← Quay lại trang sách

DERRY TAO ĐOẠN THỨ TƯ

Rồi cũng sẽ có lúc

Thất bại đến với em

Vì cuộc đời đâu phải

Lúc nào cũng ấm êm;

Rồi cũng sẽ có lúc

Thua cuộc tìm đến em

Đâu lúc nào cũng thắng

Anh nói rồi, em xem?

Anh biết mà, em ạ

Anh thấy hết cả thôi

Kể cả những rắc rối

Chúng đang lấp ló rồi.

Ngày 06 tháng 4 năm 1985

Hỡi bạn bè gần xa, nói mà nghe – tối nay tôi say rồi. Xỉn quắc cần câu. Nốc whiskey lúa mạch đen dữ quá. Đến Wally’s nốc trước, sau đó đến cửa hàng rượu của bang trên đường Trung Tâm chừng nửa tiếng trước giờ đóng cửa và mua một fifth rượu whiskey lúa mạch đen. Tôi biết mình toàn làm trò gì. Nốc rượu rẻ tiền tối nay, mai tha hồ mà trả giá. Vậy nên hắn ngồi đây, thằng da đen say xỉn trong thư viện công cộng sau giờ đóng cửa, với cuốn sách mở trước mặt và chai Old Kentucky bên trái. “Nói thật và khiến quỷ dữ cũng phải hổ thẹn,” mẹ tôi hay bảo thế, nhưng bà quên bảo tôi rằng thỉnh thoảng ta không thể khiến Ông Móng guốc Chẻ hổ thẹn đến mức tỉnh rượu. Dân Ireland hẳn là rành rọt điều này, nhưng tất nhiên họ là dân mọi da trắng của Chúa, ai biết được, có khi họ đi trước thiên hạ một bước.

Tương đương 750ml.

Nguyên văn là Mr. Splitfoot, đây là từ dùng để mô tả ma quỷ. Stephen King là một trong các tác giả hiện đại sử dụng thuật ngữ này trong nhiều tiểu thuyết. Thời Trung cổ, hình tượng ma quỷ thường được miêu tả có móng guốc.

Muốn viết về rượu chè và ma quỷ quá. Anh còn nhớ Đảo giấu vàng không? Lão giặc biển già đời ở Quán trọ Đô đốc Benbow. Lão ta bảo “Ta sẽ làm lần nữa, Jacky!” Tôi dám cá lão già hom hem cay đắng ấy tưởng thế thật. Bụng toàn rượu rum – hoặc rượu lúa mạch đen – thì cái gì cũng tin ấy chứ.

Rượu chè và ma quỷ. Bộ đôi chuẩn phết.

Thỉnh thoảng nghĩ mà buồn cười, chẳng biết tôi sẽ trụ được bao lâu nếu dám xuất bản một số bài viết mà tôi soạn giữa đêm khuya thanh vắng. Nếu tôi dám bới móc một số chuyện mà Derry ém nhẹm bao lâu nay. Ban giám đốc của thư viện này gồm mười một người cả thảy. Trong đó có một lão nhà văn bảy mươi tuổi, bị đột quy hai năm trước, hiện giờ lúc nào cũng phải có người giúp ông ấy lần theo vị trí trên bản tài liệu in ra vào mỗi buổi họp (thỉnh thoảng người ta lại thấy ông ta móc những cục gỉ mũi rõ to đã khô từ lỗ mũi lông lá rồi cẩn thận nhét vào tay như thể cất vào két sắt). Ngoài ra, có một ả được voi đòi tiên từ New York chuyển đến với ông chồng bác sĩ, có cái tài nói tràng giang đại hải, ca thán Derry tỉnh lẻ, rằng người dân nơi đây chẳng ai hiểu TRẢI NGHIỆM DO THÁI là thứ gì, và cô ta phải lặn lội lên tận Boston mới sắm được cái váy muốn trưng diện cho thiên hạ ngắm chơi. Lần gần đây nhất mà cô ả ốm như cò ma này nói chuyện với tôi không qua bên thứ ba trung gian là cách đây một năm rưỡi, trong bữa tiệc Giáng sinh mà Ban giám đốc tổ chức. Sau khi đã nốc kha khá rượu gin, cô ta hỏi tôi ở Derry có ai hiểu thế nào là TRẢI NGHIỆM DA ĐEN không. Lúc ấy, bản thân cũng đã uống cả bồ rượu gin, tôi bèn đáp: “Thưa cô Gladry, dân Do Thái có thể là bí ẩn lớn lao, chứ dân mọi đen thì ai nấy sống trên đời đều biết cả rồi.” Cô ta sặc rượu, đột ngột quay phắt đi đến độ trong một thoáng, quần con của cô ta lộ ra dưới lớp váy xòe (cảnh tượng chẳng mãn nhãn gì cho cam; thà của Carol Danner thì may ra!), và cuộc nói chuyện phiếm cuối cùng giữa tôi và cô Ruth Gladry chấm dứt ở đó. Không mất mát gì lắm.

Các thành viên khác trong Ban giám đốc là con cháu của những ông trùm buôn gỗ năm xưa. Ủng hộ thư viện là cách họ ăn năn hối lỗi qua các thế hệ, cưỡng bách thỏa thê bao vạt rừng, giờ họ quan tâm đến sách vở như cách một tay hoang dâm vô độ đến tuổi xế chiều bỗng quyết định sẽ chăm sóc cho hậu quả của những cuộc mây mưa sa đọa lúc trẻ. Chính ông nội ông ngoại, ông cố của những người này là những kẻ trực tiếp vạch chân biết bao cánh rừng phía Bắc Derry và Bangor rồi dùng rìu, dùng cưa triệt hạ vô vàn cây cối. Họ cưa, họ chặt, họ xẻ phách, ăn ốc xong đâu đấy, họ đổ vỏ. Họ xé toác thân xác của những cánh rừng đại ngàn khi Grover Cleveland lên làm tổng thống, và đến lúc Woodrow Wilson lên cơn đột quỵ thì họ đã ra tay xong xuôi. Những kẻ khoác trên mình gấm vóc lụa là nhưng man rợ như cầm thú này đã giày xéo rừng xanh, khiến những cánh rừng bị xẻ thịt nham nhở, chặt phá điêu tàn, biến Derry từ một thị trấn nhỏ heo hút chuyên đóng tàu thành chốn chè chén thâu ngày thâu đêm, nơi những quán rượu không bao giờ đóng cửa và phường buôn phấn bán hương nhộn nhịp cả đêm. Ông cụ chín mươi ba tuổi tên là Egbert Thoroughgood kể với tôi rằng ông từng qua đêm với một cô gái làng chơi ốm đến độ gió thổi bay trong một nhà nghỉ trên đường Baker (con đường này giờ không còn nữa; con phố Baker hội hè náo động năm xưa đã được thay thế bằng những căn chung cư cho tầng lớp trung lưu lầm lì).

Khoảng từ năm 1885 đến năm 1919.

“Sau khi xuất vào bên trong cô ta, ta mới nhận ra cô này đang nằm ngập trong bãi tinh dịch sâu phải đến hai, ba phân. Chúng mới chỉ bắt đầu đông lại thôi. Ta bèn bảo, ‘Này, cô không lo cho bản thân mình à?’ Cô ta nhìn xuống và đáp, ‘Nếu ông muốn làm nháy nữa thì để em thay tấm trải giường mới. Em nghĩ trong tủ dưới sảnh còn hai tấm chưa dùng. Em vẫn còn ý thức được em nằm trên cái gì đến khoảng 9, 10 giờ, nhưng đến nửa đêm thì hàng họ của em tê rần, đến độ em chẳng biết nó còn ở đây hay đã tếch đến tít Ellsworth rồi.”

Tình hình Derry khoảng hai chục năm đầu thế kỷ 20 là thế: rượu chè bê tha, ăn chơi trác táng. Sông Penobscot và sông Kenduskeag trôi nổi đầy những thanh gỗ từ lúc băng tan tháng Tư đến lúc băng đóng tháng Mười một. Ngành gỗ chạm thời cực thịnh vào thập niên 20, bởi chẳng còn Thế chiến thứ nhất hay gỗ cứng để phát triển nữa, sau đó, ngành dần lụi tàn vào thời kỳ Đại khủng hoảng. Các ông trùm buôn gỗ bơm tiền vào những ngân hàng ở New York hay Boston sống sót qua Đại sụp đổ của thị trường chứng khoán, mặc kệ nền kinh tế Derry tự sinh tự diệt. Họ rửa tay gác kiếm ở những dinh thự thênh thang trên phố Tây Broadway, cho con cái đi học trường tư tại New Hampshire, Massachusetts và New York. Sống sung túc nhờ tiền lãi và các mối quan hệ chính trị ô dù cỡ bự.

Thập niên 1930.

Khoảng bảy mươi năm trôi qua kể từ ngày ông Egbert Thoroughgood ăn bánh trả tiền với ả gái điếm trên chiếc giường nhầy nhụa tinh dịch trên đường Baker, dấu hiệu còn lại của cái thời bùng nổ ấy là những khu rừng hoang hóa xác xơ ở quận Penobscot và Aroostook cùng những căn nhà xây theo kiểu Victoria tráng lệ dài hai dãy nhà dọc Tây Broadway… tất nhiên, cả thư viện của tôi nữa. Có điều, những con người tốt đời đẹp đạo ở Tây Broadway này sẽ trở mặt lấy “thư viện của tôi” khỏi tay tôi nhanh như đốn gỗ (tôi cố tình chơi chữ đấy) nếu tôi dám xuất bản bất cứ thông tin gì về Binh đoàn Lễ nghi, trận cháy ở Điểm Đen, vụ hành quyết Băng đảng Bradley… hoặc vụ án liên quan đến Claude Heroux và quán bia Đồng Bạc.

Vào tháng Chín năm 1905, quán bia này chính là nơi xảy ra án mạng có thể xem là vụ thảm sát kỳ dị nhất lịch sử xứ cờ hoa. Vẫn còn một số người thế hệ trước tuyên bố mình nhớ sự kiện này, nhưng tôi thật sự chỉ tin tưởng lời kể của ông Thoroughgood. Khi vụ án xảy ra, ông còn là một chàng trai mười tám tuổi.

Hiện tại, ông cụ sống ở viện dưỡng lão Paulson. Ông đã rụng hết răng, và chất giọng Hạ Đông đặc sệt tiếng Pháp đặc trưng của dân thung lũng St John khó nghe đến độ có lẽ chỉ người già cùng thế hệ ở Maine mới hiểu ông đang nói gì nếu lời của ông được viết lại theo ngữ âm. Sandy Ives, nhà nghiên cứu văn hóa dân gian ở Đại học Maine, người mà tôi có nhắc đến trong những trang giấy điên rồ phía trước, đã giúp tôi phiên dịch những đoạn băng tôi thu lại.

Theo lời ông Thoroughgood, Claude Heroux là một “thèng xúc xinh gốc Canada, ngó kẻ khác vứi con ngươi léo liên y ngươi ngựa cái dưới ánh treng”.

(Dịch: Một thằng súc sinh gốc Canada, nhìn kẻ khác với con mắt láo liên như mắt ngựa cái dưới ánh trăng.)

Thoroughgood cho hay ông và bất cứ ai từng làm việc với Heroux đều đánh giá hắn là kẻ ranh ma như loại cẩu trộm gà… và điều này càng khiến hành động xách rìu chém người trong quán bia Đồng Bạc đáng giật mình hơn. Đơn giản, nó không phải tính cách của hắn ta. Trước cái ngày định mệnh ấy, thợ đốn gỗ ở Derry cho rằng ngữ như Heroux cùng lắm chỉ lén lút đốt rừng là cùng.

Mùa xuân năm ‘05 vừa dài vừa nóng nực, chưa kể đã xảy ra rất nhiều trận cháy rừng. Trận cháy lớn nhất xảy ra trong khu rừng Da đỏ ở Haven, về sau Heroux khai nhận hắn là kẻ để đèn cầy đang cháy giữa đống dăm gỗ và củi nhóm lửa. Trận cháy thiêu rụi 20.000 mẫu gỗ cứng đã được chặt tỉa, và ta có thể ngửi thấy mùi cháy cách đó hơn năm mươi cây số, khi những chiếc xe ngựa chạy lên đến đỉnh đồi Dặm Trên của Derry.

Mùa xuân năm ấy, người ta có bàn đến việc tổ chức công đoàn. Có bốn người thợ đốn gỗ tham gia vào công cuộc tổ chức (cũng chẳng có gì nhiều để tổ chức; tầng lớp người lao động ở Maine ngày ấy phản đối công đoàn, hiện tại, đa phần vẫn thể), và một trong bốn người này chính là Claude Heroux, có lẽ trong mắt hắn, tham gia vào công đoàn chỉ là cơ hội để ăn to nói lớn, bù khú rượu chè trong những quán rượu trên đường Baker và đường Giao Thương. Heroux và ba thành viên còn lại tự nhận mình là “ban tổ chức”, trong khi những tay trùm buôn gỗ gọi bọn họ là “đám đầu sỏ”. Một bảng bố cáo găm ngay sạp nấu ăn của các trại đốn gỗ dọc theo dải từ Monroe đến Haven Village, đồn điền Sumner, Millinocket thông báo bất cứ thợ đốn gỗ nào bị phát hiện bàn tán về công đoàn sẽ mất việc ngay lập tức.

Tháng Năm năm đó, có một đợt đình công ngắn ở gần Trapham Notch, và dù đợt đình công này bị dập tắt ngay khi vừa manh nha bởi phe những người phản đối đình công cùng phe “cảnh vệ thị trấn” (và bạn biết đấy, đây là điều khá kì khôi khi có gần ba mươi “cảnh vệ thị trấn” vung vẩy cán rìu và tương móp sọ, nhưng theo như những gì người dân biết, trước ngày đình công tháng Năm đó, chẳng có lấy một tay cảnh vệ ở Trapham Notch – với dân số 79 người theo điều tra năm 1900), Heroux cùng những người bằng hữu trong hội tổ chức vẫn xem đây là một chiến thắng vang dội nhân danh chính nghĩa. Vì thế, bọn chúng vào trung tâm thị trấn Derry để chén chú chén anh và bàn bạc thêm công cuộc “tổ chức”… hoặc “đầu sỏ”, cách gọi tùy theo phe được ủng hộ. Nhưng dù công việc là gì đi chăng nữa, ắt nó phải khô khan lắm nên họ mới đi hết quán rượu này đến quán rượu kia ở Nửa mẫu Địa ngục và làm tăng cuối ở Đồng bạc Buồn ngủ, quàng vai bá cổ nhau, xỉn đến độ tè bậy xuống chân, hết hát những bài ca công đoàn lại ông ổng những giai điệu chối tai như “Đôi mắt mẹ tôi vẫn dõi theo từ thiên đường”, dù cá nhân tôi cho rằng bà mẹ nào nhìn xuống hạ giới thấy con mình trong tình trạng xỉn quắc cần câu như thế hẳn chỉ biết buồn bã mà quay đầu đi.

Theo lời kể của ông Egbert Thoroughgood, lý do duy nhất ta có thể giải thích cho việc Heroux tham gia vào phong trào này chính là Davey Hartwell. Hartwell đóng vai trò “người tổ chức” hoặc “tên đầu sỏ” chính, và Heroux thì một lòng ngưỡng mộ người này. Nhưng hắn ta không phải ngoại lệ, hầu hết những thành viên tham gia phong trào yêu quý và tôn sùng Hartwell, sự kính cẩn nghiêng mình mà đàn ông dành cho đấng quân tử sở hữu sức hút gần như thần thánh ấy. “Đép vì Át queo lè mộc ngừi bức đi như thẻ làm chủ mộc nử thía gian nè, nử còn lẹ ỏng khóe cứng,” Thoroughgood nhận xét.

(Dịch: Davey Hartwell là một người bước đi như thể làm chủ một nửa thế gian này, nửa còn lại ông ta khóa cứng.)

“Bẻn thân ỏng là một ngừi tuyệt vừi, không cóa gì phải bèn kẽ. Ỏng rất cóa thèng thái, cách ỏng đi đứng, nói neng đều vực bậc. Biểu ông giỏi thôi chưa cóa đủ. Phẻ nói ông tuyệt vừi mới chủn.”

(Dịch: Bản thân ông là một người tuyệt vời, không có gì phải bàn cãi. Ông rất có thần thái, cách ông đi đứng, nói năng đều vượt bậc. Biểu ông giỏi thôi chưa có đủ. Phải nói ông tuyệt vời mới chuẩn.)

Heroux theo chân Hartwell vào công cuộc tổ chức này giống cách hắn sẽ theo chân Hartwell nếu ông ta quyết định chọn người đóng tàu tít trên Brewer hay dưới Bath, xây dựng bảy cầu cạn ở Vermont, hoặc cố gắng gây dựng lại Pony Express ở miền Tây. Heroux là người xảo quyệt, bần tiện, và tôi đoán nếu một cuốn tiểu thuyết có nhân vật như ông ta thì hẳn nhân vật ấy chẳng có đức tính tốt đẹp nào. Nhưng đôi lúc, khi một người sống cuộc đời không được ai tin cẩn, ngờ vực tất cả, cô đơn (hoặc cùi bắp) vì bản thân anh ta chọn như thế và vì định kiến xã hội, anh ta có thể tìm một con chó sống vì chủ của nó. Nhìn từ bên ngoài, mối quan hệ giữa Heroux và Hartwell là như thế.

Pony Express là một dịch vụ gửi thư, báo bằng ngựa, dừng hoạt động vào năm 1861.

Tóm lại, tối đó, bốn người bọn họ ở lại khách sạn Brentwood Arms, ngày ấy những người thợ đốn gỗ hay gọi khách sạn này là Cẩu nổi (lý do tại sao thì khá mù mờ - ngay cả Egbert Thoroughgood cũng chẳng nhớ). Bốn người thuê phòng nhưng chẳng ai trong số họ trả phòng. Một trong bốn thành viên, Andy DeLesseps, không rõ tung tích; lịch sử cho biết có khả năng ông ta dành quãng đời còn lại sống an nhiên tự tại ở Portsmouth. Nhưng vì lẽ nào đó, tôi lại không cho là vậy. Thi thể hai người khác trong “đám đầu sỏ”, Amsel Bickford và Davey Hartwell, được phát hiện nổi lềnh phềnh tư thế nằm sấp trên sông Kenduskeag. Bickford mất đầu; kẻ thủ ác đã dùng rìu cỡ đại chặt đầu ông ta. Hartwell bị chặt cả hai chân, và những người tìm thấy xác của ông thề rằng họ chưa bao giờ thấy khuôn mặt người nào thể hiện nét biểu cảm đau đớn và kinh hoàng đến vậy. Thủ phạm nhét đầy thứ gì đó vào mồm khiến hai má ông căng cứng, và khi những người phát hiện thi thể lật nạn nhân lại và vạch mồm, bảy ngón chân của ông ta rơi xuống bùn. Vài người cho rằng ông mất ba ngón còn lại do tai nạn lao động trong những năm làm lụng trong rừng, những người khác lại thiên về ý kiến ông ta nuốt chúng trước khi chết.

Đằng sau áo của hai nạn nhân có gắn tờ giấy đề chữ CÔNG ĐOÀN.

Claude Heroux không phải hầu tòa sau vụ án thảm khốc xảy ra Đồng Bạc vào đêm ngày mùng 9 tháng 9 năm 1905, nên chẳng có cách nào để biết chính xác làm thế nào mà hắn không bỏ mạng như những nạn nhân xấu số còn lại vào đêm tháng Năm năm ấy. Ta chỉ có thể đoán mò, hắn đã sống một thân một mình bấy lâu nay, hắn biết cách cao chạy xa bay trong tích tắc, hoặc có khi hắn sở hữu cái tài mà những con cẩu tạp chủng hay có: biết rút lui ngay khi đánh hơi thấy biến sắp ập xuống. Nhưng tại sao hắn không kéo Hardwell trốn cùng mình? Hay lẽ nào hắn cũng bị đưa vào rừng cùng những thành viên của “nhóm phiến động”? Biết đâu thủ phạm dự tính kết liễu hắn sau cùng, và hắn đã kịp thời thoát thân trong lúc tiếng thét gào của Hartwell (hẳn đã bị nghẹt lại khi chúng nhét những ngón chân vào miệng ông) đang vang vọng trong bóng đêm, khiến chim chóc sợ hãi bay khỏi tổ. Chẳng có cách nào để biết rõ ngọn ngành, nhưng chí ít đó là cảm nhận của cá nhân tôi.

Từ ngày ấy, Claude Heroux sống vật vờ như âm binh ma quỷ. Hắn lững thững vào khu trại ở thung lũng St John, xếp hàng ở sạp nấu ăn của thợ đốn gỗ, nhận một bát thịt hầm, trệu trạo ăn rồi biến mất trước khi có người nhận ra hắn không phải thành viên của đội xén tỉa. Nhiều tuần sau đó, hắn lảng vảng ở một quán bia Winterport, ba hoa khoác lác về công đoàn và thề thốt rằng hắn sẽ trả thù những kẻ dám sát hại bằng hữu của gã – Hamilton Tracker, William Mueller và Richard Bowie là những cái tên được hắn nhắc đến nhiều nhất. Tất cả bọn chúng đều sống ở Derry, và những căn nhà tả pín lù mái đầu hồi, mái khuỷu kết hợp mái vòm họ ở ngày xưa vẫn còn trên phố Tây Broadway đến tận bây giờ. Nhiều năm sau, chính những kẻ này và con cháu của chúng là thủ phạm đốt cháy Điểm Đen.

Một điều rõ như ban ngày là khối kẻ xem Claude Heroux như cái gai trong mắt, nhất là sau những vụ cháy bắt đầu từ tháng Sáu. Nhưng dù đụng mặt nhiều người, Heroux được cái nhanh như cắt và nhạy như thú nhác thấy mùi hiểm nguy. Theo những thông tin tôi góp nhặt được, không có lệnh bắt chính thức nào được đưa ra để thộp cổ hắn, và cảnh sát cũng không có động thái gì. Có lẽ họ lo ngại những điều Heroux sẽ mở miệng khai nếu phải hầu tòa vì tội phóng hỏa.

Bất kể lý do là gì, những cánh rừng quanh Derry và Haven rừng rực cháy suốt mùa hè nóng như chảo lửa năm ấy. Trẻ em mất tích hàng loạt, số vụ ẩu đả và giết người tăng lên chóng mặt, sợ hãi bao trùm khắp thị trấn, rõ nét tựa hồ đám khói ta có thể ngửi thấy từ đỉnh đồi Dặm Trên.

Phải sang tháng Chín, cơn mưa đầu mùa mới xuất hiện, trời mưa rả rích suốt cả tuần liền. Trung tâm thị trấn Derry bị ngập lụt, chuyện vốn chẳng ai lấy làm lạ, được cái những căn nhà khang trang ở Tây Broadway nằm trên khu đất cao hơn khu trung tâm, nên hẳn đã có nhiều tiếng thở phào nhẹ nhõm trong mấy căn nhà rộng mênh mông ấy. Có khi họ còn bảo nhau cứ mặc thằng Canada điên khùng ấy trốn chui trốn nhủi trong rừng cả mùa đông đi, nếu đó là điều hắn ta thích ấy chứ. Hết hè, hắn cũng hết tác oai tác quái, và chúng ta sẽ bắt được hắn trước khi rễ cây kịp khô vào tháng Sáu năm sau.

Và rồi ngày mùng 9 tháng 9 định mệnh đã đến. Tôi chẳng tài nào lý giải được chuyện xảy ra; ông Thoroughgood cũng không hiểu đầu cua tai nheo ra sao; theo như tôi biết, chẳng ai giải thích được. Tôi chỉ có thể liên kết các sự kiện diễn ra mà thôi.

Khi ấy, Quán bia Đồng bạc Buồn ngủ đầy những anh thợ đốn gỗ đến để nốc bia. Bên ngoài, trời đang dần tối, bảng lảng sương giăng. Nước sông Kenduskeng dâng cao, u uất bàng bạc, ùng ục chảy từ bờ bên này sang bờ bên kia, và theo những gì ông Egbert Thoroughgood nói, “gió thu đeng èo èo thổi – kí thẻ lọe gió biết cách luồn vào ống quần vè thông thốc thổi thẳng lên bèn tọe của te”. Đường phố đầy sình lầy. Ở bàn phía cuối phòng, người ta đang bày trò đánh bài. Những người này là nhân viên của William Mueller. Mueller là đồng sở hữu của đường tàu hỏa GS&WM, đồng thời là kẻ thống trị ngành gỗ khi sở hữu hàng triệu mẫu gỗ thượng hạng, và những kẻ đánh bài quanh cái bàn trải lớp vải dầu ở Đồng bạc đêm ấy là thợ đốn gỗ hay bảo vệ đường tàu thời vụ, nhưng là phá làng phá xóm toàn thời gian. Hai trong số đó, Tinker McCutcheon và Floyd Calderwood, từng vào tù ra khám. Nhập hội cùng bọn chúng còn có Lathrop Rounds (biệt danh của gã này là El Katook, cái tên kỳ quặc chẳng kém gì Khách sạn Cẩu nổi), David “Stugley” Grenier và Eddie King - một gã râu ria xồm xoàm, mang cặp đít chai dày chẳng kém gì bụng bia của gã. Rất có thể, chúng nằm trong những kẻ cảnh giới đề phòng Claude Heroux suốt hai tháng rưỡi vừa qua. Và rất có thể – dù không có chút bằng chứng nào - bọn chúng đã tham gia vào cuộc vui tùng xẻo hồi tháng Năm, lúc Hartwell và Bickford bị đưa về chầu tiên tổ.

Ông Thoroughgood kể quán bia đông như mắc cửi, hàng chục khách khứa xỉn quắc cần câu, nốc bia như hũ chìm, ăn trưa tại quầy và tong tỏng nước xuống mặt sàn đất phủ mùn cưa.

Cửa mở, Claude Heroux bước vào. Hắn vác theo rìu hai lưỡi của thợ đốn gỗ trên tay. Bước đến quầy rượu, hắn chen chân kiếm chỗ ngồi. Khi đó, ông Egbert Thoroughgood đang đứng bên tay trái hắn; ông bảo Heroux hôi như cú. Phục vụ mang cho Heroux một vại bia, hai quả trứng luộc chín để trong chén và lọ muối. Heroux trả tiền bằng tờ hai đô-la rồi cất tiền thối – một đô tám mươi lăm xu – vào túi có nắp trên áo khoác thợ đốn gỗ mà hắn đang mặc. Hắn rắc muối lên trứng rồi chén gọn. Hắn rắc muối vào vại bia, uống ừng ực rồi ợ hơi rõ to..

“Bên ngoài nhiều chỗ hơn bên trong đấy, anh Claude ạ,” ông Thoroughgood nói, như thể suốt mùa hè năm ấy, nửa đám người quyền thế ở miền Bắc Maine không muốn bay vào kiếm chuyện với Heroux.

“Thì đúng là thế,” Heroux đáp, nhưng do là người Canada nên giọng hắn ta vang lên nghe như “Thì đúng lè thía”.

Hắn gọi thêm một vại bia, uống sạch rồi ợ phát nữa. Người ta tiếp tục trò chuyện rôm rả ở quầy, chẳng hề có cảnh tượng im phăng phắc như trong phim châu Âu, khi vai chính diện hoặc phản diện gạt cửa bước vào và lừng lững đi đến quầy. Vài người gọi chào hắn. Claude gật đầu, vẫy tay chào lại nhưng không cười. Ông Thoroughgood bảo trông hắn ta như người trong cơn mê. Ở chiếc bàn đằng sau phòng, người ta tiếp tục chơi đánh bài. El Katook đang chia bài. Chẳng ai buồn nói với những con bạc này rằng Claud Heroux có mặt trong quán bia… dù bàn của họ cách đó chưa tới sáu mét, và dù những người quen của Claude í ới gọi tên hắn không chỉ một lần, nên thật khó lòng hiểu nổi làm thế nào mà họ có thể ung dung ngồi đánh bài, không hề hay biết sát ý tiềm tàng của hắn. Nhưng đó là những gì đã diễn ra.

Sau khi uống hết vại bia thứ hai, Heroux nói lời cáo từ với ông Thoroughgood, nhấc rìu lên rồi bước đến bàn nơi đám thợ làm công cho Mueller chơi bài. Đoạn hắn bắt đầu màn xả thịt.

Floyd Calderwood vừa rót một ly whiskey lúa mạch đen và chưa kịp đặt chai rượu xuống bàn thì Heroux bước đến, chặt bàn tay của Calderwood đứt lìa. Nhìn xuống bàn tay của mình, Calderwood hét lên thất thanh; bàn tay vẫn đang cầm chai rượu, nhưng trong chớp mắt, nó chẳng dính vào thứ gì ngoài xương sụn ươn ướt và mạch máu nhoe nhoét. Trong một khắc, cánh tay bị chặt siết vào chai rượu, đoạn nó rơi thịch xuống bàn như con nhện chết. Máu túa ra từ cổ tay.

Ở quầy rượu có tiếng gọi bia và tiếng vị khách hỏi người phục vụ quầy mang tên Jonesy liệu ông ta có đang nhuộm tóc hay không. “Chưa nhuộm bao giờ nhé,” Jonesy cau có đáp; gì chứ mái tóc thì ông ta vô cùng tự đắc.

“Tôi gặp con gà móng đỏ ở Ma Courtneys, nó bảo thứ mọc quanh của quý nhà ông trắng như tuyết đấy,” người này kể.

“Nó nói dối chứ gì” Jonesy trả lời.

“Tụt quần cho bọn tôi xem nào,” một tay thợ đốn gỗ tên Falkland lên tiếng, trước khi Heroux bước vào, ông Egbert Thoroughgood đã chén chú chén anh cùng người này. Nghe thấy thế, cả đám cười rộ.

Đằng sau họ, Floyd Calderwood đang ré lên. Một vài vị khách tựa lưng ở quầy bình thản đưa mắt nhìn đúng lúc Claude Heroux bửa thẳng rìu đốn gỗ vào đầu của Tinker McCutcheon. Tinker là gã đàn ông to lớn với bộ râu đen đang dần ngả bạc. Ông ta toan đứng dậy, máu xối xả tuôn thành dòng từ khuôn mặt, đoạn ngồi phịch xuống. Heroux kéo rìu ra khỏi thủ cấp. Tinker toan đứng dậy lần nữa, Heroux bèn lẳng rìu theo phương ngang, cắm phập lưỡi rìu vào lưng ông này. Ông Thoroughgood bảo âm thanh ấy như tiếng đống quần áo rơi xuống thảm. Tinker loạng choạng ngã ập xuống bàn, bài cầm trong tay tung tóe.

Những kẻ khác trong bàn rít ré và gào lên. Vẫn chưa thôi thất thanh, Calderwood cuống cuồng dùng tay trái của mình nhặt tay phải lên trong lúc máu cứ thế túa ra thành dòng từ cánh tay cụt lủn. Studley Grenier có khẩu “súng đeo” (nghĩa là khẩu súng đựng trong bao đeo vai) và ông ta cố chộp lấy nó mà bất thành. Lảo đảo đứng lên, Eddie King ngã nhào khỏi ghế, đập lưng xuống đất. Trước khi ông ta kịp gượng dậy, Heroux đã sừng sững trước mặt, rìu giờ sau đầu. King thét lên, giơ hai tay ra đỡ.

“Tôi xin anh, Claude, tôi mới cưới vợ tháng trước!” King gào lên.

Rìu vung xuống, lưỡi rìu gần như mất dạng trong cái bụng to tướng của King. Máu bắn lên tận dầm mái của quán rượu. Eddie mò mẫm thối lui trên sàn. Claude rút rìu ra như người thợ đốn gỗ lành nghề rút rìu khỏi thân gỗ mềm, khía tới khía lui để nới lỏng sức kẹp của thứ gỗ nhơm nhớp nhựa. Khi rìu buông ra hoàn toàn, hắn đưa rìu lên trên đầu rồi bổ thẳng xuống. Eddie King ngừng la hét. Tuy thế, Claude Heroux chưa xong chuyện với ông ta, hắn bắt đầu chặt King thành từng khúc như bổ củi.

Ở quầy rượu, cuộc nói chuyện chuyển sang chủ đề mùa đông sắp tới sẽ ra sao. Veraon Stanchfield, một nông dân ở Palmyra, đánh giá mùa đông năm nay sẽ tương đối dễ chịu – theo như lời vàng ý ngọc của ông, mùa thu mưa xối xả đã dùng cạn tuyết mùa đông. Alfie Naugler, chủ nông trại trên đường Naugler ở Derry (hiện nông trại đã biến mất; nơi Alfie Naugler từng trồng các loại đậu và củ cải giờ đã biến thành Xa lộ Liên tiểu bang với sáu làn đường, kéo dài mười bốn ki-lô-mét) lại bất đồng quan điểm. Alfie cho rằng mùa đông sắp tới khắc nghiệt lắm cho xem. Ông bảo mình đã trông thấy tận tám dải sậm trên mấy con sâu bướm lông lá, một số con vô tiền khoáng hậu. Lại có người bảo mùa đông này sẽ băng giá, người thì nói thế nào cũng nhẽo nhoẹt bùn. Nhiều người nhớ lại trận Đại bão tuyết năm 1901. Jonesy chuyền các vại bia và mấy bát trứng luộc xuống quầy rượu. Đằng sau họ, tiếng la hét vẫn thống thiết vang lên, máu chảy lênh láng thành sông.

Theo quan niệm dân gian của Mỹ, số dải màu cam và màu đen trên sâu bướm giúp ta dự đoán mùa đông sắp tới có khắc nghiệt hay không. Nếu sâu bướm càng có nhiều dải màu đen thì mùa đông càng khủng khiếp, còn nếu sâu bướm có nhiều dải màu cam thì mùa đông sẽ dễ chịu hơn.

Đến lúc ấy, trong quá trình phỏng vấn ông Egbert Thoroughgood, tôi tắt máy thu âm cát-sét và hỏi: “Thế nào mà chuyện tày đình như vậy lại xảy ra kia chứ? Ý ông là ông không biết chuyện gì đang xảy ra, hay ông biết nhưng mắt nhắm mắt mở để mặc nó?”

Cằm của ông Thoroughgood cúi gằm chạm xuống tận cái nút đầu tiên trên chiếc áo khoác lấm tấm vết thức ăn, Hai hàng lông mày của ông nhíu lại. Suốt quãng thời gian dài, ông lặng thinh chẳng nói gì. Ngoài trời đang căm căm mùa đông, và tôi có thể nghe vẳng lại nhạt nhòa tiếng la hét, cười đùa của con nít trượt xuống triền đồi lồng lộng ở công viên McCarron. Thinh lặng trong căn phòng bệnh nhỏ bé, ngột ngạt, sặc mùi thuốc của ông Thoroughgood dâng tràn đến độ tôi toan lặp lại câu hỏi. Đúng lúc ấy, ông đáp: “Chúng tôi đều biết. Nhưng dường như điều đó chẳng thành vấn đề. Xét theo một khía cạnh nào đó, nó cũng như chính trị vậy. Ừ chuẩn, như vậy đấy. Nó như công chuyện của thị trấn. Tốt nhất để người nào sành sỏi về chính trị lo liệu, để người nào tường tận công chuyện của thị trấn xử lý. Những điều đó sẽ được giải quyết gọn ghẽ nếu đám lao động chân tay không chen vào.”

“Ông đang ám chỉ số trời đã định, chỉ là ông ngại không nói thẳng ra phải không?” Tôi chợt hỏi. Câu hỏi bỗng dưng bật ra khỏi miệng tôi, và tôi hoàn toàn chẳng kỳ vọng một ông cụ già nua, chậm chạp, ít học như ông Thoroughgood trả lời… thế mà ông vẫn đáp, chẳng chút bất ngờ.

“Chuẩn rồi,” ông nói. “Có lẽ là thế.”

Trong lúc những người đàn ông mải bàn về thời tiết, Claude Heroux tiếp tục đồ sát. Sau một hồi lần mò, Stugley Grenier cuối cùng cũng nổ súng. Rìu giáng thêm một nhát vào Eddie King, lúc này đã nát như tương cà. Viên đạn Grenier bắn vào lưỡi rìu rồi bật ngược, lóe lên tia lửa đánh keng.

El Katook đứng dậy và lùi lại. Ông ta vẫn nắm bộ bài trên tay, bài rơi lả tả xuống sàn. Claude hằm hè tiến lại. El Katook giơ hai tay ra. Stugley Grenier bắn thêm phát nữa nhưng đạn rơi cách Heroux hơn ba mét.

“Dừng lại đi, Claude,” El Katook nói. Thoroughgood kể dường như Katook cố mỉm cười. “Tôi không tham gia với bọn họ. Tôi không dính líu gì đến vụ này.”

Heroux chỉ gầm gừ.

“Lúc đó, tôi đang ở Millinocket,” El Katook phân bua, giọng ông ta cao dần, nghe chẳng khác nào tiếng thét. “Tôi ở Millinocket, tôi xin thề độc như vậy! Nếu không tin thì anh cứ hỏi người khác mà xeeeeem…”

Claude giơ cây rìu tong tỏng máu lên, El Katook ném tung những lá bài còn lại vào mặt đối phương. Rìu vùn vụt chém xuống. El Katook né được. Lưỡi rìu chém vào ván tường sau của quán bia. El Katook cuống cuồng chạy trốn. Claude lôi rìu ra khỏi tường và thọc giữa hai mắt cá. El Katook hốt hoảng quáng quàng. Stugley Grenier bắn Heroux thêm một phát, lần này vận may mỉm cười hơn một chút. Ông ta nhắm vào cái đầu của thằng thợ rừng điên loạn; viên đạn cắm phập vào đùi của Heroux.

Trong lúc đó, El Katook hoảng loạn bò về phía cửa ra vào, tóc lòa xòa xuống mặt. Heroux lại vung rìu lên, gầm gừ, lẩm bẩm trong miệng, và giây sau, thủ cấp của Katook lăn lông lốc trên sàn nhà đầy mạt cưa, lưỡi thè ra giữa hai hàm răng trông đến là gớm guốc. Cái đầu lăn đến bốt của một tay thợ đốn gỗ tên Varney, ông này đã nốc tù tì cả ngày ở quán rượu Đồng bạc nên đến lúc đó, đương sự túy lúy đến độ chẳng biết mình đang trên biển hay trên đất liền. Ông ta đá quả đầu đi mà chẳng buồn nhìn xuống xem nó là gì rồi gào lên bảo Jonesy mang cho mình thêm bia.

El Katook bò thêm một mét, máu phọt ra từ cổ như vòi áp suất cao, thì nhận ra bản thân đã chết rồi ngã đánh phịch. Thế là chỉ còn lại Stugley. Heroux quay sang con mồi cuối cùng, nhưng Studley đã kịp chạy vào nhà xí lộ thiên và khóa trái cửa.

Heroux dùng rìu bổ cửa xông vào, vừa gào thét vừa lải nhải vừa tru tréo, dãi chảy xuống cả cằm. Khi hắn ta xộc vào trong, Studley đã biến mất dù nhà xí nhỏ xíu, lạnh lẽo, dột nước không có cửa sổ. Heroux đứng đó một lúc, đầu cúi gằm, hai cánh tay lực lưỡng nhoe nhoét dính đầy máu, và rồi hắn gầm lên, lật nắp hố xí ba lỗ. Hắn vừa kịp trông thấy đôi bốt của Stugley biến mất bên dưới tấm ván vừa cắm đầu phi xuống đường Giao Thương trong cơn mưa, phân dính từ đầu đến chân, la lên hô hoán mình đang bị truy sát. Ông này là người duy nhất sống sót trong bữa tiệc tùng xẻo ở Đồng bạc, nhưng sau ba tháng nghe người ta đùa nhạo về cách thức trốn thoát của mình, ông ta bỏ xứ ra đi mãi mãi.

Heroux bước ra khỏi nhà xí, đứng trước cửa như con bò sau cuộc tấn công, đầu cúi xuống, giơ rìu về phía trước. Hắn thở hồng hộc, cả người bê bết máu.

“Đóng cửa lại đi, anh Claude, hố cát ấy thối chín tầng mây đấy.” ông Thoroughgood nói. Claude thả rìu xuống sàn rồi làm theo yêu cầu. Quay trở lại cái bàn vương vãi mấy lá bài, nơi ban nãy các nạn nhân của hắn ngồi, hắn đá bay hai cẳng chân của Eddie King cho đỡ vướng. Đoạn hắn lững thững ngồi xuống, hai tay ôm đầu. Trong quán rượu, người ta tiếp tục uống, râm ran trò truyện. Chừng năm phút sau, quán bia tấp nập kẻ ra người vào, trong đó có ba hay bốn viên cảnh sát (viên cảnh sát chỉ huy là bố của Lal Machen, nhưng khi trông thấy mớ hổ lốn ấy, ông lên cơn đau tim và được đưa đến phòng khám của bác sĩ Shratt). Claude Heroux được đưa đi. Hắn ngoan ngoãn theo cảnh sát, nửa tỉnh nửa mơ.

Đêm đó, những quán rượu trên dưới đường Giao Thương và đường Baker bàn tán ầm ĩ về cuộc thảm sát. Những tên bợm rượu sục sôi cảm giác phẫn nộ đầy chính đáng, và khi quán rượu đóng cửa, hơn bảy mươi người đàn ông lũ lượt đi xuống phố về phía nhà tù và tòa án. Họ cầm theo nào đuốc, nào lồng đèn. Có người còn mang theo súng, người thì mang rìu, người lại vác theo móc sắt.

Phải đến trưa hôm sau, cảnh sát trưởng hạt mới từ Bangor về đến nơi nên không có mặt, Goose Machen thì nằm bẹp trong phòng khám của bác sĩ Shratt do đau tim. Hai viên cảnh sát ngồi trong văn phòng chơi đánh bài nghe thấy tiếng đám đông ầm ĩ bèn bỏ của chạy lấy người. Đám say xỉn xông vào và lôi Claude Heroux ra khỏi buồng giam. Hắn ta chẳng buồn chống cự; hắn cứ mơ mơ màng màng như thể trên mây.

Đám đông vác hắn trên vai như công kênh người hùng sân cỏ; họ công kênh hắn xuống đường Kênh Đào rồi treo cổ hắn trên cây du già chìa ra con kênh. “Hắn ta mụ mị đến độ chỉ ngúc ngoắc chân hai lần rồi thôi,” ông Egbert Thoroughgood kể. Theo những gì lịch sử thị trấn ghi nhận, đây là hành vi tử hình duy nhất từng xảy ra ở vùng này của Maine. Và có lẽ chẳng cần nói, vụ việc này không được đăng lên tờ Derry News . Rất nhiều người điềm nhiên nốc bia khi Heroux ra tay trong quán bia Đồng bạc đã tham gia vào công cuộc tròng cổ hắn ta vào thòng lọng. Đến nửa đêm, họ lật mặt nhanh thế không biết.

Tôi hỏi ông Thoroughgood câu hỏi cuối cùng: Ông có thấy người lạ nào trong lúc xảy ra chuỗi sự kiện bạo lực ngày hôm ấy không? Có ai đó mà ông thấy kỳ cục, khác người, lạ lùng, thậm chí trông như hề không? Một người uống bia ở quán vào buổi chiều hôm ấy chẳng hạn, hoặc một kẻ kích động quần chúng đêm đó, khi chuỗi bù khú vẫn kéo dài và nội dung cuộc tán gẫu chuyển sang việc hành hình thủ phạm mà chẳng đợi xét xử?

“Hình như là có,” ông Thoroughgood đáp. Lúc ấy, ông đã mệt, đầu gục xuống, gật gà gật gù. “Chuyện đã xảy ra lâu lắm rồi. Rất lâu, rất lâu rồi.”

“Nhưng ông vẫn nhớ gì chứ ạ?” Tôi lên tiếng.

“Ta nhớ hình như lúc ấy có hội chợ của hạt ở trên Bangor thì phải,” ông đáp. “Đêm đó, ta đang uống bia ở quán Xô máu. Xô máu cách Đồng bạc chừng sau cánh cửa. Có một gã… trông đến là buồn cười… gã nhào lộn, lăn tròn… tung hứng ly rượu… đủ trò lừa phỉnh… để bốn đồng xu trên trán và chúng dính ở đó… mấy trò hề ấy mà…”

Cái cằm xương xẩu của ông lại gục xuống ngực. Ông sắp chìm vào giấc ngủ ngay trước mắt tôi. Nước bọt bắt đầu sùi lên quanh mép, một cái miệng nhiều nếp nhăn chẳng kém gì bóp đựng tiền lẻ của đàn bà.

“Kể từ đó, thỉnh thoảng ta lại thấy gã,” ông Thoroughgood tiếp tục. “Ta đoán chắc đêm đó gã vui lắm… nên mới quyết định ở lại.”

“Phải. Hắn ta ở đây lâu lắm rồi,” tôi nói.

Lời đáp duy nhất của ông là tiếng ngáy khe khẽ. Ông Thoroughgood đã chìm vào giấc ngủ trên chiếc ghế cạnh cửa sổ, với đủ thứ thuốc hầm bà lằng lố nhố xếp dọc bậc cửa sổ, những người lính tập hợp chống lại tuổi già. Tôi tắt máy thu âm, thần người nhìn ông một lúc, nhìn người đàn ông du hành vượt thời gian từ năm 1890 này, nhìn ông cụ từng sống qua cái thời không có xe hơi, không có đèn điện, không có máy bay, không có bang Arizona. Pennywise cũng có mặt ở đó, dẫn dắt họ đến cuộc hiến sinh tưng bừng - một trong rất nhiều cuộc hiến sinh máu me suốt chiều dài lịch sử Derry. Sự kiện xảy ra vào tháng Chín năm 1905 ấy khai mở thời kỳ kinh hoàng tột đỉnh, trong đó có vụ nổ ở Xưởng đúc Kitchener vào mùa lễ Tạ ơn năm sau.

Arizona thành bang năm 1912.

Điều này dấy lên trong tôi vài câu hỏi thú vị (và theo tôi là tối quan trọng). Ví dụ như, thật ra Nó ăn gì? Tôi biết trong số các nạn nhân, vài đứa trẻ bị ăn thịt một phần – trên người chúng có vết cắn – nhưng có lẽ chính chúng ta là kẻ khiến Nó làm như thế. Ngay từ những ngày còn bé, chúng ta đã được dạy rằng khi quái vật bắt được ta trong rừng sâu, nó sẽ ăn thịt chúng ta. Có lẽ, đó là điều tồi tệ nhất ta có thể hình dung. Nhưng suy cho cùng, chẳng phải quái vật sống bằng niềm tin hay sao? Tôi không tài nào cưỡng lại được kết luận: Thức ăn có thể nuôi sống Nó, nhưng ngọn nguồn sức mạnh đến từ niềm tin chứ chẳng phải thức ăn. Và còn ai có thể tin răm rắp hơn một đứa trẻ kia chứ?

Nhưng vấn đề là: con nít rồi cũng lớn. Nhà thờ duy trì và hồi phục sức mạnh bằng các hành động mang tính nghi thức định kỳ. Ở Derry, sức mạnh cũng được duy trì và hồi phục bằng các hành động mang tính nghi thức định kỳ như thế. Phải chăng Nó tự bảo vệ mình bằng sự thật vô cùng đơn giản rằng khi trẻ em lớn lên thành người lớn, chúng mất đi niềm tin, hoặc chúng đã bị bó buộc về trí tưởng tượng, tinh thần?

Phải. Tôi nghĩ bí mật nằm ở đây. Và nếu tôi gọi điện thoại, liệu họ còn nhớ bao nhiêu chuyện xưa? Liệu họ sẽ tin bao nhiêu phần? Liệu có đủ để chấm dứt nỗi kinh hoàng này một lần và mãi mãi, hay chỉ đủ để họ mất mạng mà thôi? Họ đang được Nó gọi về – tôi chỉ biết chừng ấy. Mỗi vụ án mạng trong chu kỳ mới này là một lời réo gọi. Chúng tôi đã suýt kết liễu Nó hai lần, và cuối cùng, chúng tôi đã đẩy Nó lùi sâu vào đám cống ngầm chằng chịt như mạng nhện và những căn hầm hôi thối dưới lòng thị trấn. Nhưng tôi nghĩ Nó biết một bí mật khác: có thể Nó bất tử (hoặc gần như bất tử), nhưng chúng tôi thì không. Nó chỉ cần đợi cho đến lúc niềm tin của chúng tôi, thứ giúp cả bọn có đủ khả năng kết liễu quái vật, tìm được ngọn nguồn sức mạnh, tiêu biến. Hai mươi bảy năm. Có lẽ đó là thời kỳ chợp mắt của Nó, ngắn ngủi và sảng khoái như con người đánh một giấc trưa. Và khi thức giấc, Nó vẫn như xưa, nhưng một phần ba cuộc đời chúng tôi đã trôi qua. Góc nhìn của chúng tôi đã thu hẹp; niềm tin vào điều kỳ diệu, thứ giúp bao điều thần kỳ xuất hiện, đã mai một như đôi giày bớt bóng loáng sau cả ngày đi bộ miệt mài.

Tại sao Nó gọi chúng tôi quay về? Tại sao Nó không để chúng tôi chết cho xong? Vì chúng tôi đã suýt kết liễu được Nó, vì chúng tôi khiến Nó sợ mất mật. Tôi đoán thế. Và vì Nó muốn trả thù.

Và giờ đây, khi chúng tôi chẳng còn tin vào ông già Noel, vào Nàng tiên Răng, vào Hansel Gretel, vào con quỷ dưới cầu, Nó sẵn sàng tính sổ với chúng tôi. Quay về đi, Nó nói. Quay về đi, giải quyết cho xong chuyện ở Derry. Mang banh đũa, bi ve và yo-yo về đây đi! Chúng ta cùng chơi cho vui. Quay về đi, để xem các ngươi có nhớ điều đơn giản nhất hay không: thế nào là làm trẻ con, với niềm tin thâm căn cố đế, và vì thế mà e sợ bóng tối.

Riêng điều này thì tôi ghi điểm cả nghìn phần trăm ấy chứ vì tôi sợ lắm. Sợ đến rụng rời.