Chương 16 EDDIE KÉM MAY
1
Richie nói xong, ai nấy đều gật gù. Eddie cũng gật theo, nhớ lại theo mọi người, đúng lúc ấy, bỗng dưng một cơn đau chạy dọc lên tay trái của anh. Chạy dọc lên ư? Không phải. Nó xoèn xoẹt qua tay anh: như thể có ai đó đang mài lưỡi cưa gỉ sét vào khúc xương bên trong. Nhăn mặt, anh đưa tay vào túi áo khoác, rờ rẫm đủ loại chai lọ bên trong và lấy ra Excedrin. Anh nuốt hai viên bằng một ngụm rượu gin pha nước mận. Tay anh đau thành từng cơn cả ngày hôm nay. Ban đầu, anh không mấy quan tâm vì cứ tưởng cái nhói đau này chỉ là do viêm bao hoạt dịch mà thỉnh thoảng cứ trái gió trở trời là anh lại bị. Nhưng nghe đến giữa câu chuyện của Richie, một ký ức mới lóe lên trong đầu, và anh nhận ra bản chất của cơn đau. Chúng ta không còn nhẩn nha dạo chơi trên Làn đường Ký ức nữa rồi, anh thầm nghĩ , càng lúc tốc độ càng chẳng thua kém gì cao tốc Long Island.
Một loại thuốc giảm đau.
Năm năm trước, trong một buổi kiểm tra sức khỏe định kỳ (Eddie kiểm tra sức khỏe sáu tuần một lần), bác sĩ bảo anh: “Tay của anh có vết gãy cũ ở đây, Ed ạ… Ngày bé anh từng trèo cây rồi bị ngã à?”
“Nôm na là vậy,” Eddie hùa theo, chẳng buồn nói với bác sĩ Robbins rằng mẹ anh chắc chắn sẽ lăn đùng ra chết vì xuất huyết não nếu bà trông thấy hoặc nghe thấy Eddie của bà trèo lên cây. Sự thật là anh chẳng tài nào nhớ nổi chính xác lý do tại sao mình lại gãy tay. Đằng nào lúc ấy, điều đó cũng chẳng quan trọng lắm (nhưng giờ nghĩ lại, Eddie thấy thật kỳ cục khi anh thản nhiên đến thế – anh là kẻ xem cái hắt xì hoặc chút đổi màu khi đi nặng là chuyện kinh thiên động địa kia mà). Nó chỉ là vết gãy cũ, chút khó chịu cỏn con, biến cố xảy ra cách đây đã lâu, từ cái thời thơ ấu mà anh chẳng còn nhớ tí gì, cũng không buồn nhớ lại cho rách việc. Nó chỉ đau âm ỉ vào những hôm trời mưa mà anh phải lái xe đường dài. Một vài viên aspirin là đâu lại vào đó ngay. Không thành vấn đề.
Nhưng giờ đây, nó không còn là chút khó chịu cỏn con nữa, tựa hồ một kẻ điên đang mài lưỡi cưa gỉ sét, chơi điệu nhạc trên xương cốt anh, và anh chợt nhớ đó chính là cảm giác của anh ở bệnh viện, nhất là lúc nửa đêm, vào ba hay bốn ngày đầu tiên sau khi chuyện xảy ra. Nằm trên giường, mồ hôi ròng ròng trong cái nóng mùa hè, đợi y tá mang thuốc cho mình, nước mắt lặng lẽ chảy xuống má vào hõm tai, cậu bé là anh năm xưa đã tự nhủ Như thể có một thằng điên đang mài lưỡi cưa bên trong.
Nếu ký ức đang trên đường ùa về, Eddie nghĩ, thì mình thì dùng chất để tẩy sạch não còn hơn: làm một cú tẩy sạch tâm trí.
Anh cất tiếng trong vô thức: “Henry Bowers là kẻ đã làm gãy tay tớ. Các cậu có nhớ không?”
Mike gật đầu. “Chuyện xảy ra ngay trước khi Patrick Hockstetter mất tích. Tớ chỉ không nhớ ngày nào thôi.”
“Tớ nhớ đấy,” Eddie nói. “Ngày 20 tháng 7. Hockstetter được thông báo mất tích vào ngày… ờ.... ngày 23 thì phải?” l
“Ngày 22,” Beverly Rogan nói, dù cô không kể với các bạn lý do tại sao cô lại nhớ như in ngày tháng chuyện này đến thế: nguyên nhân là bởi cô đã chứng kiến Nó bắt Hockstetter. Cô cũng không kể với mọi người rằng cả ngày ấy lẫn bây giờ, cô đều tin rằng Patrick Hockstetter là một kẻ tâm thần, thậm chí còn điên loạn hơn cả Henry Bowers. Cô sẽ kể với các bạn, nhưng giờ đang là lượt của Eddie. Tiếp theo sẽ đến lượt cô phát biểu, và sau đó, cô đoán Ben sẽ kể lại cao trào những sự kiện trong tháng Bảy ấy… viên đạn bạc mà ban đầu họ ngần ngừ không dám chế tác. Cô thấy đây quả là một hành trình ác mộng – những niềm hân hoan điên rồ ấy vẫn không vợi bớt trong lòng cô. Lần cuối cùng cô thấy mình tràn đầy nhựa sống như vậy là bao giờ nhỉ? Cô thậm chí chẳng ngồi yên nổi.
“Ngày 20 tháng 7 à,” Eddie hào hứng, lăn lăn chuyền ống thở trên bàn từ tay này sang tay kia. “Ba hoặc bốn ngày sau sự kiện lỗ khói. Báo hại tớ bị bó bột cả mùa hè, các cậu nhớ không?”
Richie vỗ trán, một cử chỉ mà mọi người vốn chẳng xa lạ gì ngày trước, và rồi Bill chợt nghĩ, vừa thích thú vừa khó chịu, trong khoảnh khắc ấy, Richie trông giống y như Beaver Cleaver. “Có chứ sao không? Lúc bọn mình đến căn nhà trên đường Neibolt, cậu vẫn phải bó bột đúng không? Và sau đó… trong bóng tối…” Nhưng rồi Richie đành khẽ lắc đầu bối rối.
“Sao thế, R-Richie?” Bill hỏi.
“Tớ chưa thể nhớ ra phần ấy,” Richie thú nhận. “Cậu thì sao?” Bill cũng chậm rãi lắc đầu.
“Hôm đó, Hockstetter đi chung với bọn chúng,” Eddie kể. “Đó là lần cuối cùng tớ thấy cậu ta lúc còn sống. Có lẽ cậu ta thế chỗ cho Peter Gordon. Tớ nghĩ Bowers không muốn Peter trong hội sau khi thấy cậu này bỏ của chạy lấy người vào trận ném đá.”
“Bọn họ đều bỏ mạng cả rồi nhỉ?” Beverly khẽ hỏi. “Sau Jimmy Cullum, những nạn nhân thiệt mạng đều là bạn bè của Henry Bowers… hoặc từng giao du với cậu ta.”
“Tất cả đều chết, trừ Bowers,” Mike đồng tình, liếc mắt nhìn về phía chùm bóng bay đang được cột vào máy quét vi phim. “Mà bây giờ, hắn ta ở đồi Juniper rồi. Đó là một nhà thương điên tư nhân ở Augusta.”
“Th-Th-Thế lúc bọn chúng làm cậu gãy tay thì sao, E-E-Eddie?” Bill hỏi tiếp.
“Cậu càng lúc càng nói lắp rồi kìa, Bill To Bự,” Eddie trầm ngâm nói rồi nốc cạn đồ uống của mình trong một ngụm.
“Cứ kệ đi,” Bill đáp. “K-Kể bọn tớ nghe với.”
“Kể bọn tớ với,” Beverly lặp lại rồi khẽ đặt tay lên cánh tay anh. Cơn đau nhói lên ở đó.
“Được thôi,” Eddie nói. Anh rót thêm rượu, nhìn chằm chằm vào ly rồi nói, “Tớ xuất viện được vài ngày thì các cậu ghé qua nhà và cho tớ xem mấy viên bi bằng bạc. Cậu còn nhớ không Bill?”
Bill gật đầu.
Eddie quay sang nhìn Beverly. “Bill hỏi nếu có biến thì liệu cậu có sẵn sàng bắn hay không… vì cậu ngắm bắn rất chuẩn. Tớ nhớ hình như cậu bảo cậu không… vì cậu sẽ sợ đến độ không làm được gì. Và cậu bảo bọn tớ điều gì nữa kìa, nhưng tớ chưa nhớ ra. Hình như là…” Eddie thè lưỡi, chạm vào đầu lưỡi như thể dính gì đó. Richie và Ben nhe răng cười. “Về Hockstetter phải không nhỉ?”
“Ừ.” Beverly đáp. “Tớ sẽ kể khi cậu nói xong. Cậu cứ kể tiếp đi.”
“Sau khi các cậu ra về, mẹ tớ vào phòng và hai mẹ con tớ đã cãi nhau một trận nảy lửa. Bà không muốn tớ giao du với các cậu thêm nữa. Suýt chút nữa thì mẹ đã nài ép tớ thành công - mẹ tớ rất biết cách thuyết phục người khác mà, các cậu biết đấy…”
Bill lại gật đầu. Anh nhớ bà Kaspbrak là một phụ nữ to con với khuôn mặt kỳ lạ như mớ hổ lốn biểu cảm, khuôn mặt có thể tỏ vẻ lạnh lùng, giận giữ, khốn khổ và sợ hãi cùng một lúc.
“Ừ, suýt chút nữa thì tớ đã xuôi theo,” Eddie nói. “Nhưng lại có một sự kiện khác xảy ra vào cái ngày Bowers làm gãy tay tớ. Một sự việc khiến tớ tỉnh mộng.”
Anh khẽ cười và thầm nhủ trong đầu: Cái gì mà làm tớ tỉnh mộng kia chứ… Mày chỉ biết nói như vậy thôi sao? Nói chuyện liệu được tích sự gì khi mày chẳng bao giờ có thể nói thật với mọi người cảm nhận thật sự của mày? Nếu là trong sách hay trong phim, điều mình phát hiện ra trước khi bị Bowers làm gãy tay sẽ thay đổi hoàn toàn đời mình, khiến mọi thứ không còn như xưa… nếu là trong sách hay trong phim, nó sẽ cho mình tự do. Trong sách hay trong phim, mình sẽ không trữ cả một va li thuốc trong phòng khách sạn, mình sẽ không cưới Myra, mình sẽ không cần cầm theo cái ống thở chết toi này. Ấy là trong sách hay trong phim. Vì…
Bỗng dưng, trong lúc họ đang nhìn thì ống thở của Eddie tự động lăn trên mặt bàn. Vừa lăn, nó vừa phát ra tiếng lạo xạo khô khốc, nghe hao hao tiếng gõ maracas và tiếng xương… đồng thời phảng phất tiếng cười. Khi chạy đến đầu bàn bên kia, giữa Richie và Ben, nó rơi xuống đất. Richie giật mình toan chộp lấy xong Bill ré lên, “Đừng ch-ch-chạm vào!”
“Chùm bóng bay kìa!” Ben hét lên, cả nhóm quay đầu lại.
Cả hai quả bóng cột vào máy quét vi phim ghi THUỐC HEN SUYỄN GÂY UNG THƯ! Bên dưới câu khẩu hiệu là hình đầu lâu đang cười toe toét.
Cả hai quả nổ đùng.
Nhìn cảnh đó, miệng Eddie khô khốc, anh cảm thấy lồng ngực mình sắp nghẹt thở như bu lông siết vào chốt.
Bill nhìn qua anh. “Ai b-bảo cậu như vậy và h-h-họ bảo gì với cậu?”
Eddie liếm môi, chỉ muốn đuổi theo ống thở của mình nhưng lại không dám. Biết ở bên trong nó có gì kia chứ?
Anh nghĩ về ngày hôm ấy, ngày 20, về cái nóng hầm hập, về việc mẹ cho anh một tờ séc, tất cả thông tin đều đã điền ngoại trừ phần tiền, cùng một đô-la tiền mặt – đây là khoản tiêu vặt của anh.
“Ông Keene,” anh nói, và giọng anh vẳng lại nghe thật xa xôi và bất lực trong chính tai anh. “Ông Keene chính là người nói vậy.”
“Tính ra ở Derry này, ông ấy cũng thuộc dạng khó tính,” Mike nói nhưng Eddie chẳng nghe thấy bởi anh đang chìm trong suy nghĩ.
Phải, hôm ấy trời nóng nhưng bên trong Tiệm thuốc đường Trung Tâm lại rất mát mẻ, quạt gỗ quay nhẹ dưới trần nhà ốp thiếc, có một thứ mùi dễ chịu của đủ các loại bột và thuốc thang. Đây vốn là nơi họ bán sức khỏe – ấy là niềm tin thâm căn cố đế tuy bất thành văn nhưng rõ ràng như ban ngày của mẹ anh, và khi đồng hồ cơ thể năm ấy mới chỉ 11 giờ 30 phút, Eddie chẳng mảy may nghi ngờ mẹ mình sai lầm.
Chà, ông Keene chính là người dập tắt sự tin tưởng ấy của mình, anh thầm nhủ, dư vị của tức giận vương lại ngọt ngào.
Anh nhớ mình đã đứng ở giá truyện tranh suốt một lúc lâu, khẽ xoay nó xem có tập Người dơi, Cậu bé Siêu phàm, hoặc Người Co giãn – bộ truyện ưa thích của cậu – nào mới hay không. Eddie đã đưa danh sách thuốc thang mẹ soạn (mẹ bảo cậu đến tiệm thuốc giống như mẹ của những cậu con trai khác bảo con mình đến tiệm tạp hóa ở góc đường) và tờ séc mẹ viết cho ông Keene; ông sẽ chuẩn bị đơn hàng rồi viết số tiền vào tờ séc, đưa lại cho Eddie hóa đơn để bà có thể tự trừ phần tiền từ số dư séc. Tất cả là Quy trình Thao tác Chuẩn cho Eddie. Có ba đơn thuốc khác nhau cho mẹ cậu, thêm một lọ Geritol vì, mẹ nói một cách rất ư bí ẩn, “Nó chứa rất nhiều sắt, Eddie ạ, mà phụ nữ thì cần nhiều sắt hơn nam giới.” Ngoài ra còn có các loại vitamin cho cậu, một lọ xi rô Dr. Swett cho trẻ em… và tất nhiên, thuốc hen suyễn cho cậu.
Lần nào cũng y như lần nào. Sau đó, cậu sẽ ghé qua Chợ Đại lộ Costello với tờ đô la trong túi để mua hai phong kẹo cùng một lon Pepsi. Cậu sẽ ăn kẹo, uống nước ngọt và rung leng keng những đồng xu lẻ được thối lại trong túi. Nhưng ngày hôm ấy lại khác, nó sẽ kết lại bằng việc cậu phải vào bệnh viện, điều này thì khác một trời một vực so với bình thường rồi, song mọi thứ bắt đầu chệch khỏi quỹ đạo khi ông Keene gọi cậu vào trong. Thay vì đưa cho cậu cái túi màu trắng rất to đựng thuốc và hóa đơn, dặn dò cậu cất hóa đơn vào túi kẻo mất, ông Keene lại trầm tư nhìn cậu rồi bảo, “Ra
2sau văn phòng với ta một chút, Eddie. Ta có chuyện muốn nói với cháu.” Eddie chỉ nhìn ông một thoáng, chớp mắt với chút sợ hãi. Trong đầu cậu vụt qua suy nghĩ có khi ông Keene tưởng cậu chôm chỉa gì đó ở cửa hàng chăng. Ngoài cửa để một tấm biển mà khi nào bước vào Tiệm thuốc đường Trung Tâm, cậu cũng đọc. Nội dung được đề bằng những chữ cái màu đen đầy đe dọa, kích thước lớn đến độ cậu cá ngay cả Richie Tozier còn có thể đọc mà không cần mang kính: ĂN CẮP VẶT KHÔNG HAY HO”, “NGẦU” HOẶC “CHẤT CHƠI”! ĂN CẮP VẶT LÀ PHẠM TỘI VÀ SẼ BỊ TRUY TỐ!
Eddie chưa lần nào ăn cắp vặt, nhưng tấm biển ấy luôn khiến cậu cảm thấy tội lỗi – khiến cậu có cảm giác như thể ông Keene biết chuyện gì đó về cậu mà ngay đến bản thân cậu còn chẳng hay.
Rồi ông Keene càng khiến cậu rối rắm hơn khi hỏi, “Cháu ăn sô-đa kem không?”
“Dạ…”
“Ồ, để ta mời. Tầm giờ này trong ngày, ta lúc nào cũng uống một phần trong văn phòng. Phủ phê năng lượng, trừ những ai cần phải kiểm soát cân nặng, mà ta thấy hai ta đều không thuộc dạng đó. Vợ ta bảo ta tong teo hơn mỗi cọng dây. Cậu bạn của cháu, cậu bé Hanscom ấy, mới là người cần phải lo lắng về chuyện thừa cân. Cháu thích vị gì, Eddie?”
“Dạ thôi ạ, mẹ cháu dặn phải về nhà ngay khi…”
“Ta đoán cháu thích vị sô-cô-la đấy nhỉ? Cháu thấy sô-cô-la được không?” Mắt của ông Keene ánh lên, nhưng cái lấp lánh ấy có gì đó thật khô khốc, như thể ánh mặt trời phản chiếu vào tấm nhựa trong trên sa mạc. Đó là cảm nghĩ trong đầu Eddie, vốn hâm mộ những tác giả phương Tây như Max Brand và Archie Joceylen.
“Dạ vâng.” Eddie cung kính không bằng tuân mệnh. Cách ông Keene đẩy kính gọng vàng lên mũi có nét gì đó khiến cậu sốt ruột. Ở ông Keene toát lên vẻ vừa căng thẳng vừa âm thầm hài lòng. Cậu chẳng muốn vào văn phòng với ông chút nào. Mọi thứ không đơn giản chỉ là ly sô-đa. Không phải. Bất kể vấn đề là gì, Eddie mơ hồ cảm nhận nó không phải tin tốt lành gì cho cam.
Khéo có khi ông ấy sẽ bảo mình mắc ung thư hay gì đó, Eddie sốt vó. Ung thư mà con nít hay bị ấy. Máu trắng thì phải. Chúa ơi!
Ôi trời, đừng ngớ ngẩn như thế chứ, cậu trấn an bản thân, cố ra vẻ như Bill Cà Lăm trong tâm trí. Bill Cà Lăm đã thay thế Jock Mahoney đóng vai Range Rider trong chương trình ti vi sáng thứ Bảy để trở thành anh hùng trong cuộc đời Eddie. Mặc dù không thể nói tròn vành rõ chữ, Bill To Bự lúc nào cũng cứng rắn đứng đầu sóng ngọn gió. Ông này là dược sĩ chứ có phải bác sĩ đâu, vì Chúa. Nhưng Eddie lo thì vẫn cứ lo.
Ông Keene nâng cửa quầy lên và ngoắc ngoắc ngón tay xương xẩu gọi Eddie vào. Eddie làm theo nhưng cứ lừng khừng mãi.
Ruby, cô nhân viên trong quầy, đang ngồi cạnh quầy thanh toán đọc tạp chí Silver Screen . “Cô làm hộ tôi hai ly sô-đa kem với nhé, Ruby?” Ông Keene gọi với ra. “Một sô-cô-la, một cà phê nhé?”
“Vâng.” Ruby đáp, đánh dấu trang tạp chí bằng lớp giấy bạc của kẹo cao su rồi đứng dậy.
“Mang vào văn phòng hộ tôi nhé.”
“Vâng.”
“Đi nào. Ta có cắn đâu mà cháu sợ.” Và lạ chưa, ông Keene còn nháy mắt nữa kìa, khiến Eddie choáng váng không để đâu cho hết.
Chưa lần nào được bước ra sau quầy, cậu đưa mắt nhìn cơ man nào là chai lọ, thuốc thang và hộp đựng với vẻ đầy thích thú. Cậu sẽ nán lại lâu hơn nếu ở đây một mình, xem xét thật kỹ bộ chày đi kèm cối của ông Keene, cân và tạ, tô thủy tinh đựng đầy thuốc con nhộng. Nhưng ông Keene hối thúc cậu vào văn phòng rồi đóng sập cánh cửa sau lưng cậu. Khi cửa đóng cạch, Eddie cảm thấy ngực mình thắt lại một cách đáng ngại, cậu ra sức gồng. Trong số thuốc mới mua có một ống thở, và khi nào ra khỏi đây, cậu sẽ hít một hơi thật dài, thật sảng khoái.
Ở góc bàn của ông Keene có một hộp đựng que cam thảo. Ông mời Eddie.
“Dạ thôi, cháu cảm ơn ạ” Eddie lễ phép.
Ông Keene ngồi xuống chiếc ghế xoay phía sau bàn và nhón lấy một que. Đoạn ông mở ngăn kéo lấy thứ gì đó. Ông đặt nó bên cạnh hộp kẹo cam thảo cao kều, đến lúc này thì Eddie cảm thấy toàn thân như báo động đỏ. Là ống thở. Ông Keene ngả ra ghế cho đến khi đầu ông gần như chạm vào lịch treo tường đằng sau. Bức hình trên lịch chi chít đầy thuốc, ghi chữ SQUIBB. Và…
Tên một công ty dược phẩm.
… và trong một khoảnh khắc tựa hồ ác mộng, khi ông Keene mở miệng toàn nói gì đó, Eddie chợt nhớ lại chuyện xảy ra ở tiệm giày lúc cậu còn bé, khi mẹ hét toáng lên mắng cậu cái tội thò chân vào máy chụp X-quang. Trong một khoảnh khắc tựa hồ ác mộng ấy, Eddie cứ tưởng ông sẽ nói: “Eddie này, cứ mười bác sĩ thì có chín người cho rằng thuốc hen suyễn sẽ khiến ta bị ung thư, giống máy chụp X-quang mà người ta dùng trong tiệm giày đấy. Có khi cháu cũng mắc ung thư rồi. Ta nghĩ cháu nên biết điều đó.”
Nhưng không, điều mà ông Keene nói trong thực tế lại vô cùng kỳ lạ, đến độ Eddie chẳng biết đáp thế nào, cậu chỉ biết ngồi thừ trên băng ghế gỗ đối diện bàn ông như đồ ngốc.
“Chuyện này kéo dài như thế là đủ rồi.”
Eddie mở miệng rồi lại khép.
“Cháu bao nhiêu tuổi rồi, Eddie? Mười một đúng không nhỉ?”
“Dạ phải, Eddie khẽ khọt. Hơi thở của cậu càng lúc càng nông. Cậu chưa rít lên như ấm đun trà (mà Richie hay bảo: Có ai tắt Eddie hộ tớ mới! Cậu ấy sôi sùng sục rồi kìa! ) nhưng nó có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Cậu nhìn đau đáu vào ống thở trên bàn ông Keene, và vì dường như phải nói gì đó, cậu lên tiếng: “Tháng Mười một này cháu tròn mười hai tuổi.”
Ông Keene gật đầu, đoạn chúi người tới trước như dược sĩ trong quảng cáo trên ti vi và khum hai tay lại. Mắt kính của ông lấp lánh dưới ánh đèn huỳnh quang sáng choang phả xuống. “Cháu có biết giả dược là gì không, Eddie?”
Eddie căng thẳng, vận dụng mọi suy đoán của mình: “Đó là một bộ phận trên con bò mà sữa chảy ra từ đó phải không ạ?”
Ông Keene phá lên cười rồi ngả người ra sau ghế. “Không phải.” ông đáp và Eddie ngượng chín mặt, đỏ bừng đến tận chân tóc. Giờ cậu có thể nghe thấy tiếng thở của mình dần rít lên. “Giả dược là…”
Lời ông nói bị chen ngang bởi tiếng gõ cửa đanh gọn. Không đợi ông lên tiếng, Ruby bước vào với hai ly sô-đa kem kiểu xưa trên tay. “Của cháu chắc là sô-cô-la nhỉ,” cô nói với Eddie và nhoẻn miệng cười. Cậu cố gắng cười đáp lại, song cả đời mình, đó là lần đầu tiên sự quan tâm của cậu dành cho sô-đa kem lại chạm đáy đến thế. Cậu thấy sợ một cách vừa mơ hồ vừa cụ thể, giống như cảm giác sợ khi ngồi trên bàn khám của bác sĩ Handor, độc mỗi quần con, nơm nớp đợi bác sĩ bước vào, biết rõ mẹ mình đang ở ngoài phòng chờ, bành trướng gần hết ghế với cuốn sách (thường là cuốn Sức mạnh của Tư duy Tích cực của Norman Vincent Peale hoặc Bài thuốc Dân gian Vermont của bác sĩ Jarvis) đưa lên sát mắt như sách thánh ca. Bị lột trần, bất lực, cậu cảm thấy mắc kẹt giữa hai người.
Cậu hớp vài ngụm sô-đa sau khi Ruby đi ra ngoài nhưng thấy nhạt thếch.
Ông Keene đợi đến lúc cửa đóng lại, đoạn nở nụ cười mặt-trời-chiếu-lên-nhựa khô khốc ấy. “Thả lỏng đi nào, Eddie. Ta có cắn cháu hay làm hại cháu đâu mà cháu sợ.”
Eddie gật đầu, vì ông Keene là người lớn, mà con nít thì phải nghe theo người lớn bằng mọi giá (mẹ cậu dạy như thế), song trong đầu, cậu thầm nghĩ: Ôi cháu xin, cháu nghe mấy câu vớ vẩn ấy nhiều rồi. Đó cũng là lời bác sĩ nói khi mở máy khử trùng, thứ mùi cồn gắt đến đáng sợ bay ra khiến mũi cậu cay cay. Đó là mùi của thuốc tiêm, mùi bịa đặt và cả hai đều cùng một giuộc: khi họ bảo không sao đâu, chỉ như kiến cắn thôi, chẳng đau đớn gì đâu, thì có nghĩa là nó sẽ đau như hoạn .
Cậu hút thêm một hớp sô-đa nhưng chẳng được tích sự gì, cậu cần thêm không gian trong cổ họng đang thít lại để hít không khí. Cậu nhìn ống thở đặt giữa xấp giấy của ông Keene, muốn xin nhưng lại không có gan. Suy nghĩ kỳ cục lướt qua đầu cậu: có khi ông biết cậu muốn ống thở mà không dám xin, rằng có khi ông đang
(hành hạ)
trêu cậu. Song ý tưởng này nghe rõ là ngu xuẩn nhỉ? Ai đời một người lớn - nhất là một người lớn phân phối sức khỏe – lại đi trêu một đứa nhóc kia chứ? Chắc hẳn là không rồi. Thậm chí ý tưởng đó chẳng đáng để ta suy xét tới, bởi suy xét một điều như vậy sẽ bắt Eddie đánh giá lại thế giới mà bấy lâu nay cậu tưởng mình hiểu, và đó là điều hết sức đáng sợ.
Nhưng ống thở ở kia, gần ngay trước mặt mà xa tựa chân trời, tựa hồ nguồn nước nằm ở ngoài tầm với của người đàn ông đang chết khát trên sa mạc. Nó ở kia, ngay trên bàn, dưới đôi mắt nở nụ cười khô khốc như nắng chiếu lên nhựa của ông Keene.
Trên tất thảy, Eddie ước giá mà lúc này, cậu đang ở Vùng Đất Cằn chơi đùa với nhóm bạn. Cứ nghĩ tới việc có một con quái vật, một con quái vật vô song, đang lẩn lút trong thành phố nơi cậu chôn rau cắt rốn và lớn lên, sử dụng hệ thống cống thoát nước cùng cống nước thải để mò từ nơi này đến nơi khác, khiến cậu kinh hãi, nghĩ tới việc phải chiến đấu chống lại thứ sinh vật ấy, phải đánh bại nó, thậm chí còn đáng sợ hơn… nhưng bằng một cách nào đó, tình huống hiện tại tệ hại hơn nhiều. Làm sao ta có thể chống lại một người lớn khi người đó bảo ta sẽ không chịu đau đớn gì dù ta biết nó sẽ rất đau? Làm sao ta có thể chống lại một người lớn khi người đó hỏi ta những câu kỳ cục và nói những điều hết sức ám muội như Chuyện này kéo dài thế là đủ rồi ? Và rồi như suy nghĩ âm thầm trồi lên trong đầu, Eddie khám phá một trong những chân lý lớn lao của tuổi thơ mình: Người lớn là những con quái vật thật sự. Suy nghĩ ấy không phải như mặt trời chói qua tim, nó không sáng bừng trong cậu, cũng không vang lên với loa kèn rầm rộ. Suy nghĩ ấy đến rồi đi, gần như bị chôn vùi dưới một suy nghĩ mạnh hơn, áp đảo hơn: mình muốn lấy ống thở và biến khỏi đây.
“Cháu thả lỏng đi,” ông Keene lại nói. “Phần lớn những vấn đề cháu gặp phải đều đến từ việc lúc nào cháu cũng quá cứng nhắc và căng thẳng đấy, Eddie. Ví dụ như cơn hen của cháu chẳng hạn. Cháu nhìn đây.”
Ông Keene mở ngăn kéo bàn, lục lọi bên trong rồi lấy ra một quả bóng bay. Hít thật sâu làm lồng ngực căng phồng (cà vạt của ông phập phồng như con thuyền nhỏ cưỡi ngọn sóng lành), ông phà hơi thổi quả bóng. Quả bóng ghi NHÀ THUỐC ĐƯỜNG TRUNG TÂM, THUỐC KÊ ĐƠN, TẠP HÓA VÀ DỤNG CỤ HẬU MÔN NHÂN TẠO. Ông thắt nút rồi đưa quả bóng ra trước mặt cậu. “Giờ hãy tưởng tượng đây là buồng phổi,” ông nói. “Phổi của cháu. Tất nhiên, ta có thể thổi luôn hai quả nhưng ta chỉ còn đúng một quả thừa lại từ dịp khuyến mãi chạy sau Giáng sinh…”
“Ông Keene, cháu có thể lấy ống thở được không ạ?” Đầu Eddie bắt đầu ong lên. Cậu cảm thấy khí quản mình nghẹt lại. Nhịp tim của cậu tăng nhanh, mồ hôi rịn ra trên trán. Món số-đa kem sô-cô-la đặt trên góc bàn của ông Keene, quả cherry đặt trên cùng từ từ chìm xuống phần kem tươi.
“Chốc nữa thôi,” ông nói. “Chú ý đi, Eddie. Ta muốn giúp cháu. Đến lúc phải có người lên tiếng rồi. Nếu Russ Handor không đủ dũng khí làm điều đó, ta sẽ làm. Phổi của cháu giống như quả bóng này vậy, chỉ khác ở chỗ bao bọc xung quanh nó là các lớp cơ; các lớp cơ giống như tay của một người đang làm động tác thổi ống bễ, cháu hiểu không? Ở một người khỏe mạnh, các thớ cơ này giúp phổi căng lên và xẹp xuống dễ dàng. Nhưng nếu chủ nhân của hai buồng phổi khỏe mạnh lúc nào cũng căng thẳng và cứng nhắc, các thớ cơ sẽ gây khó khăn cho buồng phổi thay vì hoạt động hài hòa. Cháu nhìn đây!”
Ông Keene bọc bàn tay xương xẩu, nhăn nheo và đầy nốt đời mồi của mình quanh quả bóng rồi siết lại. Quả bóng phình lên dưới nắm tay của ông, Eddie nhăn mặt, chuẩn bị tinh thần nghe một tiếng nổ bụp. Đồng thời, cậu cảm thấy hơi thở của mình đã dừng lại hoàn toàn. Cậu rướn người về phía bàn, chộp lấy ống thở để trên xấp giấy. Vai cậu đập vào ly đựng sô-đa kem làm ly đổ lên bàn, rơi đánh choang xuống sàn nhà như quả bom.
Eddie chỉ lờ mờ nghe thấy tiếng vỡ. Cậu vội vàng xé ống thở rồi đút vòi ống vào miệng mình và xịt một hơi. Cậu hít thở thật mạnh, suy nghĩ như mớ bòng bong vì hoảng sợ giống như bao lần: Mẹ ơi con ngạt thở mất con không THỞ được ôi Chúa ơi lạy Chúa lòng lành con không THỞ được con không muốn chết đi con xin Người…
Đoạn khí từ ống thở tụ lại trong cuống họng sưng vù, giờ thì cậu hít thở lại được rồi.
“Cháu xin lỗi,” cậu nói, suýt khóc. “Cháu xin lỗi vì đã làm bể ly… Cháu sẽ lau dọn và đền cho ông… nhưng ông đừng bảo với mẹ cháu được không ạ? Cháu xin lỗi, ông Keene, nhưng cháu không thở được…”
Lại có tiếng gõ cửa cộc cộc và Ruby ló đầu vào trong. “Mọi chuyện có…”
“Mọi chuyện vẫn ổn,” ông Keene nghiêm giọng đáp. “Để bọn tôi nói chuyện.”
“Chậc, tôi xin lỗi!” Ruby nói, đảo mắt rồi đóng cửa.
Hơi thở của Eddie lại bắt đầu rít lên trong cổ họng. Cậu hít thêm một hơi từ ống thở rồi lúng túng xin lỗi. Cậu chỉ dừng lại khi thấy ông Keene mỉm cười với mình – vẫn nụ cười khô khốc kỳ lạ ấy. Tay ông đan vào nhau và đặt trên bụng. Quả bóng bay nằm trên bàn. Một suy nghĩ lướt qua đầu Eddie; cậu cố kìm nó lại nhưng bất thành. Trông ông Keene như thể ông thấy cảnh tượng Eddie vừa lên cơn hen còn ngon lành hơn ly sô-đa cà phê đã vơi nửa của ông.
“Cháu đừng lo,” ông nói. “Chút nữa Ruby sẽ lau dọn, và nếu cháu muốn biết sự thật thì ta rất vui khi cháu làm bể ly. Vì ta hứa sẽ không nói với mẹ cháu chuyện cháu làm bể ly nếu cháu hứa không kể với bà ấy việc hai chúng ta đã nói chuyện với nhau thế này.”
“Dạ, cháu hứa,” Eddie nhanh nhảu.
“Tốt lắm,” ông Keene nói. “Chúng ta hiểu nhau rồi đấy. Và giờ cháu thấy khỏe hơn nhiều rồi đúng không?”
Eddie gật đầu.
“Tại sao?”
“Tại sao ạ? Dạ… vì cháu đã dùng thuốc.” Cậu nhìn ông Keene như cách cậu nhìn cô Casey ở trường khi cậu đưa ra câu trả lời mà không dám chắc.
“Nhưng cháu không hề dùng thuốc gì cả,” ông nói. “Cháu đã dùng giả dược . Eddie ạ, giả dược là thứ trông giống thuốc và có vị giống thuốc nhưng lại không phải là thuốc. Giả dược không phải là thuốc vì nó không có thành phần biệt dược. Hoặc nếu là thuốc thì nó là loại thuốc vô cùng đặc biệt. Thuốc trong tâm tưởng.” Ông Keene mỉm cười. “Cháu hiểu ra chưa, Eddie? Là thuốc trong tâm tưởng .”
Ừ thì Eddie hiểu, ông Keene đang bảo cậu bị điên. Nhưng lúng búng trên hàng môi tê rần, cậu đáp, “Dạ không, cháu không hiểu.”
“Để ta kể cháu nghe mẩu chuyện thế này,” ông nói. “Vào năm 1954, Đại học DePaul đã tổ chức chuỗi xét nghiệm y khoa trên bệnh nhân ung nhọt. 100 bệnh nhân được chỉ định uống thuốc. Bác sĩ nói với họ thuốc sẽ giúp chữa lành ung nhọt, nhưng thực ra, 50 bệnh nhân được cho uống giả dược… Chúng chỉ là những viên kẹo M&M được phủ màu hồng mà thôi.” Ông Keene cười khúc khích đầy kỳ cục – như thể ông đang kể chuyện người ta chơi khăm chứ không phải thí nghiệm. “Trong số 100 bệnh nhân ấy, 93 người cho biết họ cảm thấy ung nhọt cải thiện ở mức độ nhất định, và 81 người thực sự có cải thiện tình trạng bệnh. Nào, cháu nghĩ sao? Cháu rút ra được kết luận gì từ thí nghiệm này, Eddie?”
“Cháu không biết,” Eddie khẽ khàng.
Ông Keene nghiêm mặt gõ tay lên trán. “Hầu hết bệnh tật đều xuất phát từ đây, đó là điều ta tâm niệm. Ta đã làm việc trong ngành này suốt một khoảng thời gian dài, và ta biết về giả dược cách đây nhiều năm rồi, trước cả khi các bác sĩ ở trường Đại học DePaul thực hiện nghiên cứu. Thường thì chỉ có những người lớn tuổi mới sử dụng giả dược thôi. Người già hay đến bác sĩ, một mực cho rằng họ bị bệnh tim, bị ung thư, tiểu đường hay mắc bệnh gì đó. Tuy nhiên, trong rất nhiều trường hợp lại chẳng phải như vậy. Họ thấy không khỏe đơn giản là bởi họ đã già. Nhưng bác sĩ phải làm gì? Bảo rằng họ giống như những chiếc đồng hồ bị mòn dây cót à? Ái chà! Khó lắm. Vì bác sĩ thu được phí điều trị nên tội gì phải nói như thế.” Và giờ thì khuôn mặt của ông hòa trộn giữa nụ cười và sự khinh khi.
Eddie chỉ ngồi đó, đợi cho mọi chuyện đi đến hồi kết, đến hồi kết, đến hồi kết. Cháu không hề dùng thuốc gì cả: những lời ấy lanh lảnh trong tâm trí cậu.
“Bác sĩ không nói với họ như thế, và ta cũng chẳng buồn nói. Nói ra làm gì cho rách việc? Đôi khi lại có ông cụ bà cụ bước vào với đơn thuốc chẳng kê gì ngoài huỵch toẹt: Giả dược hoặc 25 viên thiên thanh , đây là cách ông bác sĩ già Pearson hay nói.”
Ông Keene khẽ cười rồi hớp một ngụm sô-đa cà phê.
“Vậy nó có gì sai trái không?” Ông hỏi Eddie, và thấy Eddie chỉ thần người ngồi đó, ông tự trả lời câu hỏi của mình. “Chà, chẳng có gì sai trái cả! Chẳng sai chút nào!”
“Thường là thế… Giả dược là một điều tốt lành đối với người già. Và có những trường hợp khác, như những bệnh nhân ung thư, mắc bệnh tim hoặc mắc các căn bệnh hiểm nghèo mà nền y học chưa hiểu hết, thậm chí một số còn rất bé, chỉ tầm tuổi của cháu, Eddie ạ! Với những trường hợp như vậy, nếu giả dược khiến bệnh nhân cảm thấy khỏe hơn thì có tác hại gì đâu? Cháu có thấy tác hại gì không, Eddie?”
“Dạ không ạ.” Eddie đáp và cúi mặt xuống nhìn đống kem sô-cô-la, nước sô-đa, kem tươi và ly vỡ bầy hầy trên sàn nhà. Ngay chính giữa đống hổ lốn này là một quả cherry ngâm đường, nổi bật chẳng khác nào vết máu ở hiện trường tội ác. Nhìn cảnh tung tóe này chỉ càng khiến ngực cậu thắt lại.
“Thế thì chúng ta tư tưởng lớn gặp nhau rồi đấy! Năm năm trước, khi Vernon Maitland mắc ung thư thực quản – một dạng ung thư vô cùng, vô cùng đau đớn – các bác sĩ không còn loại thuốc nào hữu hiệu để khiến cơn đau thuyên giảm. Ta bèn đến phòng bệnh của ông ấy với một lọ đường, dạng viên ấy. Cháu biết không, ông ấy là một người bạn đặc biệt của ta. Và ta nói, ‘Vern này, đây là một loại thuốc giảm đau đặc biệt đang được thử nghiệm. Bác sĩ không biết tôi mang đến cho ông, nên vì Chúa, ông hãy dùng cho cẩn thận và đừng bép xép kể với ai. Có thể thuốc sẽ không có tác dụng, nhưng tôi nghĩ là có. Đừng uống nhiều hơn một viên mỗi ngày, và chỉ uống khi nào cơn đau vượt ngưỡng chịu đựng của ông.’ Ông ấy cảm ơn ta mà mắt rơm rớm. Ông ấy rơi lệ đấy, Eddie ạ! Và chúng có tác dụng! Thật đấy! Chúng chỉ là những viên đường thôi, nhưng chúng khiến cơn đau của ông ấy gần như mất hẳn… vì đau đớn sinh ra từ đây.”
Ông Keene lại nghiêm trang gõ lên đầu mình.
“Thuốc của cháu có tác dụng đối với cháu mà,” Eddie nói.
“Ta biết nó có tác dụng,” ông đáp và nở nụ cười của một người lớn cao ngạo đầy tự mãn. “Nó có tác dụng với ngực cháu vì nó có tác dụng tới tâm trí cháu. Eddie ơi, Hydrox thật ra chỉ là nước bỏ thêm chút long não để có vị như thuốc mà thôi.”
“Không,” Eddie phản bác. Hơi thở của cậu lại rít lên khe khẽ.
Ông Keene uống thêm chút sô-đa, múc vài muỗng kem chảy rồi lấy khăn mùi xoa lau cằm thật kiểu cách trong lúc Eddie dùng ống thở thêm lần nữa.
“Cháu muốn về,” Eddie nói.
“Hãy để ta nói xong đã.”
“Không! Cháu muốn về, ông thu tiền của cháu rồi thì để cháu về chứ!”
“Để ta nói xong đã,” ông Keene nghiêm giọng khiến Eddie ngồi yên trên ghế không dám cục cựa. Người lớn thật đáng ghét khi ỷ lớn hiếp nhỏ. Thật đáng ghét.
“Một phần vấn đề nằm ở chỗ bác sĩ của cháu, Russ Handor, quá sức yếu hèn. Và một phần vấn đề nằm ở chỗ mẹ cháu nhất nhất cho rằng cháu bị bệnh. Rốt cuộc, cháu bị mắc kẹt ở giữa.”
“Cháu không bị điện, Eddie thì thầm, giọng nói khàn khàn vang lên.
Ghế của ông Keene ken két như con dế khổng lồ. “Gì kia?”
“Cháu bảo cháu không bị điên!” Eddie thét lên. Và rồi ngay lập tức, mặt cậu đỏ bừng như gấc.
“Những gì ta muốn nói ở đây là cháu không bị bệnh gì về mặt thể chất. Phổi của cháu không bị hen suyễn mà là tâm trí của cháu.”
“Ý bác là cháu bị điên.”
Ông Keene chúi tới trước, nhìn cậu đăm chiêu qua hai bàn tay đang lồng vào nhau của mình.
“Ta không biết, ông nhẹ nhàng nói. “Thế cháu có điên không?”
“Tất cả là dối trá!” Eddie ré lên, tự thấy ngạc nhiên khi ngôn từ bật ra từ khuôn ngực đang thắt chặt của mình mạnh mẽ đến thế. Cậu nghĩ tới Bill và nghĩ tới cách Bill sẽ phản ứng trước những lời nói choáng váng đến vậy. Bill sẽ biết phải nói gì, dù cậu ấy có nói lắp hay không. Bill biết làm thế nào để can đảm. “Tất cả đều là dối trá! Cháu bị hen suyễn mà, cháu có bị!”
“Phải,” ông Keene đáp, nụ cười khô khốc biến thành cái nhoẻn cười như bộ xương khô. “Nhưng ai đưa nó cho cháu, Eddie?”
Đầu óc của Eddie nhộn nhạo quay cuồng. Ôi, cậu thấy mệt quá, thật sự rất mệt.
“Bốn năm trước, vào năm 1954 – thật trùng hợp là cũng vào năm các thí nghiệm ở trường DePaul được thực hiện – bác sĩ Handor bắt đầu kê đơn Hydrox cho cháu. Nó là chữ viết tắt của hydro và oxy, hai nguyên tử cấu thành nước. Kể từ đó, ta đã tiếp tay cho trò lừa bịp này, nhưng ta sẽ không nhắm mắt làm ngơ nữa. Thuốc chữa hen suyễn của cháu có tác dụng với tâm trí cháu chứ không phải cơ thể cháu. Căn bệnh hen của cháu sinh ra do cơ hoành thít lại vì căng thẳng, dưới mệnh lệnh của tâm trí… hoặc của mẹ cháu.
“Cháu không bị bệnh gì cả.”
Theo sau là sự im lặng khủng khiếp.
Eddie ngồi trên ghế, đầu óc bùng nhùng. Trong thoáng chốc, cậu cân nhắc khả năng có thể ông Keene đang nói thật, nhưng nếu thế sẽ nảy sinh những hệ quả mà cậu không đủ sức đối mặt. Tuy nhiên, ông Keene nói dối làm gì, nhất là về một chuyện nghiêm trọng thế này?! Ông chỉ ngồi đó, nở nụ cười vô hồn khô khốc như sa mạc.
Mình bị hen suyễn thật mà. Cái ngày Henry Bowers đấm vào mũi mình, cái ngày Bill và mình cố gắng xây con đập ở Vùng Đất Cằn, mình suýt nữa chết còn gì. Lẽ nào mình phải quy tất cả là do… tâm trí mình bịa ra ư?”
Nhưng ông ấy nói dối làm gì? (Phải nhiều năm sau, khi ở thư viện, Eddie mới hỏi bản thân mình câu hỏi còn khủng khiếp hơn: Tại sao ông ấy lại nói sự thật? )
Cậu nghe thấy giọng ông Keene văng vẳng: “Ta đã để mắt đến cháu, Eddie ạ. Ta nói ra với cháu tất cả những điều này vì cháu đã đủ lớn để hiểu rồi, nhưng cũng vì ta thấy cháu đã có bạn bè. Đám trẻ ấy là những người bạn tốt lắm, đúng không?”
“Dạ,” Eddie đáp.
Ông Keene nghiêng ghế ra sau (nó lại tạo ra tiếng động kèn kẹt như dế kêu) và nhắm một mắt như thể nháy mắt – hoặc không.”Và ta đoán chắc mẹ cháu không ưa các bạn cho lắm, đúng không?”
“Mẹ cháu quý các bạn ấy ạ,” Eddie nói và nghĩ về những điều chát chúa mà mẹ cậu nói về Richie Tozier ( Thằng bé ấy hay nói bậy lắm… mẹ ngửi thấy hơi thở nó rồi, Eddie… mẹ đoán nó hút thuốc ), lời nhận xét khinh miệt khi mẹ dặn cậu không được cho Stan Uris mượn đồng nào vì cậu ấy là dân Do Thái, thái độ ghét ra mặt của mẹ với Bill Denbrough và “thằng béo ú kia”.
Cậu lặp lại với ông Keene: “Mẹ cháu rất quý họ.”
“Thế à?” Ông nói, miệng vẫn mỉm cười. “Chà, có thể mẹ cháu đúng mà cũng có thể mẹ cháu sai, nhưng chí ít, giờ cháu đã có bạn bè. Cháu nên trao đổi với các bạn về vướng mắc này. Sự… sự yếu đuối tâm lý này. Xem các bạn cháu nói gì.”
Eddie không đáp. Tốt nhất không nên nói gì với ông Keene; như thế an toàn hơn. Và cậu sợ nếu không ra khỏi đây sớm, chắc cậu khóc mất thôi.
“Chà!” Ông thốt lên rồi đứng dậy. “Ta nghĩ chúng ta nói đến đây là đủ rồi, Eddie. Nếu ta khiến cháu buồn lòng thì ta xin lỗi. Theo như ta thấy, ta chỉ đang làm bổn phận của mình thôi. Ta…”
Nhưng trước khi ông kịp nói thêm, Eddie chộp lấy ống thở cùng túi thuốc màu trắng và co giờ chạy biến. Một chân của cậu trượt lên đống kem trên nền nhà, suýt ngã. Cậu phi ra khỏi Tiệm thuốc đường Trung Tâm, mặc kệ hơi thở hồng hộc rít lên. Ruby há hốc, trợn mắt nhìn cậu từ cuốn tạp chí phim ảnh.
Cậu có thể cảm nhận ông Keene đang đứng ở cửa văn phòng sau lưng cậu và nhìn cậu cao chạy xa bay từ quầy thuốc, dong dỏng, gọn gàng, trầm tư với nụ cười sa mạc khô khốc.
Cậu dừng ở góc giao của ba con đường: đường Kansas, đường Chính và đường Trung Tâm. Ngồi trên bức tường đá thấp cạnh trạm xe buýt, cậu hít thêm một hơi thật sâu từ ống thở – họng cậu giờ đã trở nên trơn tru với vị thuốc vẫn còn đọng lại
(thật ra chỉ là nước bỏ thêm chút long não)
pvà cậu nghĩ nếu hôm nay phải dùng ống thở thêm lần nữa, khéo cậu nôn hết lòng mề ra ngoài mất.
Thả nó vào túi, cậu cẩn thận quan sát xe cộ ngược xuôi rồi hướng lên đường Chính, đi xuống đồi Dặm Trên. Cậu cố gắng không nghĩ ngợi gì. Mặt trời chói chang trên đầu, hừng hực cái nóng. Mỗi chiếc xe chạy ngang qua lại phản chiếu những tia sáng chói chang vào mắt khiến hai bên thái dương của cậu ong ong. Cậu không tìm ra cách nào để tức giận với ông Keene, nhưng cậu cảm thấy tội nghiệp thay cho cái thằng Eddie Kaspbrak. Cậu thấy thương hại Eddie Kaspbrak khủng khiếp. Cậu đoán chắc Bill Denbrough chẳng bao giờ phí phạm thời gian ngồi thương thân bao giờ, nhưng Eddie không tài nào gạt đi cảm xúc ấy.
Trên tất thảy, cậu muốn làm điều mà ông Keene đã gợi ý: đến Vùng Đất Cằn và kể với nhóm bạn tất cả mọi chuyện, xem họ nói gì và thu thập những ý kiến họ đóng góp. Nhưng giờ, cậu không thể làm như vậy. Mẹ đang đợi cậu đem thuốc về nhà càng sớm càng tốt
(tâm trí của cháu… hoặc mẹ cháu)
và nếu cậu không về
(mẹ cháu một mực cho rằng cháu bị bệnh)
là thế nào cũng sinh chuyện. Mẹ sẽ cho rằng cậu đàn đúm với Bill hoặc Richie hoặc “thằng nhóc Do Thái”, cách bà gọi Stan (dù bà bảo bà không có định kiến gì khi gọi như vậy, đó chỉ đơn giản là “nói toạc móng heo” – cụm từ bà hay dùng khi nói ra sự thật trong những tình huống khó khăn). Và giờ đây, đứng ở góc đường, cố gắng sắp xếp những suy nghĩ quay cuồng trong đầu một cách vô vọng, Eddie biết mẹ sẽ xa xả điều gì nếu biết cậu đánh bạn với một người da đen và một cô bạn gái – một cô bạn đã đến tuổi nhú ngực.
Cậu chậm rãi bước lên đồi Dặm Trên, cắn răng leo dốc dưới cái nóng hầm hập. Trời nóng đến độ đủ để chiên trứng trên vỉa hè chứ chẳng chơi. Lần đầu tiên trong đời, cậu thầm ước ao được đi học lại, có lớp mới, giáo viên mới để làm quen. Giá mà mùa hè tệ hại này sớm kết thúc.
Leo được nửa đường, không xa vị trí mà hai mươi bảy năm sau Bill Denbrough tái ngộ với Ánh Bạc là bao, cậu lại lôi ống thở ra khỏi túi. Trên nhãn đề Sương HydrOx. Sử dụng khi cần.
Có gì đó lóe lên trong đầu cậu. Sử dụng khi cần. Cậu vẫn là con nít, miệng còn hôi sữa (mẹ cậu thỉnh thoảng nói như thế khi “nói toạc móng heo”), nhưng ngay cả đứa nhóc mười một tuổi biết ta không đưa thứ thuốc thật sự cho người khác và ghi lên nhãn hiệu cụm từ Sử dụng khi cần . Nếu đây thật sự là thuốc, rủi may ta ỷ y và sử dụng quá liều thì mất mạng chứ chẳng chơi. Cậu đoán uống aspirin quá nhiều có khi cũng toi đời ấy chứ.
Cậu nhìn chằm chằm vào ống thở, không hề để ý bà cụ liếc nhìn mình đầy tò mò lúc đi xuống ngọn đồi về phía đường Chính với túi thực phẩm trên tay. Cậu cảm thấy bị phản bội. Và trong một khắc, suýt chút nữa cậu đã ném ống nhựa xuống cống - hay tốt hơn nữa, ném nó qua nắp cống thưa đằng kia. Đúng rồi! Sao lại không kia chứ? Tặng ống thở ấy cho Nó dùng dưới đường hầm và ống cống nhỏ nước tong tổng kia. Dùng giả dược đi, đồ quái dị trăm mặt kia! Cậu phá lên cười ha hả và thêm một bước nữa thôi là cậu đã vứt đi thật. Nhưng cuối cùng, giang sơn dễ đổi, bản tính khó dời. Cậu lại nhét ống thở vào túi quần bên phải rồi bước tiếp, chẳng để tâm tiếng còi chốc chốc réo lên và tiếng động cơ của chiếc xe buýt công viên Bassey khi nó đi ngang qua. Đồng thời, cậu cũng chưa biết mình sắp sửa khám phá ra thế nào là bị thương - bị thương thật sự.
3Hai mươi lăm phút sau, bước ra khỏi Chợ Đại lộ Costello, một tay cầm lon Pepsi, tay kia cầm hai phong kẹo Payday, Eddie bất ngờ đầy khó chịu khi trông thấy Henry Bowers, Victor Criss, Moose Sadler và Patrick Hockstetter đang quỳ gối trên mặt đường trải sỏi phía bên trái cửa hàng nhỏ. Trong một thoáng, Eddie cứ tưởng chúng đang chém gió chém bão với nhau, nhưng rồi cậu trông thấy chúng đang gom tiền trên áo bóng chày của Victor. Sách giáo khoa phụ đạo hè bị chúng vứt lăn lóc thành đống lộn xộn bên cạnh.
Nếu là một ngày bình thường, Eddie sẽ chỉ lặng lẽ lui vào trong tiệm và hỏi ông Gedreau liệu cậu có thể về bằng lối cửa sau được hay không, nhưng hôm ấy không phải ngày bình thường. Eddie đơ ra như tượng, một tay vẫn giữ cánh cửa có tấm biển quảng cáo thuốc lá bằng thiếc (WINSTON RẤT NGON, ĐÚNG CHUẨN THUỐC LÁ, 21 ĐIẾU THUỐC PHẢ 20 HƠI TUYỆT VỜI, hình cầu nhóc hét lên HÃY NHỚ ĐẾN PHILIP MORRIS), tay kia cầm túi tạp hóa màu nâu và túi đựng thuốc màu trắng.
Hình ảnh quảng cáo của thuốc lá Philip Morris.
l
Victor Criss trông thấy cậu và huých cùi chỏ vào Henry. Henry ngước nhìn; cả Patrick Hockstetter cũng thế. Moose đầu óc chậm tiêu hơn hội bạn, tiếp tục đếm xu thêm năm giây nữa mới nhận ra không khí im lặng hẳn rồi ngước nhìn.
Henry đứng dậy, phủi đất cát bám trên đầu gối quần yếm mình đang mặc. Hai bên mũi còn băng bó gắn thanh nẹp, giọng hắn ôm ồm trong mũi như còi báo tàu đi trong sương mù. “Chà, tao xuống địa ngục mất thôi. Chiến sĩ ném đá đây mà. Bạn mày đâu rồi, thằng khốn? Chúng nó ở trong à?”
Eddie lặng lẽ lắc đầu trước khi kịp nhận ra mình vừa đi một nước cờ sai lầm.
Nụ cười của Henry nở rộng. “Ồ, cũng không sao,” hắn nói.” Tao không ngại tương nát từng đứa chúng mày đâu. Xuống đây coi, đồ khốn.”
Victor đứng bên cạnh Henry; Patrick Hockstetter đi theo sau, nở nụ cười trì độn mà Eddie vốn chẳng lạ gì ở trường. Moose vẫn đang dợm đứng lên.
“Đến đây nào, thằng khốn,” Henry nói. “Mình còn bàn về ném đá nữa chứ. Bàn về ném đá cho vui, mày muốn vậy không?”
Eddie quyết định quay trở lại cửa tiệm sẽ là hành động khôn ngoan hơn cả, song lúc ấy đã quá muộn. Trong tiệm có người lớn. Nhưng khi cậu lùi lại, Henry đã nhào tới và chộp lấy cậu. Hắn kéo tay Eddie, lôi thật mạnh, nụ cười biến thành cái nhìn nanh nọc. Tay của Eddie bị giật ra khỏi cửa. Cậu bị kéo xuống bậc tam cấp và suýt chút nữa đập đầu lên mặt sỏi nếu Victor không chộp nách cậu lại. Victor hất cậu. Eddie loạng choạng mãi mới đứng được, cậu xoay mòng mòng hai vòng. Bốn kẻ du côn sừng sững đứng trước mặt cậu, cách chừng ba mét, Henry đứng gần hơn những kẻ khác một chút, miệng mỉm cười. Tóc vuốt ngược ra sau.
Đứng đằng sau Henry về phía bên trái là Patrick Hockstetter, một kẻ quái dị vô đối. Hôm nay là lần đầu tiên Eddie trông thấy hắn đi với kẻ khác. Hắn ta mập ú, bụng hơi phệ ra chỗ thắt lưng gắn khóa Red Ryder. Mặt hắn tròn như cái mâm, lúc nào cũng bợt bạt như kem. Giờ cậu mới thấy làn da của hắn có chút cháy nắng. Phần mũi bị cháy nắng nhiều nhất, da tróc hết cả, lan ra hai bên má như đôi cánh. Ở trường, Patrick thích giết ruồi với cây thước nhựa SkoolTime màu xanh của mình rồi cất trong hộp bút chì. Thỉnh thoảng, hắn ta lại khoe bộ sưu tập ruồi của mình với vài đứa bạn mới trên sân chơi vào giờ giải lao, đôi môi dày cui nhoẻn cười, hai mắt màu xanh xám nghiêm trang và trầm mặc. Hắn chẳng nói chẳng rằng khi khoe những con ruồi chết, bất kể đối phương nói gì. Nét biểu cảm đó đang chình ình trên khuôn mặt hắn lúc này.
“Mày sao rồi, Thanh niên Ném đá?” Henry hỏi, tiến lại gần cậu. “Có bị hòn đá nào ném trúng không?”
“Để tôi yên,” Eddie nói, giọng run cầm cập.
“Để tôi yên,” Henry nhại lại, giả vờ qua quàng tay đầy sợ hãi. Victor phá lên cười. “Tao không để yên thì mày làm được gì, Thanh niên Ném đá? Hả?” Hắn vung tay nhanh như cắt, đấm vào má Eddie một cú to như tiếng súng săn. Đầu Eddie bật ngược ra sau. Nước mắt ứa ra từ mắt trái của cậu.
“Bạn tôi đang ở trong đấy,” Eddie nói.
“Bạn tôi đang ở trong đấy,” Patrick Hockstetter ré lên. “Ố! Ồ! Ố ồ!” Hắn bắt đầu vòng qua bên phải Eddie.
Không được khóc, cậu nghĩ, mày mà khóc là đúng ý bọn nó đấy, nên không được khóc, Eddie, Bill còn lâu mới mít ướt, Bill còn lâu mới khóc, tao cấm mày khóc, dù…
Victor bước tới và lấy tay xô Eddie ngay giữa ngực. Eddie loạng choạng lùi lại nửa bước rồi ngã nhào lên Patrick, lúc này đang ngồi chồm hổm ngay phía sau chân cậu. Cậu dập người xuống mặt sỏi, trầy hết cả tay. Có một tiếng phụt! khi lồng ngực cậu co thắt đột ngột.
Trong chớp mắt, Henry Bowers đã leo lên người cậu, hai đầu gối đè lên tay, mông thượng lên bụng cậu.
“Có thủ đá đấy không, Thanh niên Ném đá?” Henry xa xả gào lên, và Eddie sợ hãi trước ánh nhìn cuồng nộ ánh lên trong mắt Henry hơn là cơn đau ở tay hay cơn khó thở của mình. Henry phát điên rồi. Patrick đứng gần đó phá lên cười nắc nẻ.
“Mày muốn ném đá không? Hả? Để tao cho mày đá! Đây này! Đá đây này!”
Henry vơ một nắm sỏi rồi đập vào mặt Eddie. Hắn chà sỏi lên da mặt cậu, cứa rách má, mí mắt và môi cậu. Eddie há miệng hét lên.
“Muốn ăn đá à? Đây để tao cho mày! Đá đây, Thanh niên Ném đá! Mày muốn đá chứ gì? Được thôi! Được thôi!”
Sỏi bị tống vào miệng, rạch vào nướu cậu, lạo xạo và vào răng cậu. Cậu cảm thấy phần răng trám của mình như muốn tóe lửa. Cậu lại thét lên và phun sỏi ra.
“Muốn ăn đá à? Được thôi! Muốn ăn nữa không? Hay để…”
“Thôi ngay! Này, này! Thôi ngay! Cậu kia! Buông cậu bé ra! Ngay lập tức! Cậu có nghe không hả? Buông ra ngay!”
Qua đôi mắt mở hờ, nhòe đi vì lệ, Eddie trông thấy một bàn tay to lớn chộp lấy cổ áo Henry và dây quần yếm bên phải của hắn. Bàn tay thô bạo giật lại, khiến Henry bị kéo lên. Hắn đập mông xuống mặt sỏi rồi đứng dậy. Eddie từ từ gượng dậy. Cậu cố gắng lồm cồm đứng lên nhưng không bói đâu ra sức. Thở hồng hộc, cậu phun những hòn sỏi đầy máu ra khỏi miệng mình.
Hóa ra là ông Gedreau, khoác trên mình chiếc tạp dề dài màu trắng, khuôn mặt đầy giận dữ. Trên mặt ông không có vẻ gì sợ hãi, dù Henry cao hơn ông đến bảy phân và xem chừng nặng hơn ông hơn hai mươi kí-lô. Trên mặt ông không có vẻ gì sợ hãi, vì ông là người lớn còn Henry chỉ là đứa con nít. Nhưng lần này có khi điều đó chẳng có ý nghĩa gì, Eddie thầm nghĩ. Ông Gedreau không hề hay biết Henry là một kẻ mất trí.
“Các cậu biến ngay khỏi đây cho ta,” ông Gedreau nói, lầm lì tiến đến chỗ Henry cho đến khi ông mặt đối mặt với kẻ côn đồ đô con với khuôn mặt sưng sỉa. “Biến đi và đừng có bén mảng lại đây nữa. Ta không chấp nhận bắt nạt, cũng không chấp nhận bốn đánh một. Mẹ các cậu sẽ nghĩ gì hả?”
Ông quét đôi mắt phừng phừng lửa giận nhìn những kẻ còn lại. Moose và Victor cúi gằm mặt nhìn xuống chân. Patrick chỉ đần mặt ra nhìn ông Gedreau với ánh mắt xanh xám vô định ấy. Ông Gedreau nhìn lại Henry và mới chỉ kịp nói “Các cậu lấy xe đạp và…” thì Henry đẩy ông một cú thật mạnh.
Nét biểu cảm đầy ngạc nhiên - trong những trường hợp bình thường, nét mặt ấy sẽ rất chi là buồn cười – hiện lên trên khuôn mặt ông Gedreau khi ông bật ra sau, đế giày hất văng vài viên sỏi. Ông đập vào bậc tam cấp dẫn đến cửa chính và ngồi thịch xuống đất.
“Tại sao cậu…” Ông lên tiếng.
Bóng của Henry đổ xuống người ông. “Đi vào mau lên,” hắn nói như ra lệnh.
“Cậu…” Ông Gedreau toan nói gì đó nhưng im bặt. Eddie nhận ra cuối cùng, ông cũng đã trông thấy thứ đó – ánh nhìn phát ra từ mắt Henry. Ông vội vàng đứng dậy, tạp dề phấp phới. Ông hớt hải bước lên bậc tam cấp thật nhanh, lảo đảo vấp ở bậc thứ hai từ trên xuống và khuỵu một gối. Song ông loạng choạng đứng dậy ngay, nhưng chính cử chỉ loạng choạng ấy, dù nhanh đến đâu, dường như đã trút bỏ hết uy quyền người lớn nơi ông.
Đứng trên cùng bậc tam cấp, ông quay người hét lên: “Ta sẽ báo cảnh sát!”
Henry ra vẻ nhào đến khiến ông rụt người lại. Thế là hết, Eddie thầm nghĩ. Dù khó tin và khó tưởng tượng chăng nữa, cậu chẳng còn thành lũy nào bảo vệ nữa rồi. Đến lúc phải biến thôi.
Nhân lúc Henry đứng ở dưới bậc tam cấp lừ mắt nhìn lên ông Gedreau, những kẻ còn lại đứng đó, ngây ra như phỗng (và đầy kinh sợ, trừ Patrick Hockstetter) trước sự chống đối người lớn thành công này, Eddie chớp lấy thời cơ. Cậu xoay người, đứng dậy và co giò chạy.
Cậu chạy được một nửa dãy nhà thì Henry quay đầu lại, mắt long lên sòng sọc. “Bắt lấy nó!” Hắn gầm lên.
Mặc kệ có mắc hen suyễn hay không, hôm ấy, Eddie đã cho bọn chúng biết thế là nào là hít khói. Có những đoạn dài đến mười lăm mét, cậu còn chẳng nhớ gót đôi giày P.F. Flyers của mình có chạm xuống vỉa hè hay không. Nhiều lúc, cậu thậm chí còn nghĩ đến viễn cảnh choáng váng: biết đâu cậu có thể cắt đuôi được bọn chúng thì sao.
Song trước khi cậu kịp chạy đến đường Kansas để thoát khỏi vùng nguy hiểm thì một đứa bé chạy xe ba bánh lao ra và tông thẳng vào đường Eddie đang chạy. Eddie cố đổi hướng, nhưng đang chạy hết tốc lực nên cậu đoán mình có thể nhảy qua người đứa bé (tên cậu bé này là Richard Cowan, sau này lớn lên, cậu kết hôn và sinh ra một bé trai đặt tên là Frederick Cowan, con của cậu bị chết đuối trong bồn cầu và bị ăn thịt bởi một thứ trào lên từ bồn cầu như khói đen, biến tướng thành hình dạng ngoài sức tưởng tượng) hoặc liều mình làm thử.
Một chân của Eddie vướng vào yên sau chiếc xe, chỗ thằng oắt con ham phiêu lưu mạo hiểm này có thể đứng và đẩy chiếc xe như xe trượt. Richard Cowan, cậu bé mà hai mươi bảy năm sau sẽ phải chịu cảnh mất con dưới tay Nó, gần như chẳng nghiêng ngả tí nào trên xe. Tuy nhiên, Eddie thì mất đà văng đi. Cậu đập vai vào vỉa hè, nảy lên rồi lại đập người xuống và trượt thêm ba mét nữa, khiến phần da trên khuỷu tay và đầu gối cậu chà xát xuống đất. Cậu đang lồm cồm bò dậy thì Henry Bowers choảng cậu một cú chẳng khác nào đại bác bắn khỏi nòng làm cậu đo ván. Mũi Eddie đập thẳng xuống mặt bê tông. Máu chảy lênh láng.
Henry lăn một vòng như lính nhảy dù rồi đứng dậy. Hắn chộp lấy cổ và tay phải của Eddie. Hơi thở phì phò từ hai lỗ mũi sưng vù và được nẹp lại của hắn nóng ẩm.
“Muốn ăn đá không, Thanh niên Ném đá? Có chứ gì! Tiên sư mày!” Hắn kéo cổ tay Eddie lên quá nửa lưng cậu. Eddie thét lên. “Ném đá thì phải có đá chứ nhỉ, Thanh niên Ném đá?” Hắn kéo tay Eddie lên cao hơn nữa. Eddie gào khản cổ. Đằng sau, cậu có thể nghe thấy những kẻ khác đang tiến lại và đứa nhóc trên xe ba bánh ré lên khóc bù lu bù loa. Vô hội luôn đi, nhóc, cậu nghĩ, và dù đau đến mụ mẫm, dù nhòa nước mắt và sợ hãi, cậu phá lên cười hỉ hả như con lừa.
“Mày thấy buồn cười à?” Henry hỏi, giọng hắn nghe có vẻ ngạc nhiên hơn là giận giữ. “Mày thấy buồn cười à?” Hình như giọng của Henry còn có vẻ sợ hãi t