiết trời đủ ấm để đạp xe, nhưng vào thời điểm ấy, đường Witcham từ đoạn nhà Bowers mới chỉ là đường đất, vô cùng sình lầy nên đạp xe không ăn thua.
“Xin chào, mọi đen,” Henry nói, lù lù hiện ra từ bụi rậm với nụ cười trên môi.
Mike lùi lại, mắt lia lịa đảo trái đảo phải để tìm cơ hội tẩu thoát. Cậu biết nếu vòng qua người Henry thành công, cậu có thể trốn khỏi hẳn. Henry to con và mạnh bạo nhưng chậm chạp.
“Tao phải làm một bù nhìn bằng hắc ín mới được.” Henry nói và lầm lừ tiến lại cậu bé nhỏ con. “Tao thấy mày chưa đen lắm, để tạo sửa cho.”
Mike đánh mắt sang trái, xoay người về hướng ấy. Henry mắc bẫy và vùng chạy về phía này - quá nhanh và quá trớn nên không kéo lại kịp. Đảo chiều rất ngọt và nhanh như cắt, Mike chạy về phía bên phải (lên trung học được hai năm, cậu tham gia đội bóng đại diện trường ở vị trí hậu vệ, và suýt chút nữa đã phá vỡ kỷ lục ghi điểm của trường, tiếc là vào mùa giải năm lớp Mười hai, cậu bị gãy chân). Nếu không trượt chân khi chạy qua vũng bùn thì cậu đã dễ dàng vượt qua Henry. Bùn trơn làm Mike vấp ngã. Trước khi cậu kịp đứng dậy thì Henry đã trờ tới.
“Mọi đen mọi đen mọi đen!” Henry ré lên một cách sung sướng lúc lật người Mike lại. Bùn dính từ lưng áo Mike xuống đũng quần. Cậu có thể cảm thấy bùn nhoe nhoét trong giày. Nhưng cậu cố kìm nước mắt cho đến khi Henry bôi bùn lên mặt và bít kín lỗ mũi cậu.
“Giờ thì mày đen rồi đây này!” Henry vừa hí hửng hét vừa trét bùn lên tóc Mike. “Giờ mày đen ơi là đen rồi!” Hắn xé áo khoác và áo thun Mike mặc bên dưới rồi ném một nắm bùn to tướng vào lỗ rốn cậu. “Giờ mày đen như nửa đêm trong GIẾNG MỎ nhé!” Henry thét lên thắng lợi, sau đó nhét bùn vào tai Mike. Đoạn hắn lùi lại, bàn tay nhoe nhoét bùn móc vào thắt lưng, ông ổng: Tao đã giết con chó của mày đó, thằng mọi đen! Nhưng Mike không nghe thấy điều này vì bùn kẹt trong tai và vì tiếng khóc sợ hãi của chính cậu át đi.
Henry đá thêm một đống bùn nhầy nhụa lên người Mike rồi quay lưng cất bước về nhà, không thèm nhìn lại. Lát sau, Mike cũng đứng dậy đi về, khóc thút thít.
Tất nhiên, mẹ của cậu vô cùng bất bình; bà muốn Will Hanlon gọi cho Cảnh sát trưởng Borton và yêu cầu ông ta đến nói chuyện với nhà Bowers trước khi mặt trời xế bóng.”Trước nó đã đuổi đánh Mikey nhiều lần rồi,” Mike nghe mẹ nói. Cậu đang ngồi trong bồn tắm, còn bố mẹ ở nhà bếp. Đây là lượt nước thứ hai của cậu, lượt nước đầu tiên đen ngòm ngay khi cậu vừa bước vào bồn và ngồi xuống. Trong cơn giận dữ, mẹ cậu tuôn ra một tràng tiếng Texas đặc nghẹt mà Mike chẳng hiểu chút nào. “Anh phải cho chúng biết luật pháp chứ, Will Hanlon! Hết con chó rồi tới con trai! Anh đem luật ra với chúng đi, anh nghe em nói không?”
Will nghe thấy lời vợ mình nói nhưng không làm như bà yêu cầu. Cuối cùng, khi bà đã nguôi ngoai (lúc ấy là tối khuya và Mike đã ngủ từ hai tiếng trước), ông nhắc cho vợ nhớ sự đời lắm lúc tréo ngoe. Cảnh sát trưởng Borton không như Cảnh sát trưởng Sullivan. Nếu Borton là cảnh sát trưởng lúc vụ đàn gà bị đầu độc xảy ra, Will còn lâu mới nhận được hai trăm đô-la và sẽ phải ngậm bồ hòn làm ngọt. Trên đời có những người sẽ kề vai sát cánh với ta, có người lại không: Borton là loại thứ hai. Nói đúng hơn, ông ta là loại gan sứa.
“Đúng là Mike từng gặp rắc rối với thằng bé ấy,” ông nói với Jessica. “Nhưng con nhà mình vẫn chưa bị nặng vì nó rất cẩn thận tránh mặt Henry Bowers. Sau vụ này, nó sẽ biết đường cẩn thận hơn.”
“Ý anh là anh sẽ bỏ qua à?”
“Anh đoán Bowers đã kể với cậu con trai của hắn những lần đụng độ với anh,” Will nói, “và thằng bé ghét ba người chúng ta vì những xích mích ấy, và vì bố nó còn chỉ dạy cho nó đàn ông là phải ghét người da đen. Chuyện chỉ có thế thôi. Anh không thể thay đổi việc con trai mình là người da đen, giống như anh không thể ngồi đây và bảo em Henry Bowers sẽ là người cuối cùng giở trò với con trai mình vì da nó màu nâu. Con mình sẽ phải chiến đấu với điều này cả đời, giống như anh và em. Ngay cả trong ngôi trường Thiên Chúa mà em bắt con mình theo học, tại sao giáo viên lại dạy học sinh rằng dân da đen không tốt bằng dân da trắng, vì Ham, con trai của Noah, đã nhìn thấy bố mình say xỉn và lõa lồ, còn hai người con trai kia đánh mắt đi để không thấy cảnh tượng ấy. Cô giáo bảo đó là lý do con trai của Ham đời đời làm kiếp đốn củi kéo nước. Và Mikey nói cô giáo cứ nhìn thằng bé trong lúc kể câu chuyện này cho cả lớp.”
Lời nguyền của Ham là một câu chuyện trong Sáng Thế ký, có người cho rằng câu chuyện này được dùng để biện minh cho chế độ nô lệ.
Jessica nhìn chồng, câm lặng và khổ sở. Hai dòng lệ tuôn dài trên khuôn mặt bà. “Chẳng lẽ không còn cách nào để thoát khỏi chuyện này sao?”
Câu trả lời của ông hiền từ nhưng dứt khoát; thời ấy, vợ răm rắp theo lời chồng và Jessica chẳng có lý do gì nghi ngờ Will.
“Không. Chẳng có cách nào để thoát khỏi hai từ da đen đâu, hiện giờ thì không, trong thế giới vợ chồng mình hiện sống thì không. Những ai là mọi đen từ Maine thì vẫn là mọi đen. Nhiều lần anh đã nghĩ, anh trở về Derry là bởi không nơi nào tốt hơn nơi này để anh ghi nhớ điều đó. Nhưng anh sẽ nói chuyện với con.”
Ngày hôm sau, ông gọi Mike ra nông trại. Will ngồi trên ách bừa và vỗ vào vị trí bên cạnh để gọi Mike ngồi xuống.
“Con hãy tìm cách tránh mặt thằng bé Henry Bowers đó,” ông dặn dò.
Mike gật đầu.
“Bố nó bị điên.”
Mike tiếp tục gật đầu. Cậu nghe cả thị trấn này rỉ tai nhau như thế. Vài lần trông thấy ông này càng củng cố lời đồn ấy.
“Không phải chỉ có chút điên rồ đâu,” Will nói thêm, thắp điếu thuốc lá Bugler tự cuộn và đưa mắt nhìn con. “Ông ta chỉ thiếu điều bị tống vào nhà thương điên thôi. Sau khi trở về từ chiến trường, ông ta đã vậy rồi.”
“Con thấy Henry cũng bị điên,” Mike nói. Giọng cậu trầm thấp nhưng chắc nịch, điều đó càng khiến cõi lòng Will vững vàng hơn… dù đã trải qua lắm cuộc bể dâu, trong đó suýt có lần bị thiêu cháy trong quán rượu cây nhà lá vườn mang tên Điểm Đen, ông vẫn không thể nào tin nổi một cậu bé như Henry lại bị điên.
“Chà, cậu bé ấy nghe bố mình nhiều quá, nhưng đó là lẽ tự nhiên thôi.” Will nói. Song lần này, con trai ông được tận mục sở thị. Chẳng rõ vì liên tục tiếp nhận tư tưởng từ bố mình hay vì lý do gì– lý do nội tại gì – mà Henry Bowers đang dần trở nên điên loạn.
“Bố không muốn con trốn chui trốn nhủi cả đời,” bố cậu nói, “nhưng vì con là một người da đen, không ít lần, con sẽ phải chịu thiệt. Con có hiểu ý bố không?”
“Dạ có,” Mike đáp, trong đầu cậu nghĩ về cậu bạn Bob Gautier trường, cậu này cố gắng giải thích với Mike rằng từ mọi đen không phải là từ xấu, vì bố cậu ta dùng suốt ngày. Thậm chí, Bob còn chân thành bảo Mike rằng từ này mang nghĩa tích cực. Khi một võ sĩ trên chương trình Đấm bốc tối thứ Sáu lãnh đòn bầm dập nhưng vẫn kiên cường trụ lại, bố cậu ta bảo “Đầu hắn cứng như đầu mọi đen ấy nhỉ?”, khi ai đó hoàn thành công việc một cách xuất sắc (với ông bố Gautier thì đó là Thịt bò thượng hạng), bố cậu nhận xét: “Hắn ta làm như mọi đen ấy nhỉ?”. “Mà bố tớ cũng là dân Thiên chúa giáo giống bố cậu đấy,” Bob chốt hạ. Mike vẫn nhớ khi ấy, cậu đã nhìn thẳng vào khuôn mặt trắng nhợt, thật thà, trùm chiếc mũ lông xơ xác của Bob Gautier, cậu không giận mà thấy buồn tủi đến phát khóc. Cậu nhìn thấy sự chân thành và nhã ý hiện lên trên khuôn mặt của Bob, nhưng cậu chỉ cảm thấy cô đơn, xa cách và nhận thức rõ mồn một khoảng trống heo hút giữa cậu với cậu bé ấy.
“Bố thấy con hiểu ý bố rồi,” Will nói và xoa đầu con trai. “Vấn đề quan trọng nhất là phải biết khi nào cương, khi nào nhu. Con phải hỏi bản thân con xem liệu Henry Bowers có đáng để con vướng vào không. Có không nào?”
“Dạ không” Mike đáp. “Không hề ạ.” Một thời gian sau, cậu mới thay đổi suy nghĩ, cụ thể là vào ngày 3 tháng 7 năm 1958.
4Trong lúc Henry Bowers, Victor Criss, Huggins Ợ Hơi, Peter Gordon và một cậu nhóc trung học tương đối trì độn mang tên Steve Sadler (biệt danh là Moose, lấy từ tên nhân vật trong truyện tranh Archie) đuổi theo cậu bé Mike Hanlon đang thở hồng hộc qua sân ga về phía Vùng Đất Cằn cách đó chừng tám trăm mét, Bill cùng mọi người trong Hội Cùi Bắp vẫn đang ngồi trên bờ sông Kenduskeag, trầm ngâm nghĩ về cơn ác mộng mình gặp.
“Tớ nghĩ tớ b-biết n-n-nó ở đâu,” cuối cùng, Bill lên tiếng, phá vỡ sự im lặng.
“Cống thoát nước,” Stan nói, và cả bọn giật mình trước một tiếng rột rột bất thình lình vang lên. Eddie mỉm cười ngại ngần, bỏ ống thở vào lòng.
Bill gật đầu. “M-Mấy đ-đ-đêm trước, tớ c-c-có h-hỏi b-bố tớ về c-cống thoát n-nước.”
”Vốn dĩ toàn bộ khu vực này là đầm lầy,” Zack trả lời cậu con trai, “và những cư dân đầu tiên đã tìm cách xây dựng trung tâm thị trấn ở phần tồi tệ nhất. Đoạn Kênh Đào chạy bên dưới đường Trung Tâm và đường Chính rồi đi ra ở công viên Bassey chẳng là gì ngoài cống thoát để giữ sống Kenduskeag. Phần lớn thời gian trong năm, cống ở trong tình trạng khô cạn, nhưng chúng đóng vai trò quan trọng khi lũ mùa xuân chảy xuống hay ngập lụt xảy ra…” Nói đến đây, ông dừng lại, có lẽ ông nghĩ về trận lụt mùa thu năm ngoái, ông đã mất đứa con út. “…nhờ máy bơm” ông nói nốt.
“Máy b-b-bơm ạ?” Bill hỏi, khẽ nghiêng đầu trong vvô thức. Khi cậu nói lắp ở những âm bật thế này, nước bọt bắn ra từ môi.
“Máy bơm nước thải,” bố cậu giải thích. “Chúng nằm ở Vùng Đất Cằn, là những ống bê tông cao chừng một mét từ mặt đất…”
“B-B-Ben H-H-H-Hanscom gọi chúng là h-hố M-Morlock bố ạ,” Bill nói và toét miệng cười.
Zack cũng cười đáp lại… nhưng đó chỉ là cái bóng của nụ cười ngày xưa. Lúc đó, hai bố con ở trong xưởng của Zack, ông đang hờ hững vặn chốt ghế. “Chúng chỉ là máy bơm nước thải thôi, con ạ,” ông nói. “Chúng nằm trong những trụ sâu chừng ba mét, bơm nước thải và nước lũ khi triền đồi thoải xuống hay dốc lên. Máy móc cũ kỹ rồi, và lý ra thị trấn nên lắp máy bơm mới, nhưng Hội đồng lúc nào cũng than nghèo kể khổ khi thiết bị này xuất hiện trong danh mục vào các buổi họp ngân sách. Giá mà bố được hai mươi lăm xu cho mỗi lần phải lội xuống dưới đó, rác rến ngập đến đầu gối, nối lại mấy cái mô tơ thì… nhưng thôi, con nghe mấy chuyện này làm gì, Bill. Sao con không đi xem ti vi đi? Hình như tối nay trên ti vi chiếu Sugarfoot thì phải.”
“Con m-m-muốn ngh-nghe mà,” Bill nói, và lý do không phải chỉ vì cậu đã rút ra kết luận dưới lòng Derry có một điều gì đó khủng khiếp.
“Tại sao con lại muốn nghe về mấy cái máy bơm nước thải kia chứ?” Zack thắc mắc.
“B-Báo cáo tr-trên tru-tru-trường ạ,” Bill nói đại.
“Hết học kỳ rồi mà.”
“N-N-Năm s-sau ạ.”
“Chà, chủ đề chán phết nhỉ,” Zack nói. “Khéo thầy lại cho con điểm F vì ru ngủ thầy ấy chứ. Con nhìn nhé, đây là sông Kenduskeag” – ông kẻ một đường thẳng trên mặt bàn phủ lớp mùn cưa mỏng, chỗ ông gắn cưa tay - “còn đây là Vùng Đất Cằn. Vì trung tâm thị trấn thấp hơn khu vực dân cư –như đường Kansas hay Mũi Đất Cũ hoặc Tây Broadway chẳng hạn - phần lớn lượng nước thải của trung tâm thị trấn phải được bơm ra sông. Còn nước thải từ các hộ gia đình tự chảy xuống Vùng Đất Cằn. Con hiểu không?”
“D-D-Dạ,” Bill đáp, cậu nhích lại gần bố hơn một chút để nhìn rõ đường kẻ, đủ gần để vai cậu đụng vào tay ông.
“Rồi một ngày nào đó, họ sẽ không bơm nước thải thô trực tiếp vào sông và cái ngành này xem như chấm hết. Nhưng hiện tại, chúng ta có máy bơm ở trong… cậu bạn con gọi chúng là gì nhỉ?”
“Hố Morlock ạ,” Bill trả lời, không chút lắp bắp, tiếc là cả cậu và bố cậu đều không để ý.
“Ừ. Đó là vai trò của các máy bơm trong hố Morlock hiện tại, nhìn chung chúng hoạt động khá hiệu quả, trừ khi có quá nhiều mưa và sông suối bị tràn. Vì mặc dù cống tiêu nước trọng lực và cống thoát nước dùng bơm vốn là các hệ thống tách biệt, thật ra chúng đan xen ở rất nhiều nơi. Con thấy không?” Ông vẽ một chuỗi chữ X tỏa ra từ đường kẻ đại diện cho con sông Kenduskeag, Bill gật đầu. “Chà, điều duy nhất con cần biết về hệ thống thoát nước là nơi nào chảy được, nó sẽ chảy. Khi nước dâng cao, nó sẽ tràn vào cống thoát nước cũng như cống nước thải. Khi nước trong cống dâng cao đến máy bơm, máy bơm bị chập mạch. Rất phiền cho bố, vì bố phải sửa chúng.”
“Bố ơi, c-cống thoát nước và cống nước thải to c-cỡ nào ạ?”
“Ý con là kích thước ấy à?”
Bill gật đầu.
“Đường kính cống thoát nước chính chừng một mét tám. Các cống phụ từ khu vực dân cư theo bố ước lượng tầm một mét đến một mét hai. Một số cống có thể to hơn chút đỉnh. Nhưng hãy nghe lời bố dặn đây, Billy, và con có thể nói cho cả bạn bè của mình: đừng bao giờ bước chân vào ống cống, dù là chơi đùa hay thách đố nhau hay vì bất cứ lý do gì.”
“Sao vậy ạ?”
“Hơn chục đời chính quyền thị trấn đã thay nhau phát triển công trình này từ năm 1885, hết đời này đến đời khác. Trong quãng thời gian Đại khủng hoảng, Đội Quản lý Dự án công trình xây dựng một hệ thống thoát nước thứ hai và một hệ thống nước thải thứ ba, ngày xưa, ngân sách rót vào dự án công rất đậm. Nhưng người chủ quản lý các dự án này thiệt mạng trong Thế chiến thứ hai, và khoảng năm năm sau đó, Cục Nước phát hiện bản thiết kế hệ thống cống hầu hết đã bị thất lạc. Nói chính xác hơn, khoảng bốn cân hồ sơ thiết kế hệ thống cống đã biến mất trong khoảng thời gian 1937 và 1950. Điều bố muốn nói là không ai biết mấy cái ống cống ấy dẫn đi đâu và cơ chế ra sao cả.
Khi chúng hoạt động thì không ai quan tâm. Khi chúng trục trặc thì lại có ba bốn tên từ Cục Nước Derry phải giơ đầu chịu báng mà đi kiểm tra xem máy bơm nào bị lỗi hoặc chỗ nào bị tắc nghẽn. Và khi nào xuống dưới đó, họ cũng phải mang theo đồ ăn trưa. Bên dưới vừa tối tăm vừa hôi thối, lại đầy chuột. Chừng đó là đủ lý do để không mò xuống rồi, nhưng lý do lớn nhất là ta có thể bị lạc. Chuyện đó từng xảy ra trước đây.”
Bị lạc dưới lòng Derry. Bị lạc trong cống thoát nước. Bị lạc trong đêm tối. Viễn cảnh ấy kinh khủng và u ám đến độ Bill á khẩu trong chốc lát. Đoạn cậu lên tiếng, “Nhưng chẳng phải họ có cử người x-x xuống để làm bản đồ…”
“Bố phải sửa nốt mấy cái chốt đã,” Zack chợt cắt ngang, quay lưng và lùi khỏi cậu. “Con vào nhà xem ti vi đi.”
“Nh-Nh-Nhưng b-b-bố…”
“Vào nhà đi Bill,” Zack nói, và Bill lại cảm nhận được thái độ lạnh nhạt của ông. Cái lạnh nhạt ấy khiến bữa tối chẳng khác nào tra tấn, khi bố cậu chăm chăm lật tờ tạp chí ngành điện (ông đang mong được thăng chức trong năm sau), còn mẹ cậu chúi mũi đọc một trong số vô vàn cuốn tiểu thuyết bí ẩn của Anh: Marsh, Sayers, Innes, Allingham. Trệu trạo ăn trong khung cảnh lạnh lẽo ấy khiến thức ăn nhạt thếch trong miệng, tựa hồ cậu đang nhai những món đông lạnh mà chưa được hâm lại bằng lò vi sóng. Thỉnh thoảng sau bữa ăn, cậu đi lên phòng, nằm trên giường, ôm bụng đang quặn lên và thầm nhủ câu văn: Anh đấm tay vào cột nhà, la oai oái rằng mình gặp ma. Từ lúc Georgie qua đời, cậu rất hay thầm nhủ trong đầu câu nói ấy, dù mẹ chỉ cho cậu câu này từ hai năm trước. Trong tâm trí cậu, câu nói ấy như một lời chú: rồi một ngày, cậu có thể bước đến chỗ mẹ, nói trôi chảy nguyên câu mà không vấp, không nói lắp, vừa nói vừa nhìn thẳng vào mắt mẹ, bao lạnh nhạt rồi sẽ tan biến, đôi mắt bà sẽ sáng bừng lên, bà sẽ ôm cậu và khen, “Tuyệt vời, Billy! Con của mẹ giỏi quá! Con của mẹ giỏi quá!”
Tất nhiên, cậu chưa bao giờ kể với ai ước mong thầm kín này. Dù voi giày ngựa xé cũng đừng hòng cậu từ bỏ vọng tưởng ấy, dù có bị ngũ mã phanh thây, cậu cũng sẽ khư khư giữ lấy mong ước bí mật ấy, niềm mong mỏi nằm sâu trong con tim cậu. Nếu cậu có thể nói trôi chảy câu văn mà mẹ đã dạy cậu vào một buổi sáng thứ Bảy khi cậu và Georgie ngồi xem Guy Madison cùng Andy Devine trong bộ phim Những cuộc phiêu lưu của Bill Hickok hoang dại , nó sẽ như nụ hôn đánh thức Nàng công chúa ngủ trong rừng khỏi giấc mơ lạnh lẽo, đưa nàng trở lại với thế giới ấm áp, nơi có tình yêu của chàng hoàng tử cổ tích.
Anh đấm tay vào cột nhà, la oai oái rằng mình gặp ma.
Vào ngày mùng 3 tháng 7 định mệnh ấy, cậu cũng không kể với bạn bè mình, nhưng cậu kể những gì bố nói với cậu về hệ thống cống thoát nước và cống nước thải của Derry. Cậu vẫn còn là một cậu bé với trí tưởng tượng phong phú (nhiều khi còn dễ hơn nói sự thật), và khung cảnh cậu vẽ ra cho các bạn tương đối khác so với khung cảnh thật sự mà hai bố con trao đổi: cậu và bố cùng ngồi xem ti vi, nhâm nhi tách cà phê.
“Bố cậu cho cậu uống cà phê à?” Eddie hỏi.
“C-C-Có chứ.” Bill đáp.
“Ôi,” Eddie thốt lên. “Mẹ tớ còn khuya mới cho tớ uống cà phê. Mẹ tớ bảo cà-phê-in trong cà phê nguy hiểm.” Cậu ngưng lại. “Thế mà mẹ tớ uống nhiều lắm.”
“Bố tớ cho tớ uống cà phê nếu tớ muốn.” Beverly kể, “nhưng ông sẽ cho tớ đi đời nếu biết tớ hút thuốc.”
“Sao cậu lại chắc chắn nó nằm trong cống thoát nước vậy?” Richie hỏi, hết nhìn từ Bill sang Stan Uris rồi lại nhìn Bill.
“M-M-Mọi thứ đ-đều b-bắt ng-nguồn t-từ đ-đ-đó,” Bill nói. “Gi Giọng nói B-B-Beverly nghe thấy v-vang lên t-từ d-dưới c-c-cống. Cả m-máu nữa. Khi g-g-gã hề đ-đuổi theo bọn m-mình, những cái n-n-nút c-cam ở g-gần c-cống. Và G-G-George…”
“Nó không phải hề, Bill To Bự ơi,” Richie cắt ngang. “Tớ đã bảo cậu rồi mà. Tớ biết nghe rất điên rồ, nhưng nó là Người sói.” Cậu nhìn mọi người trong nhóm với ánh mắt phòng thủ. “Tớ thề với Chúa, tớ trông thấy mà.”
Bill ôn tồn: “Với c-c-cậu thì nó là Người sói.”
“Hả?”
Bill bèn giải thích, “C-Cậu kh-không th-th-thấy à? Với c-c-cậu thì nó là Người sói vì c-cậu xem b-bộ phim ng-ngớ ngẩn ấy ở A-A-A Aladdin.”
“Tớ không hiểu.”
“Hình như tớ hiểu rồi.” Ben trầm ngâm.
“Tớ đã đ-đến th-th-thư viện và tr-trac-c-cứu rồi,” Bill nói. “Tớ nghĩ Nó là g-g” – cậu ngừng lại, nghẹn họng và nói bật ra – “là glamour .”
“Gà-la-mờ?” Eddie ngờ vực.
“G-G-Glamour,” Bill nói và đánh vần cho mọi người. Cậu kể cho cả bọn về đoạn văn liên quan tới chủ đề này trong bách khoa toàn thư cùng chương cậu đọc trong cuốn sách mang tên Sự thật đêm khuya . Cậu giải thích Glamour là tên trong tiếng Gaelic chỉ thứ sinh vật đang ám Derry; tùy từng thời điểm, các chủng tộc khác nhau và các nền văn hóa khác nhau lại có những cái tên riêng cho nó, nhưng tất cả đều mang cùng một nghĩa. Thổ dân da đỏ gọi nó là manitou , thỉnh thoảng nó mang hình dạng sư tử núi hoặc nai sừng tấm hoặc đại bàng. Tộc người da đỏ cho rằng linh hồn của manitou có thể nhập vào người họ, và vào những thời điểm này, họ có thể biến hình dạng của mây thành biểu tượng các loài động vật mà họ đặt tên cho nhà mình. Người Himalaya gọi nó là tallus hoặc taelus , nghĩa là sinh vật ma quỷ có khả năng đọc tâm trí của con người rồi mang hình dạng của thứ mà ta sợ nhất. Ở Trung Âu, nó được gọi là eylak , anh em của vurderlak , tức ma cà rồng. Ở Pháp, nó mang tên le loup-garou , tức thay da đổi thịt, một khái niệm được dịch tương đối thành Người sói, nhưng Bill cũng bảo với họ rằng le loup-garou (cậu phát âm là “lờ-lúp-ga-ru”) có thể là bất cứ thứ gì: sói, diều hâu, cừu, thậm chí con bọ.
“Có bài nghiên cứu nào chỉ cho cậu cách đánh bại glamour không?” Beverly hỏi.
Bill gật đầu nhưng mặt cậu không vui cho lắm. “Người H-H-Himalaya có một ngh-ngh-nghi thức đ-ể l-loại b-b-bỏ n-ó, nhưng n-nó t-tởm l-l-l-lợm lắm.”
Cả bọn nhìn cậu, tuy không ai muốn nghe nhưng đó là điều cần làm.
“N-N-Nó được g-gọi là Ngh-Nghi thức Chüh-Chüd,” Bill nói và tiếp tục giải thích cụ thể. “Giả sử mình là một thánh nhân người Himalaya, mình sẽ truy tìm taelus . Khi taelus thè lưỡi ra, mình cũng thè lưỡi. Hai bên áp lưỡi rồi cắn lưỡi nhau sao cho trong cả hai như áp dính, bốn mắt nhìn nhau.”
“Ôi, chắc tớ nên đến nơi mất,” Beverly nói và quay người ra đất. Ben vỗ lưng cô đầy quan tâm, đoạn nhìn quanh xem có ai để ý cậu không. Chẳng ai cả, mọi người đều đang trân trân nhìn Bill.
“Tiếp theo thế nào?” Eddie hỏi.
“Ch-Ch-Chà” Bill nói, “nghe có vẻ đ-đ-điên khùng, nh–nhưng cuốn s-sách bảo s-sau đó, m-mình sẽ kể ch-chuyện cười và hỏi đ-đố.”
“Hả?” Stan hỏi.
Bill gật đầu, mặt cậu như mặt một thông tấn viên muốn ta biết cậu không phải người tạo ra tin mà chỉ truyền đạt nó – dù không nói thẳng ra miệng như vậy. “Th-Thật. Đ-Đầu tiên quái vật t-taelus sẽ kể m-m-một chuyện, sau đó tới lượt m-m-mình k-kể, c-cứ thế th-th-thay phiên nh-nhau…”
Beverly ngồi dậy, đầu gối áp vào ngực, tay ôm quanh cổ chân. “Tớ chưa hiểu làm thế nào ta có thể nói chuyện trong khi lưỡi đang dính vào nhau như thế.”
Richie liền thè lưỡi ra, lấy tay chụp lưỡi rồi í éo: “Bố tớ làm việc ở bãi phân!” Cả bọn phá lên cười một lúc dù câu chuyện cười này rõ là trẻ con.
“C-Có thể nó l-là thần gi-giao c-cách cảm gì đó,” Bill nói. “T-Tóm lại, n-nếu c-c-con người cười tr-tr-trước dù đ-đang bị đ-đ-đ…”
“Đau?” Stan hỏi.
Bill gật đầu. “…thì taelus s-sẽ gi-gi-giết và ăn th-th-th-thịt con người. Tớ nghĩ là linh hồn người đó. Nh-Nhưng n-nếu con ng-người c-c-có thể khiến t-taelus c-cười tr-tr-trước, nó phải bỏ đi trong m-m-một trăm n-năm.”
“Cuốn sách có giải thích thứ đó khởi nguồn từ đâu không?” Ben hỏi.
Bill lắc đầu.
“Cậu có tin vào mấy điều đó không?” Stan hỏi, như thể cậu muốn mỉa mai nhưng chẳng bới đâu ra sức mạnh tinh thần hay đạo đức để làm thế.
Bill nhún vai đáp, “Tớ g-g-gần t-tin rồi.” Cậu toan nói gì đó nhưng chỉ im lặng lắc đầu.
“Nó giải thích rất nhiều thứ, Eddie chậm rãi. “Gã hề, gã hủi, Người sói…” Cậu nhìn qua Stan. “Xác mấy cậu bé kia nữa.”
“Xem ra Richard Tozier có đất dụng võ rồi đây,” Richie lên tiếng bằng giọng Phát thanh viên Thời sự MovieTone. “Người đàn ông một nghìn truyện cười, sáu nghìn câu đố.”
“Nếu bọn tớ cử cậu đi chắc cả lũ bị giết mất,” Ben thủng thỉnh. “Từ từ. Đầy đau đớn.” Mọi người lại phá lên cười.
“Vậy chúng ta biết làm gì đây?” Stan hỏi, một lần nữa, Bill chỉ biết lắc đầu… và mơ hồ cảm giác hình như cậu sắp sửa biết. Stan đứng dậy. “Mình đi chỗ khác đi,” cậu nói. “Tớ ê hết cả mông rồi.”
“Tớ thấy ngồi đây hay mà.” Beverly lên tiếng. “Vừa có bóng râm vừa dễ chịu.” Cô liếc nhìn Stan. “Hay cậu muốn làm mấy trò trẻ con như đi xuống bãi rác rồi dùng đá đập bể chai.”
“Tớ thích lấy đá đập bể chai đấy,” Richie nói và đứng cạnh Stan. “Chất chơi j.d. trong người tớ đó nha.” Cậu dựng cổ áo lên và bắt chước điệu bộ đi lòng vòng của James Dean trong Nổi loạn vô cớ . “Chúng làm tớ tổn thương,” cậu nói với vẻ mặt tâm trạng, tay cào ngực. “Cậu biết đấy, đời nhiễu nhương quá. Nào bố mẹ. Trường học. Xã hội. Mọi người. Áp lực lắm, bạn ơi. Nó…”
“Nó rõ cứt đái,” Beverly nói và thở dài.
“Tớ có pháo đây,” Stan nói, và cả bọn quên hết những điều về glamour , manitou cùng phiên bản nhái James Dean dở tệ của Richie khi Stan lôi từ trong túi bọc pháo Black Cat. Đến Bill còn mắt tròn mắt dẹt.
“Ch-Chúa ơi, S-S-Stan, c-cậu k-k-kiếm đ-được ở đ-đâu thế?”
“Từ thằng nhóc mập tớ hay đi giáo đường chung,” Stan nói. “Tớ đổi một chồng truyện tranh Siêu nhân và Lulu Bé nhỏ để lấy nó đấy.”
“Bắn pháo thôi anh em!” Richie la to, hăng tiết vì vui sướng. “Đi bắn thôi mọi người ơi, Stanny, tớ thề tớ hứa tớ đảm bảo rằng sẽ không nói cậu và bố cậu giết Chúa nữa, cậu thấy sao? Tớ sẽ bảo mũi cậu nhỏ xí , nhé Stanny! Tớ sẽ bảo cậu không cắt bao quy đầu!”
Nghe đến đây, Beverly ré lên cười nắc nẻ, bò lăn bò càng, hai tay đưa lên che mặt. Bill cũng cười, Eddie cười theo, và ngay sau đó, Stan cũng cười ha hả. Tiếng cười của cả bọn vang vọng qua lòng sông Kenduskeag rộng mà nông vào cái ngày trước ngày mùng 4 tháng 7 năm ấy, tiếng cười của mùa hạ, sáng bừng như những tia nắng phản chiếu trên mặt nước, và không ai trong số đám trẻ trông thấy đôi mắt màu cam đang chằm chằm dán vào cả bọn từ một bụi gai và bụi mâm xôi cằn cỗi phía bên trái. Khóm cây tua tủa chạy dọc bờ sông cả chục mét, ở giữa là hố Morlock của Ben. Ở đây mọc lên ống bê tông, từ trong đó, hai con mắt cách nhau sáu mươi xen-ti lom lom nhìn.
5Lý do Mike đụng độ với Henry Bowers và bè lũ không mấy vui tươi của hắn vào cùng hôm đó là bởi ngày hôm sau là Mùng Bốn Vinh Quang. Trường Nhà thờ có một ban nhạc trong đó Mike chơi kèm trombone. Vào ngày mùng 4, ban nhạc sẽ tham gia diễu hành mừng lễ hàng năm, chơi “Bài Thánh chiến ca Cộng hoà”, “Tinh binh Giê-su tiến lên”, “Nước Mỹ tươi đẹp”. Mike đã mong đợi dịp này suốt hơn một tháng nay. Cậu phải đi bộ đến buổi tổng duyệt cuối cùng vì xe đạp bị hỏng xích. Buổi tổng duyệt được xếp lịch vào lúc 2 giờ 30 phút, nhưng cậu đi từ 1 giờ vì cậu muốn đánh bóng kèn trombone, vốn được cất trong phòng nhạc của trường, cho đến khi nó sáng bóng mới thôi. Mặc dù kỹ năng chơi kèn trombone của cậu cũng chẳng khá khẩm hơn Giọng nói của Richie là mấy, nhưng cậu rất thích nhạc cụ này và cứ khi nào tâm trạng chùng xuống, chỉ cần nửa tiếng đắm chìm trong những bài ca diễu hành Sousa hùng tráng, thánh ca hay những lời ca ái quốc đã đủ khiến cậu phấn chấn hơn. Cậu nhét một chai đánh bóng đồng thau hãng Saddler vào trong túi áo ka ki và hai, ba miếng giẻ vào trong túi quần jean. Trong đầu cậu chẳng mảy may nghĩ đến Henry Bowers. Chỉ cần liếc ra đằng sau khi tiến lại đường Neibolt và trường Nhà thờ, cậu sẽ thay đổi suy nghĩ trong chớp mắt vì Henry, Victor, Ợ Hơi, Peter Gordon và Moose Sadler đang dàn hàng ngang trên con đường đằng sau cậu. Nếu bọn chúng rời khỏi nhà Bowers trễ hơn năm phút thì có lẽ Mike đã khuất mắt bọn chúng ở tít đỉnh ngọn đồi bên kia; trận ném đá định mệnh và bao hệ quả sau đó sẽ xảy ra theo hướng khác, hoặc có khi là không xảy ra.
Nhưng nhiều năm sau, chính Mike là người khơi gợi ý kiến cho rằng không ai trong số họ hoàn toàn chiếm thế chủ động trong những sự kiện mùa hè năm ấy; rằng nếu vận may và ý chí tự do vẫn dự phần thì hẳn vai trò của chúng chẳng mấy đáng kể. Trong bữa ăn trưa hội ngộ, anh sẽ chỉ ra rất nhiều sự tình cờ hết sức hữu ý xảy ra với mọi người, nhưng có ít nhất một điều anh không hề hay biết. Buổi họp ở Vùng Đất Cằn ngày hôm ấy dừng lại khi Stan Uris lấy ra bọc pháo Black Cat và cả Hội Cùi Bắp chạy đến bãi rác để bắn pháo. Victor, Ợ Hơi và đám còn lại đến nông trại nhà Bowers vì Henry có pháo, pháo hình cầu và M-80 (vài năm sau đó, sở hữu những thứ này trở thành tội nặng). Đám du côn to lớn toàn đi xuống mỏ than sân ga để khiến kho tàng của Henry phát nổ.
Bình thường, có cho vàng bọn chúng cũng chẳng mò xuống nông trại nhà Bowers, ngay cả Ợ Hơi – nguyên nhân chủ yếu là ông bố điên khùng của Henry nhưng còn vì lúc nào cả bọn cũng phải lăn vào phụ giúp Henry công việc đồng áng: nào là nhổ cỏ dại, thu nhặt đá, đốn củi, lấy nước, gom rơm, thu hoạch bất cứ thứ gì tới mùa vụ – lê, dưa leo, cà chua, khoai tây. Không hẳn là mấy thằng bé ấy ghét làm việc, nhưng ở nhà mình, chúng đã có đủ thứ phải è cổ ra làm rồi, chứ nói gì đến việc đổ mồ hôi sôi nước mắt cho ông bố dị thường của Henry, cái lão cứ thượng cẳng chân, hạ cẳng tay bất chấp là ai (lão từng chọi một thanh gỗ nhóm lò vào Victor Criss khi cậu này đánh rơi rổ cà chua trên đường mang ra sạp bán ngoài đường). Bị thanh gỗ chọi vào người tưởng chừng đã đủ tệ hại rồi, nào ngờ còn tệ hơn khi Butch Bowers lải nhà lải nhải “Tao sẽ giết tất bọn Nhựt Bổn! Tao sẽ giết tất bọn Nhựt Bổn chết toi!”
Dù đầu to mà óc như trái nho, Huggins Ợ Hơi đã xuất khẩu một câu chí lý: “Tao không giỡn mặt với mấy kẻ điên,” hắn nói với Victor câu này hai năm trước. Victor phá lên cười, gật gù đồng ý.
Nhưng những thỏi pháo tựa như tiếng hát du dương của người cá, bọn chúng như đám thủy thủ không cưỡng lại được sức mạnh ấy.
“Tao bảo này, Henry,” Victor nói khi Henry gọi hắn vào lúc 9 giờ sáng hôm ấy và rủ đi chơi. “Bọn mình gặp nhau ở mỏ than tầm 1 giờ, mày thấy sao?”
“Ờ, vậy mày đến mỏ than lúc khoảng 1 giờ đi, tao không có mặt đó đâu,” Henry đáp. “Tao có nhiều việc lắm. Nếu mày đến mỏ than tầm 3 giờ thì được, tao sẽ ở đó. Và cây pháo M-80 đầu tiên sẽ cắm thẳng vào cửa hậu của mày đấy nhé, Vic.”
Vic ngần ngừ rồi đồng ý qua phụ Henry việc đồng áng.
Những đứa khác cũng tới, tổng cộng là năm cậu con trai, ai nấy đều to cao lực lưỡng, hùng hục làm việc ở nhà Bowers, và đến chiều thì mọi công việc đã được hoàn thành. Khi Henry hỏi bố liệu hắn đi chơi được chưa, ông Bowers già chỉ chậm chạp phẩy tay với cậu con trai. Butch khoan khoái tận hưởng buổi chiều hôm ấy trên hiên sau nhà cùng chai sữa một lít đựng rượu táo loại cực mạnh, đài cầm tay Philco trên thành hiên (chốc sau buổi chiều hôm ấy, đội Red Sox sẽ đấu với đội Washington Senators, trận đấu với viễn cảnh đủ để một kẻ không điên nổi cả da gà). Đặt trong lòng Butch là thanh kiếm Nhật đã rút khỏi bao, quà kỷ niệm chiến tranh mà theo như lời Butch khoác lác là hắn rút từ xác một thằng Nhựt Bổn trên hòn đảo Tarawa (thật ra hắn phải đổi sáu chai Budweiser và ba cần điều khiển máy bay mới lấy được thanh kiếm đó ở Honolulu). Gần đây, cứ khi nào uống rượu là Butch lại lôi thanh kiếm ra. Và đám trẻ, kể cả Henry, đều đinh ninh trong lòng rằng chẳng chóng thì chày, lão sẽ xiên ai đó, nên tránh voi chẳng xấu mặt nào, tốt nhất không nên xớ rớ khi thanh kiếm xuất hiện trong lòng Butch.
Đám bọn chúng vừa bước ra đường thì Henry nhìn thấy Mike Hanlon đi ở phía trước. “Thằng mọi đen kìa!” Hắn reo lên, mắt sáng bừng như mắt đứa trẻ nhỏ mường tượng về cảnh ông già Noel sắp tới vào Đêm Giáng sinh.
“Thằng mọi đen?” Huggins Ợ Hơi có vẻ bối rối – hắn rất hiếm khi đụng mặt gia đình nhà Hanlon - và rồi đôi mắt đờ đẫn của hắn sáng lên. “Ồ chuẩn! Thằng mọi đen! Tóm cổ nó đi, Henry!”
Ợ Hơi ba chân bốn cẳng rầm rập lao đi. Đám còn lại chạy theo sau khi Henry chộp cổ Ợ Hơi và kéo tên đồng đảng lại. Henry có nhiều kinh nghiệm rượt đuổi Mike Hanlon hơn những đứa còn lại, và hắn biết bắt thằng mọi đen này tưởng dễ nhưng rất khó. Thằng da đen đó nhanh như cắt.
“Nó không thấy bọn mình. Mình cứ đi thật nhanh cho đến khi nó thấy. Rút ngắn khoảng cách.”
Chúng đồng tình. Một người qua đường quan sát hẳn sẽ lấy làm kỳ thú khi năm người bọn chúng hùng hục như thể đang cố gắng tham dự cuộc đấu đi bộ của giải Olympic. Cái bụng rõ phệ của Moose Sadler nảy lên nảy xuống dưới lớp áo thun trường Trung học Derry. Mồ hôi nhễ nhại trên khuôn mặt càng lúc càng đỏ bừng của Ợ Hơi. Nhưng khoảng cách giữa chúng và Mike đã ngắn lại – một trăm tám mươi mét, rồi một trăm bốn mươi, rồi chín mươi – và đến tận lúc ấy, Thằng oắt Da đen vẫn chưa hề quay đầu lại. Bọn chúng có thể nghe thấy tiếng cậu ta huýt sáo.
“M