← Quay lại trang sách

Chương 19 ĐÊM KHUYA THANH VẮNG
1

Thư viện công cộng Derry/ 1 giờ 15 phút sáng

Khi Ben Hanscom kể xong câu chuyện về những viên đạn bạc, cả nhóm đều muốn trao đổi tiếp nhưng Mike đề nghị mọi người về ngủ cho lại sức. “Các cậu đón nhận thế này là đủ rồi,” anh nói, song trông Mike mới là người đã phải đón nhận nhiều thứ nhất, khuôn mặt anh mệt mỏi rã rời, đến độ Beverly còn nghĩ anh như đổ bệnh đến nơi.

“Nhưng chúng ta đã xong đâu,” Eddie lên tiếng. “Phần ký ức còn lại thì sao? Tớ vẫn chưa nhớ…”

“Mike nói đ-đ-đúng đấy,” Bill ngắt lời. “Chúng ta sẽ nhớ ra hoặc kh-không. Tớ nghĩ s-sớm muộn ta sẽ nhớ thôi. Ta đã nhớ ra những gì c-cần nhớ.”

“Có lẽ đó là những ký ức hữu dụng với chúng ta?” Richie nêu ý kiến.

Mike gật đầu. “Ngày mai mình gặp nhau nhé.” Đoạn anh liếc nhìn đồng hồ. “Ý tớ là lát nữa.”

“Ở đây à?” Beverly hỏi.

Mike chậm rãi lắc đầu. “Tớ nghĩ bọn mình nên hẹn nhau ở đường Kansas, nơi Bill hay giấu xe đạp ngày trước.”

“Chúng ta sẽ đi vào Vùng Đất Cằn sao?” Eddie nói và chợt rùng mình.

Mike lại gật đầu.

Có một khoảng lặng trong lúc mọi người đưa mắt nhìn nhau. Đoạn Bill đứng dậy, cả nhóm lục tục đứng dậy theo.

“Tớ muốn tất cả các cậu hết sức cẩn trọng trong đêm nay,” Mike dặn dò. “Nó đã đến đây rồi! Nó có thể xuất hiện ở bất cứ nơi nào các cậu có mặt. Nhưng cuộc gặp này khiến tớ thấy tươi sáng hơn.” Anh nhìn Bill. “Tớ xin khẳng định là ta vẫn có thể ra tay, cậu có cho là vậy không Bill?”

Bill chậm rãi gật đầu. “Ừ. Tớ cũng nghĩ rằng bọn mình vẫn có thể ra tay.”

“Nó cũng sẽ biết điều đó,” Mike nói, “và Nó sẽ không từ thủ đoạn để chiếm thế thượng phong mà dễ bề lộng hành.”

“Vậy nếu Nó xuất hiện thì chúng ta làm gì?” Richie hỏi. “Bịt mũi, nhắm mắt, quay tới quay lui ba lần và nghĩ đến những điều tốt đẹp à? Hay thổi bụi ma thuật vào mặt Nó? Hát mấy bài hát xưa của Elvis Presley? Hay gì?”

Mike lắc đầu. “Nếu tớ có thể cho cậu câu trả lời thì đã chẳng có vấn đề rồi, đúng không? Tất cả những gì tớ biết là có một thế lực khác - chí ít lúc chúng ta còn bé là thế – muốn chúng ta sống sót và thực hiện nhiệm vụ này. Có thể thế lực ấy vẫn còn tồn tại.” Anh nhún vai đầy bải hoải. “Tớ đã nghĩ hai hay thậm chí ba người trong số các cậu sẽ biến mất lúc chúng ta bắt đầu buổi gặp tối nay. Mất tích hoặc có khi mất mạng. Nhưng nhìn thấy các cậu bình an vô sự xuất hiện như thế này, tớ có thêm lý do để nuôi hy vọng.”

Richie nhìn đồng hồ. “1 giờ 15 rồi. Thời gian trôi như con thoi khi ta vui chơi, Haystack nhỉ?”

“Bíp bíp, Richie,” Ben nói và khẽ mỉm cười.

“Cậu có muốn đi bộ về Nh-Nh-Nhà nghỉ với tớ không, Beverly?” Bill hỏi.

“Được thôi.” Cô khoác áo. Giờ đây, thư viện sao thật tĩnh lặng, tối tăm và đáng sợ. Bill cảm thấy hai ngày vừa rồi vồ vập ập đến cùng lúc, đè nặng lên lưng anh. Nếu chỉ là mệt mỏi thì chẳng nói làm gì, đằng này nó không dừng lại ở đó: anh cảm thấy mình như phát rồ, nằm mơ, gặp ảo giác hay hoang tưởng. Anh có cảm giác mình đang bị theo dõi. Khéo thật ra mình chẳng có mặt ở đây, anh nghĩ. Có khi mình đang ở trong bệnh viện tâm thần của bác sĩ Seward, ngay sát căn nhà đổ nát của Bá tước Dracula, Renfield đứng bên kia phòng, hắn bày đủ trò với đám ruồi, còn mình chống chọi với quái vật, cả hai bọn mình đều đinh ninh bữa tiệc sắp diễn ra, ăn diện hết sức bảnh bao, nhưng không phải điện áo đuôi tôm mà là áo của bệnh nhân tâm thần.

Bill đang nhắc tới các nhân vật trong tiểu thuyết Dracula của Bram Stoker. Bác sĩ Seward là một nhân vật chuyên thí nghiệm trên người, Renfield là một bệnh nhân tâm thần ăn ruồi và dùng ruồi để bẫy các động vật khác để ăn thịt.

“Còn cậu thì sao, R-Richie?”

Richie lắc đầu. “Tớ sẽ nhờ Haystack và Kaspbrak đưa tớ về nhà,” anh nói. “Nhỉ, các bạn hiền?”

“Được thôi,” Ben đáp. Anh liếc nhìn Beverly, lúc ấy đang đứng gần Bill, và cảm thấy lòng mình khẽ nhói đau, một cảm giác anh đã quên bẵng từ lâu. Mảnh ký ức mới rung lên, suýt chút nữa trong tầm tay anh nhưng lại trôi dạt đi xa.

“Cậu thì sao, M-M-Mike?” Bill hỏi. “Cậu có muốn đi bộ cùng Bev và t-tớ không?”

Mike lắc đầu. “Tớ phải…”

Đúng lúc ấy, bỗng dưng Beverly thét lên, tiếng gào rít đầy tổn thương giữa màn đêm tịch mịch. Mái vòm trên đầu đưa tiếng thét lên cao, âm vang tựa tiếng cười của nữ thần báo tử, lượn vòng vòng, vỗ cánh quanh họ.

Bill quay sang nhìn cô; Richie đánh rơi áo khoác lúc nhấc áo khỏi lưng ghế; đoạn tiếng choang chát chúa vang lên khi tay của Eddie thả chai rượu gin trống không xuống sàn.

Beverly lùi khỏi nhóm bạn, hai tay chìa ra phía trước, mặt cắt không còn một giọt máu. Đôi mắt trũng sâu trong hai hốc mắt tím đen trợn trừng. “Tay tớ!” Cô gào lên. “Tay tớ!”

“Có chuyện…” Bill nói chưa hết câu thì nhìn thấy máu chảy ra từ những ngón tay run cầm cập của cô. Dợm tiến lại, chợt anh cảm nhận được những đường rạch ấm nóng và nhói đau trong tay mình. Cơn đau không nhức nhối mà âm ỉ như thỉnh thoảng ta cảm nhận từ vết thương cũ đã lành.

Những vết sẹo cũ trong lòng bàn tay anh, đột nhiên xuất hiện trở lại lúc anh còn ở Anh Quốc, đã toác máu. Anh đưa mắt nhìn sang bên thì thấy Eddie Kaspbrak ngẩn ngơ nhìn xuống hai tay mình. Tay của bạn anh đang chảy máu. Tay Mike, Richie và Ben cũng tương tự.

“Chúng ta sẽ chiến đấu đến tận cùng, phải không?” Beverly hỏi. Nước mắt tuôn rơi trên má cô. Tiếng khóc như khuyếch đại trong thư viện trống trải tĩnh lặng, cả tòa kiến trúc như đang khóc than cùng cô. Bill thầm nhủ trong đầu, nếu phải nghe âm thanh này suốt khoảng thời gian dài, chắc anh sẽ phát điên mất. “Chúa giúp chúng ta, vì chúng ta sẽ chiến đấu đến cùng.” Cô nghẹn ngào rơi lệ, không chỉ nước mắt mà cả nước mũi cũng trào ra ở một bên. Cô đưa mu bàn tay đang run cầm cập của mình lên chùi khiến máu càng thêm lỏng tỏng xuống sàn.

“Nh-Nh-Nhanh lên!” Bill lên tiếng, đoạn chộp lấy tay của Eddie.

“Sao kia…”

“Nhanh lên?”

Anh chìa tay còn lại ra, và giây sau, Beverly nắm lấy. Nước mắt cô vẫn không ngừng lã chã.

“Phải, Mike nói. Anh có vẻ mơ màng - tựa hồ người đang phê thuốc. “Phải, là vậy phải không? Mọi chuyện sắp tái diễn phải không Bill? Mọi chuyện lại sắp xảy ra rồi.”

“Ph-Ph-Phải, tớ ngh-nghĩ vậy…”

Mike nắm tay Eddie, Richie nắm tay còn lại của Beverly. Ben chỉ ngây ra nhìn mọi người, đoạn anh bần thần như kẻ mộng du giơ hai bàn tay đầy máu của mình sang hai bên và bước vào giữa Mike và Richie. Anh nắm chặt lấy tay bạn. Vòng tròn khép kín.

(Ôi Chüd đây là nghi thức Chüd và con Rùa chẳng thể nào giúp chúng ta)

Bill toan thét lên nhưng cổ họng cứng đờ. Anh thấy đầu của Eddie ngửa ra sau, gân cổ nổi lên bần bật. Bev đánh hông hai lần đầy mạnh bạo, như thể cô đang lên đỉnh thật nhanh và bén như khẩu súng 22 vừa phát nổ. Miệng của Mike méo xệch dị dạng, trông như nửa cười nửa nhăn mặt. Trong thư viện yên tĩnh, cửa bập bùng mở ra rồi đóng sập, tiếng động phát ra như quả bóng bowling lăn. Trong phòng Đọc, tạp chí ào ào bay dù tịnh không một cơn gió. Trong văn phòng của Carole Banner, máy đánh chữ IBM của thư viện rẹt rẹt khởi động và tự chạy chữ:

anhđấm

tayvào

cột nhàlaoaioáirằng mìnhgặp

maanhđấmtayvào

Viên bi đánh chữ bị kẹt. Máy đánh chữ xoèn xoẹt và phát ra tiếng điện tử thô kệch khi mọi thiết bị bên trong trở nên quá tải. Trong dãy số 2, kệ sách chứa đầy các đầu sách huyền bí chợt đổ nhào, khiến sách của Edgar Cayce, Nostradamus, Charles Fort và kinh Ngụy tác vương vãi khắp nơi.

Bill cảm thấy quyền uy trào dâng trong người mình. Anh lờ mờ nhận ra mình đang cương lên, và tóc anh dường như dựng đứng. Cảm giác quyền uy trong vòng tròn khép kín này thật vô tiền khoáng hậu.

Bất thình lình, mọi cánh cửa trong thư viện đóng sầm cùng lúc.

Đồng hồ quả lắc rất to dựng đằng sau bàn mượn sách đánh chuông.

Và rồi cảm giác ấy biến mất, như thể vừa có người gạt công tắc.

Cả nhóm buông tay, đưa mắt nhìn nhau, choáng váng. Không ai nói gì. Khi cảm giác quyền uy rút đi như con sóng, Bill thấy lòng mình úa màu sợ hãi. Anh nhìn những khuôn mặt trắng bệch, mệt mỏi của các bạn rồi cúi xuống nhìn hai bàn tay mình. Máu vẫn vương ở đó, nhưng vết thương mà Stan Uris từng rạch bằng mảnh chai Coca-Cola sắc nhọn vào tháng Tám năm 1958 đã khép miệng, chỉ để lại những đường màu trắng ngoằn ngoèo như sợi dây xoắn vào nhau. Anh thầm nghĩ: Hôm ấy là lần cuối cùng bảy người bọn mình có mặt cùng nhau… cái ngày Stan rạch tay cả bọn ở Vùng Đất Cằn. Stan không có mặt ở đây, cậu ấy mất rồi. Và đây là lần cuối cùng sáu người bọn mình được tụ hội bên nhau. Mình biết điều đó, hay nói đúng hơn, mình cảm nhận được điều đó.

Beverly tiến sát đến bên anh, người run cầm cập. Bill vòng một tay ôm lấy cô. Mọi người đều nhìn anh, đôi mắt mở to, sáng bừng trong ánh đèn dìu dịu, cái bàn dài nơi họ ngồi ban nãy lộn xộn chai rượu đã cạn, ly thủy tinh, gạt tàn đầy ắp, tựa hồ một hòn đảo ánh sáng tí hon.

“Thế là đủ rồi,” Bill khàn khàn lên tiếng. “Đủ vui thú cho cả đêm rồi. Bọn mình để dành buổi khiêu vũ cho dịp tới nhé.”

“Tớ nhớ ra rồi,” Beverly nói. Cô ngước nhìn Bill, hai mắt trừng trừng, gò má ươn ướt nhợt nhạt. “Tớ nhớ ra tất cả rồi. Bố tớ phát hiện các cậu. Chúng mình chạy trốn. Bowers, Criss và Huggins. Tớ thoát thân ra sao. Đường cống ngầm… đám chim… Nó… tớ nhớ ra tất cả rồi .”

“Ừ” Richie lên tiếng. “Tớ cũng vậy.”

Eddie gật đầu. “Trạm bơm…”

“Và giờ Eddie…” Bill nói.

“Về thôi,” Mike chen ngang. “Các cậu nghỉ chút đi. Khuya lắm rồi.”

“Thôi. Tớ phải khóa cửa thư viện. Và tớ phải viết vài điều… Nếu muốn, các cậu có thể gọi đó là biên bản cuộc họp. Tớ viết nhanh rồi về ngay. Các cậu cứ đi trước đi.”

Cả nhóm tiến về phía cửa, chẳng ai nói lời nào. Bill và Beverly đi cùng nhau; Eddie, Richie và Ben ở phía sau. Bill giữ cửa và cô thì thầm cảm ơn. Khi cô bước xuống bậc tam cấp bằng đá granite rộng thênh thang, anh chợt nghĩ sao cô trông trẻ trung đến thế, mỏng manh đến thế… Anh ái ngại nhận ra lòng mình đang chếnh choáng men tình trước cô. Anh cố nghĩ về Audra nhưng sao bóng hình vợ anh lại xa xôi đến thế. Khéo lúc này, khi vầng đông ửng hồng và người giao sữa bắt đầu công việc, cô đang khóc nỉ non trong căn nhà của họ ở Fleet.

Bầu trời Derry lại đầy mây, màn sương bảng lảng như những con suối trắng muốt trườn qua nẻo đường vắng ngắt. Xa xa là Nhà Cộng đồng Derry, tòa nhà xây theo lối Victoria vừa cao vừa hẹp, trầm mặc trong đêm tối. Bill thầm nhủ, Bất kể thứ gì bước đi trong Nhà Cộng đồng thì chỉ bước đi đơn côi. Anh phải ngăn mình không phá lên cười khúc khích. Tiếng chân của họ vang vọng quá. Tay của Beverly chạm vào tay anh, và Bill nắm lấy, lòng đầy biết ơn.

Ở đây Bill đang nhắc đến câu văn trong tác phẩm The Haunting of Hill House của Shirley Jackson.

“Mọi chuyện bắt đầu khi chúng ta còn chưa kịp sẵn sàng,” cô trầm ngâm.

“Liệu chúng ta có kh-khi nào s-sẵn sàng ư?”

“Cậu thì có, Bill ạ.”

Cái nắm tay của cô chợt trở nên tuyệt vời và cần thiết xiết bao. Anh tự hỏi cảm giác sẽ ra sao nếu anh được chạm vào ngực cô lần thứ hai trong đời, anh đồ rằng mình sẽ biết câu trả lời trước khi đêm nay kết thúc. Khuôn ngực cô sẽ đầy đặn hơn, trưởng thành hơn… tay anh sẽ chạm vào lớp lông khi anh ấp ủ gò vệ nữ của cô. Anh thầm nghĩ trong đầu mình: Tớ yêu cậu, Beverly ạ… Tớ yêu cậu. Ben cũng yêu cậu… ngày trước hay bây giờ cũng vậy. Tất cả mọi người từ trước đến nay đều yêu cậu. Phải yêu thôi, vì mọi thứ đang bắt đầu. Chúng ta chẳng còn đường lui nữa rồi.

Anh liếc ra sau và trông thấy mình đã cách thư viện nửa dãy nhà. Richie và Eddie đứng ở bậc tam cấp trên cùng; Ben đứng dưới, nhìn theo bọn họ. Anh đút hai tay vào túi quần, vai khuỳnh khuỳnh, qua những dải sương mờ là là trên mặt đất, trông anh như trở lại thành cậu bé mười một tuổi năm xưa. Nếu có thể thần giao cách cảm với Ben, Bill sẽ nói: Nó chẳng quan trọng đâu, Ben ạ. Tình yêu mới là thứ quan trọng, nâng niu… khát khao mới là yếu tố tiên quyết chứ không phải thời điểm. Có lẽ chúng ta chỉ cần mang theo chừng đó thứ khi bước ra khỏi sắc xanh và tiến vào đêm tối. Cảm giác dễ chịu ấy lạnh lẽo quá, nhưng có còn hơn không.

“Ngày ấy, bố tớ phát hiện,” Beverly chợt lên tiếng. “Tớ trở về từ Vùng Đất Cằn được một ngày thì bố tớ phát giác. Tớ đã bao giờ kể với cậu lời ông ấy bảo với tớ khi ông ấy tức giận chưa nhỉ?”

“Ông ấy nói gì?”

“Bố lo cho con lắm, Bevvie.” Ngày xưa, ông ấy hay nói thế. “Bố lo cho con rất nhiều .” Cô vừa phá lên cười vừa run lẩy bẩy. “Tớ nghĩ ông ấy đã cố tình tấn công tớ, Bill ạ. Ý tớ là… trước đó, ông ấy từng đánh đập tớ rồi, nhưng lần ấy, lần cuối cùng ấy lại khác. Nói sao nhỉ… lúc đó, bố tớ lạ lắm. Tớ thương bố. Tớ thương ông ấy rất nhiều, nhưng…”

Cô nhìn anh, dường như muốn anh nói hộ tiếng lòng mình. Song anh không lên tiếng, bởi đó là điều sớm muộn chính cô phải thốt lên, vì bản thân mình. Nói dối và tự lừa bản thân chẳng khác nào những hòn đá tảng sẽ trì bạn xuống.

“Tớ cũng căm ghét ông ấy,” cô tiếp tục, tay run rẩy ghì lấy tay Bill suốt một lúc lâu. “Chưa lần nào trong đời tớ nói với ai điều đó. Tớ cứ nghĩ Chúa sẽ cho sét đánh chết tớ nếu tớ dám phát ngôn như vậy.”

“Vậy cậu hãy nói thêm một lần nữa đi.”

“Không, tớ…”

“Nào. Nói ra rất đau, nhưng có khi nó đã mưng mủ trong lòng cậu lâu lắm rồi. Cậu nói ra đi.”

“Tớ căm ghét bố tớ,” cô nói, không kìm nổi nước mắt. “Tớ căm ghét ông ta, tớ sợ ông ta, tớ căm ghét đến tận xương tủy, tớ chẳng bao giờ là đứa con ngoan vừa mắt bố tớ, tớ ghét ông ta lắm, ghét lắm, nhưng tớ cũng thương ông ấy.”

Anh dừng chân và ôm chặt cô vào lòng. Tay cô hoảng sợ bấu víu lấy anh. Nước mắt cô ướt đầm cổ anh. Anh cảm nhận thật rõ cơ thể cô, căng tràn và săn chắc. Anh khẽ dịch người khỏi cô vì không muốn cô phát hiện anh đang dần cương lên… nhưng rồi cô tiến tới, áp sát vào anh.

“Ngày hôm ấy, bọn mình ở Vùng Đất Cằn suốt buổi sáng,” cô nói, “chơi đuổi bắt hay gì đó thì phải. Một trò chơi vô hại. Thậm chí bọn mình còn không nói gì về Nó, chí ít là lúc đó… mà có một khoảng thời gian, mở miệng ra là bọn mình lại bàn về Nó. Cậu có nhớ không?”

“Ừ,” anh đáp. “Có một kh-kh-khoảng như thế. Tớ nhớ.”

“Trời giăng đầy mây… nóng bức. Bọn mình chơi cả buổi sáng. Sau đó, chừng 11 giờ 30 phút, tớ về nhà. Tớ định ăn bánh bánh mì kẹp hoặc chén canh trước khi tắm táp rồi quay lại chơi với mọi người. Lúc ấy đang là giờ làm việc của bố mẹ tớ. Vậy mà bố tớ lại có mặt ở nhà. Ông ta

2

Đường Chính Phố Dưới/ 11 giờ 30 phút trưa

hất cô văng qua căn phòng lúc cô còn chưa kịp bước chân qua cửa. Cô giật mình thét lên thất thanh, nhưng tiếng hét nghẹn lại khi vai đập phải bức tường đau đến tê tái. Cô ngã vật ra chiếc ghế sô pha lún lõm trong phòng, cuống cuồng đưa mắt nhìn quanh. Cánh cửa dẫn ra sảnh trước đóng sập lại. Bố cô đang đứng ngay cửa.

“Bố lo cho con lắm, Bevvie,” lão nói. “Thỉnh thoảng, bố lo cho con rất nhiều . Con biết vậy mà. Bố hay nói với con như vậy, có đúng không? Con biết rõ điều đó.”

“Bố ơi, có chuyện…”

Lão từ từ bước qua phòng khách, tiến lại gần cô, nét mặt trầm tư, buồn rầu và đầy chết chóc. Cô không muốn thấy vẻ mặt ấy kéo dài, nhưng nó cứ ở đó, như bụi bẩn lóe lên trên mặt nước phẳng lặng. Lão gặm khớp ngón tay phải đầy tư lự. Lão mặc bộ đồ ka ki, và khi liếc xuống, cô trông thấy đôi giày cao cổ của lão dây bẩn lên tấm thảm của mẹ. Mình phải hút bụi cho sạch, cô mơ hồ ngẫm nghĩ. Hút cho sạch đất cát. Nếu bố để mình hút bụi. Nếu bố…

Đó là bùn. Bùn đen. Tâm trí cô cuống lên cảnh báo. Ban nãy, cô chơi ở Vùng Đất Cằn với Bill, Richie, Eddie và mọi người trong nhóm. Dưới Vùng Đất Cằn có loại bùn đen lầy nhầy giống y như bùn dính trên giày của bố cô, ở khu vực đầm lầy nơi những bụi cây mà Richie hay gọi là tre mọc ken dày, trắng hếu như xương. Khi gió thổi qua, thân cây cọ vào nhau lạch cạch vô hồn, tạo nên thứ âm thanh tựa như trống trong nghi lễ tà thuật, và lẽ nào bố cô đã xuống Vùng Đất Cằn? Lẽ nào bố cô…

CHÁT!

Tay lão vụt như tên bắn theo một quỹ đạo thật rộng và giáng xuống mặt cô. Đầu cô bật ngửa vào tường. Lão móc ngón trỏ vào thắt lưng rồi nhìn cô với vẻ mặt tò mò, xa rời thực tại và nguy hiểm chết người. Cô cảm nhận máu nóng hổi rỉ xuống khóe môi bên trái của mình.

“Bố đã nhìn con khôn lớn,” lão lên tiếng, và cô cứ tưởng lão sẽ nói thêm gì đó, nhưng không, câu nói chỉ bỏ lửng ở đó.

“Bố, bố đang nói gì vậy?” cô run run thều thào hỏi.

“Nếu con nói dối bố, bố sẽ đập con thừa sống thiếu chết, Bevvie,” lão nói, và cô hãi hùng nhận ra lão không nhìn thẳng vào mặt mình mà chĩa mắt qua đầu cô, lom lom vào bức tranh treo tường của nhà in Currier and Ives trên sô pha. Tâm trí cô quay cuồng trong điên loạn, rồi cô thấy cảnh tượng lúc mình bốn tuổi, ngồi trong bồn tắm với cái thuyền nhựa màu xanh và cục xà phòng Popeye; bố cô, to lớn, đong đầy tình thương, quỳ gối bên cạnh cô, mặc quần vải chéo xám và áo ba lỗ, một tay cầm khăn, tay kia cầm ly sô-đa cam, vừa cọ lưng cho cô vừa nói, Để bố xem tai cho con nào, Bevvie; lấy ráy tai để mẹ còn đem nấu chứ. Và cô có thể nghe thấy cô bé con ngày xưa cười khúc khích, ngước nhìn khuôn mặt dạn dày sương gió của bố; khuôn mặt mà lúc bé, cô cứ ngỡ sẽ mãi trường tồn.

“Con… con sẽ không nói dối,” cô nói. “Có chuyện gì vậy bố?” Hình ảnh bố trước mắt cô dần nhòe đi khi lệ trào khóe mi.

“Con xuống Vùng Đất Cằn với một đám con trai phải không?”

Cô đứng tim; mắt nhìn xuống đôi giày bám đầy bùn của bố mình. Thứ bùn đen thui, bết dính. Nếu bước sâu vào đó, bùn lầy sẽ kéo giày của ta tuột ra ngay… Richie với Bill đều cho rằng nếu tiến sâu vào trong, đầm lầy sẽ biến thành bùn lún.

“Thỉnh thoảng con xuống chơi ở…”

Chát! Bàn tay chai sần của lão lại giáng xuống mặt cô. Cô thét lên đau đớn và đầy sợ hãi. Vẻ mặt của lão làm cô phát hoảng, và việc lão không buồn nhìn vào mặt cô lại càng khiến cô sợ hãi hơn. Lão ta có vấn đề rồi. Bố cô càng lúc càng kinh khủng… Nhỡ đâu lão ta thật sự muốn giết cô thì sao? Nhỡ đâu

(ôi dừng lại ngay Beverly ông ấy là BỐ mày và CÁC ÔNG BỐ không giết CON GÁI của mình)

lão ta mất kiểm soát thì sao? Nhỡ đâu…

“Con để chúng nó làm gì rồi?”

“Làm gì là sao ạ…” Cô chẳng hiểu ý lão là gì. “Cởi quần ra.”

Cô càng lúc càng bối rối. Lời bố nói chẳng ăn nhập gì với nhau. Nội việc chạy theo những gì lão thốt ra đã đủ khiến cô… xây xẩm, phải, chính là cảm giác ấy.

“Gì kia ạ… tại sao…?”

Lão giơ tay lên; cô rụt người lại. “Cởi ra ngay, Bevvie. Tao muốn xem mày còn nguyên vẹn hay không.”

Và rồi một hình ảnh mới, điên rồ hơn tất thảy hiện lên trong tâm trí cô: cô hình dung mình đang cởi quần jean thì một chân đứt ra. Bố cô chạy quanh phòng đánh đập cô trong lúc cô cố nhảy lò cò thoát thân bằng chân còn lại, lão la hét ỏm tỏi: Tao biết mày không còn nguyên vẹn mà! Tao biết ngay! Tao biết ngay!

“Bố ơi, con không biết…”

Tay lão nhào xuống, nhưng lần này cô không ăn tát mà bị siết thật mạnh. Tay lão bấu vào vai cô cuồng nộ. Cô hét lên. Lão kéo cô đứng dậy, và lần đầu tiên, lão nhìn thẳng vào mắt cô. Một lần nữa, cô bất giác thất thanh khi thấy cảnh tượng trong mắt bố. Hoàn toàn trống rỗng. Đây không còn là bố cô nữa rồi. Và Beverly chợt hiểu cô đang ở một mình trong căn nhà này với Nó, một mình với Nó trong buổi sáng tháng Tám biếng nhác ấy. Cô không cảm nhận được sức mạnh đặc quánh và độc ác thuần túy như trong căn nhà trên đường Neibolt một tuần rưỡi trước đó – cái ác nghiệt của Nó đã bị căn tính của bố cô dung hòa ít nhiều – nhưng Nó vẫn hiện diện ở đây, phát lộ qua con người lão.

Lão hất cô sang một bên. Cô đập người vào bàn, vấp té và ngã nhào xuống sàn với tiếng la. Mọi chuyện xảy ra như thế, cô thầm nghĩ. Mình sẽ nói với Bill để cậu ấy hiểu. Nó hiện diện khắp nơi ở Derry. Nó… Nó tràn vào những nơi trống rỗng, chỉ có thế mà thôi.

Cô lộn một vòng. Bố đang tiến lại về phía cô. Cô lê đũng quần jean lùi khỏi lão, tóc vương cả vào mắt.

“Tao biết mày xuống đó,” lão lên tiếng. “Người ta mách tao. Nhưng tao không tin. Tao không tin cô con gái Bevvie của tao lại đàn đúm với một đám con trai. Và rồi sáng nay, tao tận mắt chứng kiến con gái tao chơi bời với cả nhóm toàn con trai. Còn chưa mười hai tuổi mà mày đã học đòi chơi với một đám con trai rồi cơ đấy!” Dường như suy nghĩ ấy khiến lão nổi cơn tam bành mới; phẫn nộ rần rật chạy khắp thân người gầy gò của lão như điện giật. “Mày còn chưa mười hai tuổi!” Lão gầm lên rồi đá một cú vào đùi cô khiến cô la lớn. Hàm lão nghiến ken két trước sự thật hoặc ý niệm hay bất kể suy nghĩ gì mà lão đang ngẫm trong đầu như hàm con chó đói chực chờ miếng thịt. “Mày còn chưa mười hai tuổi! Chưa mười hai tuổi! Chưa MƯỜI HAI tuổi!”

Lão lại tung cú đá. Beverly loạng choạng chạy trốn. Hai bố con bước vào nhà bếp. Giày lao động của lão đập vào ngăn tủ dưới lò khiến xoong nồi chén bát bên trong lanh canh.

“Ai cho mày chạy trốn tao hả Bevvie,” lão nói. “Mày mà làm thế thì tao sẽ cho mày biết thế nào là lễ độ. Mày liệu mà tin đi. Mày liệu mà tin bố mày đi. Chuyện này rất nghiêm trọng. Mày đàn đúm với cả đám con trai và để cho chúng làm đủ trò với mày – trong khi mày còn chưa mười hai tuổi – tình hình rất nghiêm trọng, có Chúa chứng giám.” Lão chộp lấy cô và kéo vai bắt cô đứng dậy.

“Mày xinh xắn thế này kia mà,” lão thủ thỉ. “Có khối người sẽ sướng rơn khi chăn được một đứa con gái xinh. Và đầy những đứa con gái xinh sẵn sàng để kẻ khác chăn mình. Mày có tỏ ra đàng điếm trước mặt chúng nó không đấy, Bevvie?”

Cuối cùng, cô đã hiểu Nó tiêm nhiễm vào đầu bố cô thứ gì… có điều một phần trong cô biết suy nghĩ ấy đã bén rễ ở đó bấy lâu nay; Nó chỉ tận dụng những công cụ sẵn có, mong chờ được phát huy tác dụng mà thôi.

“Không có, bố ơi. Con không có…”

“Tao đã thấy mày hút thuốc!” Lão gầm lên. Lần này, gã quất lòng bàn tay vào người cô, mạnh đến độ cô lảo đảo lùi lại như kẻ say về phía bàn bếp rồi ngã sõng soài, thắt lưng nhói đau như lửa đốt. Lọ muối và tiêu rơi xuống sàn. Lọ tiêu vỡ tan tành. Những bông hoa màu đen nở bung rồi biến mất trước mắt cô. Âm thanh nghe thật sâu. Cô trông thấy bố. Trên mặt lão có nét gì đó, Lão đang nhìn vào ngực của cô. Cô chợt ý thức áo cánh mình mặc đã phanh ra, vài cái nút bị bung mà cô lại không mặc áo ngực… hay nói đúng hơn là chưa mặc, cô chỉ có mỗi một chiếc áo lá. Tâm trí cô nhớ lại lúc cả bọn bước vào căn nhà trên đường Neibolt, khi Bill đưa áo của cậu cho cô. Cô biết ngực mình nhô lên qua lần áo bông mỏng, nhưng ánh nhìn thỉnh thoảng vượt qua của các bạn không khiến cô phiền lòng: cô thấy chúng hoàn toàn bình thường. Còn ánh nhìn của Bill có gì đó đặc biệt hơn: ấm áp, khát khao, thậm chí âm ỉ mãnh liệt.

Và rồi trong lòng cô ngổn ngang cảm giác tội lỗi xen lẫn sợ hãi. Bố cô có sai không? Phải chăng cô đã

(mày có tỏ ra đàng điếm trước mặt chúng nó không)

có những suy nghĩ không hay? Những suy nghĩ bậy bạ? Những suy nghĩ về thứ mà bố cô đang nói tới?

Nó không hề giống nhau! Nó không giống cách

(mày có tỏ ra đàng điếm)

bố đang nhìn mình lúc này! Không giống!

Cô kéo áo lại.

“Bevvie?”

“Bố, bọn con chỉ chơi với nhau thôi. Bọn con chơi đùa thôi… Bọn con… bọn con không làm gì… không làm gì bậy bạ cả. Bọn con…”

“Tao thấy mày hút thuốc,” lão lặp lại và lừ lừ tiến lại gần cô. Đôi mắt lão di chuyển từ ngực xuống phần hông thon gầy của cô. Chợt lão ông ổng hát vang lên bằng cái giọng chẳng khác nào nam sinh, và điều này càng khiến cô sợ hãi: “Con gái nhai kẹo cao su thể nào cũng rít thuốc! Con gái rít thuốc thể nào cũng bia rượu! Con gái bia rượu thì ai cũng biết sẽ làm trò gì!”

“CON KHÔNG LÀM GÌ CẢ!” Cô hét lên cãi lại khi hai tay của lão chộp lấy vai cô. Lão không siết cô, cũng không làm cô đau. Hai tay của lão rất nhẹ nhàng. Và chẳng hiểu sao đó là điều làm cô sợ nhất.

“Beverly,” lão cuồng dại nói như kẻ bị ma nhập. “Tao đã thấy mày với một đám con trai. Giờ mày nói tao nghe xem một đứa con gái thậm thụt làm trò gì với cả đám con trai trong rừng ngoài nằm ra dâng cỗ cho chúng nó?”

“Để con yên!” Cô thét lên. Phẫn nộ lóe lên từ cái giếng hun hút mà cô không hề hay biết. Phẫn nộ phừng lên ngọn lửa vàng xanh trong đầu cô. Nó đe dọa suy nghĩ của cô. Bao lần bố đã làm cô sợ; bao lần bố đã lăng mạ cô; bao lần bố đã làm cô bị thương. “Bố hãy để con yên!”

“Tao cấm mày nói chuyện với bố mày như thế,” lão đe nẹt, giọng thoáng giật mình.

“Con không làm điều bố nói! Con không bao giờ làm thế!”

“Có thể có. Có thể không. Tao sẽ kiểm tra cho chắc. Tao biết cách. Mày cởi quần ra mau.”

“Không.”

Lão trợn mắt, để lộ giác mạc vàng khè xung quanh mống mắt xanh thẳm. “Mày nói cái gì ?”

“Con bảo không .” Mắt lão dán chặt vào cô, và có lẽ lão đã trông thấy cơn thịnh nộ phừng phừng ở đó, cơn nổi loạn đầy bộc phát. “Ai đã mách bố?”

“Bevvie…”

“Ai mách bố bọn con chơi ở đó? Một người lạ phải không? Có phải gã đàn ông mặc đồ màu cam và bạc không? Hắn mang găng tay phải không? Trông hắn như tên hề dù hắn không phải gã hề đúng không? Tên hắn ta là gì?”

“Bevvie, mày thôi ngay…”

“Không: bố mới là người phải dừng lại,” cô nói.

Lão vung tay, nhưng lần này lão không xòe tay mà siết lại thành nắm đấm như muốn đập bể thứ gì đó. Beverly rụt người né. Nắm đấm của lão vụt trên đầu cô, cắm thẳng vào tường. Lão gầm lên, buông cô ra và đưa nắm tay lên miệng. Cô nhanh chân lùi thật xa.

“Mày quay lại đây ngay!”

“Không,” cô đáp. “Bố muốn đánh con. Con rất thương bố, nhưng con ghét bố như vậy. Bố không thể thượng cẳng tay với con nữa đâu. Nó sai khiến bố làm vậy, nhưng chính bố là người cho Nó vào.”

“Tao chẳng hiểu mày lải nhải cái gì,” lão nói, nhưng mày quay lại đây ngay cho tao. Tao không nói nhiều lần đâu.”

“Không,” cô đáp, nước mắt lại tuôn rơi.

“Đừng để tao đến tận nơi xách cổ mày, Bevvie. Nếu tao làm vậy thì mày chỉ có nước hối hận thôi. Đến đây ngay.”

“Nói con nghe ai đã mách bố,” cô đáp, “thì con đến.”

Lão nhảy bổ về phía cô nhanh như cắt, đến độ dù lường được lão sẽ lao về phía mình nhưng cô suýt nữa vẫn bị bắt. Cô quơ quang chộp lấy tay nắm cửa nhà bếp, kéo cửa mở vừa đủ để mình lọt qua rồi cắm đầu chạy xuống hành lang về phía cửa chính, đầu óc hoảng loạn đến mụ mẫm, chạy giống như cách cô trốn khỏi bà Kersh vào hai mươi bảy năm sau. Đằng sau cô, Al Marsh tông đánh rầm vào cánh cửa khiến nó đóng sập lại và nứt ở ngay giữa.

“TRỞ LẠI ĐÂY NGAY, BEVVIE!” Lão lồng lên, giật tung cánh cửa và rượt theo cô.

Cửa trước đang cài chốt, ban nãy cô về nhà bằng cửa sau. Một tay cô lúng túng mở khóa, tay kia giật nắm cửa trong vô vọng. Đằng sau, bố cô lại gầm lên, tiếng gầm của một

(cởi quần ra đồ đàng điếm)

con thú. Cô xoay tay nắm cửa, và cuối cùng, cửa chính cũng bật mở. Hơi thở nóng bừng rần rật trong cổ họng. Nhìn qua vai, cô thấy bố mình ngay phía sau, lão đang lao tới, vừa nhe nhởn cười vừa nhăn mặt, hàm răng vàng khè lởm chởm như bẫy gấu trong miệng.

Ba chân bốn cẳng chạy qua cửa ngoài hiên, Beverly cảm nhận được những ngón tay của lão sượt qua lưng áo cánh nhưng không chụp được mình. Vội vàng nhào xuống bậc tam cấp, cô mất thăng bằng và ngã xuống vỉa hè xi măng, trầy trụa hết cả hai đầu gối.

“QUAY TRỞ LẠI ĐÂY NGAY BEVVIE KẺO TAO LỘT DA MÀY BÂY GIỜ!”

Lúc lão chạy xuống bậc tam cấp, cô loạng choạng đứng dậy, quần jean thủng lỗ,

(cởi quần ra)

đầu gối chảy máu, đầu mút thần kinh lộ ra hát vang bài ca “Tinh binh Giê-su tiến lên”. Quay ra sau, cô thấy lão đang bám sát nút. Al Marsh, lao công và bảo vệ, gã đàn ông tóc lấm tấm bạc mặc quần ka ki, áo ka ki với hai chiếc túi có nắp, chùm chìa khóa móc vào thắt lưng, tóc bay tứ tung. Nhưng trong mắt bố cô không còn hình bóng của lão nữa – căn tính của người bố từng chà lưng cho cô, từng đấm vào bụng cô, từng làm cả hai điều như thế vì lo cho cô, lo cho cô rất nhiều , người bố từng cố gắng tết tóc cho cô năm cô lên bảy tuổi rồi cột thành mở bùng nhùng, khúc khích cười với cô vì mái tóc chĩa bốn phương tám hướng, người bố biết làm món cocktail trứng sữa vị quế vào Chủ nhật ngon hơn bất cứ món đồ uống nào bán ở Quầy kem Derry với giá hai mươi lăm xu, người bố của cô, người đàn ông nhất trong bao người đàn ông của đời cô, phô diễn những mặt tốt xấu lẫn lộn của khác giới. Tất cả đã không còn trong mắt lão. Cô chỉ thấy mắt lão đơn thuần sát khí. Cô thấy Nó ở đó.

Vậy nên cô chạy. Cô chạy trốn khỏi Nó.

Ông Pasquale giật mình nhìn lên khi đang đứng tưới nước trong khu vườn đầy cỏ dại và nghe tường thuật trận đấu của đội Red Sox trên đài cầm tay đặt ở thành hiện trước. Những đứa con nhà Zinnerman đứng sau chiếc xe Hudson Hornet cũ mua với giá hai mươi lăm đô-la và hôm nào cũng lôi ra chà rửa. Một đứa cầm vòi nước, đứa còn lại cầm xô xà phòng. Cả hai há hốc mồm. Bà Denton nhìn từ chung cư tầng hai, đặt chiếc váy của một trong sáu đứa con gái trong lòng, còn những bộ đồ khác cất trong rổ quần áo để trên sàn, miệng ngậm đầy kẹp. Cậu bé Lars Theramenius nhỏ bé nhanh nhẹn lôi chiếc xe kéo Red Ball Flyer ra khỏi vỉa hè lởm chởm và đứng trên bãi cỏ xơ xác của ông Bucky Pasquale. Mùa xuân năm ấy, có một hôm, Bevvie đã kiên nhẫn bỏ cả buổi sáng để dạy cậu cách cột dây giày sao cho không bị tuột. Cậu òa lên khóc khi cô vừa chạy vừa la hét thật to, hai mắt trợn trừng. Giây sau, bố cô chạy qua, gầm lên chửi rủa, và Lars, cậu bé lúc ấy mới ba tuổi và mười hai năm sau sẽ mất mạng trong một vụ tai nạn xe gắn máy, nhìn thấy một thứ tàn tệ, không chút tính người trên khuôn mặt của Marsh. Sau vụ đó, cậu bé gặp ác mộng suốt ba tuần liền. Cậu nằm mơ thấy lão Marsh biến thành con nhện chui vào quần áo cậu.

Beverly cắm đầu cắm cổ chạy. Thâm tâm cô biết rõ tính mạng mình như chỉ mành treo chuông. Nếu bắt được cô, còn lâu lão mới màng đến chuyện hai bố con đang ở ngoài đường. Thỉnh thoảng, người ta lại làm đủ trò điên rồ ở Derry; cô chẳng cần phải đọc báo hay biết lịch sử kì dị của thị trấn này mới hiểu điều đó. Nếu thộp được cô, lão sẽ bóp cổ cô hoặc đánh đập cô. Và sau khi tẩn cô, ai đó sẽ đến gô cổ lão lại, lão sẽ vào tù bóc lịch giống như bố dượng của Eddie Corcoran, đầu óc mơ màng, xa rời thực tại.

Cô chạy về phía trung tâm thị trấn, ngang qua càng lúc càng nhiều người. Họ trố mắt nhìn – đầu tiên là nhìn cô, sau đó nhìn ông bố đang rượt theo sau – ai nấy đều tỏ vẻ ngạc nhiên, thậm chí nhiều người còn bàng hoàng. Nhưng nét mặt họ chỉ đến đấy chứ không hơn. Nhìn xong, họ tiếp tục việc mình đang làm. Không khí lưu thông trong phổi cô càng lúc càng nặng nề.

Cô băng qua Kênh Đào, chân đạp bồm bộp trên mặt xi măng trong lúc xe cộ ầm ì chạy qua cây cầu gỗ phía bên tay phải. Phía bên trái, cô có thể trông thấy phần đá bán nguyệt ở đoạn Kênh Đào chui xuống trung tâm thị trấn. Bất thình lình, cô băng qua đường Chính, mặc kệ tiếng còi ầm ĩ và tiếng phanh kin kít vang lên. Cô rẽ phải vì Vùng Đất Cằn nằm ở hướng đó. Nó còn cách cô hơn một cây rưỡi, và nếu muốn chạy đến đó, cô phải làm mọi cách để bỏ xa bố cô trên triền dốc tức của đồi Dặm Trên (hoặc con phố nào đó thậm chí còn dốc hơn). Đó là cách duy nhất.

“QUAY LẠI ĐÂY CON KHỐN TAO CẢNH CÁO MÀY!”

Lúc bước qua vỉa hè phía bên kia đường, cô liếc thật nhanh về sau khiến suối tóc đỏ hất lên vai. Bố cô đang băng qua đường, chẳng buồn để tâm đến xe cộ y như cô ban nãy, mặt lão đỏ bừng, mồ hôi mồ kê nhễ nhại.

Cô thụp người xuống ở con hẻm đằng sau dãy Nhà kho. Đây là mặt sau của các nhà máy với mặt tiền quay ra đồi Dặm Trên: Star Beef, Đóng gói thịt Armour, Kho và Nhà chứa Hemphill, Eagle Beef & Kosher Meats. Con hẻm chật hẹp trải sỏi, đã vậy còn lổn ngổn cả đống thùng rác bốc mùi nồng nặc nên lại càng trở nên nhỏ hơn. Sỏi nhơm nhớp thứ rác rưởi gớm ghiếc chẳng rõ là gì. Đủ thứ mùi hỗn tạp, nhạt nhẽo có, thối um có, choáng váng có… nhưng mùi nào mùi nấy đều tanh tưởi mùi thịt tươi và máu me. Ruồi bay thành đàn. Từ bên trong một số nhà máy, cô có thể nghe thấy tiếng cưa xương rít lên rợn da gà. Chân cô loẹt quẹt chới với trên mặt sỏi nhớp nhúa. Hông cô húc vào thùng rác mạ kẽm, khiến đống lòng mề bọc trong giấy báo rơi ra như những khóm hoa rừng bằng thịt khổng lồ.

“MÀY QUAY LẠI ĐÂY NGAY CHO TAO BEVVIE! TAO KHÔNG ĐÙA ĐÂU NHÉ! ĐỪNG ĐỔ THÊM DẦU VÀO LỬA NỮA!”

Hai người đàn ông ngồi nghỉ ở cửa khuân vác hàng của nhà máy Đóng gói Kirshner, gặm lấy gặm để chiếc bánh mì kẹp to ụ, cặp lồng đựng bữa tối đang để mở bên cạnh. “Chết mày chưa nhóc ơi,” một người bâng quơ lên tiếng. “Xem ra mày sắp bị bố mày tẩn cho một trận lên bờ xuống ruộng rồi.” Người còn lại phá lên cười.

Bố cô đang tăng tốc. Cô có thể nghe thấy tiếng chân nên thình thịch và tiếng thở nặng nề ngay phía sau, nhìn sang phải, cô trông thấy bóng lão vùn vụt chạy dọc hàng rào bằng gỗ cao cao.

Đoạn lão tức tối thất thanh khi bị trượt và đo ván lên mặt đường trải sỏi. Nhưng lão ngay lập tức bật dậy, không la hét ỏm tỏi nữa mà chỉ gào rú những tiếng chẳng rõ nghĩa đầy thịnh nộ trong lúc hai gã đàn ông đứng ở cửa ha hả cười và vỗ bồm bộp lên lưng nhau.

Con hẻm ngoặt sang trái… và Beverly phanh kít lại, miệng há to thảng thốt. Một xe rác đang đậu chắn ngay miệng con hẻm. Hai bên còn không hở đến hai mươi phân. Động cơ xe ầm ì chạy. Lẫn trong tiếng xe, cô có thể nghe thấy tiếng trò chuyện rì rầm trong buồng lái. Bọn họ đang nghỉ trưa. Chưa đầy ba, bốn phút nữa là đến trưa, chẳng mấy chốc, chiếc đồng hồ của tòa án sẽ điểm.

Bev có thể nghe thấy tiếng bố mình đang chạy đến, càng lúc càng gần. Cô thụp người chui xuống dưới gầm xe, lồm cồm bò bằng khuỷu tay và đầu gối rách. Mùi khói xe, mùi xăng trộn với mùi thịt sống khiến cô xây xẩm mặt mày. Cô di chuyển tương đối dễ dàng, nhưng không vì thế mà bớt gớm ghiếc: cô trượt trên mặt đất nhớp nhúa, rác đóng thành lớp trơn tuột. Cô trườn tiếp, có lúc nhổm lưng cách mặt sỏi quá xa và đập thẳng vào ống bô nóng rẫy của chiếc xe. Cô phải cắn răng để không thét lên.

“Beverly? Mày ở dưới đó đúng không?” Từng tiếng rời rạc vang lên vì bố cô hổn hển hớp lấy hớp để không khí. Quay lại, cô trông thấy hai con người lúc lão cúi xuống nhìn bên dưới chiếc xe.

“Để… con yên!” Cô chật vật nói.

“Con khốn kiếp,” lão gằn từng lời, sặc nước bọt. Lão nằm thụp xuống, chìa khóa leng keng đánh vào nhau rồi bắt đầu bò đuổi theo cô, trườn bằng động tác như bơi lội trông rõ là gớm ghiếc.

Beverly vươn tay từ dưới gầm xe và móc vào bánh xe to tướng rãnh xe ngập lên tận đốt thứ hai của ngón tay cô – rồi lấy đà vươn người lên. Cô đập xương cụt vào thanh cản trước của xe rác rồi co giò chạy tiếp đến đồi Dặm Trên, áo quần nhầy nhụa và hôi đến điếc mũi. Quay ra sau, cô trông thấy bàn tay và cánh tay lốm đốm tàn nhang của bố vươn ra từ dưới gầm xe rác như móng vuốt của một con quái vật tưởng tượng thò ra từ gầm giường.

Không kịp nghĩ ngợi, cô vội vàng lao vào khoảng trống giữa Nhà kho Feldman và Xưởng phụ của anh em Tracker. Khoảng trống này quá nhỏ, chẳng bằng một con hẻm, đầy thùng gỗ nham nhở, um tùm cỏ dại, rậm rì hoa hướng dương và tất nhiên, ngập ngụa cơ man nào là rác. Beverly thụp xuống đằng sau đống thùng gỗ và chồm hổm núp. Chốc sau, cô trông thấy bố cô chạy ngang qua khoảng trống giữa hai tòa nhà rồi tiếp tục chạy lên đồi.

Beverly đứng dậy và vội chạy đến cuối khe hẹp. Cuối đường có hàng rào mắt cáo. Cô lồm cồm trèo qua rào. Giờ cô đang ở trong khu đất của Chủng viện Thần học Derry. Cô chạy lên bãi cỏ được cắt tỉa gọn gàng bọc đằng sau và bên hông tòa nhà. Cô có thể nghe thấy tiếng ai đó chơi nhạc cổ điển bằng đàn organ ở bên trong. Những nốt nhạc trầm bổng như khắc vào không gian tĩnh mịch sự du dương và da diết.

Có một bờ giậu rất cao ngăn giữa Chủng viện và đường Kansas. Cô đưa mắt nhìn qua thì trông thấy bố mình ở phía bên kia con đường, thở phì phò, mồ hôi túa ra như tắm khiến hai nách áo lao động xám ngả tối. Lão dáo dác nhìn quanh, hai tay chống nạnh. Chùm chìa khóa của lão lấp lánh dưới ánh nắng.

Beverly quan sát, hơi thở cũng hổn hển chẳng kém gì lão, tim như ngựa phi nước đại trong lồng ngực. Cô khát đến khô họng, và thứ mùi thối hoẵng làm cô phát tởm. Nếu mình được vẽ trong mẩu truyện tranh, cô bâng quơ nghĩ, thể nào cũng có những đường gợn sóng mô tả mùi hôi tỏa ra từ người mình.

Bố cô từ từ bước đến Chủng viện.

Beverly nín thở.

Chúa ơi, con xin Người, con hết chạy nổi rồi. Chúa ơi, cứu con với. Đừng để bố phát hiện ra con.

Al Marsh chậm rãi bước dọc vỉa hè, băng qua ngay chỗ cô con gái đang nấp phía bên kia bờ giậu.

Chúa ơi, đừng để bị đánh hơi thấy mùi của con!

May sao lão không phát hiện – có lẽ là sau cú vồ ếch ở hẻm và lăn lê bò toài dưới xe rác, Al cũng thối nồng nặc như cô con gái của mình. Lão bước tiếp. Cô nhìn theo bóng lão đi xuống đồi Dặm Trên cho đến khi khuất mắt.

Beverly từ từ đứng dậy. Quần áo của cô dính đầy rác rến, mặt dơ như hủi, lưng nhói đau vì ban nãy bỏng ống bô của xe chở rác. Nhưng những điều bên ngoài này chẳng là gì so với bao suy nghĩ rối như tơ vò đang cuộn trào trong đầu - cô cảm thấy mình đã rời xa thế giới và cách cư xử bình thường không còn ăn thua nữa. Cô không tài nào tưởng tượng được cảnh mình về nhà, nhưng không về nhà thì biết xoay xở thế nào đây. Cô đã chống đối bố mình, phải, cô đã chống lại lão ta…

Cô phải gạt suy nghĩ ấy đi vì nó khiến cô bủn rủn tay chân, ốm đến phát mửa. Cô thương bố lắm. Chẳng phải một trong Mười Điều Răn có nói “Ngươi hãy thảo kính mẹ bố, để được sống lâu trên đất mà Đức Chúa ban cho ngươi” đó sao? Phải. Nhưng bố cô bình thường không như thế. Đó không phải bố cô mà là một người hoàn toàn khác lạ. Một kẻ giả dạng bố cô. Là Nó…

Bỗng nhiên cô thấy lạnh người khi một câu hỏi khủng khiếp trờ đến. Liệu tai ương giống thế này có xảy ra với các bạn của cô hay không? Có phải cảnh báo họ. Họ đã làm Nó bị tổn hại, nên có lẽ Nó đang ra tay để bọn họ vĩnh viễn không còn cơ hội tấn công Nó nữa. Và thật ra mà nói, cô còn chỗ nào để bấu víu kia chứ? Họ là những người bạn duy nhất mà cô có. Bill. Bill sẽ biết phải hành động ra sao. Bill sẽ biết cô nên làm gì, Bill sẽ cho cô hay nước đi kế tiếp.

Đứng ở chỗ giao giữa lối đi của Chủng viện với vỉa hè đường Kansas, cô nhìn qua bờ giậu. Bố cô đã hoàn toàn mất dạng. Cô quay sang phải và đi dọc theo đường Kansas về phía Vùng Đất Cằn. Có lẽ giờ này chưa ai xuống đó; chắc mọi người đang ở nhà ăn trưa. Nhưng chẳng mấy chốc, họ sẽ đến. Trong lúc đó, cô sẽ chui xuống phòng sinh hoạt nhóm mát mẻ của cả bọn và tìm cách lấy lại bình tĩnh. Cô sẽ mở toang ô cửa sổ con con để ánh nắng tràn vào, và nếu được, có khi cô sẽ chợp mắt một lát. Cơ thể mệt bã và tâm trí căng như dây đàn của cô hào hứng trước suy nghĩ ấy. Phải, giờ mà được ngủ thì còn gì bằng.

Vừa rụt cổ, cô vừa đi ngang qua những căn nhà cuối cùng trước khi mặt đất dốc hẳn, không thể xây nhà, và từ đó dẫn xuống Vùng Đất Cằn - Vùng Đất Cằn, nơi bố đã lén lút theo dõi cô, điều mà đến lúc này, cô vẫn chưa tài nào tin nổi.

Cô không nghe thấy tiếng bước chân phía sau. Đám du côn bám theo cô đang vận lực để rón rén hết mức có thể. Chúng đã bị cho hít khói một lần và đừng hòng chúng để mình ăn quả đắng lần nữa. Chúng dần dần tiến lại, tịnh không tiếng động. Ợ Hơi và Victor toe toét cười, còn khuôn mặt Henry đờ đẫn và nghiêm túc đến sợ. Đầu tóc hắn bù xù như tổ quạ. Mắt hắn trống rỗng như mắt của Al Marsh lúc ở trong nhà. Hắn giơ ngón tay cáu cần lên môi, ra hiệu suỵt trong lúc ba kẻ du côn rút ngắn khoảng cách từ hai mươi mét xuống còn mười lăm mét, rồi mười mét.

Mùa hè năm ấy, Henry càng lúc càng chơi vơi bên bờ vực loạn trí, cây cầu hắn chênh vênh bước đi ngày một hẹp. Vào cái ngày hắn cho phép Patrick Hockstetter ve vuốt mình, cây cầu ấy chỉ còn là sợi dây thừng. Sáng nay, sợi dây ấy đã đứt phựt. Sớm hôm ấy, hắn trần truồng bước ra sân, mặc độc mỗi chiếc quần con rách nát, vàng ố rồi ngước đầu nhìn bầu trời. Bóng trăng mờ vẫn còn đó, và khi hắn ngẩng lên, bỗng dưng Mặt Trăng biến thành khuôn mặt xương xẩu nham nhở cười. Henry khuỵu gối trước khuôn mặt ấy, tôn kính trong sợ hãi và hân hoan. Những giọng nói ma vẳng xuống từ Mặt Trăng. Giọng nói biến thiên không ngừng, có lúc hòa vào tiếng léo nhéo chẳng rõ thanh âm… nhưng hắn cảm nhận được chân lý, chân lý duy nhất: tất cả những giọng nói này là một, là giọng của đấng quyền năng. Giọng nói ấy ra lệnh cho hắn huy động Ợ Hơi và Victor đến góc đường Kansas giao với Đại lộ Costello trưa nay. Giọng nói ấy bảo hắn phải làm gì sau đó. Và ô kìa, con khốn ấy đã câng câng xuất hiện. Hắn đợi xem giọng nói sẽ bảo mình làm gì tiếp theo. Câu trả lời đến khi bọn chúng rút ngắn khoảng cách với cô. Giọng nói không truyền xuống từ Mặt Trăng mà từ lưới sắt che cống mà bọn chúng đi ngang qua. Giọng nói trầm nhưng rất rõ ràng. Ợ Hơi và Victor liếc về phía lỗ cống một cách đờ đẫn, gần như bị thôi miên, đoạn lại quay sang nhìn Beverly.

Giết nó, giọng nói từ trong cống gọn lỏn.

Henry Bowers thò tay vào túi quần jean, lấy ra một thứ thuôn dài chừng hơn hai mươi phân với những đường khảm giả ngà dọc hai bên thân. Có nút bằng crôm nhỏ loang loáng ở cuối món đồ trang trí kỳ cục này. Henry ấn vào nút thì lưỡi dao dài mười lăm phân bật ra khỏi khe ở cuối tay cầm. Hắn mân mê con dao bấm trong lòng bàn tay, đoạn sải chân nhanh hơn. Victor và Ợ Hơi cũng guồng chân để theo kịp, khuôn mặt vẫn còn vẻ ngu dại.

Nói chính xác thì Beverly không nghe thấy tiếng bọn chúng; đó không phải lý do cô quay đầu lại lúc Henry Bowers tiến sát đến đằng sau. Gập đầu gối, rón rén bước đi, nụ cười ghim cứng trên mặt, Henry không phát ra tiếng động. Không, đơn giản chỉ là cảm giác, quá rõ, quá thẳng thừng và quá mãnh liệt nên lồ lộ: cô đang

3

Thư viện công cộng/1 giờ 55 phút sáng

bị theo dõi.

Mike Hanlon đặt bút xuống rồi nhìn qua mái vòm tranh tối tranh sáng của gian chính thư viện. Anh thấy những quầng sáng chiếu từ đèn tròn thả từ trần nhà, anh thấy những cuốn sách như nhòa vào bóng tối, anh thấy cầu thang sắt duyên dáng uốn lượn theo đường xoắn ốc lên các kệ sách. Anh thấy chẳng có gì bất thường.

Nhưng đồng thời, anh cảm nhận anh không phải người duy nhất có mặt ở đây. Không còn như vậy nữa.

Sau khi nhóm bạn ra về, Mike dọn dẹp theo thói quen. Cơ thể anh cứ thế tự hoạt động, còn đầu óc anh đang cách xa cả triệu cây số – cách đây hai mươi bảy năm trước. Anh đổ gạt tàn, vứt vỏ chai rượu rỗng (anh còn xếp một lớp rác lên trên để Carole không thất kinh), chai nào trả lại được thì anh xếp trong cái hộp đằng sau bàn làm việc của mình. Đoạn anh lấy chổi quét dọn những miếng chai rượu gin mà Eddie làm vỡ.

Khi bàn đã ngăn nắp trở lại, anh vào phòng Đọc và nhặt những tờ tạp chí vương vãi. Trong lúc làm những công việc đơn giản này, đầu óc anh sàng lọc những câu chuyện mà mọi người kể - tập trung nhất vào những chi tiết mà họ đã bỏ qua. Mọi người cho rằng mình đã nhớ lại tất cả, anh thấy Bill và Beverly đã nhớ ra gần hết. Nhưng vẫn còn những mảng ký ức khác, rồi chúng sẽ trở về với họ… dần dà theo thời gian. Năm 1958, họ không có cơ hội chuẩn bị. Họ trao đổi liên tu bất tận – cuộc thảo luận chỉ bị gián đoạn bởi trận ném đá và lần cả nhóm cùng nhau xông pha ở căn nhà số 29 đường Neibolt – và có khi họ chỉ bàn bạc chứ chẳng làm được gì khác. Rồi ngày 14 tháng 8 trờ đến, Henry cùng bè lũ ác ôn kia đuổi đánh họ vào cống ngầm.

Có lẽ ban nãy, mình nên kể với mọi người, anh thầm nghĩ trong lúc đặt nốt mấy cuốn tạp chí còn sót lại về chỗ cũ. Nhưng thế lực nào đó đã phản đối ý tưởng ấy - anh đồ rằng đó là giọng nói của con Rùa. Có lẽ đó là một phần của nó, và có lẽ cái vòng luân hồi này cũng là một phần của nó. Phải chăng rồi đây, hồi cuối cùng sẽ lặp lại theo một cách mới. Anh đã cẩn thận chuẩn bị sẵn đèn pin và mũ thợ mỏ cho ngày mai, anh đã cuộn sẵn bản đồ hệ thống cống thoát nước của Derry, cột bằng dây thun rồi cất trong tủ. Nhưng ngày họ còn bé, bao nhiêu trao đổi, bao nhiêu kế hoạch, dù nửa mùa hay không, cuối cùng đều như dã tràng xe cát; kết cục đơn giản là họ bị rượt đuổi vào đường cống ngầm, dồn vào cuộc đối đầu sau đó. Liệu điều này có xảy ra lần nữa hay không? Dần dà, anh đã ngộ ra niềm tin và sức mạnh tuy hai nhưng một. Phải chăng sự thật cuối cùng còn đơn giản hơn thế? Rằng ta chẳng thể nào giải phóng niềm tin cho đến khi bị quẳng vào mớ bùng nhùng đảo điên, tựa như đứa trẻ mới sinh rơi ra khỏi bụng mẹ mà chẳng có dù để hạ cánh? Một khi đã rơi, ta buộc phải tin rằng cái dù có tồn tại để nó hiện diện trên đời, chẳng phải sao? Kéo mở dù trong lúc rơi chính là tuyên bố cuối cùng của ta về vấn đề ấy, theo cách này hay cách khác.

Chúa ơi, mình đang giảng đạo như giám mục Fulton Sheen vậy, Mike nghĩ và khẽ phá lên cười.

Mike dọn dẹp gọn gàng, đăm chiêu suy nghĩ, đâu đó trong đầu, anh cứ đinh ninh khi xong xuôi, anh sẽ mệt bã, chỉ muốn về nhà và đánh một giấc vài tiếng. Nhưng sau khi xong việc, anh lại thấy mình tỉnh như sáo. Thế nên anh đi đến khu chứa sách đặc biệt phía sau phòng làm việc. Anh dùng chìa khóa mở cổng lưới rồi bước vào trong. Được thiết kế để chống lửa nếu đóng kín và khóa cánh cửa kiên cố chẳng khác nào cửa hầm, phòng chứa đặc biệt này lưu trữ ấn bản đầu các cuốn sách quý của thư viện, những cuốn sách có chữ ký của tác giả quá cố (trong ấn bản chữ ký phải kể đến Moby Dick và Leaves of Grass của Whitman), các tài liệu lịch sử liên quan đến thị trấn, các giấy tờ cá nhân của một số tác giả từng sống và làm việc ở Derry. Mike hy vọng nếu mọi chuyện kết thúc êm đẹp, anh có thể thuyết phục Bill gửi gắm bản thảo của cậu ấy ở Thư viện công cộng Derry. Bước xuống dãy thứ ba của kho chứa bên dưới bóng đèn với chụp bằng thiếc, ngửi thứ mùi quen thuộc của thư viện, trộn hòa của mùi bụi, thoảng mùi quế, mùi giấy cũ, anh thầm nhủ: Nếu mình chết, mình đoán mình sẽ ra đi với một tay cầm thẻ thư viện, tay kia cầm dấu mộc QUÁ HẠN. Chậc, chí ít như thế còn tốt chán so với việc mình chết với khẩu súng trên tay, mọi đen ạ.

Anh dừng chân ở giữa dãy thứ ba. Cuốn sổ tốc ký quăn góc chứa những câu chuyện về Derry mà anh vội vàng ghi lại cùng những ưu tư phiền não chất chứa trong anh, được nhét giữa cuốn Thị trấn Derry xưa của Fricke và Lịch sử Derry của Michaud. Trước đó, anh đẩy cuốn sổ sâu vào trong đến mức nó gần như khuất khỏi tầm mắt. Không ai có thể tình cờ tìm thấy cuốn sổ này trừ khi họ cố tình lục lọi.

Sau khi lấy cuốn sổ rồi tắt đèn trong phòng chứa sách và khóa lại cửa lưới, Mike trở lại chiếc bàn mà tối nay mọi người cùng quây quần. Anh ngồi xuống, lật qua những trang sách mà mình đã viết, thầm nhủ bản thân đã tạo nên một bản khai kỳ lạ và chắp vá đến nhường nào: phần ghi lịch sử, phần lưu lại những mảng tối, phần ghi nhật ký, phần bộc bạch cõi lòng. Từ ngày mùng 6 tháng 4 đến giờ, anh chưa viết dòng nào. Chắc phải mua cuốn mới sớm thôi, anh nghĩ trong lúc lướt qua vài trang giấy trắng còn sót lại. Trong một thoáng, anh thích thú nghĩ đến bản thảo đầu tiên của tác phẩm Cuốn theo chiều gió của Margaret Mitchell, viết bằng tay trong hàng chồng, hàng chồng vở học sinh. Đoạn anh mở nắp bút, chừa hai dòng từ đoạn cuối và viết Ngày 31 tháng 5 . Anh dừng lại, bâng quơ đưa mắt nhìn khắp thư viện không bóng người rồi viết lại những chuyện đã xảy ra trong ba ngày vừa qua, mở đầu bằng cuộc điện thoại anh gọi cho Stanley Uris.

Anh cẩn thận viết suốt mười lăm phút, sau đó, sức tập trung của anh bắt đầu bị lung lạc. Anh dừng bút hết lần này đến lần khác. Hình ảnh cái đầu lìa khỏi cổ của Stan Uris trong tủ lạnh cứ len vào tâm trí anh, cái đầu máu me, miệng mở to, nhét đầy lông vũ, rời khỏi tủ lạnh, lăn đến chỗ anh. Anh cố gắng gạt hình ảnh ấy đi để tiếp tục viết. Năm phút sau, anh giật mình ngước lên và nhìn quanh, đoán chắc mình sẽ thấy một cái đầu lăn qua những ô gạch đỏ đen đã cũ ở gian phòng chính, hai con ngươi như thủy tinh, sáng quắc như mắt con nai trưng trên tường. Nhưn