← Quay lại trang sách

Chương 15 LỖ KHÓI
1

Richie Tozier đẩy kính lên mũi (chưa gì mà anh đã cảm thấy cử chỉ này hết sức quen thuộc, dù anh đeo kính áp tròng suốt hai mươi năm nay) và thoáng ngạc nhiên thầm nhủ bầu không khí trong căn phòng đã thay đổi khi Mike kể lại câu chuyện xảy ra với con chim khổng lồ ở Xưởng đúc cũng như nhắc đến cuốn album của bố anh và bức ảnh biết cử động.

Richie cảm nhận được nguồn năng lượng bạo liệt, hào hứng ngầm lan tỏa trong gian phòng. Mấy năm gần đây, anh có sử dụng cô-ca-in chừng chín, mười lần gì đấy - chủ yếu vào lúc tham gia tiệc tùng, cô-ca-in không phải thứ người ta muốn để lung tung trong nhà, đặc biệt trong trường hợp họ là một phát thanh viên ra-đi-ô đang nổi như cồn – và anh thấy cảm giác có phần tương tự nhưng không giống hoàn toàn. Cảm giác này trong trẻo hơn, phê hơn lúc tiêm vào gien chính. Anh nghĩ thuở bé, mình từng trải qua cảm giác này rồi, nhưng cậu bé là anh năm xưa hào hứng như vậy hằng ngày và xem đó là điều hết sức đương nhiên. Anh thầm nhủ ngày bé, nếu có bất cứ lúc nào anh nghĩ đến mạch ngầm năng lượng ấy (anh không nhớ có lần nào như vậy), hẳn anh sẽ chỉ gạt suy nghĩ ấy đi, xem nó như điều hiển nhiên, như một thứ sẽ luôn ở đó, giống màu mắt hay những ngón chân khoằm xuống xấu xí của anh.

Nhưng hóa ra sự đời không phải vậy. Nguồn năng lượng ta sử dụng một cách phung phí lúc còn bé, nguồn năng lượng tưởng chừng vô tận – sẽ hao hụt dần trong khoảng thời gian ta mười tám đến hai mươi tư tuổi, để rồi bị thay thế bởi một thứ tẻ nhạt hơn, một thứ giả tạo như cơn phê thuốc: đó có thể là mục đích, mục tiêu nào đó, hoặc bất cứ ngôn từ bóng bẩy nào mà Phòng Thương mại hay hô hào. Nó không có gì to tát; nó không ồ ạt, ào ào một lúc, đùng đùng rầm rộ. Và Richie nghĩ có lẽ đó chính là phần đáng sợ của nó. Rằng không phải đùng một cái, chúng ta hết là trẻ con, ở thời điểm phát lên tiếng nổ đùng to thật to như cái trò gã hề thực hiện với mấy quả bóng bay cùng câu khẩu hiệu của Burma-Shave ở góc đường. Không, đứa trẻ trong ta cứ thế rò rỉ như hơi xì khỏi bánh xe. Và rồi, một ngày nọ, ta nhìn trong gương và thấy một người lớn đang giương mắt nhìn ta. Ta có thể tiếp tục mặc quần jean xanh, tiếp tục đến dự buổi diễn nhạc của Springteen và Seger, nhuộm tóc xanh đỏ, nhưng khuôn mặt của người lớn trong gương vẫn sẽ không thay đổi. Có thể mọi thứ âm thầm xảy ra khi ta đang say giấc nồng, như những lần Nàng tiên Răng lên đến thăm ta.

Không, anh thầm nghĩ. Không phải Nàng tiên Răng mà là Nàng tiên Lão hóa.

Anh cười phá lên thành tiếng trước hình ảnh lố lăng đến nực cười này, và khi Beverly nhìn anh đầy thắc mắc, anh phẩy tay. “Không có gì đâu, bạn yêu,” anh nói. “Tớ nghĩ linh tinh vài thứ ấy mà.”

Song giờ đây, nguồn năng lượng ấy đã quay trở lại. Không, nó chưa quay lại hoàn toàn – chỉ là chưa thôi – nhưng nó đã hiện diện rồi đây. Và không chỉ ở anh, anh còn cảm thấy nó lan tỏa khắp căn phòng. Lần đầu tiên, Richie thấy nét mặt Mike có vẻ thư giãn kể từ lúc bọn họ tụ hội ở trung tâm thương mại để ăn bữa trưa quỷ quái ấy. Khi Richie bước vào sảnh và trông thấy Mike ngồi với Ben cùng Eddie, anh đã bàng hoàng nghĩ: Người đàn ông này đang dần phát điên và sẵn sàng tự kết liễu cuộc đời mình. Nhưng vẻ mặt ấy hiện đã không còn nữa. Không phải vợi bớt mà là biến mất hẳn. Richie ngồi ngay đó, nhìn những vết tích cuối cùng trượt khỏi mặt Mike trong khi bạn anh kể lại câu chuyện về con chim và cuốn album. Anh thấy năng lượng chảy trong cơ thể mình. Và tất cả mọi người đều cảm thấy như vậy. Điều đó thể hiện qua gương mặt, giọng nói và cử chỉ của họ.

Eddie rót thêm cho mình một ly rượu gin pha nước mận. Bill uống chút bourbon và Mike khui thêm lon bia. Beverly ngước nhìn những quả bóng bay mà Bill cột vào máy ghi vi phim trên bàn chính và vội uống nốt ly codka pha nước cam thứ ba của mình. Bọn họ đã uống kha khá, nhưng không ai chếnh choáng say. Richie không biết nguồn năng lượng anh đang cảm nhận xuất phát từ đầu, song anh dám chắc nó không sinh ra từ rượu.

MỌI ĐEN DERRY BẮT CON CHIM: Xanh dương

Hội Cùi Bắp VẪN CÙI BẮP, NHƯNG STANLEY URIS ĐÃ VƯỢT LÊN TRÊN: Da cam

Richie vừa khui lon bia mới vừa nghĩ, cũng không tệ lắm. Nó có thể biến thành bất cứ con quái vật nào mà Nó muốn, và cũng không quá tệ khi Nó có thể tận dụng nỗi sợ hãi của họ. Khéo có khi nó còn biến thân thành Rodney Dangerfield giả gái ấy chứ.

Diễn viên hài người Mỹ này thỉnh thoảng giả gái trong một số phim ông tham gia.

Eddie là người phá vỡ sự im lặng. “Mọi người nghĩ Nó biết điều chúng ta định làm đến mức nào?” Anh hỏi.

“Nó đã mò đến tận đây phải không?” Ben hỏi.

“Tớ không nghĩ việc đó có nghĩa lý gì đâu,” Eddie đáp.

Bill gật đầu. “Chúng chỉ là những hình ảnh mà thôi,” anh nói. “Tớ không rõ liệu Nó có nhìn thấy chúng ta hay biết ta đang mưu tính gì không. Giống như việc ta có thể trông thấy anh phát thanh niên trên ti vi, nhưng anh ta không thể thấy mình.”

“Những quả bóng ấy không chỉ là hình ảnh,” Beverly nói và chĩa ngón cái qua vai về phía chùm bóng. “Chúng là thật.”

Bất thình lình, một thứ gì đó vừa khớp vào vị trí: nó ăn khớp mạnh bạo đến độ anh phải đưa hai tay lên bịt tai. Mắt anh trợn tròn sau cặp kính.

“Ôi Chúa ơi!” Anh đột nhiên la lên. Anh lần mò đến bàn, khom khom người rồi ngã phịch xuống ghế như động vật không xương. Hất đổ lon bia lúc vươn tay lấy, anh nhấc lên uống phần còn sót lại. Anh nhìn Mike trong khi mọi người nhìn anh với vẻ giật mình và lo lắng.

“Nó đau như thiêu như đốt ấy!” Anh gần như thét lên. “Mắt tớ rát quá! Mike ơi! Mắt tớ rát quá…”

Mike gật đầu, khẽ mỉm cười…

“R-Richie?” Bill hỏi. “Là s-sao vậy?”

Nhưng Richie không còn nghe thấy nữa gì nữa. Ký ức vồ vập quét qua người anh như con sóng, khiến anh hết nóng bừng lại lạnh toát, và anh chợt hiểu tại sao những ký ức ấy từ từ quay trở về. Nếu anh nhớ lại mọi thứ cùng một lúc, sức mạnh ấy sẽ chẳng khác nào phát súng tâm lý nã vào thái dương anh, chỉ cách vỏn vẹn hai phân. Nó sẽ khiến đỉnh đầu anh nổ tung mất.

“Chúng ta đã thấy Nó đến!” Anh nói với Mike. “Chúng ta đã cùng thấy Nó đến phải không? Cậu và tớ… hay chỉ có tớ?” Anh chộp lấy tay Mike, lúc ấy đang đặt trên bàn. “Lúc đó cậu có thấy không Mike? Hay chỉ có tớ thấy? Cậu có thấy không? Đám cháy rừng? Cái hố?”

“Tớ có thấy,” Mike khẽ khàng đáp và siết chặt tay Richie. Nhắm mắt một lúc, Richie thầm nhủ cả đời mình, chưa lần nào anh cảm nhận sự nhẹ nhõm ấm áp và mạnh mẽ đến nhường này, ngay cả lần chiếc máy bay PSA anh bay từ LA đến San Francisco trượt trên đường băng rồi dừng lại – không ai chết, cũng chẳng ai bị thương. Một số hành lý rơi khỏi khoang trên đầu, nhưng chỉ có thế. Anh đã nhảy lên máng trượt cứu hộ khẩn cấp màu vàng và giúp một phụ nữ rời máy bay. Cô bị trật chân khi mắt cá vướng vào mô đất bị khuất do cỏ mọc cao. Cô cười ha hả và nói, “Thật không thể tin được là tôi chưa chết, thật không thể tin được, thật không tài nào tin nổi.” Thế là Richie, lúc ấy một tay bế người phụ nữ và một tay vẫy lính cứu hỏa đang hối hả ra hiệu kêu gọi các hành khách rời máy bay trượt xuống, bèn lên tiếng: “Ừ, vậy cô đã chết nhé, cô đã chết rồi, cô thấy vui hơn chưa?” và cả hai cùng cười điên đảo. Đó là nụ cười nhẹ nhõm… nhưng niềm nhẹ nhõm hiện giờ còn lớn hơn.

“Các cậu đang nói gì thế?” Eddie hỏi, nhìn hai người bọn họ.

Richie nhìn Mike, nhưng Mike lắc đầu. “Cậu nói đi Richie. Tớ đã nói đủ phần mình tối nay rồi.”

“Các cậu có thể không biết hoặc không nhớ vì lúc ấy các cậu đã đi ra,” Richie kể. “Còn tớ và Mike là hai người da đỏ cuối cùng trong lỗ khói ấy.”

“Lỗ khói,” Bill trầm tư. Mắt anh xa xăm, xanh vời vợi.

“Cảm giác buốt rát trong mắt tớ,” Richie nói, “dưới kính áp tròng. Lần đầu tiên tớ cảm thấy là ngay sau khi Mike gọi điện thoại cho tớ ở California. Lúc ấy tớ không biết nó là gì, nhưng giờ tớ biết rồi. Đó là khói. Thứ khói hai mươi bảy năm tuổi.” Anh nhìn Mike. “Là hiệu ứng tâm lý hay sao nhỉ? Do căng thẳng thần kinh? Hay xuất phát từ tiềm thức của tớ?”

“Tớ không cho là vậy,” Mike khẽ khàng đáp. “Tớ cho rằng cơn đau cậu cảm nhận cũng thực như những quả bóng bay kia, hoặc cái đầu tớ thấy trong tủ lạnh, hoặc xác chết của Tony Tracker mà Eddie bắt gặp. Cậu kể với mọi người đi, Richie.”

Vậy là Richie kể. “Chuyện xảy ra khoảng tầm bốn hay năm ngày sau khi Mike mang cuốn album của bố cậu ấy xuống Vùng Đất Cằn. Nếu tớ nhớ không lầm thì là vào khoảng sau giữa tháng Bảy. Phòng sinh hoạt nhóm đã hoàn thành. Nhưng… Haystack, lúc đó cậu ấy nảy ra ý tưởng về lỗ khói. Cậu rút ra ý tưởng này từ một cuốn sách mà cậu ấy đọc được.”

Khẽ mỉm cười, Ben gật đầu.

Richie nghĩ: Hôm ấy trời âm u. Tịnh không chút gió. Sấm nổ đì đùng trong không khí. Giống y cái ngày chừng một tháng sau đó, khi cả bọn đứng dưới con suối thành hình vòng tròn, Stan cắt tay chúng ta bằng mảnh chai Coca-Cola. Không khí đứng yên như thể chờ biến xuất hiện, và về sau, Bill lý giải tại sao tình hình lại trở nên tệ hại nhanh đến thế, đó là vì không có bản nháp nào.

Ngày 17 tháng 7. Phải, đúng là nó rồi, đó là ngày xảy ra chuyện lỗ khói. Ngày 17 tháng 7 năm 1958, gần một tháng sau khi kỳ nghỉ hè bắt đầu và hạt nhân của Hội Cùi Bắp – Bill, Eddie cùng Ben – đã được hình thành dưới Vùng Đất Cằn. Để tớ tra xem dự báo thời tiết của ngày hôm ấy, gần hai mươi bảy năm trước ra sao nhé, Richie thầm nghĩ, rồi tớ sẽ nói cho mọi người dự báo thời tiết nói gì trước cả khi đọc: Richard Tozier, tức Thầy đồng Đại tài. “Nóng ẩm, có thể có mưa giông. Và cẩn thận ảo ảnh xuất hiện khi xuống lỗ khói…”

Ngày hôm ấy là hai ngày sau khi thi thể của cậu bé Jimmy Cullum được phát hiện, một ngày sau khi ông Nell xuống Vùng Đất Cằn và tình cờ ngồi ngay trên phòng sinh hoạt nhóm mà không hề hay biết sự hiện diện của căn phòng, vì lúc ấy, họ đã lợp nóc xong, Ben đã trực tiếp giám sát quá trình xếp đặt các mảng cỏ. Trừ khi có người quỳ mộp xuống và mò mẫm xung quanh, còn không chẳng ai biết có gì ở đó. Phòng sinh hoạt nhóm của Ben thành công vang dội giống con đập hôm trước, có điều lần này, ông Nell không hay biết gì.

Ông hỏi chuyện cả đám thật thận trọng, chỉn chu, ghi chú lại câu trả lời của nhóm vào một cuốn sổ màu đen, nhưng họ chẳng có nhiều thông tin để kể cho ông - chí ít là về Jimmy Cullum – và rồi ông Nell bỏ đi, sau khi nhắc nhở cả bọn thêm một lần nữa rằng họ không nên tha thẩn ở Vùng Đất Cằn một mình… dù chỉ một lần. Richie đoán ông Nell sẽ bắt cả nhóm rời khỏi đây nếu có bất cứ thanh tra nào trong Sở Cảnh sát Derry đánh giá cậu bé Cullum (hoặc bất cứ nạn nhân nào khác) thực ra đã bị sát hại ở Vùng Đất Cằn. Nhưng họ biết không phải thế, đơn giản vì hệ thống cống nước thải và cống thoát nước lũ là nơi những phần thi thể còn sót lại có khả năng sẽ trôi tới.

Ông Nell đến vào ngày 16, phải, hôm ấy cũng là một ngày nóng ẩm, nhưng có nắng. Còn ngày 17, bầu trời giăng đầy mây.

“Cậu có tính kể với bọn tớ không đâu, Richie?” Bev hỏi. Cô khẽ mỉm cười, bờ môi đầy đặn màu hồng nhung nhạt, đôi mắt long lanh.

“Tớ đang nghĩ xem nên bắt đầu từ đâu,” Richie đáp. Anh tháo kính, lấy áo lau tròng và chợt biết mình nên bắt đầu từ đâu: lúc mặt đất nứt toác dưới chân anh và Bill. Tất nhiên anh biết về phòng sinh hoạt nhóm – Bill và mọi người đều biết cả mà, nhưng nó vẫn khiến cậu bé là anh khi ấy được phen hết hồn khi trông thấy mặt đất bất thình lình mở hé ra.

Anh nhớ hôm ấy, Bill chở anh trên yên sau chiếc Ánh Bạc đến địa điểm quen thuộc ở đường Kansas rồi cất chiếc xe đạp dưới cây cầu nhỏ. Anh nhớ hai người bọn anh đã đi dọc theo con đường dẫn tới khoảng đất trống, thỉnh thoảng phải rẽ bên này, chệch bên kia vì bụi cây quá um tùm - giờ đã là giữa hè, và sự sum suê của Vùng Đất Cằn đang ở thời điểm cực thịnh. Anh nhớ mình đã đập lấy đập để đám muỗi vo ve như chợ vỡ quanh tai; anh thậm chí còn nhớ Bill đã nói (ôi, ký ức ùa về rõ đến từng đường nét, như thể không phải nó mới xảy ra ngày hôm qua mà là đang xảy ra ngay lúc này), “Đ-Đ Đứng yên đó m-m-m-…”

2

”… một chút, R-Richie. Có con m-m-muỗi to đùng phía s-sau c-cổ cậu đây này.”

“Ôi Chúa ơi,” Richie nói. Cậu chúa ghét muỗi. Ngẫm kỹ thì chúng chẳng khác nào đám ma cà rồng nhỏ xíu biết bay. “Giết nó đi, Bill To Bự.”

Bill đập đánh bốn phía sau gáy của Richie.

“Ui da!”

“Đ-Đ-Đây.”

Bill chìa tay ra trước mặt Richie. Con muỗi nát bấy giữa vết máu hình dạng méo mó. Máu tao đó, Richie thầm nghĩ, máu tao đã đổ xuống vì mày và đồng loại của mày. “Khiếp” cậu nói.

“Đ-Đừng l-lo,” Bill trấn an. “Con q-quỷ chết t-toi này hết cơ hội g-g-gáy được rồi.”

Bọn họ đi tiếp, vừa đi vừa đập muỗi vừa phẩy tay xua đám côn trùng bị thu hút bởi thứ gì đó trong mùi mồ hôi của họ - nhiều năm sau, người ta xác định chất này là pheromone. Mà pheromone hay gì cũng chẳng quan trọng.

“Bill, khi nào cậu mới nói với mọi người về viên đạn bạc?” Richie hỏi khi họ đến gần khoảng đất. Trong trường hợp này, mọi người” bao gồm Bev, Eddie, Mike và Stan - dù Richie đoán Stan cũng đã là mờ đoán được họ nghiên cứu gì ở Thư viện công cộng. Nhiều lúc, Richie thấy đầu óc Stan rất sắc bén - quá sắc bén là đằng khác. Hôm Mike cầm theo cuốn album của bố cậu ấy xuống Vùng Đất Cằn, Stan gần như mất hết bình tĩnh. Thật ra, trong lòng, Richie khá chắc chắn cả bọn sẽ không bao giờ thấy Stan lần nữa và Hội Cùi Bắp sẽ trở thành hội lục tấu (Richie rất thích từ này, và khi nào cậu cũng nhấn mạnh từ đầu tiên). Nhưng hôm sau, Stan vẫn quay trở lại, và Richie thầm thán phục bạn mình nhiều hơn vì hành động ấy. “Cậu có tính nói hôm nay không?”

“Kh-Không phải h-hôm nay,” Bill đáp.

“Cậu không cho rằng mọi chuyện sẽ ổn phải không?”

Bill nhún vai, và Richie, có thể xem là người hiểu Bill Denbrough hơn bất cứ ai trên đời cho đến khi Audra Phillips đăng đàn, đoán được tất cả những điều Bill sẽ nói ra nếu không bị cản trở bởi chướng ngại trong giao tiếp: rằng việc một đám con nít chế tạo viên đạn bạc là chi tiết xuất hiện trong sách dành cho con trai, trong truyện tranh… Hay nói cách khác, nó là thứ vớ vẩn, vô căn cứ. Vớ va vớ vẩn nhưng lại rất nguy hiểm. Ừ thì đúng là họ có thể mày mò làm thử. Thậm chí dưới bàn tay của Ben Hanscom, nó có thể thành công. Trong phim, có khi nó lại hiệu quả đấy chứ. Nhưng…

“Vậy tính sao?”

“Tớ có y-y-y-ý này,” Bill nói. “Đơn giản hơn. Nhưng chỉ khi nào B-B-Beverly…”

“Chỉ khi nào Beverly làm sao?

“Th-Thôi, bỏ qua đi.”

Và Bill không đả động thêm lời nào đến chủ đề này nữa.

Hai người bọn họ bước vào khoảng đất. Nếu nhìn kỹ, hẳn người ta sẽ thấy lớp cỏ ở đây có gì đó rối rắm – trông kỳ kỳ. Thậm chí có khi người ta còn nghĩ trông như có bàn tay con người nhúng vào - gần như sắp đặt – đặc biệt là ở điểm lá và thông rải rác trên những bụi cỏ. Bill nhặt vỏ bánh Ring-Ding - gần như trăm phần trăm là của Ben – và nhét vào túi.

Hai cậu bé đi đến giữa khu đất… thì bất thình lình, một miếng đất dài khoảng hai mươi lăm phân và rộng khoảng tám phân bật mở với phần bản lề dơ dáy, để lộ mí mắt đen thui. Đôi mắt nhìn lom lom từ trong bóng tối khiến Richie thoáng rùng mình. Nhưng hóa ra là mắt của Eddie Kaspbrak (một tuần sau, cậu sẽ có dịp vào bệnh viện thăm Eddie). Eddie eo éo nói: “Kẻ nào bước đi kèn kẹt trên cầu của ta?”

Có tiếng cười khúc khích vang lên bên dưới và ánh đèn pin lóe lên.

“Chúng tôi là sen đầm đây, thưa ngài,” Richie nói, đoạn ngồi xổm xuống, vân vê lớp ria mép vô hình và í ới bằng giọng Pancho Vanilla.

Trong bản gốc, Richie dùng từ “rurales”, tức lực lượng cảnh sát thời xưa của Mexico. Bản dịch Việt hóa thành từ “sen đầm”, xuất phát từ Gens d’armes (tiếng Pháp) chỉ lực lượng cảnh sát vũ trang.

“Thế cơ đấy?” Beverly nói vọng lên. “Cho chúng tôi xem phù hiệu của anh.”

“Phù hiệu ư? Cần quái gì dăm ba cái phù hiệu thối đó, bớ ngài!”

“Biến gấp giùm, Pancho,” Eddie đáp rồi đóng sập mí mắt không lồ. Từ bên dưới vắng lên tiếng cười rôm rả.

“Bước ra ngoài và giơ tay lên!” Bill ra lệnh bằng giọng người lớn trầm khàn. Cậu bắt đầu bước qua bước lại trên nắp hầm phủ cỏ của phòng sinh hoạt nhóm. Cậu có thể cảm nhận mặt đất rung rinh theo mỗi bước chân, nhưng chỉ một chút chứ không đáng kể, họ đã xây dựng rất kiên cố. “Các người đừng hòng trốn thoát!” Cậu thét lên, tưởng tượng mình hóa thân thành Joe Friday không sợ trời, không sợ đất của Sở Cảnh sát Los Angeles. “Bước ra ngoài ngay, lũ tội phạm kia! Nếu không chúng tôi sẽ xông vào NỔ SÚNG đấy!”

Cậu hết nhảy lên lại nhảy xuống để chứng minh mình không nói suông. Tiếng hét và tiếng khúc khích vang lên từ bên dưới. Bill mỉm cười, không hề hay biết Richie đang nhìn mình với ánh mắt sắc bén – trong khoảnh khắc ngắn ngủi ấy, đó không phải cách một đứa trẻ nhìn bạn của mình mà là cách một người lớn nhìn một đứa trẻ.

Cậu ấy không biết không phải khi nào cậu ấy cũng nói lắp, Richie thầm nghĩ.

“Cho bọn họ vào đi, Ben, chứ không họ làm sập mái bây giờ,” Bev nói. Giây sau, nắp hầm lật mở như nắp tàu ngầm. Ben nhìn ra ngoài. Mặt cậu ửng đỏ. Richie đoán ra ngay lập tức rằng Ben đang ngồi cạnh Beverly.

Sau khi Bill và Richie tuột xuống nắp hầm, Ben đóng cửa lại. Và rồi cả bọn đều có mặt bên dưới, co chân ngồi tựa vào tường kê ván gỗ, khuôn mặt mờ ảo hiện ra dưới ánh đèn pin của Ben.

“Th-Th-Thế c-các c-c-cậu đ-đang l-làm gì?” Bill hỏi.

“Cũng không có gì,” Ben đáp. Đúng thật, cậu đang ngồi cạnh Beverly, và khuôn mặt cậu vừa sướng rơn vừa đỏ như gấc. “Bọn tớ chỉ đang…”

“Kể đi, Ben,” Eddie cắt ngang. “Kể cho các cậu ấy nghe chuyện đó xem họ nghĩ gì.”

“Không tốt cho cơn hen của cậu đâu nhé,” Stan cảnh báo Eddie với tông giọng phải-có-người-suy-nghĩ-thực-tế-ở-đây-chứ.

Richie ngồi giữa Mike và Ben, vòng tay ôm lấy đầu gối. Ở dưới này, không khí mát lạnh vô cùng dễ chịu, và còn riêng tư nữa chứ. Nhìn theo ánh đèn pin di chuyển từ mặt người này sang mặt người kia, cậu tạm thời quên đi điều vừa khiến cậu hết hồn chỉ một phút trước. “Các cậu đang nói về gì thế?”

“À, ban nãy Ben kể cho bọn tớ nghe một nghi thức của người da đỏ,” Bev đáp. “Nhưng Stan nói đúng đó, nó không tốt cho cơn hen của cậu đâu, Eddie.”

“Không sao,” Eddie nói, và Richie thấy quả đúng là đáng khen vì cậu bạn chỉ khó chịu đôi chút. “Thường thì tớ chỉ lên cơn hen khi cáu giận mà thôi. Mà tớ cũng muốn thử xem sao.”

“Thử c-c-cái gì?” Bill hỏi.

“Nghi thức Lễ khói,” Eddie đáp.

“Đ-Đ-Đó là g-gì?”

Ánh đèn pin của Ben lướt lên trên và Richie đưa mắt dõi theo. Nó lướt qua lướt lại vô định trên nóc phòng sinh hoạt nhóm bằng gỗ lúc Ben quơ tay giải thích. Nó băng qua những thanh gỗ cắt xén và xẻ nhỏ của cánh cửa dái ngựa mà bảy người bọn họ cùng nhau khiêng về từ bãi rác ba ngày trước - trước ngày phát hiện thi thể của cậu bé Jimmy Cullum một hôm. Có một điều mà Richie ấn tượng về Jimmy Cullum, cậu bé nhỏ nhắn, ít nói, tình cờ cũng bốn mắt, là cậu này thích chơi Scrabble vào những ngày mưa. Giờ thì cậu ấy không thể chơi Scrabble được nữa rồi, Richie nghĩ, thoáng rùng mình. Trong ánh sáng tù mù, không ai thấy cậu run lên, nhưng Mike Hanlon, khi ấy đang ngồi bên cạnh, vai sát vào vai cậu, liếc nhìn cậu với vẻ tò mò.

“À, tuần trước tớ tìm được một cuốn sách ở thư viện,” Ben kể. “Tên nó là Hồn ma của Đồng bằng Bao la , nội dung nói về các bộ lạc da đỏ từng sống ở miền Tây khoảng 150 năm về trước. Bộ tộc Paiute, Pawnee, Kiowa, Otoe và Comanche. Cuốn sách hay lắm. Mong rằng một ngày nào đó, tớ sẽ được đặt chân đến nơi họ từng sinh sống. Iowa, Nebraska, Colorado, Utah…”

“Thôi nào, vào thẳng chủ đề về Nghi thức Lỗ khói đi,” Beverly nói và huých khuỷu tay vào cậu bạn.

“Ừ, cậu nói. “Được thôi.” Và Richie dám chắc nếu Beverly thúc khuỷu tay và bảo “Cậu uống thuốc độc này đi Ben” thì câu trả lời của Ben cũng y như vậy.

“Thì đây, vốn dĩ đa phần người da đỏ đều có một nghi thức đặc biệt, và phòng sinh hoạt nhóm của bọn mình gợi cho tớ nghĩ đến điều đó. Bất cứ khi nào cần đưa ra quyết định quan trọng - ví dụ như di chuyển theo đàn trâu, đi tìm nguồn nước mới hoặc có chiến đấu với kẻ thù hay không chẳng hạn – họ sẽ đào một cái hố dưới đất, lấy cành cây phủ lên trên, chỉ để một lỗ nhỏ thông hơi ở nóc.”

“Hố kh-kh-khói,” Bill nói.

“Cậu không bao giờ làm tớ thôi bất ngờ vì sự nhanh nhạy của mình đó, Bill To Bự,” Richie kính cẩn thốt lên. “Cậu phải tham gia chương trình Hai mươi mốt đi . Tớ dám cá cậu sẽ đánh bại cả Charlie Van Doren cho xem.”

Twenty-One, chương trình truyền hình trong đó người chơi giải các câu hỏi về kiến thức chung.

Bill làm bộ đánh Richie khiến cậu rụt người lại, đập đầu rõ đau vào miếng ván lót.

“Đ-Đáng đời,” Bill nói.

“Ta giết ngươi, tên Mỹ chết toi,” Richie nói. “Chúng ta cần quái gì dăm ba cái…”

“Các cậu thôi ngay đi được không?” Beverly hỏi. “Đang phần hay mà.” Đoạn cô nhìn Ben với ánh mắt đầy trìu mến, đến độ Richie tưởng chừng trong dăm ba phút nữa, khói sẽ bốc ra từ hai tai Haystack.

“Được thôi, B-B-Ben,” Bill nói. “Kể đ-đ-đi.”

“Ừ.” Ben đáp lời. Giọng khàn khàn nên cậu phải đằng hắng rồi mới tiếp tục kể. “Sau khi hoàn thành lỗ khói, họ sẽ nhóm lửa bên dưới. Họ dùng gỗ tươi để khói hun lên thật nhiều. Rồi những ai can đảm sẽ bước xuống dưới và ngồi quanh đống lửa. Cả không gian sẽ dày đặc khói. Cuốn sách bảo nghi thức này mang tính tôn giáo nhưng đồng thời cũng là một cuộc thi, các cậu hiểu không? Sau khoảng nửa ngày, hầu hết những ai tham gia sẽ chui ra ngoài vì không tài nào chịu nổi khói nữa, chỉ còn lại tầm hai hay ba người. Và những người này sẽ thấy ảo giác.”

“Ừ, nếu hít khói trong chừng năm hay sáu tiếng thì không thấy ảo giác mới lạ,” Mike nhận xét và cả bọn cười vang.

“Người ta cho rằng ảo giác này sẽ cho bộ lạc biết họ phải làm gì,” Ben tiếp tục. “Và tớ không biết phần này có đúng không, nhưng cuốn sách bảo phần lớn thời gian, các ảo giác đều đúng.”

Im lặng bao trùm không gian, Richie đưa mắt nhìn Bill. Cậu biết cả đám đều đang nhìn Bill, và một lần nữa, cậu lại có cảm giác câu chuyện của Ben về lỗ khói không chỉ là thứ ta đọc được trong sách rồi mày mò làm thử, như thí nghiệm hóa học hay trò ảo thuật. Cậu biết điều đó, mọi người trong nhóm cũng biết điều đó. Có lẽ Ben hiểu rất rõ. Đây là điều họ buộc phải thực hiện.

Những người này sẽ thấy ảo giác… Phần lớn thời gian, các ảo giác đều đúng…

Richie thầm nghĩ, Mình cá nếu mọi người hỏi thì Haystack sẽ bảo cậu tìm thấy cuốn sách một cách hết sức tình cờ. Như thể có thế lực nào đó muốn cậu ấy đọc đúng cuốn sách này và rồi đem chi tiết nghi thức lỗ khói kể lại với cả nhóm. Vì bọn mình có thể xem là một bộ lạc chứ còn gì nữa? Ừ. Đúng rồi, bọn mình có khác gì bộ lạc đâu. Và phải, bọn mình cần phải biết điều gì sẽ xảy ra tiếp theo.

Và rồi suy nghĩ này lại dẫn tới suy nghĩ khác: Liệu điều này có được định sẵn không? Kể từ lúc Ben nảy ra ý tưởng xây dựng phòng sinh hoạt nhóm dưới đất thay vì dựng nhà trên cây, liệu điều này có được sắp đặt để xảy ra không? Có bao nhiêu phần là do bọn mình tự nảy ra, bao nhiêu phần là được định đoạt sẵn?

Theo một cách nào đó, cậu cảm thấy ý tưởng này khiến cậu nhẹ nhõm đôi phần. Cậu thấy vui khi tưởng tượng đến thế lực to lớn hơn bọn họ, thông minh hơn bọn họ, đang vạch ra đường đi nước bước cho cả nhóm, giống như người lớn hay nấu nướng cho ta ăn, mua quần áo và sắp xếp thời gian cho chúng ta – và Richie dám chắc thế lực đem họ lại với nhau, thế lực đã mượn Ben làm sứ giả gửi gắm đến họ ý tưởng về lỗ khói – thế lực ấy không cùng một giuộc với thế lực ma quỷ cướp đi mạng sống của trẻ em. Thế lực này giống như kẻ thù không đội trời chung với thứ… với

(thôi nói thì nói phát ra đi)

Nó. Nhưng cùng lúc, cậu cũng không thích cảm giác mình không được làm chủ hành động của mình mà lại bị điều khiển, bị giật dây .

Cả đám đưa mắt nhìn Bill, họ đều đợi xem Bill sẽ nói gì.

“N-Nói s-s-sao nhỉ,” cậu lên tiếng, “tớ thấy nghe đ-đ-được r-ra phết.”

Beverly thở phào một tiếng, còn Stan cựa quậy với vẻ không thoải mái… nhưng chỉ có vậy.

“Đ-Đ-Được r-ra phết,” Bill lặp lại, đưa mắt nhìn xuống tay và có lẽ là do ánh đèn pin trong tay Ben hoặc do cậu thần hồn nát thần tính, song Richie có cảm tưởng Bill trông hơi nhợt nhạt và vô cùng sợ hãi, mặc dù cậu ấy đang mỉm cười. “Biết đâu t-ta có thể d-dùng ảo gi-giác để biết mình n-nên giải qu-quyết v-v-vấn đề th-thế nào.”

Nếu có người thấy ảo giác thì hẳn đó sẽ là Bill, Richie thầm nghĩ, song đáng tiếc, lần này cậu đã lầm.

“Chà,” Ben nói, “có khi nó chỉ có tác dụng với người da đỏ thôi, nhưng thử cũng không mất mát gì.”

“Ừ, có mất mát gì đâu, chỉ sợ lăn đùng ra bất tỉnh nhân sự do hít khói và ngỏm củ tỏi ở đây luôn thôi,” Stan u ám nói. “Chẳng mất gì, mất mỗi mạng.”

“Cậu không muốn làm hả Stan?” Eddie hỏi.

“Ừ thì cũng muốn,” Stan nói rồi thở dài. “Tớ nghĩ các cậu làm tớ phát khùng rồi, các cậu hiểu không hả?” Đoạn cậu nhìn Bill. “Khi nào đấy?”

Bill bèn đáp, “Ch-Chà, kh-không có l-lúc nào đẹp như l-lúc này, đ-đúng không?”

Bầu không khí im lặng đầy trầm mặc và thảng thốt bao trùm. Đoạn Richie đứng dậy, vươn tay đẩy cửa mở, để ánh mặt trời dìu dịu của ngày hè lặng gió lọt vào căn phòng.

“Tớ có rìu đây,” Ben nói và theo bạn bước ra ngoài. “Có ai muốn phụ tớ chặt gỗ tươi không?”

Rốt cuộc, ai cũng lăn xả vào phụ.

3

Cả bọn mất tầm một tiếng đồng hồ để chuẩn bị. Họ chặt bốn, năm bó cành cây tươi, rồi Ben tuốt hết lá và ngọn. “Nhìn là biết sẽ nhiều khói lắm đây,” cậu nói. “Tớ còn chẳng biết liệu bọn mình có thể nhóm lửa hay không.”

Beverly và Richie đi xuống bờ sông Kenduskeag gom một đống đá có kích thước vừa phải, tận dụng áo khoác của Eddie làm tay nải (mẹ Eddie khi nào cũng bắt cậu mặc áo khoác, bất kể hôm ấy thời tiết 27 độ C - nhỡ mưa thì sao, bà Kaspbrak nói, nếu con mặc áo khoác thì chí ít con cũng không bị ướt ). Trong lúc khiêng đá về lại phòng sinh hoạt nhóm, Richie nói: “Cậu không làm được trò này đâu, Bev. Cậu là con gái mà. Ben bảo chỉ những ai gan dạ mới chui xuống lỗ khói, còn bánh bèo thì miễn.”

Beverly khựng lại, nhìn Richie với ánh mắt vừa hứng khởi vừa bực mình. Một lọn tóc rời khỏi đuôi gà của cô, cô chề môi và thổi nó ngược lên trán.

“Tớ có thể vật cậu đo đất đấy nhé, Richie. Chưa thấy quan tài chưa đổ lệ à?”

“ Thía nào cũng được, quý cô Xì-cô-lét ơi!” Richie nói, mặt lồi ra. “Cô vẫn là phụ nữ, muôn đời là phụ nữ! Cô đâu thể nào là dân da đỏ can trường được!”

“Thế thì tớ là quý cô can trường,” Beverly thủng thỉnh. “Thế giờ cậu có tính đem đá quay trở lại phòng sinh hoạt nhóm không hay để tớ chọi vài hòn vào cái đầu thối tha của cậu luôn đây?”

“Lạy Chúa lòng lành, quý cô Xì-cô-lét ơi, đầu tôi có thối chút nào đâu!” Richie ré lên, và Beverly cười ha hả đến độ đánh rơi áo khoác của Eddie làm bao nhiêu đá rơi hết ra ngoài. Cô càm ràm Richie suốt quãng thời gian họ nhặt lại đá, còn Richie vừa đùa vừa ré lên bằng đủ thứ Giọng nói, lòng thầm nhủ cô bạn của mình mới xinh xắn làm sao.

Mặc dù Richie chỉ nửa đùa nửa thật về việc không để cô tham gia vào nghi thức lỗ khói xét đến yếu tố giới tính, Bill Denbrough lại có vẻ rất kiên quyết về việc này.

Cô đứng mặt đối mặt với cậu, tay chống nạnh, má bừng bừng giận dữ. “Dẹp ngay lý lẽ củ chuối ấy đi nhé, Bill Cà Lăm! Tớ cũng tham gia vụ này, hay cậu cho rằng tớ không còn là thành viên của cái hội chết tiệt này nữa?”

Bill kiên nhẫn trả lời: “Kh-Không ph-phải như vậy, B-B-Bev ạ, và c-cậu h-hiểu lý do mà. Ph-Phải có người ở tr-trên canh chừng chứ.”

“Tại sao?”

Bill cố nói nhưng chướng ngại mãi không vượt được. Cậu nhìn Eddie cầu cứu.

“Là điều mà Stan nói đấy,” Eddie khẽ giải thích với cô. “Về đám khói. Ý Bill là rủi may bọn mình ngất xỉu bên dưới thì chết cả lũ. Bill bảo đó là điều xảy ra khi người ta mắc kẹt trong các vụ cháy nhà. Họ không chết vì bị lửa đốt mà chết vì ngạt khói. Họ…”

Cô quay phắt sang Eddie. “Ờ rồi. Cậu ấy muốn có người ở trên này canh chừng xảy ra chuyện phải không?”

Eddie khổ sở gật đầu.

“Thế cậu thì sao? Cậu bị hen suyễn còn gì.”

Eddie lặng thinh. Cô quay sang nhìn Bill. Mọi người đứng xung quanh, tay đút túi, mắt cúi gằm nhìn đôi giày.

“Vì tớ là con gái đúng không? Lý do thực sự là vậy, phải không?”

“B-B-B-Bev…”

“Cậu không cần phải nói gì nữa,” cô gạt phắt. “Chỉ cần gật hay lắc là đủ rồi. Đầu cậu đâu có nói lắp, đúng không? Vì tớ là con gái phải không?”

Bill lưỡng lự gật đầu.

Cô chằm chằm nhìn cậu, môi run lên, Richie cứ tưởng cô sẽ bật khóc. Nào ngờ cô tuôn ra một tràng xối xả.

“Thế cơ đấy, tiên sư cậu!” Cô xoay một vòng nhìn tất cả mọi người, và cả đám rụt lại trước ánh nhìn của cô, ánh nhìn nóng rẫy, gần như phát xạ. “Tiên sư tất cả các cậu nếu các cậu có suy nghĩ như thế!” Cô quay lại nhìn Bill và ra rả: “Đây đâu phải dăm ba trò chơi con nít vớ va vớ vẩn như bịt mắt bắt dê hay trốn tìm đâu, cậu hiểu rõ điều này mà, Bill. Bọn mình có trách nhiệm phải thực hiện chuyện này. Đây là một phần trong quá trình. Và cậu không thể cho tớ ra rìa chỉ vì tớ là con gái. Cậu có hiểu không? Cậu không hiểu thì tớ rời khỏi đây ngay và luôn. Mà nếu tớ đi là một đi không trở lại đấy. Đừng hòng thấy mặt tớ lần nữa. Cậu hiểu không?”

Cô ngừng lại. Bill nhìn cô bạn của mình. Xem ra cậu đã lấy lại vẻ bình tĩnh, nhưng Richie cảm thấy đôi phần sợ hãi. Linh tính mách bảo cậu cơ hội họ giành chiến thắng, cơ hội họ tìm được cách để đối đầu với thứ đã giết chết Georgie Denbrough và những đứa trẻ khác, nắm thóp được Nó và kết liễu Nó, đang ở tình thế ngàn cân treo sợi tóc này. Bảy người, Richie thầm nhủ. Đó là con số ma thuật. Phải có bảy người bọn họ. Phải như thế mới được.

Đâu đó, một chú chim cất tiếng véo von; rồi lại ngưng, rồi lại véo von.

“Đ-Được r-rồi,” Bill đành thỏa hiệp, và Richie thở phào. “Nhưng vẫn ph-phải có ng-người ở tr-tr-trên canh ch-chừng. Ai m-m-muốn l-làm thế?”

Richie đinh ninh Eddie hoặc Stan sẽ xung phong thực hiện nhiệm vụ này, nhưng Eddie không nói gì. Mặt xanh như tàu lá, Stan đứng trầm ngâm, lặng thinh. Mike nhét ngón cái vào thắt lưng như Steve McQueen trong bộ phim Truy nã: Còn sống hay đã chết , đứng yên như phỗng, chỉ có đôi mắt sáng bừng.

“Th-Th-Thôi n-nào,” Bill nói, và Richie nhận ra mọi người đã chuẩn bị tinh thần cả rồi, không chút giả tạo; những lời tận tâm can của Bev và nét mặt trầm tư già hơn hẳn so với tuổi của Bill đã nói lên điều đó. Đây là một phần trong hành trình mà họ phải trải qua, có lẽ nguy hiểm chẳng kém cuộc phiêu lưu mà cậu và Bill từng có ở căn nhà số 29 đường Neibolt. Cả bọn biết điều đó… nhưng không ai trong số họ nao núng. Bỗng dưng, cậu cảm thấy thật tự hào về các bạn, tự hào khi mình được ở bên cạnh nhóm bạn này. Sau bao năm bị xem như người thừa, thì nay, cậu đã tìm được nơi dành cho mình. Nơi cậu thật sự thuộc về. Cậu không rõ họ có còn cùi bắp hay không, nhưng cậu biết mọi người luôn kề vai sát cánh bên nhau. Họ là bạn bè. Những người bạn chí cốt. Richie cởi kính, dùng vạt áo lau thật mạnh hai tròng.

“Tớ nghĩ ra cách rồi,” Bev nói rồi lấy xấp diêm từ trong túi. Trên lớp vỏ nhỏ xíu đến độ phải dùng kính lúp mới nhìn rõ chi tiết là hình của những ứng cử viên tranh danh hiệu Hoa hậu Rheingold. Beverly quẹt một que diêm rồi thổi tắt. Cô xé thêm sáu que diêm rồi bỏ chung que diêm đã đốt. Cô quay lưng với cả bọn, và khi cô xoay lại, phần đầu trắng của bảy que diêm chìa ra khỏi nắm tay. “Chọn đi,” cô nói, chìa nắm diêm về phía Bill. “Ai bốc phải que diêm bị đốt sẽ phải ở trên này và kéo mọi người ra nếu có người bị xỉu.”

Bill trầm ngâm nhìn cô. “C-Cậu m-muốn làm th-th-thế này s-sao?”

Cô mỉm cười với cậu, nụ cười khiến khuôn mặt cô bừng sáng. “Ừ, đồ ngốc này, tớ muốn thế đấy. Còn cậu thì sao?

“Tớ rất th-th-thương cậu, B-B-Bev ạ,” cậu nói, và má cô ửng hồng như có lửa bập bùng.

Bill có vẻ không để ý điều đó. Cậu nhìn đuôi những que diêm chia ra từ nắm tay cô hồi lâu rồi chọn một que. Đầu diêm trắng và chưa bị đốt. Cô chuyển sang Ben, chìa sáu que diêm còn lại.

“Tớ cũng thương cậu lắm,” Ben nói, giọng khàn đặc. Mặt cậu chuyển sang màu mận chín, trông cậu như sắp lên cơn đột quỵ đến nơi. Nhưng không một ai phá lên cười. Đâu đó sâu trong Vùng Đất Cằn, con chim lại cất tiếng hót véo von. Chắc Stan biết đó là chim gì, Richie bâng quơ nghĩ.

“Cảm ơn cậu,” cô nói với nụ cười trên môi. Ben chọn một que và đầu que diêm cũng còn nguyên vẹn.

Cô tiếp tục chuyển sang Eddie. Eddie mỉm cười bẽn lẽn, nụ cười đáng yêu đến khó tưởng và mong manh đến đau lòng. “Tớ nghĩ mình cũng rất thương cậu, Bev ạ,” cậu nói rồi chọn đại một que. Đầu diêm cũng có màu xanh.

Beverly chìa bốn đầu diêm còn lại cho Richie.

“Tui yêu cô, thưa quý cô Xì-cô-lét!” Richie thét ầm lên và chu môi thành nụ hôn thật kêu. Beverly chỉ nhìn cậu, khẽ mỉm cười làm Richie cảm thấy xấu hổ. “Tớ cũng thương cậu lắm, Bev ạ” cậu nói và chạm vào tóc cô. “Cậu ngầu lắm đó.”

“Cảm ơn cậu,” cô đáp.

Cậu chọn một que diêm và nhìn nó, ngờ rằng mình bốc trúng que bị đốt nhưng hóa ra không phải.

Cô đưa tay ra trước Stan.

“Tớ thương cậu lắm,” Stan nói rồi rút một que ra khỏi tay cô. Vẫn không bị đốt.

“Còn cậu với tớ thôi, Mike,” cô nói và đưa cho bạn mình chọn một trong hai que còn lại.

Cậu bước lên. “Tớ không biết cậu đủ nhiều để thương cậu,” cậu nói, nhưng tớ vẫn thương đấy nhé. Tớ đoán cậu có thể chỉ mẹ tớ cách xa xả khiến người ta tắt đài luôn.”

Cả bọn phá lên cười, và rồi Mike rút diêm. Đầu diêm cũng không bị đốt.

“Vậy ch-ch-chắc là cậu rồi, Bev,” Bill nói.

Cau có ra mặt – rốt cuộc cô làm ầm lên mà chỉ dã tràng xe cát – Beverly mở lòng bàn tay mình ra.

Nào ngờ, đầu que diêm còn lại cũng có màu xanh và chưa bị đốt.

“C-C-Cậu tr-tr-tráo đổi à,” Bill chỉ trích.

“Không hề.” Giọng cô không gắt gỏng phản bác – như thế lại càng đáng nghi – mà là vô cùng sửng sốt. “Tớ thề trước Chúa, tớ không tráo đổi.”

Đoạn cô cho họ xem lòng bàn tay. Tất cả mọi người đều thấy vết muội mờ mờ từ đầu diêm bị đốt.

“Bill, tớ dám lấy danh dự ra thề đấy!”

Bill nhìn cô một lúc rồi gật đầu. Không ai nói gì nhưng cả bọn đều nhất trí đưa diêm cho Bill. Bảy que diêm, đầu diêm còn nguyên vẹn. Stan và Eddie mò mẫm trên đất nhưng không tìm thấy bóng dáng que diêm nào bị đốt.

“Tớ không có tráo mà,” Beverly nhắc lại, nói phong long.

“Thế bọn mình làm gì bây giờ?” Richie hỏi.

“Cả đ-đám cùng xuống,” Bill nói. “Vì đó là đ-điều chúng t-t-ta ph-phải làm.”

“Và nếu cả bọn đều bất tỉnh thì sao?” Eddie hỏi.

Bill lại nhìn Beverly. “N-Nếu B-Bev n-nói th-thật, mà s-sự thật là th-thế, thì chúng t-ta không b-bất tỉnh đâu.”

“Sao cậu biết ?” Stan hỏi.

“Th-Thì b-biết thế th-thôi.”

Con chim lại cất tiếng hót.

4

Ben và Richie xuống trước, các thành viên còn lại trong nhóm lần lượt chuyển đá xuống. Richie đưa đá cho Ben để cậu bạn xếp thành hình vòng tròn nhỏ ở giữa sàn đất của căn phòng sinh hoạt nhóm. “Được rồi,” cậu nói. “Thế là đủ.”

Mọi người bước xuống, mỗi người cầm theo một nắm cành cây tươi mà họ dùng rìu của Ben để chặt. Bill là người xuống cuối cùng. Cậu đóng cửa lại và mở hé ô cửa sổ chật hẹp. “Đ-Đ-Đây,” cậu nói, “thế là có l-l-lỗ khói rồi này. Bọn mình c-có gì nh-nhóm l-lửa không?”

“Cậu có thể dùng thứ này nếu muốn,” Mike nói và lấy ra một quyển truyện tranh Archie tả tơi từ trong túi bên hông. “Tớ đọc xong rồi.”

Bill xé từng trang truyện, thật cẩn trọng và chậm rãi. Mọi người ngồi quanh các bức tường, đầu gối và vai tựa sát nhau, chăm chăm nhìn mà chẳng nói năng gì. Sự căng thẳng đặc quánh và tù đọng.

Bill để những que củi nhỏ và cành cây lên giấy rồi nhìn Beverly. “C-C-Cậu c-có diêm đúng không?” Cậu hỏi.

Cô quẹt một que diêm, ánh lửa vàng nhỏ xíu bừng lên trong bóng tối. “Coi chừng lửa chẳng bén nổi đâu,” cô nói, giọng không đều, tay đưa que diêm vào những chỗ khác nhau trên tờ giấy. Khi que diêm cháy sát đến ngón tay, cô ném nó vào giữa.

Ánh lửa loé lên màu vàng, bập bùng, lập lòe trên khuôn mặt họ, và trong khoảnh khắc ấy, Richie bỗng thấy nhập tâm câu chuyện người da đỏ mà Ben kể, cậu thầm nghĩ đây hẳn là cuộc sống của những người da đỏ vốn rong ruổi theo những đàn bò khổng lồ đến độ trải rộng tận chân trời, to lớn đến độ mỗi lần chúng rầm rập đi ngang qua là rung chuyển như có động đất, khi chuyện về người da trắng chỉ là đồn đại hoặc hoang đường. Trong khoảnh khắc ấy, Richie có thể mường tượng cảnh những người da đỏ, Kiowa hoặc Pawnee hay những bộ lạc khác xuống dưới lỗ khói, gối kề gối, vai kề vai, nhìn ngọn lửa bập bùng liếm vào gỗ tươi như vết loét nóng bừng, lắng nghe tiếng nhựa cây xèo xèo ứa ra khỏi gỗ ẩm, đợi ảo giác giáng thế.

Phải. Ngồi nơi đây, cậu thấy mình một lòng tin vào chuyện đó… và khi nhìn khuôn mặt đăm chiêu của các bạn mình hướng mắt về ngọn lửa và những trang truyện Archie đang cháy thành than của Mike, cậu biết mọi người cũng không nghi ngờ gì cả.

Cành cây đã bắt được lửa. Khói bắt đầu lan khắp phòng sinh hoạt nhóm. Một phần khói trắng như tín hiệu khói bằng bông trong bộ phim chiếu vào sáng thứ Bảy với sự góp mặt của Randolph Scott hay Audie Murphy gì đó thoát ra từ lỗ khói. Nhưng do bên ngoài không có không khí chuyển động để tạo gió, phần lớn khói vẫn tụ lại ở phía dưới. Khói cay sẽ khiến mắt đau nhói và họng khô khốc. Richie nghe thấy Eddie ho đến hai lần – tiếng ho húng hắng như tiếng hai tấm ván khô đập vào nhau - rồi im lặng. Lý ra cậu ấy không nên ở dưới đây , cậu thầm nhủ… nhưng trong lòng vẫn còn một cảm giác gì đó thật khác.

Bill ném nắm cành cây tươi vào ngọn lửa đang âm ỉ rồi hỏi bằng giọng mỏng tang, chẳng giống giọng nói bình thường chút nào: “Có ai th-thấy ảo gi-gi-giác chưa?”

“Thấy ảo giác được ra khỏi đây,” Stan Uris nói. Beverly phá lên cười nhưng tiếng cười chẳng mấy chốc biến thành tràng ho khù khụ.

Richie ngả đầu ra sau, tựa vào tường và nhìn lên trên lỗ khói - một hình chữ nhật nhỏ với ánh sáng trăng trắng. Cậu nghĩ về bức tượng Paul Bunyan ngày tháng Ba vừa rồi… nhưng đó chỉ là một ảo ảnh, một (ảo giác) “Khói giết chết tớ mất thôi,” Ben nói. “Ối trời!”

“Thế thì ra đi.” Richie thầm thì, không rời mắt khỏi lỗ khói. Cậu cảm thấy mình đã nắm được bí quyết rồi. Cậu có cảm giác mình như sụt mất bốn ki-lô. Và cậu dám thề hứa đảm bảo rằng phòng sinh hoạt nhóm như rộng ra. Về điều này thì cậu đoán chuẩn thì phải. Ban nãy, cậu ngồi mà cẳng chân phải mập ú của Ben Hanscom cọ sát vào chân bên trái của cậu, còn bờ vai trái xương xẩu của Bill Denbrough thọc vào tay phải của cậu. Nhưng giờ cậu chẳng chạm vào ai cả. Cậu lười biếng liếc nhìn sang phải và sang trái để xem điều mình nhận thấy có đúng không, và đúng là vậy thật. Ben cách bên trái cậu chừng ba mươi xen-ti-mét. Còn bên phải cậu, Bill đang dạt ra thậm chí còn xa hơn.

“Nơi này đang to ra, thưa quý bạn, quý bà con chòm xóm,” cậu nói. Cậu hít một hơi sâu hơn và ho khù khụ. Đau quá, ngực cậu đau rát, đau như lúc ta bị ho khi cảm cúm. Trong một thoáng, cậu cứ tưởng cơn ho sẽ kéo dài mãi mãi, cậu sẽ ho cho đến khi mọi người kéo cậu ra. Nếu họ còn sức, cậu nghĩ, nhưng suy nghĩ ấy mờ mịt đến độ cậu chẳng còn thấy sợ.

Đoạn Bill đập lên lưng cậu, khiến cơn ho ngưng hẳn.

“Cậu không biết không phải khi nào cậu cũng như vậy,” Richie nói. Cậu lại đưa mắt nhìn lỗ khói thay vì nhìn Bill. Ôi sao mà chói chang đến thế! Khi nhắm mắt, cậu vẫn có thể thấy hình chữ nhật kia, trôi nổi trong bóng tối nhưng lại chói sắc xanh thay vì chói lóa màu trắng.

“Y-Y-Ý cậu l-là gì?” Bill hỏi.

“Nói lắp ấy,” cậu ngưng lại, nghe thấy ai đó đang ho nhưng không rõ là ai. “Cậu mới là người nên giả mấy Giọng nói chứ không phải tớ, Bill To Bự ạ. Cậu…”

Tiếng ho to hơn. Chợt phòng sinh hoạt nhóm tràn ngập ánh sáng ban ngày, bất ngờ và chói lóa đến độ Richie không khỏi nheo mắt. Cậu nhìn thấy Stan Uris lồm cồm bò ra.

“Xin lỗi,” Stan ho sù sụ. “Xin lỗi, tớ không tài nào…”

“Không sao đâu,” Richie nghe thấy mình lên tiếng. “Cần quái gì dăm ba cái phù hiệu thối.” Giọng cậu nghe như phát ra từ một cơ thể khác.

Chốc sau, cánh cửa đóng kín nhưng vẫn đủ để không khí trong lành lọt vào, giúp đầu óc cậu minh mẫn đôi chút. Trước khi Ben dịch qua để lấp vào chỗ Stan vừa rời đi, Richie ý thức được chân của Ben đè vào mình. Sao cậu lại nghĩ phòng sinh hoạt nhóm to ra nhỉ?

Mike Hanlon ném thêm cành cây vào ngọn lửa vẫn đang bốc nghi ngút khói. Richie hết những hơi thật nông và nhìn lên lỗ khói. Cậu không biết thời gian trôi qua bao lâu, nhưng cậu lờ mờ ý thức được không chỉ dày đặc khói, phòng sinh hoạt nhóm càng lúc càng nóng.

Cậu nhìn quanh, nhìn bạn bè mình. Khuôn mặt họ khó nhìn quá, che khuất trong màn khói và ánh mặt trời trăng trắng. Đầu của Bev vẫn ngả vào bờ tường, tay ôm gối, mắt nhắm nghiền, nước mắt chảy xuống má về phía dái tai. Bill ngồi bắt tréo chân, cằm tựa vào ngực. Ben thì…

Bỗng dưng Ben đứng dậy, đẩy cửa mở.

“Ben đi rồi,” Mike nói. Cậu ngồi theo kiểu người da đỏ đối diện Richie, mắt đỏ như mắt chồn.

Bầu không khí mát mẻ hơn một chút, trong lành hơn khi khói bốc qua cửa sập. Ben ho sù sự và nôn khan. Cậu rướn người ra với sự trợ giúp của Stan, và trước khi họ kịp đóng cửa, Eddie loạng choạng đứng dậy, mặt nhợt nhạt như sắp chết, trừ những vết trông như bầm tím dưới mắt, kéo xuống tận gò má. Lồng ngực gầy gò của cậu phồng lên xẹp xuống theo những nhịp nhanh và nông. Cậu loạng choạng mò tìm rìa cửa sập, suýt chút nữa thì ngã, may sao Ben và Stan chộp lấy tay giữ lại.

“Tớ xin lỗi,” Eddie khẽ thì thầm rồi được hai bạn kéo lên. Cửa sập dập xuống.

Có một khoảng im lặng kéo dài. Khói tụ lại thành lớp sương mù dày đặc trong phòng. Tôi thấy nó chẳng khác nào sương mù cả, anh Watson ạ, Richie thầm nghĩ, và trong một khắc, cậu tưởng tượng mình là Sherlock Holmes (thám tử Holmes với vẻ ngoài trông giống Basil Rathbone và vô cùng rạch ròi trắng đen), lượn đi lượn lại đầy dụng ý dọc theo đường Baker. Moriarty đâu đó gần đây, xe ngựa đang đợi và trò chơi đã bắt đầu.

Suy nghĩ ấy rõ ràng đến kỳ diệu, chắc chắn đến kỳ diệu. Đến độ nó có sức nặng riêng, giống những mơ mộng mà cậu suốt ngày nghĩ tới (cầu thủ đánh bóng ở vị trí thứ tư của đội Bosox, thế cục liệu có thay đổi không, loại gôn, và kìa, bóng đi rồi, quả bóng đang bay lên… NÓ BAY MẤT RỒI! Home run, Tozier… cú đánh này đã phá vỡ kỷ lục của Babe!) , nhưng có gì đó rất thật .

Ý chí Babe Ruth, cầu thủ bóng chày nổi tiếng của Mỹ.

Trong đầu cậu vẫn đủ tỉnh táo để bông lơn nghĩ khéo có khi sau vụ này, cậu chỉ thấy ảo ảnh của nam diễn viên Basil Rathbone trong vai Sherlock Holmes, như thế thì ảo giác chẳng ghê gớm cho lắm.

Nhưng tất nhiên, kẻ ẩn nấp ngoài kia không phải Moriarty. Mà là Nó – một thế lực nào đó – và Nó có thật. Nó…

Cửa sập lại bật mở, Beverly lồm cồm bò ra ngoài, ho khan, một tay che miệng. Ben chộp lấy tay cô, Stan xốc nách cô. Vừa được kéo, vừa dùng sức bò ra, cô trèo lên cửa hầm và biến mất.

“N-N-Nó r-r-rộng hơn rồi,” Bill nói.

Richie nhìn quanh. Cậu thấy các hòn đá xếp thành hình vòng tròn với ngọn lửa bập bùng phì ra cơ man nào là khói. Phía bên kia, cậu trông thấy Mike bắt tréo chân như vật tổ chạm khắc từ gỗ dái ngựa, nhìn cậu chằm chằm qua ngọn lửa với đôi mắt đỏ ngầu vì khói. Mike dường như cách cậu đến gần hai mươi mét, nhưng chưa hề hấn gì so với Bill, bởi Bill còn xa hơn, dù ở ngay bên phải cậu. Căn phòng sinh hoạt nhóm dưới đất này giờ rộng như phòng khiêu vũ.

“Mặc kệ đi.” Mike nói. “Nó sắp đến rồi. Thứ gì đó sắp đến rồi.”

“U-U-Ừ.” Bill đồng tình. “Nhưng t-t-tớ…”

Cậu lên cơn ho. Cậu cố nén nhưng chỉ khiến cơn ho tệ hơn, cậu ho sù sụ. Mờ mờ ảo ảo, Richie thấy Bill loạng choạng đứng dậy, nhào đến cửa sập và đẩy mở cửa.

“Ch-Ch-Chúc m-m-may…”

Và rồi cậu ra khỏi căn phòng, được những người khác kéo lên.

“Xem ra chỉ còn cậu và tớ, Mikey bạn hiền ạ,” Richie nói và bắt đầu ho. “Tớ cứ tưởng sẽ là Bill chứ…”

Cơn ho càng lúc càng tệ. Cậu gập người, ho khan, không tài nào thở nổi. Đầu cậu đau như búa bổ – nó nện thình thịch – như củ cải ngâm đầy máu. Mắt cậu nhòe lệ phía sau kính.

Từ đằng xa, cậu nghe thấy Mike nói, “Nếu cần thì lên đi, Richie. Đừng ngất xỉu. Coi chừng mất mạng bây giờ.”

Cậu giơ tay về phía Mike và phẩy tay

(dăm ba cái thứ phù hiệu thối)

ra dấu không đồng ý. Dần dà, từng chút một, cậu kiểm soát cơn ho trở lại. Mike nói đúng, có điều gì đó sắp xảy ra, sắp rồi. Cậu muốn mình có mặt ở đây vào lúc đó.

Cậu nghiêng đầu ra sau và lại nhìn lên lỗ khói. Cơn ho khiến cảm quan của cậu nhẹ bẫng, và giờ cậu cảm tưởng như đang bồng bềnh trôi trên một chiếc nệm không khí. Cảm giác dễ chịu quá. Cậu thở những hơi thật nông và thầm nghĩ: Rồi một ngày mình sẽ trở thành ngôi sao rock and roll. Phải, chắc chắn là thế. Mình sẽ nổi tiếng. Mình sẽ ra các bản thu âm, album và phim ảnh. Mình sẽ có áo khoác thể thao màu đen, giày trắng và chiếc Cadillac vàng. Và khi mình trở về Derry, mọi người sẽ ghen tị đến nổ đom đóm mắt, cả thằng Bowers nữa. Mình đeo kính nhưng rồi sao? Buddy Holly cũng bốn mắt đấy thôi? Mình sẽ nhún nhảy đến khi chán thì thôi, mình sẽ hòa vào điệu nhạc đến khi mệt nhoài. Mình sẽ là ngôi sao rock and roll đầu tiên đến từ Maine. Mình sẽ…

Suy nghĩ của cậu trôi dạt dần. Mà thế cũng chẳng sao. Cậu nhận ra hiện giờ, cậu không cần phải thở những hơi thật nông nữa. Phổi của cậu quen rồi. Muốn hút khói bao nhiêu, cậu có thể hít bấy nhiêu. Khéo có khi cậu là người sao Kim ấy chứ.

Mike ném thêm vài cành cây vào ngọn lửa. Không chịu thua kém, Richie cũng ném một nắm.

“Cậu thấy thế nào rồi, Rich?” Mike hỏi.

Richie mỉm cười. “Tốt hơn rồi. Khá tốt là đằng khác. Cậu thì sao?”

Mike gật đầu và mỉm cười đáp lại. “Tớ thấy ổn. Cậu có suy nghĩ nào lạ lùng không?”

“Có. Ban nãy tớ vừa nghĩ tớ là Sherlock Holmes. Rồi tớ nghĩ tớ có thể nhảy như the Dovells. Mắt cậu đỏ lắm, cậu không tưởng tượng nổi đâu.”

“Cậu cũng thế chứ hơn gì. Bọn mình như hai con chồn bị nhốt trong lồng ấy nhỉ?”

“Thế à?”

“Ừ.”

“Cậu muốn nói ổn cả không?”

“Ổn cả. Cậu muốn nói mình đã tìm ra từ rồi không?”

“Tớ tìm ra rồi đây, Mikey.”

“Ừ, được lắm.”

Cả hai nhoẻn cười với nhau và rồi Richie tựa đầu ra sau tường, ngước lên nhìn lỗ khói. Chẳng mấy chốc, cậu lại thấy ý thức mình xa dần. Không. Không phải xa dần mà là BAY LÊN. Cậu đang là là bay lên. Như

(dưới đây bọn ta đều lơ lửng)

một quả bóng bay.

“C-C-Các c-c-cậu ổn ch-chứ?”

Giọng của Bill vọng xuống từ lỗ khói, tựa hồ vang từ sao Kim. Giọng đượm âu lo. Richie cảm thấy mình trở về bên trong cơ thể.

“Ổn cả,” cậu nghe thấy giọng mình vang lên đáp lại, xa xôi và bực bội. “Ổn cả, bọn tớ bảo ổn cả, giữ trật tự đi Bill, để bọn tớ tìm được từ cần nói, để bọn tớ tìm được

(cả thế gian)

từ cần nói.”

Căn phòng sinh hoạt nhóm giờ rộng thênh thang, một vài chỗ được ốp gỗ sáng bóng. Khói dày đặc như sương mù và khó mà nhìn được ngọn lửa. Cái nền nhà gì thế này! Lạy Chúa giáng thế! Nó to chẳng kém gì sàn nhảy trong chương trình đại nhạc hội MGM. Mike nhìn sang bên kia, nhưng chỉ thấy bóng dáng bạn mình khỏa lấp trong khói.

Cậu có đang ở đó không, Mikey bạn hiền?

Tớ ở ngay bên cậu đây, Richie.

Cậu vẫn nói mình ổn cả chứ?

Ừ… nhưng cậu nắm tay tớ nhé… cậu nắm được không?

Chắc được.

Richie chìa tay ra, và mặc dù Mike ở tít bên kia căn phòng mênh mông này, cậu vẫn cảm thấy những ngón tay da nâu cứng cỏi của bạn nắm lấy cổ tay mình. Ôi, cảm giác ấy mới tuyệt vời làm sao, cái nắm tay ấy mới kỳ diệu làm sao – thật tuyệt khi cậu tìm được đê mê trong vỗ về, tìm được vỗ về trong đê mê, tìm được vật chất trong khói và khói trong vật chất…

Nghiêng đầu ra sau, cậu nhìn lỗ khói, trắng gì mà trắng như bông. Giờ nó lại xa thêm một chút. Xa thêm cả vài dặm . Ôi bầu trời sao Kim.

Và rồi điều đó đã xảy ra. Cậu bắt đầu trôi trong không trung. Đến thì đến đi, cậu thầm nghĩ rồi bắt đầu bay cao dần qua màn khói, màn sương mù, hay bất cứ thứ màn gì đấy.

5

Họ không còn ở bên trong phòng sinh hoạt nhóm nữa.

Hai người bọn họ đứng cùng nhau ở giữa Vùng Đ