← Quay lại trang sách

Chương 18 NÁ HỒNG TÂM
1

“Được rồi, Haystack,” Richie lên tiếng. “Đến lượt cậu. Nàng Tóc đỏ đã đốt hết sạch thuốc lá của nàng và gần hết của tớ rồi. Đêm hôm khuya khoắt rồi đấy.”

Ben liếc nhìn đồng hồ. Phải, trời đã khuya: chưa gì đã gần nửa đêm . Vừa đẹp cho một câu chuyện nữa, anh thầm nhủ. Một câu chuyện nữa trước 12 giờ. Để giữ cho cả bọn được ấm áp. Nên kể gì đây nhỉ? Nhưng tất nhiên đó chỉ là một câu chuyện đùa, dù đùa cũng chẳng vui lắm, chỉ còn một câu chuyện mà thôi, chí ít trong ký ức anh là thế, và đó là câu chuyện về những viên đạn bạc – về quá trình họ làm ra chúng trong xưởng của ông Zack Denbrough vào đêm ngày 23 tháng 7 và cách họ sử dụng vào ngày 25.

“Trên người tớ có vết sẹo,” anh nói. “Các cậu còn nhớ không?”

Beverly và Eddie lắc đầu; còn Bill và Richie gật gù. Mike chỉ ngồi im, đôi mắt chăm chú trên khuôn mặt mỏi mệt.

Ben đứng dậy và cởi nút chiếc áo đang mặc rồi phanh ra. Trên bụng anh có một vết sẹo cũ hình chữ H. Đường nét của vết sẹo đã bể – lúc có vết sẹo, bụng anh to hơn hiện tại rất nhiều – nhưng nhìn vào vẫn nhận ra hình thù.

Vết sẹo sâu hoắm kéo từ nét ngang của chữ H rõ hơn rất nhiều. Trông nó như sợi dây thừng trắng đã cắt mất đầu thòng lọng.

Beverly đưa tay lên che miệng. “Người sói! Ở căn nhà đó! Ôi Chúa ơi!” Đoạn cô quay ngoắt ra nhìn cửa sổ như thể kiểm tra xem nó có lẩn trốn trong bóng tối ngoài kia hay không.

“Phải,” Ben đáp. “Và các cậu muốn biết điều buồn cười là gì không? Vết sẹo không có ở đâu cho đến hai ngày trước. Vết sẹo ghi dấu Henry thì có, tớ biết điều đó, vì tớ từng cho một người bạn xem, anh bạn làm chủ quán bar tên Ricky Lee ở Hemingford Home. Nhưng vết sẹo này thì…” Anh phá lên cười khô khốc và bắt đầu cài lại nút áo. “Nó tự quay trở lại.”

“Giống vết sẹo trên tay chúng ta.”

“Phải,” Mike lên tiếng trong lúc Ben cài nút áo. “Người sói. Lần đó, tất cả chúng ta đều thấy Nó trong bộ dạng Người sói.”

“Vì ngày trước R-R-Richie từng thấy N-Nó trong bộ dạng ấy,” Bill lẩm bẩm. “Lý do là vậy phải không?”

“Ừ.” Mike đáp.

“Bọn mình càng lúc càng gần thì phải?” Beverly nói. Giọng cô thoáng trầm trồ. “Gần đến mức đủ để biết đối phương nghĩ gì trong đầu.”

“Quý ông Đại lông Đại lá ấy suýt chút nữa đã ăn tươi nuốt sống cậu đấy, Ben,” Richie nói, nhưng miệng không hề nở nụ cười. Anh đẩy đôi kính chắp vá của mình lên mũi, phía sau cặp kính, khuôn mặt anh trông bợt bạt, hốc hác và phờ phạc.

“Bill đã cứu cậu một bàn thua trông thấy, Eddie chợt lên tiếng. “Ý tớ là, Bev đã cứu cả bọn, nhưng nếu không có cậu, Bill…”

“Phải, Ben gật gù. “Cậu đã cứu mạng tớ, Bill To Bự ạ. Lúc ấy, tớ như lạc trong nhà cười.”

Bill đưa tay chỉ về phía chiếc ghế trống. “Tớ được Stan Iris giúp. Và cậu ấy đã phải trả giá vì điều đó. Có khi là trả cả mạng sống.”

Ben Hanscom lắc đầu. “Đừng nói vậy, Bill.”

“Nhưng th-thật sự là thế. Và nếu đó là l-lỗi của c-cậu thì đó cũng là lỗi của tớ và của t-tất cả mọi người ở đây, vì chúng ta đã dấn thân đi tiếp. Ngay cả sau vụ việc xảy ra với Patrick và lời đe dọa ghi trên t-t-tủ lạnh, chúng ta vẫn không từ bỏ. Nhưng tớ nghĩ đ-đa phần là lỗi của tớ, vì tớ là kẻ m-m-muốn cả bọn cùng tiếp tục. Vì G-George. Và thậm chí là gì tớ nghĩ nếu tớ giết được thứ đã s-sát hại em trai tớ, b-bố mẹ tớ sẽ lại một lần th-th-thương…”

“Thương yêu cậu?” Beverly nhẹ nhàng hỏi.

“Ừ. Đúng rồi. Nhưng tớ kh-kh-không nghĩ đó là l-lỗi của ai c-c-cả, Ben ạ. Chỉ đơn giản là c-c-con người Stan như thế mà thôi.”

“Cậu ấy không đủ sức đối mặt,” Eddie trầm ngâm. Anh nghĩ về lần ông Keene tiết lộ sự thật về thuốc hen suyễn anh dùng năm xưa, và về việc anh vẫn không tài nào từ bỏ được nó. Anh nghĩ có lẽ ngày xưa, anh đủ sức để từ bỏ thói quen ốm đau của mình, nhưng cái anh không bỏ được chính là thói quen tin rằng mình ốm yếu. Nhưng hóa ra đời lắm cái khó ngờ, có khi chính thói quen ấy đã cứu sống anh.

“Ngày hôm đó, cậu ấy tuyệt lắm,” Ben nói. “Stan và đàn chim.”

Tiếng cười khúc khích vang lên trong nhóm, và họ quay sang nhìn chiếc ghế mà lý ra Stan sẽ ngồi nếu đây là một thế giới bình thường, không đảo điên, nơi người tốt luôn bách chiến bách thắng. Mình nhớ cậu ấy quá, Ben thầm nghĩ. Chúa ơi, mình nhớ quá! “Richie này,” anh lên tiếng, “cậu có nhớ một hôm, cậu bảo với cậu ấy rằng cậu nghe người ta nói Stan là kẻ giết Chúa Giê-su, cà Stan thốt lên với khuôn mặt hờ hững: ‘Tớ nghĩ người giết là bố tớ’ không?”

“Tớ nhớ chứ,” Richie đáp, giọng thấp đến độ gần như chẳng nghe nổi. Anh lấy khăn tay từ túi sau, gỡ kính, lau mắt rồi lại đeo nó lên. Sau khi cất khăn mùi xoa đi, anh cứ cúi gằm nhìn hai bàn tay và nói, “Sao cậu không kể ra luôn, Ben nhỉ?”

“Đau đớn lắm phải không?”

“Ừ.” Richie nói, giọng anh khản đặc tới mức không hiểu anh nói gì. “Sao chứ, phải rồi. Đau đớn lắm.”

Ben đưa mắt nhìn mọi người rồi gật đầu. “Được rồi. Mình sẽ kể thêm một câu chuyện trước 12 giờ để giữ ấm cho cả bọn nhé. Bill và Richie là người nảy ra ý tưởng làm các viên đạn…”

“Không phải đâu,” Richie phản đối. “Bill nghĩ ra suy nghĩ này đầu tiên và là người đầu tiên cảm thấy lo lắng.”

“Lúc ấy, tớ l-l-lo là…”

“Tớ nghĩ chuyện đó cũng chẳng quan trọng,” Ben nói. “Ba người bọn tớ đã dành rất nhiều thời gian nghiên cứu ở thư viện vào tháng Bảy năm ấy. Bọn tớ cố gắng tìm phương thức chế tác viên đạn bạc. Tớ có nguyên liệu bạc từ bốn đồng tiền bạc của bố. Và rồi Bill lo lắng khi nghĩ tới viễn cảnh chúng mình rơi vào nếu đạn bắn bất thành trong khi con quái vật đang muốn xé xác chúng ta. Và kết quả là khi trông thấy Beverly bắn ná bách phát bánh trúng, cả nhóm đã quyết định dùng đồng bạc để làm đạn bi. Sau khi chuẩn bị đầy đủ nhân lực và cật lực, chúng ta đã đến nhà của Bill. Eddie, cậu cũng có mặt…”

“Tớ nói với mẹ bọn mình chơi Monopoly,” Eddie giải thích. “Tay tớ vẫn còn đau, thế mà tớ phải đi bộ. Mẹ cáu tiết với tớ đến mức đấy. Và khi nào tớ nghe thấy có tiếng người phía sau, tớ lại giật mình quay phắt lại vì tưởng đó là Bowers. Chẳng giúp ích gì cho cơn đau cả.”

Bill nhoẻn miệng cười. “Và bọn mình không được tích sự gì mà chỉ đứng quanh nhìn Ben chế tạo viên đạn bi. Tớ thấy s-sức Ben còn đủ làm cả viên đ-đạn bạc hẳn hoi kìa.”

“Ôi trời, tớ không dám chắc đâu,” Ben nói, dù thật ra trong lòng, anh vẫn khá tự tin. Anh nhớ lúc ấy, hoàng hôn đang dần buông (ông Denbrough đã hứa sẽ đưa cả bọn về tận nhà), dế kêu râm ran trong cỏ, những ánh chớp đầu tiên lấp lóe bên ngoài cửa sổ. Bill kỹ lưỡng bày sẵn bảng trò chơi Monopoly trong phòng ăn, làm ra vẻ cả bọn đã chơi hơn một tiếng đồng hồ.

Anh còn nhớ chi tiết ấy, và nhớ cả ánh đèn vàng sắc nét chiếu xuống bàn làm việc của ông Zack. Anh nhớ Bill đã nói, “Bọn mình phải c-c

2

cẩn thận. Tớ không muốn để lại bãi ch-ch-chiến trường. Bố tớ sẽ…”

Cậu phì phì một loạt âm “p” rồi mới chật vật nói nốt “phát cáu”.

Richie làm động tác chùi má một cách lố lăng. “Cậu có phục vụ khăn sau màn phun mưa không, Bill Cà Lăm?”

Bill giơ tay làm bộ đấm bạn, Richie bèn rụt người, ré lên bằng Giọng Nhóc da đen.

Ben chẳng buồn quan tâm đến trò bắng nhắng của hai bạn. Cậu nhìn Bill lấy từng món đồ và dụng cụ xếp dưới ngọn đèn. Một phần tâm trí cậu thầm ước một ngày nào đó, cậu cũng có cái bàn làm việc xịn như thế. Còn đa phần tâm trí cậu đang dồn hết tâm sức vào công việc trước mắt. Dù không khó như chế tác viên đạn bạc hẳn hoi nhưng cậu sẽ cẩn trọng hết sức có thể. Không được phép làm qua loa ẩu tả. Đây không phải điều cậu được dạy hay được nhắc, chỉ đơn giản là bản thân cậu biết vậy mà thôi.

Bill đề nghị Ben chế tác đạn dạng viên bi, cũng quyết liệt như cách cậu năn nỉ Beverly là người giữ ná Hồng Tâm. Những vấn đề này được đem ra bàn bạc thảo luận rất nhiều, nhưng phải đến hai mươi bảy năm sau, Ben mới nhận ra không ai trong số họ mảy may nghi ngờ viên đạn bi bằng bạc có thể không ngăn được con quái vật ấy – họ có sức nặng của cả nghìn bộ phim kinh dị làm hậu phương.

“Được rồi đây,” Ben lên tiếng. Cậu bẻ tay răng rắc rồi nhìn Bill. “Cậu có khuôn không?”

“Ối!” Bill khẽ nhảy dựng. “Đ-Đ-Đây.” Đưa tay vào túi quần, cậu lấy khăn mùi xoa bỏ lên bàn rồi mở ra. Bên trong là hai viên bi sắt, mỗi viên có một cái lỗ nhỏ. Đây là khuôn vòng bi.

Sau khi quyết định mình sẽ làm đạn bi thay vì viên đạn như ban đầu, Bill và Richie trở lại thư viện tìm hiểu xem vòng bi được làm ra sao. “Mấy đứa bận rộn nhỉ,” cô Starrett thốt lên. “Tuần trước là đạn, tuần này xem vòng bi! Chưa kể đang kỳ nghỉ hè nữa chứ!”

“Chúng cháu muốn giữ cho đầu óc nhanh nhạy,” Richie nói. “Đúng không Bill?”

“Đ-Đ-Đúng.”

Hóa ra, chế tạo vòng bi là chuyện dễ như ăn bánh, chỉ cần có khuôn là xong ngay. Câu hỏi duy nhất là làm thế nào để kiếm được khuôn. Vài câu hỏi dương đông kích tây với ông Zack Denbrough đã giải quyết vấn đề này… và các thành viên Hội Cùi Bắp không quá bất ngờ khi biết rằng cửa hàng kim khí duy nhất ở Derry cung cấp dạng khuôn này là công cụ Chính xác & Khuôn Kitchener. Hai anh em ngày trước sở hữu Xưởng đúc Kitchener là kỵ họ của ông Kitchener chủ tiệm hiện tại.

Bill và Richie cùng nhau đến cửa tiệm với toàn bộ số tiền mà Hội Cùi Bắp gom góp được trong thời gian gấp rút như vậy –mười đô-la và năm mươi chín xu – nhét trong túi Bill. Khi Bill hỏi giá của một cặp khuôn đúc vòng bi loại năm phân, Carl Kitchener – một người đàn ông với vẻ ngoài trông như kẻ nát rượu lâu năm và có mùi như tấm choàng cho ngựa cũ rích – hỏi hai đứa nhóc muốn khuôn đúc vòng bi làm gì. Richie để Bill nói, bởi cậu biết như thế có khi mọi chuyện sẽ dễ dàng hơn – đám trẻ con lôi tật nói lắp của Bill ra làm trò đùa; còn người lớn cảm thấy ngại. Thỉnh thoảng, cách này hiệu quả đến đáng ngạc nhiên.

Bill giải thích được một nửa lý do mà cậu và Richie soạn sẵn trên đường đến đây - về mô hình cối xay gió cho dự án khoa học năm tới – thì ông Kitchener phẩy tay ra hiệu cậu im miệng rồi báo cho họ cái giá rẻ đến choáng váng: năm mươi xu một khuôn.

Trong lòng chưa kịp tin nổi vận mình đỏ đến mức nào, Bill đưa cho ông tờ một đô.

“Đừng kỳ vọng ta cho mấy đứa túi đựng,” Carl Kitchener nói, nhìn hai cậu bé với đôi mắt đỏ ngầu khinh khi của một người đàn ông cho rằng mình đã chứng kiến tất cả mọi thứ trên trần đời, không chỉ một lần mà có khi những hai lần. “Phải mua trên năm đồng mới có túi.”

“Dạ, kh-kh-không s-sao ạ,” Bill lắp bắp.

“Và đừng lảng vảng ngoài cửa,” ông Kicherner nói. “Hai đứa bay đi cắt tóc là vừa rồi đấy.”

Khi ra đến bên ngoài, Bill nhận xét: “C-C-Cậu có b-bao giờ để ý kh-không, R-Richie, ng-ng-người lớn ch-chỉ bán cho b-bọn mình k-kẹo, tr-tr-truyện tranh hoặc v-v-vé x-xem phim, còn th-thì trước khi b-bán, họ đều h-hỏi mình m-mua để làm gì nhỉ?”

“Đúng,” Richie đồng tình.

“T-Tại s-sao nhỉ?”

“Vì họ nghĩ bọn mình nguy hiểm.”

“Th-Thế à? Cậu ngh-ngh-nghĩ v-vậy hả?”

“Ừ.” Richie nói rồi khúc khích cười. “Hay bọn mình lảng vảng trước cửa tiệm đi? Bọn mình sẽ dựng cổ áo lên cho ngầu, lườm nguýt mọi người và để tóc dài lượt thượt nữa.”

“Tổ s-sư cậu,” Bill nói.

3

“Được rồi,” Ben nói, quan sát khuôn thật cẩn thận rồi đặt xuống. “Tốt lắm. Giờ…”

Né ra cho cậu thêm không gian, cả bọn nhìn cậu đầy kỳ vọng, giống như một người gà mờ về xe ô tô nay bị hỏng động cơ nhìn anh thợ máy. Ben không để ý nét biểu cảm của các bạn. Cậu đang dồn toàn tâm toàn ý vào công việc.

“Đưa tớ vỏ đạn” cậu nói, “và đèn hàn.”

Bill đưa mảnh vỏ đạn cối cho bạn mình. Đây vốn là kỷ niệm chiến tranh của bố cậu. Ông Zack nhặt nó năm ngày sau khi ông và binh đoàn của tướng Patton bằng sông tiến vào nước Đức. Ngày xưa, cái thời Bill còn thơ dại và George còn ẵm ngửa, ông hay dùng nó làm gạt tàn. Về sau, ông bỏ thuốc, và mảnh vỏ đạn cối biến mất. Mới tuần trước, Bill tìm thấy nó đằng sau ga-ra.

Ben đặt vỏ đạn cối vào mỏ cặp của ông Zack, siết lại rồi lấy đèn hàn mà Beverly đưa cho. Thọc tay vào túi, cậu lấy đồng bạc thả vào nồi nấu kim loại tự chế của mình. Nó phát ra một âm thanh trầm đục.

“Bố cậu tặng nó cho cậu phải không?” Beverly hỏi.

“Ừ.” Ben nói, “nhưng tớ không còn nhiều ký ức về bố cho lắm.”

“Cậu có chắc mình muốn làm điều này không?”

Cậu nhìn cô và mỉm cười. “Có chứ,” cậu đáp.

Cô mỉm cười đáp lại. Thế này là quá đủ với Ben rồi. Nếu cô mỉm cười với cậu thêm lần nữa, cậu sẽ vui vẻ chế tạo đủ đạn bi bạc để bắn cả một trung đội Người sói ấy chứ. Cậu vội quay đi. “Được rồi. Giờ mình làm nhé. Không thành vấn đề. Dễ như ăn bánh ấy mà, nhỉ?”

Mọi người ngần ngừ gật đầu.

Nhiều năm sau, khi nhớ lại tất cả những chuyện này, Ben thầm nghĩ: Thời nay, một đứa trẻ chỉ cần ra đường mua đèn khò… hoặc bố cậu nhóc sẽ có sẵn một chiếc trong xưởng.

Tuy nhiên, năm 1958 không có những thứ như thế, Zack Denbrough từng làm việc với xe tăng, và điều này khiến Beverly lo lắng. Ben có thể thấy cô đang lo, cậu muốn trấn an cô nhưng sợ rằng giọng cậu sẽ run rẩy.

“Đừng lo,” cậu nói với Stan, lúc này đang đứng cạnh cô.

“Hả?” Stan hỏi, ngẩn ra nhìn cậu.

“Đừng lo .”

“Thì tớ có lo đâu.”

“Ồ. Tớ cứ tưởng cậu lo. Tớ chỉ muốn cậu biết điều này rất an toàn. Nếu cậu đang thấy lo lắng. Ý tớ là vậy.”

“Cậu có ổn không đấy, Ben?”

“Tớ ổn mà” Ben lầm bầm. “Đưa diêm cho tớ, Richie.”

Richie đưa cho bạn xấp diêm. Ben vặn van và đánh diêm dưới miệng đèn hàn. Có một tiếng phụt và ngọn lửa màu cam xanh lóe lên. Ben điều chỉnh ngọn lửa thành màu xanh và bắt đầu nung đáy vỏ đạn.

“Cậu có mang theo phễu chứ?” Cậu hỏi Bill.

“C-C-Có đây,” Bill đưa cái phễu tự chế mà Ben đã làm trước đó. Cái lỗ bé xíu dưới đáy phễu nhét gần như vừa khít lỗ trên khuôn vòng bi. Ben chế ra cái phễu mà không đo đạc dù chỉ một lần. Bill không khỏi ngạc nhiên – thiếu điều dập đầu thán phục – nhưng chẳng biết làm thế nào để nói mà không khiến Ben ngại ngùng.

Hoàn toàn tập trung vào điều mình đang làm, Ben quay sang Beverly - cậu nói với giọng điệu chính xác, lý tính của bác sĩ truyền lệnh cho y tá.

“Bev, tay cậu vững nhất. Cậu cắm phễu vào lỗ giùm tớ. Dùng găng tay để không bị bỏng nhé.”

Bill đưa cho cô găng tay lao động của bố mình. Beverly đưa phẫu thiếc vào khuôn. Không ai nói một lời nào. Tiếng đèn hàn xì xì vang lên thật to. Mọi người quan sát, mắt nheo lại gần như nhắm tịt.

“Đ-Đ-Đợi đã,” Bill chợt lên tiếng rồi hối hả chạy vào nhà. Phút sau, cậu quay lại với một cặp kính râm bọc sát hiệu Turtle rẻ tiền để trong ngăn kéo nhà bếp suốt hơn một năm nay. “Cậu đ-đeo kính v-vào đi, H-H-Haystack.”

Ben đón lấy, nhoẻn cười và đeo lên.

“Úi chà, trông như Fabian ấy nhỉ!” Richie thốt lên. “Hoặc Frankie Avalon, hay mấy tay người Ý trong Bục Trình Diễn .”

“Tiên sư cậu, Tía Lia,” dù ngoài miệng nói thế nhưng Ben cũng khúc khích cười. Tưởng tượng bản thân mình là Fabian hay danh ca nào đấy tương tự thật quá đỗi kỳ cục. Nhưng khi thấy ngọn lửa dao động, cậu ngưng cười; sự tập trung của cậu dồn hết vào một điểm.

Hai phút sau, cậu đưa đèn hàn cho Eddie và Eddie cầm thật cẩn trọng bằng tay thuận. “Sẵn sàng rồi đây,” cậu nói với Bill. “Đưa tớ cái găng còn lại. Nhanh! Nhanh!”

Bill đưa găng cho bạn. Ben mang vào rồi cầm vỏ đạn cối bằng tay đeo găng trong lúc chỉnh ngàm kẹp bằng tay còn lại.

“Cầm chắc nhé, Bev.”

“Tớ sẵn sàng rồi, không cần đợi đâu,” cô bật lại.

Ben nghiêng vỏ đạn về phía chiếc phễu. Cả nhóm chăm chú nhìn bạc lỏng chảy thành dòng giữa hai vật chứa. Ben đổ rất chính xác, không giọt nào bị nhễu ra. Và trong một khắc, cậu có cảm giác lâng lâng. Cậu như nhìn thấy mọi thứ phóng đại qua thứ ánh sáng rực rỡ trắng lóa. Trong khoảnh khắc ấy, cậu thấy mình chẳng còn là cậu nhóc Ben Hanscom béo ú thường ngày, lúc nào cũng mặc áo nỉ để giấu bụng và ngực nữa, cậu thấy mình như vị thần Thor, một tay khuấy đảo sấm chớp ở lò rèn của các vị thần.

Và rồi cảm giác ấy biến mất.

“Được rồi,” cậu nói. “Tớ sẽ phải nung bạc lần nữa. Ai đó nhét đinh hoặc gì đó vào ống phễu trước khi bạc đông cứng bên trong đi.”

Stan là người thực hiện.

Ben một lần nữa kẹp vỏ đạn cối vào mỏ cặp và lấy đèn hàn từ tay Eddie.

“Rồi,” cậu nói, “số hai.”

Và quay lại làm việc.

4

Mười phút sau, công việc xong xuôi.

“Giờ thì sao?”

“Giờ thì bọn mình chơi Monopoly chừng một tiếng,” Ben nói, “trong lúc đợi bạc đông cứng trong khuôn. Sau đó, tớ sẽ đục bể khuôn theo đường khía là xong”

Richie lo lắng nhìn mặt đồng hồ Timex bị nứt của mình, chiếc đồng hồ đã dạn dày sương gió nhưng vẫn chiến đấu tốt. “Khi nào bố mẹ cậu về nhà vậy Bill?”

“Ch-Ch-Chắc phải m-mười giờ hoặc m-mười r-r-rưỡi, Bill nói. “Đang có ch-chương trình một vé hai s-s-s-suất phim ở A-A-A…”

“Aladdin,” Stan nói.

“Ừ. Và sau đó, bố mẹ tớ sẽ ghé vào ăn p-p-pizza nữa. Kh-Khi nào cũng v-vậy.”

“Vậy thì bọn mình còn khối thời gian,” Ben nói.

Bill gật đầu.

“Thế vào trong nhà đi,” Bev nói. “Tớ phải gọi về nhà. Tớ đã hứa với bố rồi. Và các cậu đừng nói gì đấy. Bố tớ nghĩ tớ đang ở Nhà Cộng đồng và tớ sẽ được chở về nhà từ đó.”

“Nếu bố cậu muốn đến tận nơi và đón cậu sớm thì sao?” Mike hỏi.

“Thì tớ chết chắc chứ sao,” Beverly đáp.

Ben thầm nghĩ: Tớ sẽ bảo vệ cậu, Beverly ạ. Trong tâm trí cậu mở ra một viễn cảnh hão huyền với kết thúc ngọt ngào đến mức cậu rùng mình. Bố của Bev bắt đầu xa xả mắng mỏ cô (dù trong mơ mộng, cậu cũng không tưởng tượng nổi Al Marsh có thể tệ hại đến mức nào). Ben lao ra chắn cho cô và bảo Marsh dừng tay.

Thằng béo kia, nếu mày muốn rước họa vào thân thì cứ làm trò anh hùng rơm ấy đi.

Thường ngày ít nói nhưng Hanscom có thể trở thành con hổ xổng chuồng khi đụng trúng chỗ ngứa. Cậu tuyên bố với Al Marsh, Nếu ông muốn đụng vào cô ấy thì hãy bước qua xác tôi đã.

Marsh dấn tới… nhưng rồi ánh nhìn rắn như thép trong mắt Hanscom khiến lão dừng chân.

Rồi mày sẽ hối tiếc cho mà xem, lão lầm bầm, song rõ ràng rằng bao ý chí chiến đấu đã trôi tuột khỏi người lão – suy cho cùng, lão chỉ là kẻ miệng hùm gan sứa mà thôi.

Thế cơ đấy, Hanscom nói với nụ cười ngạo nghễ của Gary Cooper trên môi, và bố của Beverly cun cút bỏ đi.

Cậu làm sao thế Ben? Bev la lên nhưng mắt cô long lanh và rực rỡ đầy sao. Trông cậu thiếu điều giết chết ông ấy vậy!

Giết chết ông ấy sao? Hanscom nói, nụ cười Gary Cooper vẫn lưu lại trên môi. Không thể nào, người thương ơi. Dù ông ấy có là kẻ khốn nạn chăng nữa thì ông ấy vẫn là bố em. Anh chỉ dọa ông ấy chút xíu thôi, nhưng đó là vì khi có người to tiếng với em, anh nóng máu lắm. Em hiểu không?

Cô quàng hai tay quanh người cậu và hôn cậu (lên môi ! Lên MÔI đàng hoàng!). Em yêu anh, Ben! Cô nức nở. Cậu có thể cảm nhận bộ ngực mới nhú của cô đè lên ngực mình rồi…

Cậu khẽ rùng mình, cố gắng gạt khung cảnh rõ ràng đến kinh ngạc kia đi. Phải đến lúc Richie dừng ở cửa, hỏi cậu có vào không thì Ben mới nhận ra cậu chỉ còn một mình trong xưởng.

“Có chứ,” cậu đáp, thoáng giật mình. “Tớ vào đây.”

“Cậu sắp bị hâm hấp rồi, Haystack ạ” Richie nói khi Ben bước qua cửa, nhưng cậu vẫn vỗ vai Ben. Ben nhoẻn cười, quặp tay qua cổ Richie.

5

Không có vấn đề gì với bố của Beverly. Mẹ của Bev nói với cô qua điện thoại rằng ông đi làm về trễ, ngủ quên trước ti vi và tỉnh giấc đủ để lết xác vào giường.

“Có ai chở con về không, Bevvie?”

“Dạ có. Bố của Bill Denbrough sẽ chở tất cả bọn con về.”

Bà Marsh chợt phát hoảng. “Đừng bảo mẹ con đang hẹn hò đấy nhé, Bevvie?”

“Không ạ, làm gì có,” Bev đáp, đưa mắt nhìn qua cánh cửa hình vòm giữa hành lang tối nơi cô đang đứng và phòng ăn nơi mọi người đang ngồi quanh bảng Monopoly. Dù ước gì con được như thế.

“Đám con trai thấy mà ghê. Nhưng ở đây có phiếu đăng ký, và tối đến, các ông bố bà mẹ sẽ thay phiên nhau đưa trẻ con về nhà.” Chí ít đó là sự thật. Phần còn lại là nói dối trắng trợn đến độ cô còn tự thấy mặt mình đang đỏ bừng trong bóng tối.

“Thế thì tốt,” mẹ cô nói. “Mẹ chỉ muốn chắc chắn ấy mà. Vì nếu bố phát hiện ở tuổi con mà hẹn hò thì bố sẽ giận lắm.” Như thể chợt nghĩ ra, bà bèn đế thêm: “Mẹ cũng vậy.”

“Dạ, con biết rồi,” Bev nói, mắt vẫn nhìn vào phòng ăn. Cô biết; thế mà cô vẫn ở đây với sáu cậu con trai chứ không chỉ một, trong căn nhà không có bóng dáng bố mẹ. Cô thấy Ben nhìn cô lo âu, và cô khẽ mỉm cười, giơ tay chào cậu. Cậu đỏ mặt nhưng cũng giơ tay chào đáp lại.

“Các cô bạn của con có ở đó không?”

Cô bạn nào kia mẹ?

“Dạ, có Patty O’Hara và Ellie Geiger nữa. Bạn ấy đang chơi bi lắc dưới lầu.” Lời nói dối thốt ra từ môi trơn tru đến mức cô lấy làm xấu hổ. Cô ước gì mình đang nói chuyện với bố; dù sợ hơn nhưng chí ít cô sẽ bớt xấu hổ hơn. Cô đoán có lẽ mình không phải một đứa trẻ ngoan cho lắm.

“Con thương mẹ,” cô nói.

“Mẹ cũng thế, Bev.” Mẹ cô ngập ngừng rồi nói tiếp: “Con cẩn thận nhé. Trên báo vừa nói có thể có thêm một nạn nhân, là một cậu bé tên Patrick Hockstetter. Cậu bé ấy hiện đang mất tích. Con có biết cậu ấy không, Bevvie?”

Cô thoáng nhắm mắt. “Không ạ.”

“Ừ… vậy thôi, chào con.”

“Chào mẹ.”

Cô quay lại bàn cùng mọi người và cả bọn chơi Monopoly suốt cả tiếng đồng hồ. Stan thắng đậm.

“Dân Do Thái giỏi kiếm tiền lắm nhé,” Stan nói, đặt một khách sạn lên Đại Lộ Atlantic và thêm hai nhà kính ở Đại lộ Ventnor. “Ai cũng biết điều đó.”

“Chúa ơi, biến con thành người Do Thái đi,” Ben liền nói và ai nấy đều phá lên cười. Ben lúc nào cũng không xu dính túi.

Thỉnh thoảng, Beverly lại liếc qua bàn về phía Bill, để ý đến hai bàn tay sạch sẽ, đôi mắt xanh và mái tóc đỏ gọn gàng của cậu. Khi cậu di chuyển chiếc giày bạc tí hon dùng để làm vật đánh dấu quanh bảng, cô thầm nghĩ, Nếu cậu ấy nắm tay mình, chắc mình vui đến chết mất. Một luồng ánh sáng ấm áp nảy nở trong lòng khiến cô cúi đầu, mỉm cười nhìn xuống hai tay.

6

Màn kết của buổi tối hôm ấy không có chút gì gay cấn. Ben lấy đục của ông Zack từ trên kệ và dùng búa đập vào khuôn theo đường khía. Họ tách khuôn ra hết sức dễ dàng. Hai viên đạn bi rơi ra ngoài. Ở một viên, họ thấy mờ mờ năm còn sót lại: 925. Viên thứ hai có vết uốn lượn mà Beverly đoán là những lọn tóc của Nữ thần Tự do. Họ nhìn nhau mà không nói lời nào, đoạn Stan cầm một viên lên.

“Nhỏ quá nhỉ,” cậu nhận xét.

“Giống như hòn đá trong tay nải của David khi chiến đấu chống lại Goliath,” Mike nói. “Tớ thấy chúng đầy quyền năng.”

Ben gật gù. Trong mắt cậu cũng thế.

“Bọn mình x-x-xong rồi nhỉ?” Bill hỏi.

“Xong rồi.” Ben đáp. “Đây.” Cậu ném viên đạn bi thứ hai cho Bill, cậu bạn bất ngờ đến độ suýt nữa thì đánh rơi.

Viên đạn được mọi người chuyền tay nhau. Mỗi người nhìn thật lung hai viên đạn, trầm trồ trước sự tròn trịa, sức nặng và độ thực tế của chúng. Khi hai viên đạn được đưa trở lại tay Ben, cậu cầm chúng trong tay rồi nhìn Bill. “Giờ bọn mình làm gì với chúng?”

“Đ-Đ-Đưa chúng cho B-Beverly.”

“Không được!”

Cô nhìn cậu. Nét mặt cậu dịu dàng nhưng cương nghị. “B-B Bev, bọn mình đã b-bàn bạc x-x-xong xuôi, và…”

“Tớ sẽ làm,” cô nói. “Tớ sẽ bắn thứ chết toi ấy khi đến thời điểm. Nếu đến thời điểm. Khéo có khi tớ sẽ khiến cả đám bọn mình đi đời, nhưng tớ sẽ bắn. Tuy nhiên, tớ không muốn đem chúng về nhà. Chẳng may

(bố tớ)

bố mẹ tớ phát hiện thì sao? Lúc ấy chắc tớ chết mất.”

“Cậu không có chỗ giấu bí mật à?” Richie hỏi. “Trời đất, tớ có đến bốn, năm chỗ.”

“Tớ có một chỗ,” Beverly nói. Có một khe hở ở đáy giường, thỉnh thoảng cô lại nhét thuốc lá, truyện tranh, và gần đây là tạp chí phim ảnh, thời trang. “Nhưng không có chỗ nào để cất thứ như vậy cả. Cậu giữ đi Bill. Cậu cứ giữ cho đến lúc hành động nhé.”

“Được rồi,” Bill nhẹ nhàng trả lời, và ngay lúc đó, đèn chiếu lên lối vào. “Ôi tr-trời, bố mẹ tớ về s-s-sớm quá. R-Ra khỏi đ-đây thôi.”

Cả bọn vừa ngồi xuống quanh bảng Monopoly thì bà Sharon Denbrough mở cửa nhà bếp.

Richie đảo mắt và giả vờ làm động tác lau mồ hôi trên trán, mọi người phá lên cười nắc nẻ. Richie đã có một tràng hay ho.

Phút sau, bà bước vào. “Bố con đang đợi các bạn trong xe đấy, Bill.”

“D-D-Dạ, m-mẹ,” Bill nói. “B-Bọn con ch-chơi c-c-cũng x-x xong rồi.”

“Ai thắng vậy mấy đứa?” Sharon hỏi, mỉm cười, đôi mắt bà sáng bừng nhìn những người bạn nhỏ của Bill. Cô bé này lớn lên sẽ xinh lắm đây, bà thầm nghĩ. Bà đoán trong một hai năm tới, có lẽ đám trẻ vẫn phải được đưa rước nếu trong nhóm có bạn nữ tham gia chứ không chỉ có hội con trai với nhau. Nhưng chắc hẳn vẫn còn quá sớm để lo về chuyện mầm mống tình dục đâm chồi giữa bọn trẻ.

“St-Stan th-th-thắng ạ” Bill nói. “Dân D-D-Do Thái gi-gi-giỏi k-kiếm tiền lắm.”

“Bill!” Bà thét lên, hoảng hốt và đỏ mặt… nhưng rồi khi nhìn đám trẻ, bà không khỏi ngạc nhiên khi thấy chúng cười rộ lên, kể cả Stan. Sự ngạc nhiên của bà biến thành nỗi niềm gần giống như sợ hãi (dù lúc sau, khi vào giường, bà không kể lại với chồng). Trong không khí lơ lửng cảm giác gì đó, giống như tĩnh điện, chỉ là nó mạnh mẽ hơn rất nhiều, đáng sợ hơn rất nhiều. Bà cảm thấy như thể nếu bà chạm vào ai trong số chúng, bà sẽ bị giật cho mà xem. Có chuyện gì đã xảy ra với đám trẻ vậy kìa? Bà tự hỏi, bối rối, thậm chí còn toan mở miệng nói điều gì đó tương tự. Rồi Bill lên tiếng xin lỗi (nhưng ánh nhìn tinh quái ấy vẫn còn lấp lánh trong mắt thằng bé), Stan đáp lại không sao cả, rằng mọi người trêu đùa cậu như vậy suốt, chứng kiến cảnh này, bà thấy mình rối tinh rối mù, chẳng biết nên ú ớ gì.

Nhưng bà cảm thấy nhẹ nhõm khi đám trẻ đã về nhà, còn cậu con trai cà lăm, khó hiểu của bà trở lại phòng và tắt đèn.

7

Ngày mà Hội Cùi Bắp đối mặt với Nó trong trận chiến giáp lá cà, ngày mà Nó suýt chút nữa ăn tươi nuốt sống Ben Hanscom là ngày 25 tháng 7 năm 1958. Hôm ấy, trời nóng nực, oi bức và lặng gió. Ben nhớ khá rõ thời tiết hôm ấy vì đó là ngày cuối cùng trời nóng như vậy. Sang ngày hôm sau, trời chuyển mát mẻ và đầy mây.

Cả nhóm có mặt ở số 29 đường Neibolt chừng 10 giờ sáng, Bill chở Richie trên Ánh bạc, Ben đạp chiếc Raleigh với bộ mông vĩ đại phòi ra hai bên cái yên cong vẹo. Beverly đi đến đường Neibolt trên chiếc Schwinn dành cho con gái, mái tóc đỏ được giữ bằng băng đô xanh để không rơi xuống trán. Suối tóc phấp phới phía sau cô. Mike tự đi, và chừng năm phút sau, Stan và Eddie cũng đi bộ tới nơi.

“T-T-Tay cậu s-s-sao rồi, E-E-Eddie?”

“Ôi, không tệ lắm đâu. Chỉ đau khi tớ lật người lúc ngủ thôi. Cậu có mang đồ theo không?”

Có một đống bùng nhùng quấn vải bố trong giỏ xe Ánh Bạc. Bill lấy ra, tháo lớp bọc rồi đưa ná cho Beverly. Cô nhận lấy, khẽ nhăn mặt nhưng không nói gì. Trong lớp bọc còn có một hộp thiếc Sucrets. Bill mở hộp và cho mọi người xem hai viên bi bạc. Họ lặng thinh ngắm nhìn, xúm xít đứng gần nhau trên bãi cỏ trụi lủi của căn nhà số 29 đường Neibolt – bãi cỏ chắc chỉ có cỏ dại sinh sôi nổi. Bill, Richie và Eddie từng trông thấy căn nhà này, còn các thành viên khác thì chưa nên họ nhìn với ánh mắt đầy tò mò.

Cửa sổ trông như những con mắt vậy, Stan nghĩ thầm, tay cậu bất giác chạm vào cuốn sách nhét trong túi sau. Cậu chạm vào nó để lấy may. Gần như đi đâu, cậu cũng mang theo cuốn sách này - Sơ lược về các loài chim Bắc Mỹ của M. K. Handey. Trông chúng như những con mắt mù lòa bẩn thỉu vậy. Hôi quá, Beverly nghĩ. Mình có thể ngửi thấy mùi thối – nhưng lạ một điều là không phải bằng mũi.

Giống lần ở Xưởng đúc quá, Mike thầm nhủ. Cảm giác này cũng tương tự… như thể nó đang mời gọi bọn mình bước vào.

Đây là một trong những nơi của Nó, Ben nghĩ. Một nơi như hố Morlock, chốn để Nó chui ra chui vào. Và Nó biết bọn mình đang ở ngoài này. Nó đang đợi bọn mình vào trong.

“C-C-Các cậu vẫn muốn làm chứ?” Bill hỏi.

Mọi người quay sang nhìn cậu, nhợt nhạt và nghiêm trang. Không ai nao núng. Eddie vụng về lấy ống thở ra khỏi túi và hít một hơi thật dài.

“Cho tớ dùng ké với.” Richie nói.

Eddie trố mắt nhìn đầy ngạc nhiên, đợi cậu bạn chốt hạ câu gây cười.

Richie chìa tay ra. “Tớ có đùa đâu mà nhây. Tớ dùng ké được không?”

Eddie nhún bên vai của tay thuận – một cử chỉ trông lạc quẻ đến lạ – rồi chìa ống thở ra. Richie xịt ống thở và hít thật sâu. “Đúng lúc tớ cần,” cậu nói rồi trả lại. Cậu húng hắng ho nhưng mắt sáng rõ.

“Tớ cũng cần,” Stan nói. “Có được không?”

Và rồi mọi người thay phiên nhau dùng ống thở của Eddie. Khi ống thở trở về tay chủ, Eddie nhét nó vào túi, đầu vòi thò ra. Cả bọn lại quay sang nhìn căn nhà.

“Có ai sống trên con đường này không nhỉ?” Beverly thầm thì hỏi.

“Ở đầu này thì không,” Mike đáp. “Hiện giờ là vậy. Chắc thỉnh thoảng vẫn có vài kẻ lang thang. Những kẻ đi tàu chở hàng đến đây ấy.”

”Những người đó không thấy gì,” Stan nói. “Họ sẽ an toàn thôi. Chí ít đa số là vậy.” Cậu nhìn qua Bill. “Cậu nghĩ có người lớn nào trông thấy Nó không, Bill?”

“Tớ kh-không biết, Bill nói. “Chắc có v-v-vài người .”

“Ước gì bọn mình được gặp một người như vậy,” Richie lầm lì nói. “Thật ra đây đâu phải nhiệm vụ cho trẻ con, các cậu hiểu ý tớ không?”

Bill hiểu. Bất cứ khi nào Anh em Hardy gặp chuyện, Fenton Hardy cũng cứu cả bọn bàn thua trông thấy. Giống như bố của Rick Brant trong những chuyến phiêu lưu Khoa học Rick Brant. Khốn thật, ngay cả Nancy Drew cũng có một ông bố xuất hiện ngay phút chót khi đám người xấu trói và tống cổ cô xuống khu mỏ bỏ hoang.

“Phải có một người lớn đi theo,” Richie nói, mắt vẫn nhìn căn nhà đóng kín với lớp sơn bong tróc, cửa sổ bẩn thỉu và hiên nhà tối tăm. Cậu thở dài mệt mỏi. Trong thoáng chốc, Ben cảm nhận được ý chí của cả đám đang lung lay.

Đoạn Bill lên tiếng, “Đ-Đ-Đi v-v-v-vòng qua đ-đây. Xem n-này.”

Mọi người vòng qua bên trái hiên nhà, chỗ tường rào bị xé rách.

Bụi hồng gai tua tủa vẫn còn đó… và những cành nào bị Nó đụng trúng lúc trèo ra vẫn đen đúa chết chóc.

“Nó chỉ chạm vào chúng thôi mà đã vậy rồi sao?” Beverly bàng hoàng hỏi.

Bill gật đầu. “Các c-c-cậu có ch-ch-chắc chắn không?”

Trong một khắc, không một ai trả lời. Mọi người không dám chắc; dù nhìn mặt Bill, tất cả bọn họ đều biết cậu sẽ tiếp tục dấn bước dù không có bọn họ, song họ không dám chắc. Trên mặt Bill còn có nét gì đó xấu hổ. Như cậu đã nói với mọi người trước đó, suy cho cùng, George không phải em trai của họ.

Nhưng những đứa trẻ khác, Ben thầm nghĩ. Betty Ripsom, Cheryl Lamonica, đứa nhóc nhà Clements, Eddie Corcoran (có thể), Ronnie Grogan… ngay cả Patrick Hockstetter. Nó giết trẻ con, mẹ kiếp, đến trẻ con mà Nó còn ra tay!

“Tớ sẽ đi, Bill To Bự,” cậu nói.

“Khốn thật, tớ cũng vậy,” Beverly lên tiếng.

“Đi chứ sao không,” Richie nói. “Cậu nghĩ bọn tớ sẽ để cậu vui hết phần à, líu lô?”

Bill nhìn cả bọn họng chuyển động và rồi cậu gật đầu. Cậu đưa hộp thiếc cho Beverly.

“Cậu có chắc không, Bill?”

“Ch-Ch-Chắc chứ.”

Cô gật đầu, ngay lập tức, cô run sợ trước trách nhiệm và lâng lâng trước sự tin tưởng của cậu. Cô mở hộp, lấy hai viên đạn bi ra, thả một viên vào túi quần jean phía trước bên phải. Viên còn lại cô lắp vào cốc cao su của ná Hồng Tâm, và cô cầm chắc cái cốc này thay vì cầm cả cái ná. Cô có thể cảm nhận viên đạn bị siết chặt trong lòng bàn tay mình, ban đầu còn lạnh, về sau ấm dần.

“Đi thôi,” cô lên tiếng, giọng không vững lắm. “Đi thôi trước khi tớ bàn lùi.”

Bill gật đầu, rồi quay sang nhìn Eddie với ánh mắt sắc bén. “C-Cậu c-có kh-kh-kham được không, E-E-Eddie?”

Eddie gật đầu. “Chắc chắn là có. Lần trước tớ chỉ có một mình. Lần này tớ có đồng đội nữa cơ mà. Đúng không?” Cậu nhìn các bạn và nhoẻn cười. Nét biểu cảm của cậu ngại ngần, mong manh và có gì đó thật đẹp đẽ.

Richie vỗ lưng cậu. “Chuẩn quá thưa ngài. Phường vô lại nào tìm cách trộm ống thở của ngài, chúng thần sẽ xử tử hết. Xử thật từ tốn .”

“Dở quá, Richie ơi,” Bev nói và khúc khích cười.

“X-X-Xuống dưới h-hiên,” Bill nói. “M-Mọi người đi s-s-sau tớ. Sau đó, mình vào h-h-hầm.”

“Nếu cậu đi trước và thứ đó vồ lấy cậu thì tớ biết làm sao?” Beverly hỏi. “Bắn xuyên qua cậu à?”

“Nếu b-buộc phải thế,” Bill nói. “Nhưng tớ đ-đ-đề nghị c-c-cậu đi m-một v-v-vòng xem s-sao đã nhé.”

Richie phá lên cười ha hả.

“Bọn mình s-s-sẽ đi một vòng qu-qu-quanh đây nếu c-cần.” Cậu nhún vai. “Có khi bọn mình sẽ chẳng th-th-thấy gì đâu.”

“Cậu có tin vậy không?” Mike hỏi.

“Không,” Bill nói nhanh. “Nó đang ở đ-đ-đây.”

Ben nghĩ bạn mình nói đúng. Căn nhà số 29 đường Neibolt như được bao bọc trong một bầu không khí tanh độc. Ta không thể thấy nó… nhưng ta có thể cảm nhận. Cậu liếm môi.

“Các cậu s-s-sẵn sàng chưa?” Bill hỏi mọi người.

Tất cả quay sang nhìn cậu. “Sẵn sàng, Bill,” Richie nói.

“V-Vậy thì đ-đi thôi,” Bill nói. “Đi s-sát sau lưng tớ nhé, B-Beverly.” Cậu quỳ gối, bò qua bụi hồng gai tàn và chui xuống dưới hiên.

8

Họ đi theo thứ tự: Bill, Beverly, Ben, Eddie, Richie, Stan, Mike. Lá dưới hiên kêu răng rắc, phả lên thứ mùi chua cũ. Ben nhăn mũi. Cậu đã ngửi thấy mùi lá rụng như thế này bao giờ chưa nhỉ? Cậu nghĩ là chưa. Và rồi một ý tưởng đáng ghét ùa vào tâm trí cậu. Chúng có mùi giống với thứ mùi cậu hình dung xác ướp sẽ phả ra, sau khi kẻ phát hiện hầm mộ đã cạy mở nắp quan tài: mùi đất bụi và mùi axit tannic cổ xưa đắng ngắt.

Bill bò đến cửa sổ hầm bị bể và nhìn vào bên trong. Beverly trườn đến bên cạnh. “Cậu có thấy gì không?”

Bill lắc đầu. “Nhưng điều đó không c-có ngh-ngh-nghĩa là kh không có gì dưới đó. Nh-Nhìn kìa, kia là đ-đống than mà tớ và R-R Richie dùng để trốn r-ra.”

Tranh thủ tầm nhìn ở giữa hai bạn, Ben trông thấy thứ Bill chỉ. Trong lòng cậu hào hứng xen lẫn sợ hãi, cậu chào đón cảm giác hào hứng ấy, bản năng cậu nhận ra nó có thể là công cụ đắc lực cho mình.

Nhìn thấy đống than cũng hao hao với việc trông thấy một danh lam thắng cảnh mà trước nay mình chỉ đọc hoặc nghe từ người khác.

Bill xoay người lại và uyển chuyển trườn qua cửa sổ. Beverly đưa cho Ben ná Hồng Tâm, vòng tay cậu quanh cốc cao su và viên đạn bi nhét bên trong. “Đưa cho tớ ngay khi tớ vừa xuống,” cô dặn. “Ngay lập tức nhé.”

“Cậu cứ yên tâm.”

Cô trượt xuống dễ dàng và mượt mà chẳng kém gì Bill trước đó. Có một khoảnh khắc tim lỗi nhịp – chí ít là với Ben – khi chiếc áo của cô tuột ra khỏi cạp quần, cậu trông thấy phần bụng trắng phẳng lì của cô. Tiếp đó là cảm giác hồi hộp rần rần khi tay cô chạm vào cậu lúc cậu chuyền ná xuống.

“Rồi, tớ lấy được rồi. Cậu xuống đi.”

Ben xoay người và bắt đầu cựa người ních qua cửa sổ. Đáng lý ra cậu phải hình dung trước chuyện gì sẽ xảy ra; bởi rõ ràng đây là điều không thể tránh được. Cậu mắc kẹt. Mông cậu đè vào khung cửa sổ hình chữ nhật và cậu không thể nào tụt xuống thêm nữa. Cậu tìm cách nhích người lên nhưng kinh hoàng nhận ra nếu làm thế, khéo có khi cậu sẽ kéo tụt quần dài – thậm chí cả quần lót – xuống tận đầu gối. Và rồi cậu sẽ trưng bàn tọa vĩ đại của mình ra trước mắt người cậu thương thầm.

“Nhanh lên!” Eddie hối.

Ben cật lực đẩy bằng hai tay. Mãi mà cậu vẫn không thể nhúc nhích, nhưng rồi mông của cậu lọt qua lỗ cửa sổ. Quần jean thít lên tận háng, ép vào hai hòn bi của cậu đau điếng. Cạnh trên của cửa sổ kéo áo cậu lên tít xương vai. Giờ đến lượt bụng cậu bị kẹt.

“Hóp vào đi, Haystack,” Richie vừa nói vừa cười như được mùa. “Cậu mà không hóp vào, khéo bọn mình phải nhờ Mike về nhà mượn ròng rọc của bố cậu ấy để kéo cậu ra mất.”

“Bíp bíp, Richie,” Ben nói qua hai hàm răng nghiến chặt. Cậu cố hóp bụng hết mức có thể. Phải đến khoảnh khắc nhục nhã không để đâu cho hết này, cậu mới thật sự ý thức bụng của mình bự đến mức nào. Nhích được một chút, cậu lại kẹt.

Cậu cố ngoái đầu hết mức có thể cưỡng lại cảm giác hoảng sợ và bí bách do chật hẹp. Mặt cậu đỏ bừng, túa mồ hôi. Mùi lá cây chua lè xộc đầy mũi. “Bill! Các cậu kéo tớ được không?”

Cậu cảm nhận được Bill nắm lấy một bên mắt cá cậu, còn Beverly thì nắm chân bên kia. Cậu dồn sức bình sinh hóp bụng vào. Giây sau, cậu rơi qua cửa sổ. Bill chộp lấy cậu. Cả hai suýt chút nữa ngã nhào. Ben không dám nhìn qua Bev. Cả đời cậu chưa lần nào ngượng ngùng đến mức này.

“C-C-Cậu có s-s-sao không?”

“Tớ ổn.”

Bill cười, giọng run run. Beverly cười theo, và rồi Ben cũng cười một chút, dù phải rất nhiều năm sau, cậu mới có thể cảm nhận được chi tiết vui nhộn trong chuyện đã xảy ra.

“Này!” Richie gọi với xuống. “Eddie cần giúp, được không?

“Đ-Đ-Được chứ.” Bill và Ben lấy thế bên dưới cửa sổ. Eddie tựa lưng trèo qua. Bill đỡ lấy chân bạn ngay phía trên đầu gối.

“Cậu làm gì thế,” Eddie càu nhàu đầy lo lắng. Tớ có máu buồn đấy.”

“Ramon có nhiều máu buồn lắm, thưa ngài,” giọng của Richie vọng xuống.

Ben đỡ quanh eo Eddie, cố giữ khoảng cách với bó bột và dây đeo của bạn. Hai người công kênh Eddie qua cửa sổ hầm như khiêng xác chết. Eddie chỉ ré lên một lần rồi thôi.

“E-E-Eddie?”

“Ừ.” Eddie nói, “ổn mà. Không sao hết.” Nhưng những giọt mồ hôi to tướng đã rịn trên trán cậu, hơi thở hổn hển nhanh dần. Mắt cậu đảo quanh hầm.

Bill lùi lại. Beverly đứng gần cậu, cầm thân ná Hồng Tâm và cốc đựng viên bi, sẵn sàng bắn nếu cần. Mắt cô liên tục quét qua căn hầm. Richie là người tiếp theo chui qua, theo sau là Stan và Mike. Hai cậu bạn chuyển động nhanh như sóc khiến Ben thầm ganh tị. Và rồi cả nhóm đã có mặt ở dưới tầng hầm nơi Bill với Richie nhìn thấy Nó vào tháng trước.

Căn phòng lờ nhờ nhưng không tối hẳn. Ánh sáng mờ xỉn chiếu qua khung cửa sổ, hắt lên mặt sàn dơ dáy. Ben cảm thấy căn hầm thật rộng lớn, quá lớn, như thể cậu đang nhìn thấy ảo ảnh thị giác. Xà nhà đóng bụi đan xen trên đầu. Ống lò sưởi gỉ sét hết cả. Phủ trên ống nước là lớp vải trắng bẩn thỉu. Thứ mùi kia phả xuống tận đây. Một thứ mùi vàng ệch dơ dáy. Nó ở đây, đúng vậy. Ồ chuẩn rồi.

Bill tiến về phía cầu thang. Mọi người kéo theo sau. Cậu dừng ở chân cầu thang và nhìn xuống dưới. Thò chân xuống bậc thang, cậu móc ra một vật gì đó. Cả bọn trố mắt nhìn mà á khẩu. Là một chiếc găng tay hề màu trắng dính đầy bụi bẩn.

“Tr-Tr-Trên lầu,” cậu nói.

Họ lên cầu thang và bước vào căn bếp bẩn thỉu. Chiếc ghế tựa nằm trơ trọi giữa gian phòng phủ vải dầu chỗ phồng chỗ xẹp. Ngoài ra không có bàn cũng chẳng thấy chiếc ghế nào khác. Trong góc có mấy chai rượu rỗng không. Ben có thể nhìn thấy vỏ chai trên chạn. Cậu ngửi thấy mùi đồ uống có cồn – đa phần là rượu – và thuốc lá cũ. Những thứ mùi ấy áp đảo nhưng vẫn có thứ mùi kia. Nó càng lúc càng nồng hơn.

Beverly đi đến tủ chén và mở cánh cửa tủ. Cô ré lên thất thanh khi một con chuột nâu đen suýt chút nữa lao vào mặt mình. Nó tông vào quầy bếp đánh thịch rồi lừ đôi mắt đen nhìn họ. Vẫn hét ỏm tỏi, Beverly giơ ná Hồng Tâm lên, kéo về phía sau.

“KHÔNG!” Bill rống lên.

Cô quay gương mặt trắng bệch về phía cậu, hồn xiêu phách tán. Đoạn cô gật đầu và buông tay, viên bi bạc vẫn chưa bắn đi – nhưng Ben nghĩ chỉ một chút nữa thôi, cô đã bắn rồi. Từ từ lùi lại, cô chạy về phía Ben rồi nhảy dựng lên. Cậu vòng một tay quanh cô, thật chặt.

Con chuột chạy dọc quầy bếp, đoạn nhảy xuống sàn, lao vào kệ chén và mất dạng.

“Nó muốn tớ bắn nó,” Beverly nói khẽ. “Tiêu mất một nửa đạn dược của chúng ta cho nó.”

“Phải,” Bill đáp. “Theo c-c-cách nào đó, nó t-t-tương tự như kh-khóa huấn luyện FBI ở Qu-Qu-Quantico ấy. Họ ch-cho c-cậu đi vào con đ-đ-đường giả với những m-mục tiêu b-bất ngờ x-xuất hiện. Nếu cậu b-bắn phải dù chỉ một người dân thường thay vì tội phạm thì cậu m-mất đ-điểm.”

“Tớ không làm được đâu, Bill,” cô nói. “Tớ sẽ phá hỏng mọi thứ mất. Đây. Cậu cầm đi.” Cô chìa ná Hồng Tâm ra nhưng Bill lắc đầu.

“Cậu ph-ph-phải làm, B-Beverly.”

Có tiếng chút chít trong một tủ chạn khác.

Richie tiến lại đó.

“Đừng lại gần quá!” Stan la lên. “Kẻo…”

Nhưng Richie đã kịp nhìn vào trong, mặt cậu nhăn lại đầy ghê tởm. Cậu đóng cửa chạn đánh rầm, tiếng động vang khắp căn nhà trống.

“Một đàn chuột.” Richie như muốn ốm. “Đàn chuột to nhất tớ từng thấy… hay có lẽ là bất cứ ai từng thấy.” Cậu chà mu bàn tay lên miệng. “Có cả trăm con lúc nhúc trong đó.” Cậu nhìn bọn họ, một bên miệng giật giật. “Đuôi của chúng… bị cột vào nhau, Bill. Cột hết vào nhau.” Cậu nhăn mặt. “Như đàn rắn vậy.”

Mọi người nhìn cửa chạn. Tiếng chút chít bị át đi nhưng vẫn rầm rì vang lên. Chuột, Ben thầm nghĩ khi nhìn khuôn mặt trắng bệch của Bill và khuôn mặt xám xịt của Mike bên kia vai Bill. Mọi người đều sợ chuột. Nó thừa biết điều đó.

“Đ-Đ-Đi thôi,” Bill nói. “Tr-Trên đường N-N-Neibolt này kh-không thiếu tr-tr-trò vui đâu.”

Cả nhóm đi đến hành lang trước. Ở đây có mùi trộn lẫn giữa mùi thạch cao mục với nước tiểu lâu ngày. Họ có thể nhìn ra đường qua khung cửa sổ bẩn thỉu và thấy xe đạp của mình. Xe của Bev và của Ben được gạt chân chống. Xe của Bill tựa vào cây phong khẳng khiu. Ben cảm thấy mấy chiếc xe đạp dường như cách xa cậu vạn dặm, như những thứ ta nhìn qua ống nhòm ngược. Con đường vắng vẻ với lớp nhựa đường chằng chịt, bầu trời nhạt nhòa âm ẩm, tiếng đầu máy hơi nước đều đều kêu ding-ding-ding ở đường ray phụ… mọi thứ như mơ, như ảo giác với cậu. Thứ có thật duy nhất lúc này là hành lang dơ dáy, hôi hám và đầy góc tối.

Trong góc có mảnh chai màu nâu - hẳn là từ vỏ chai bia Rheingold.

Ở chỗ khác lại là một cuốn tạp chí tươi mát khổ nhỏ ướt, phồng rộp. Người phụ nữ trên trang bìa ưỡn ẹo qua ghế, váy kéo ra sau lưng để lộ lớp tất lưới và quần lót đen. Bức hình trông chẳng hề quyến rũ trong mắt Ben, cậu cũng không thấy ngượng khi Beverly liếc nhìn cuốn tạp chí. Hơi ẩm khiến làn da của người phụ nữ vàng khè và làm bìa sần lên tạo thành những nếp nhăn trên mặt. Cái chớp mắt đưa tình của cô này biến thành cái gầm gừ của một mụ điếm đã chết.

(Nhiều năm sau, khi Ben kể lại câu chuyện này, Bev chợt reo lên khiến cả nhóm giật mình – họ không chỉ nghe mà đang sống lại câu chuyện ấy. “Là bà ta!” Bev hét lên. “Bà Kersh! Là bà ta!”).

Ben đang quan sát thì người phụ nữ chẳng biết trẻ hay già trên bìa cuốn tạp chí tươi mát nháy mắt với cậu. Mụ ta ngoáy mông tục tĩu mời gọi.

Cả người lạnh toát dù vã mồ hôi, Ben ngoảnh mặt đi.

Bill đẩy cửa bên trái và mọi người theo cậu bước vào một căn phòng mái vòm có vẻ từng là phòng khách. Một cái quần xanh lá mục nát vắt vẻo trên chiếc đèn chùm. Giống căn hầm, Ben cảm thấy gian phòng này quá đỗi rộng lớn, dài chẳng kém gì toa xe chở hàng.

Quá dài so với căn nhà nhìn bên ngoài nhỏ như lỗ mũi…

Ôi, nhưng đó là bên ngoài mà, một tiếng nói mới toanh vang lên trong đầu cậu. Giọng nói ấy bông đùa, rít ré, và Ben đờ đẫn nhận ra mình đang nghe thấy giọng nói của chính Pennywise; Pennywise đang nói chuyện với cậu qua một cái đài phát thanh điên rồ nào đó trong tâm trí. Bên ngoài, mọi thứ lúc nào nhìn cũng nhỏ hơn thực tế, đúng không Ben?

“Biến đi,” cậu thì thầm.

Riche quay sang nhìn cậu, mặt vẫn căng thẳng và nhợt nhạt. “Cậu bảo gì kia?”

Ben lắc đầu. Tiếng nói biến mất. Đó mới là điều quan trọng, là điều tốt. Nhưng

(bên ngoài)

cậu hiểu. Căn nhà này là một nơi đặc biệt, một dạng trạm dừng, một trong những nơi ở Derry, hay có lẽ là một trong rất nhiều nơi Nó có thể tìm đường vào thế giới bên kia. Mọi thứ trong căn nhà mục nát thối hoẵng này có gì đó dị thường . Không chỉ là nó có vẻ quá lớn, các góc độ cũng không chuẩn, phối cảnh điên rồ. Ben đang đứng ngay bên trong cánh cửa ngăn cách phòng khách và hành lang, thế mà mọi người đã đi trước cậu một khoảng to như công viên Bassey… nhưng dù đi xa, họ lại có vẻ to lớn hơn chứ không nhỏ đi. Sàn nhà như đang thoải xuống, và…

Mike quay đầu lại. “Ben!” Cậu kêu lên, Ben trông thấy vẻ lo lắng trên mặt bạn. “Mau lên! Bọn tớ đi trước bây giờ!” Cậu chẳng nghe được từ cuối. Nó xa xăm như thể mọi người đang ở trên một con tàu vun vút lao đi.

Sợ hãi trào dâng, cậu lao đầu chạy. Cánh cửa sau lưng cậu đóng sầm lại. Cậu thét lên… có thứ gì đó đã vượt qua không khí ngay sau lưng, sột soạt lên áo cậu. Nhìn ra sau nhưng cậu chẳng thấy gì. Song điều đó không khiến cậu thay đổi suy nghĩ, chắc chắn ban nãy vừa có gì đó.

Cậu bắt kịp mọi người. Hồng hộc thở không ra hơi, cậu dám thề mình đã chạy ít nhất tám trăm mét… nhưng khi nhìn lại, cậu thấy bức tường đằng xa của phòng khách cách chưa đến ba mét.

Mike chộp lấy vai cậu chặt đến phát đau.

“Cậu làm tớ hết hồn đấy,” cậu nói. Richie, Stan và Eddie nhìn Mike khó hiểu. “Trông cậu ấy nhỏ lắm,” Mike giải thích. “Như thể cách cả cây số vậy.”

“Bill!”

Bill quay lại.

“Bọn mình phải đảm bảo mọi người đi sát nhau, Ben hổn hển nói. “Nơi này… giống nhà cười trong lễ hội vậy. Bọn mình sẽ bị lạc mất. Tớ nghĩ Nó muốn bọn mình đi lạc, tan đàn xẻ nghé.”

Bill nhìn cậu một lúc, môi mím chặt. “Được rồi,” cậu nói. “C-Cả bọn đi s-s-sát nhau nhé. Không ai t-t-tụt lại.”

Mọi người gật đầu đáp lại, sợ hãi, túm tụm đứng ngoài cửa hành lang. Tay của Stan mân mê cuốn sách về các loài chim nhét trong túi sau. Eddie nắm ống thở trong tay, hết siết chặt rồi lại thả ra như một gã bún thiu bốn lăm ki-lô cố tập lên cơ bằng quả bóng tennis.

Bill mở cửa, một hành lang hẹp hơn lại xuất hiện. Giấy dán hình hoa hồng và yêu tinh đội mũ xanh bong tróc thành từng dải ẩm ướt trên bức tường vữa xốp. Vết nước vàng khè loang thành vòng trên trần. Ánh sáng mờ đục xuyên qua ô cửa sổ cáu bẩn ở cuối hành lang.

Bất thình lình, hành lang chợt dài ra. Trần nhà cao lên và càng lúc càng xa như một thứ hỏa tiễn kỳ dị. Cánh cửa giãn ra cùng trần nhà, vùn vụt kéo dài như kẹo. Gương mặt của những yêu tinh dài ra, trở nên dị dạng như người ngoài hành tinh, đôi mắt như hai lỗ đen chảy máu.

Stan ré lên và đưa tay bưng mắt.

“N-N-Nó không c-c-có th-th-thật!” Bill thét lên.

“Có!” Stan gào lên, cậu nắm chặt tay che mắt. “Nó có thật, cậu thừa biết điều đó mà, Chúa ơi, tớ điên mất, chuyện này thật điên rồ, thật điên rồ hết sức…”

“Nh-Nh-Nhìn đây!” Bill gầm lên với Stan, với tất cả mọi người, và Ben, lúc này đầu óc vẫn quay cuồng, nhìn Bill khom người, lấy thế rồi chợt nhảy vụt lên. Tay trái siết thành nắm đấm của cậu chẳng đụng vào thứ gì, nhưng lại có một tiếng crắc! rất lớn vang lên. Bụi thạch cao lả tả phụt ra từ một nơi trước đó chẳng có trần nhà… nhưng giờ lại có. Hành lang chợt trở lại như cũ, hẹp, trần thấp và bẩn thỉu. Nhưng bức tường không dâng cao đến vô tận nữa. Chỉ có Bill đứng đó, nhìn mọi người, xoa xoa bàn tay đang chảy máu, trăng trắng bột thạch cao. Phía trên còn vương lại rất rõ dấu vết nắm đấm của cậu để lại trên mặt thạch cao mềm của trần nhà.

“Kh-Kh-Không có th-th-thật,” cậu nói với Stan cũng như với tất cả mọi người. “Chỉ là c-c-cảnh giả mà thôi. Giống m-m-mặt n-n-nạ H-H-H- Halloween ấy.”

“ Với cậu thì thế.” Stan thẫn thờ. Trong khuôn mặt cậu sốc và kinh hãi tột độ. Cậu nhìn quanh quất như thể không dám chắc mình đang ở đâu. Mới ban nãy còn mừng như bắt được vàng trước thành công của Bill, thì lúc này, khi nhìn Stan, ngửi thứ mùi chua lè phả ra từ lỗ chân lông, Ben lại cảm thấy sợ hãi xâm chiếm mình. Stan sắp sửa đến hạn chịu đựng rồi. Chẳng mấy chốc sau, cậu ấy sẽ phát điên và có khi sẽ la hét ỏm tỏi ấy chứ, rồi điều gì sẽ xảy ra?

“ Với cậu thôi,” Stan lặp lại. “Nhưng nếu tớ thử, sẽ chẳng có chuyện gì xảy ra cả. Vì… cậu còn có em trai, Bill ạ, chứ tớ chẳng có gì.” Cậu nhìn quanh - đầu tiên nhìn về phía phòng khách mang bầu không khí nâu u ám, dày đặc và mịt mùng đến độ họ chẳng tài nào nhìn thấy bên kia cánh cửa mà ban nãy họ vừa đi qua để bước vào hành lang này, sáng sủa nhưng lại có gì đó tối tăm, bẩn thỉu và điên rồ đến cùng cực. Yêu tinh nhảy múa trên giấy dán tường bong tróc dưới những đường hoa hồng. Ánh mặt trời chiếu xuống khu