← Quay lại trang sách

Chương 20 VÒNG TRÒN KHÉP LẠI
1
Tom

Tom Rogan vừa mơ một giấc mơ điên rồ. Trong mơ, hắn giết chết bố mình.

Một phần tâm trí hắn hiểu điều đó điên cỡ nào, bởi bố hắn đã chết năm Tom mới học lớp Ba. Chà… nói “chết” thì cũng không chuẩn lắm. Có lẽ “tự sát” mới là sự thật. Ralph Rogan tự chế một ly gin pha xút. Uống một ly xong lên đường, theo nghĩa đen. Kể từ đó, Tom phải chăm nom các em của mình, và cứ có vấn đề gì xảy ra, hắn lại “ăn đòn”.

Vậy nên chuyện hắn giết bố là điều bất khả thi… nhưng trong giấc mơ đáng sợ ấy thì khác, hắn cầm cán một thứ gì đó trông vô hại kề vào cổ bố hắn… có điều sao nó không vô hại được kia chứ? Có nút ở cán, và nếu hắn ấn vào, lưỡi dao sẽ vụt ra, cắm thẳng vào cổ bố hắn. Con sẽ không làm điều như vậy đâu, bố cứ yên tâm, tâm trí hắn thầm nhủ ngay trước khoảnh khắc ngón tay hắn nhận cái nút khiến lưỡi dao phóng ra. Đang say sưa ngủ, bố hắn trợn trừng mắt, chằm chằm nhìn thẳng lên trần nhà, miệng há to, một tiếng ằng ặc tanh máu vang lên. Bố ơi, không phải con! Tâm trí hắn thét lên. Có kẻ đã…

Hắn vật vã tìm cách tỉnh dậy nhưng bất lực. Điều tốt nhất hắn có thể làm (hóa ra chẳng tốt lành chút nào) là chìm vào giấc mơ mới. Trong giấc mơ này, hắn đang bì bõm lội xuống đường hầm vừa dài vừa tối tăm. Vùng bộ hạ của hắn nhói đau, mặt hắn sưng vù, chi chít vết xước. Có vài kẻ đi chung nhưng hắn chỉ nhìn ra những hình thù mờ mờ. Mà điều đó cũng chẳng quan trọng cho lắm. Quan trọng là những đứa trẻ đang chạy đằng trước. Chúng phải trả giá. Chúng phải

(nhận roi vọt)

bị trừng phạt.

Chẳng rõ chốn địa ngục này là gì, chỉ biết nó thối hoẵng. Nước nhỏ tong tỏng, vang vọng. Giày và quần hắn ướt sũng. Đám ranh con khốn kiếp kia ở đâu đó trong mê cung cống ngầm, và có lẽ bọn chúng nghĩ

(Henry)

Tom và đám bạn của hắn sẽ bị lạc, nhưng gậy ông đập lưng ông rồi,

(ha ha đáng đời chúng mày!)

vì hắn còn một người bạn khác, phải, một người bạn đặc biệt, và người này đã đánh dấu đường chúng phải đi bằng… bằng…

(bóng Mặt Trăng)

thứ gì đó vừa to vừa tròn, tỏa ra ánh sáng mờ ảo như ngọn đèn đường kiểu xưa. Bóng bay lơ lửng tại những chỗ giao nhau, và ở mỗi phía lại có mũi tên chỉ về ngã rẽ mà hắn và

(Ợ Hơi với Victor)

những người bạn không rõ hình tướng kia phải đi. Lối này chuẩn xác ; phải, bởi hắn có thể nghe thấy bọn chúng ở phía trước, tiếng lội bì bõm vọng lại, giọng nói thì thầm không tròn chữ. Hắn và đồng bạn đang rút ngắn khoảng cách, gần đuổi kịp rồi. Và khi bọn hắn bắt được chúng… Tom nhìn xuống thì thấy hắn vẫn cầm con dao bấm trong tay.

Trong một khắc, hắn sợ hết vía – điều này giống những trải nghiệm xuất hồn điên rồ mà thỉnh thoảng hắn lại đọc trên mấy tờ tuần báo, cụ thể là linh hồn sẽ rời khỏi cơ thể và nhập vào các người khác. Hắn cảm thấy thân thể này rất xa lạ, như thể đây không phải là Tom mà là

(Henry)

ai đó, một người trẻ hơn. Hoảng sợ, hắn tìm cách thoát khỏi giấc mơ ấy thì bỗng nhiên, giọng nói êm ái vang lên, thì thầm vào tai hắn: Thời gian chuyện này xảy ra hay ngươi là ai không quan trọng. Quan trọng là Beverly đang ở phía trước, với bọn chúng, bạn hiền của ta, và người biết gì không? Cô ta đang làm đủ trò tồi tệ hơn việc lén lút hút thuốc gấp nhiều lần. Người biết gì không? Cô ta mây mưa với thằng bạn cũ Bill Denbrough đấy! Phải! Cô ta và thằng quái dị cà lăm ấy đang tưng bừng thác loạn kia kìa! Bọn chúng…

Nói dối! Hắn cố hét lên. Nó mà dám!

Nhưng hắn biết đó không phải nói dối. Cô ta đã quất thắt lưng vào

(đá mình ở ngay)

bộ hạ của hắn rồi chạy biến và giờ còn cắm sừng hắn, con khốn

(oắt con)

lang chạ hư thân mất nết dám cắm sừng hắn, và ôi làng nước ơi, ôi chiềng làng chiềng chạ, cô ta sẽ nếm mùi thế nào là roi vọt - trước hết là cô ta, sau đó là Denbrough, thằng bạn viết tiểu thuyết của ả. Và kẻ nào dám ngáng đường hắn thì đừng có trách.

Hắn guồng chân nhanh hơn, dù hơi thở của hắn đã khò khè rít ra rít vào trong cổ họng. Đằng trước, hắn có thể trông thấy hình tròn phát sáng lơ lửng trong bóng tối – lại một quả bóng Mặt Trăng nữa. Hắn có thể nghe thấy tiếng lao xao của đám người đằng trước, và hắn chẳng còn quan tâm đó là giọng của đám con nít nữa. Hắn làm theo lời giọng nói kia: đây là đâu, lúc nào, hắn là ai không quan trọng. Quan trọng là Beverly đang ở đằng trước, và ôi làng nước ơi, ôi chiềng làng chiềng chạ…

“Nào, bọn mày, lê mông nhanh lên,” hắn nói, và hắn chẳng buồn quan tâm đây không phải giọng hắn mà là giọng của một thằng nhóc.

Đoạn khi cả đám đến gần bóng Mặt Trăng, hắn quay sang và lần đầu tiên nhìn thấy những kẻ đi chung với mình. Cả hai bọn chúng đều là xác chết. Một kẻ cụt đầu. Mặt của kẻ còn lại nứt toác như bị móng vuốt khổng lồ bửa đôi.

“Bọn tao đi nhanh nhất có thể rồi, Henry,” thằng nhóc với khuôn mặt chẻ đôi lên tiếng, môi nó mấp máy theo hai mảnh riêng biệt, lệch nhau một cách gớm ghiếc, đó là lúc Tom thét lên, xé toạc giấc mơ và choàng tỉnh, mấp mé nơi bờ vực của một khoảng không trống rỗng khổng lồ.

Hắn chật vật giữ thăng bằng nhưng bất thành và ngã rầm xuống sàn. Sàn có trải thảm song cú ngã vẫn khiến đầu gối bị thương của hắn đau như hoạn. Hắn vùi miệng vào cánh tay, cố kìm tiếng hét.

Mình đang ở đâu? Mình đang ở chỗ chết tiệt nào đây?

Hắn lờ mờ nhác thấy ánh sáng trắng mờ nhưng rõ nét, và trong khoảnh khắc sợ điếng người, hắn cứ tưởng mình trở lại giấc mơ một lần nữa, rằng đó là ánh sáng từ những quả bóng bay điên rồ kia. Nhưng rồi hắn nhớ ra mình để ngỏ cửa phòng tắm và vẫn bật đèn bên trong. Ngủ ở nơi lạ, hắn đều để đèn sáng, phòng ngừa trường hợp quệt cẳng chân vào đâu đó lúc phải dậy đi vệ sinh lúc nửa đêm.

Điều này đưa hắn trở về thực tại. Hóa ra tất cả chỉ là mơ, một giấc mơ điên rồ. Hắn đang ở Nhà nghỉ Holiday, tại thị trấn Derry, Maine. Hắn đuổi theo vợ hắn đến đây, và trong lúc nằm mơ, hắn đã ngã oạch xuống giường. Tóm lại, đầu đuôi câu chuyện là thế.

Đó không đơn thuần là ác mộng đâu.

Hắn nhảy dựng lên khi những lời ấy vang lên bên tai, chứ không phải trong tâm trí hắn. Tiếng nói ấy chẳng giống tiếng nói trong đầu hắn chút nào – nó lạnh lẽo, xa lạ… nhưng sao thật du dương và đáng tin.

Hắn từ từ đứng dậy, mò mẫm ly nước để trên chiếc bàn cạnh giường rồi uống cạn. Hắn vọc đôi tay run rẩy vào tóc. Đồng hồ trên bàn chỉ 3 giờ 10 phút sáng.

Ngủ lại thôi. Sáng rồi tính.

Giọng nói xa lạ ấy trả lời: Nhưng sáng ra sẽ đông người xung quanh – quá đông là đằng khác. Hơn nữa, giờ đập chúng dưới đó dễ dàng hơn. Lần này ngươi có thể đến trước.

Dưới đó? Hắn nghĩ về giấc mơ: nước chảy, bóng tối tong tỏng.

Bỗng dưng, ánh sáng chói lóa hắn. Hắn quay đầu lại, không muốn nhưng chẳng ngăn được bản thân. Tiếng rên phát ra từ miệng hắn. Trên tay nắm cửa phòng tắm cột quả bóng bay lơ lửng từ sợi dây dài gần một mét. Quả bóng phát ra thứ ánh sáng trắng ma mị; tựa hồ ma trơi nhác thấy trong đầm lầy, lúc ẩn lúc hiện giữa những tán cây lòng thòng dây rêu. Trên bề mặt căng phồng của quả bóng in mũi tên màu đỏ như máu.

Mũi tên chỉ về phía cánh cửa dẫn ra hành lang.

Ta là ai không quan trọng, giọng nói nhẹ nhàng thốt lên, và Tom nhận ra giọng nói không phát ra từ trong đầu hắn hay bên sát tại hắn mà vẳng ra từ quả bóng, từ chính giữa ngọn đèn ma trơi lạ lùng mà đáng yêu ấy. Quan trọng ở chỗ ta sẽ tạo điều kiện cho ngươi được toại nguyện, Tom ạ. Ta muốn thấy cô ả ăn đòn, ta muốn thấy cả đám bọn chúng ăn đòn. Bọn chúng ngáng đường ta một lần mà chưa chừa… giờ chúng chỉ có nước chết. Nên nghe đây, Tom. Nghe thật kỹ. Giờ thì ngươi hãy đi theo quả bóng này…

Tom lắng nghe. Giọng nói từ quả bóng giải thích.

Nó giải thích cặn kẽ.

Trình bày xong, nó lóe tia sáng cuối cùng, còn Tom bắt đầu mặc quần áo.

2 AUDRA

Audra cũng nằm mơ thấy ác mộng.

Cô giật mình tỉnh giấc, ngồi thẳng trên giường, chăn rơi xuống ngang hông, bầu ngực nhỏ phập phồng theo hơi thở dồn dập, hổn hển.

Giống như Tom, giấc mơ của cô khủng khiếp và rối tinh rối mù. Giống như Tom, cô có cảm giác mình hóa thân thành người khác – hay nói đúng hơn, ý thức của cô bị đưa vào (và phần nào nhấn chìm) trong cơ thể và tâm trí của người đó. Cô ở trong một nơi tối đen như mực với vài người xung quanh, cảm nhận nguy hiểm đang rình rập - họ đang dấn bước vào chốn hiểm nguy và cô những muốn hét lên ngắn họ lại, yêu cầu họ giải thích với cô chuyện gì đang xảy ra… nhưng người cô nhập hồn vào dường như hiểu rõ tình hình, biết việc họ sắp làm là cần thiết.

Cô cũng ý thức được cả nhóm đang bị truy đuổi, còn những kẻ đuổi theo đang dần bắt kịp.

Bill cũng xuất hiện trong giấc mơ của cô, nhưng hẳn tâm trí cô vẫn nhớ chuyện anh quên mất ký ức thuở ấu thơ, vì trong giấc mơ, Bill mới chỉ là một cậu bé chừng mười hay mười hai tuổi – ngày ấy anh vẫn còn tóc. Cô đang nắm lấy tay anh, và cô lờ mờ ý thức mình yêu anh rất nhiều, cô sẵn sàng đi tiếp là vì niềm tin thâm căn cố đế rằng Bill sẽ bảo vệ cô cũng như bảo vệ cả nhóm, rằng Bill, cậu bé Bill To Bự ấy, sẽ có cách tìm đường đưa cả nhóm trở về với ánh sáng mặt trời.

Ôi, nhưng cô vẫn sợ hãi đến cùng cực.

Họ đi đến trước rất nhiều ngã rẽ, Bill đứng đó, nhìn từng đường hầm một thì một người trong nhóm – cậu bé tay bó bột, ánh lên trăng trắng ma mị trong bóng tối – lên tiếng: “Kia kìa, Bill. Đường hầm cuối cùng ấy.”

“C-C-Cậu ch-ch-chắc chứ?”

“Chắc.”

Rồi họ đi theo hướng đó và gặp một cánh cửa, cánh cửa gỗ con con cao chưa đến chín mươi phân, trông như bước ra từ truyện cổ tích, trên cửa có đánh dấu gì đó. Cô không nhớ đó là dấu gì, ký tự hay biểu tượng kỳ lạ nào đó. Nhưng nó tích tụ toàn bộ nỗi sợ hãi của cô vào một điểm, khiến cô giật mình bật ra khỏi cơ thể của cô bé kia, bất kể chủ nhân cái xác

(Beverly – Beverly)

cô nhập vào là ai. Cô bật dậy trên chiếc giường xa lạ, mồ hôi đầm đìa, mắt trợn tròn, hồng hộc thở như thể vừa thi chạy. Tay cô lần xuống chân, nửa ngờ vực chân mình sẽ ướt và lạnh ngắt do làn nước cô ngâm từ nãy đến giờ trong đầu. Nhưng cả người cô khô ráo.

Cảm giác mất phương hướng làm cô choáng ngợp - đây không phải nhà họ ở Topanga Canyon hoặc căn nhà thuê ở Fleet. Chốn này vô danh – nhạt nhòa, được trang bị một chiếc giường, một tủ quần áo, hai cái ghế và một chiếc ti vi.

“Ôi Chúa ơi, thôi nào, Audra…”

Cô mạnh bạo chà xát tay lên mặt, cảm giác tâm trí quay cuồng đến choáng váng ấy vơi dần. Cô đang ở Derry. Derry, Maine, nơi chồng cô trải qua thời ấu thơ mà anh nói mình chẳng còn vương lại chút ký ức. Nơi này chẳng thân thuộc gì với cô, cũng chẳng tạo cảm giác dễ chịu gì cho cam, nhưng chí ít cô biết nó. Cô đến đây vì Bill ở đây, và ngày mai cô sẽ gặp anh ở Nhà nghỉ Thị trấn Derry. Bất kể nơi này có điều gì tồi tệ, bất kể những vết sẹo mới xuất hiện trên tay anh có nghĩa là gì, hai vợ chồng cô sẽ cùng nhau đương đầu. Cô sẽ gọi anh, nói cho anh biết cô đã đến đây và cùng đồng hành với anh. Sau đó… chà…

Thú thật, cô chẳng biết sau đó sẽ ra sao. Cái cảm giác quay cuồng ấy, cảm giác mình đang bơ vơ ở một nơi vô danh lại chực chờ đe dọa. Năm mười chín tuổi, cô từng vắt chân lên cổ chạy tour diễn cho một công ty sản xuất ít tiếng tăm, bốn mươi phần trình diễn trong vở Thạch tín và ren cũ làng nhàng trong bốn mươi huyện thị xa tít mù khơi. Tất cả gói gọn trong 47 ngày không lấy làm vui gì cho cam. Họ bắt đầu ở Rạp hát kiêm Nhà hàng Peabody ở Massachusetts và kết thúc tại nhà hàng ở Sausalito nơi từng quay bộ phim Yêu thương lần nữa . Và trong hành trình ấy, ở một thị trấn Trung Tây nào đó, hình như là Ames Iowa hoặc Grand Isle Nebraska hay Jubilee North Dakota, cô đã tỉnh dậy vào giữa đêm như thế này, hoảng loạn do mất phương hướng, chẳng biết mình đang ở thị trấn nào, đang là ngày bao nhiêu hoặc tại sao cô lại ở đây. Đến cả tên mình, cô còn thấy vô thực.

Yêu thương lần nữa là tên tiếng Việt của Play It Again, Sam (1972) của Woody Allen. Bộ phim này có một cảnh quay ở nhà hàng Trident tại Sausalito.

Cảm giác ấy một lần nữa quay lại. Giấc mơ khủng khiếp ập đến lúc cô tỉnh dậy, và cô cảm thấy một nỗi sợ hãi lơ lửng như ác mộng. Thị trấn giống một con trăn quấn quanh người cô. Cô có thể cảm nhận được nó, và cảm giác nó mang lại chẳng tốt lành gì. Bất giác, cô thầm ước giá mà mình nghe lời khuyên của Freddie và đứng ngoài.

Tâm trí của cô tập trung vào Bill, tìm mọi cách nghĩ về anh như người chết đuối vớ lấy cọc, phao hay bất cứ thứ gì

(dưới này bọn ta lơ lửng, Audra ạ)

nổi trên mặt nước.

Một cơn ớn lạnh chạy dọc thân thể khiến cô đưa hai tay ôm lấy bộ ngực trần của mình. Cô rùng mình và trông thấy da gà nổi lên từng đợt. Trong khoảnh khắc, dường như có một giọng nói vang lên rất to, nhưng vấn đề là nó nằm trong đầu cô. Như thể ở đó có sự hiện diện của kẻ ngoại lai.

Mình đang phát điên rồi sao? Chúa ơi, có phải thế không?

Không, tâm trí cô trả lời. Chỉ là mất phương hướng thôi… mệt do đi đường… lo lắng cho chồng. Không có ai nói trong đầu mày hết. Không có ai…

“Dưới này bọn ta lơ lửng, Audra ạ” giọng nói vang lên từ phòng tắm. Giọng nói này là thật, thật như nhà cửa. Và quỷ quyệt. Quỷ quyệt, bẩn thỉu và độc ác. “Rồi mày cũng sẽ lơ lửng thôi.” Giọng nói phát ra tiếng cười khằng khặc, nhỏ dần, nhỏ dần, cho đến khi nghe như cống nghẹt ùng ục trào. Audra ré lên… rồi đưa tay bịt miệng.

Mình không nghe thấy giọng nói đó.

Cô dõng dạc nói, thách thức giọng nói kia dám lên tiếng phủ nhận lời cô. Nhưng không, căn phòng yên tĩnh. Đâu đó đằng xa, tiếng còi tàu hụ vẳng lại giữa khuya.

Chợt cô khao khát gặp Bill khủng khiếp, đến độ chờ trời sáng gần như là điều không thể. Cô đang ở trong phòng tiêu chuẩn, giống hệt ba mươi chín phòng khác của nhà nghỉ này, nhưng bỗng dưng nó trở nên quá sức chịu đựng. Tất cả mọi thứ. Nghe thấy tiếng nói là đã quá sức chịu đựng rồi. Quá sức ghê rợn. Cô như đang một lần nữa chìm vào cơn ác mộng mà cô vừa thoát ra. Cô cảm thấy sợ và đơn côi đến se sắt. Tệ hơn vậy nữa, cô thầm nghĩ. Mình cảm thấy như đã chết. Trái tim cô lỡ hai nhịp trong lồng ngực, khiến cô há hốc nín thở và khù khụ ho. Cô phát hoảng như kẻ bị cầm tù trong chính thân thể của mình, tự hỏi phải chăng nỗi sợ này xuất phát từ một nguyên nhân tầm thường đến ngớ ngẩn: Lẽ nào cô sắp bị trụy tim? Hoặc cô đang bị trụy tim rồi?

Tim cô dịu lại, nhưng vẫn khó chịu.

Audra bật đèn cạnh bàn đầu giường rồi nhìn đồng hồ. 3 giờ 12 phút. Giờ này chắc anh đang ngủ, nhưng điều đó chẳng có nghĩa lý gì với cô nữa - chẳng có gì quan trọng hơn được nghe giọng anh lúc này. Cô muốn ở bên anh đêm nay. Nếu có Bill bên cạnh, bộ máy đồng hồ của cô sẽ hoạt động nhịp nhàng với anh và trở lại bình thường. Ác mộng sẽ lùi xa. Anh bán cho kẻ khác ác mộng - đó là nghề của anh – nhưng với cô, anh đem lại sự bình yên. Bên ngoài bộ óc lạnh lùng, kỳ quặc ăn sâu trong trí tưởng tượng, dường như bình yên là bản chất của anh. Cô lật cuốn danh bạ tìm số của Nhà nghỉ Thị trấn Derry rồi bấm số.

“Nhà nghỉ Thị trấn Derry nghe.”

“Anh gọi đến phòng của anh Denbrough giùm tôi được không? Anh William Denbrough?”

“Cái anh này không bao giờ gọi điện ban ngày à?” Tay lễ tân hỏi, và trước khi cô kịp định thần để hỏi xem câu nói ấy rốt cuộc có nghĩa gì thì anh ta kết nối cuộc gọi của cô. Điện thoại reo một, hai rồi ba lần. Cô có thể tưởng tượng cảnh anh say sưa ngủ, chăn đắp kín người, chỉ hở đầu; cô có thể hình dung anh vươn một tay ra, mò mẫm lấy điện thoại. Cô từng thấy anh làm vậy, và một nụ cười khẽ hiện trên môi cô. Nhưng nụ cười ấy phai đi khi điện thoại reo đến lần thứ tư… và lần thứ năm, thứ sáu. Chuông reng dở lần thứ bảy thì ngắt kết nối.

“Không có ai bắt máy.”

“Rõ như ban ngày còn gì,” Audra lên tiếng, sốt ruột và hoảng hơn bao giờ hết. “Anh có chắc anh gọi đúng phòng không?”

“Có chứ,” tay lễ tân đáp. “Cách đây chưa đầy năm phút, anh Denbrough nhận một cuộc gọi liên phòng khác. Tôi thấy anh ấy đã trả lời điện thoại, vì đèn trên bảng trung tâm bật sáng tầm một, hai phút. Chắc anh ấy sang phòng người gọi rồi.”

“Chà, phòng bao nhiêu vậy?”

“Tôi không nhớ. Tầng sáu thì phải. Nhưng…”

Cô gác máy. Trong tâm trí cổ đinh ninh một điều đau lòng và kỳ cục. Chắc hẳn là phụ nữ. Người gọi là phụ nữ… và anh đã đi đến phòng cô ta. Chậc, giờ sao đây, Audra? Ta giải quyết chuyện này thế nào?

Cô cảm thấy lệ chực rơi. Mắt cô rưng rưng, mũi cay cay; cô có thể cảm thấy họng mình như nghẹn lại. Cô không giận, chí ít là chưa… chỉ có cảm giác mất mát và bơ vơ đến nhói lòng.

Audra, bình tĩnh lại đi, Mày vơ đũa cả nắm rồi. Nửa đêm nửa hôm, mày gặp ác mộng nên mới quy chụp Bill ở với người phụ nữ khác. Nhưng chắc gì là thế. Giờ mày hãy ngồi thẳng lên – đằng nào mà cũng chẳng ngủ lại được. Bật đèn và đọc nốt cuốn tiểu thuyết mà mày mang theo để đọc trên máy bay đi. Nhớ lời Bill nói không? Đó là liều thuốc tốt nhất. Valium-Sách. Đừng nhấp nhổm nữa. Không lo như ngồi trên đống lửa và nghe thấy tiếng nói nữa. Dorothy Sagers và Lord Peter, tấm vé cho cô đây. Cuốn Chín thủy thủ. Nó sẽ đồng hành cùng cô đến sáng. Nó sẽ…

Thuốc trị lo âu.

Dorothy Sayers là nữ nhà văn, tác giả bộ tiểu thuyết về thám tử Lord Peter Wimsey. Chín thủy thủ (The Nine Tailors) là một trong những cuốn tiểu thuyết nổi tiếng nhất của bà về vị thám tử này.

Bỗng dưng đèn phòng tắm sáng lên, cô có thể thấy ánh đèn dưới cửa. Đoạn chốt đánh tách và cửa hé mở. Cô trợn mắt nhìn, hai tay lại đưa lên che ngực theo bản năng. Trống ngực cô đập thình thịch, miệng chua lè do adrenaline.

Giọng nói trầm thấp và ngân nga: “Dưới này bọn ta lơ lửng, Audra.” Từ cuối cùng như tiếng thét ngân dài, trầm đục và phai dần – Audraaaaa – rồi ngưng bặt trong tiếng lục bục nghèn nghẹt ghê người, tựa hồ tiếng cười.

“Ai vậy?” cô thét lên rồi lùi lại. Đó không phải là tưởng tượng của mình, không thể nào, đừng nói với mình rằng…

Đột nhiên ti vi bật mở. Quay người lại, cô trông thấy gã hề mặc bộ đồ màu bạc gắn hàng nút màu cam rất to nhảy nhót xung quanh màn hình. Chỗ lý ra phải có hai con mắt thì chỉ là hai hốc đen đúa, và khi đôi môi nhoe nhoét đỏ của hắn ngoác thật to thành nụ cười, cô thấy hàm răng sắc như dao cạo. Trên tay gã hề là thủ cấp bị chặt, máu nhỏ từng giọt. Hai con mắt trợn ngược chỉ còn lòng trắng, miệng há hốc, nhưng cô có thể nhận ra ấy là đầu của Freddie Firestone. Gã hề vừa cười ha hả vừa nhảy nhót. Nó vung vẩy đầu làm máu bắn tung tóe lên mặt trong của màn hình ti vi. Thậm chí cô còn nghe thấy tiếng máu xèo xèo trong đó.

Audra toan thét lên nhưng chẳng thốt ra được gì ngoài tiếng rên rỉ. Cô vớ lấy chiếc váy vắt trên ghế và ví tiền. Đoạn cô lao ra sảnh, đóng sầm cánh cửa sau lưng, thở hổn hển, khuôn mặt nhợt nhạt. Cô thả chiếc ví xuống giữa hai chân rồi mặc vội chiếc váy qua đầu.

“Lơ lửng,” tiếng cười khục khặc trầm trầm vang lên sau lưng, và cô cảm thấy ngón tay lạnh cóng mơn man gót chân mình.

Thét lên đầy hốt hoảng, cô rụt khỏi cửa. Những ngón tay trắng như xác chết đang mò mẫm bên dưới, móng tay bong tróc để lộ phần thịt không còn chút máu tím tái. Chúng sột soạt, rào rạo cà vào mép thảm hành lang.

Audra xách dây đeo của chiếc ví rồi cứ thế chạy chân không về phía cánh cửa cuối hành lang. Đầu óc trống rỗng, cô chẳng nghĩ được gì ngoài chuyện tìm cho ra Nhà nghỉ Thị trấn Derry và Bill. Dù anh có mây mưa với cả một hậu cung đi chăng nữa cũng chẳng quan trọng. Cô sẽ tìm ra anh và bắt anh đưa cô thoát khỏi thứ thế lực khiếp đảm khôn tả ở thị trấn này.

Chạy xuống lối đi bộ dẫn vào bãi đậu xe, cô hoảng loạn tìm xe của mình. Trong thoáng chốc, đầu óc cô như đông cứng, thậm chí cô còn chẳng nhớ nổi mình chạy xe gì. Đoạn cô nhớ ra: xe Datsun, màu nâu thuốc lá. Trông thấy nó đứng giữa làn sương mù dày đặc, che mờ cả bánh xe, cô hối hả chạy lại. Tìm mãi song cô không thấy chìa khóa trong ví. Càng lúc càng hoảng, cô lục lọi ví, bới tung giấy Kleenex, mỹ phẩm, tiền lẻ, kính râm và mấy thỏi kẹo cao su thành mớ hỗn độn. Cô không hề để ý chiếc LTD cũ nát đầu ngay trước mũi xe mà cô thuê, hay người đàn ông ngồi sau tay lái. Cô không hề để ý khi cửa xe LTD mở và người đàn ông bước ra, cô đang choáng váng trước khả năng cao mình để chìa khóa chiếc Datsun trong phòng. Nhưng cô không thể quay lại đó; có cho vàng cũng không.

Ngón tay cô chạm vào miếng kim loại cứng có răng cưa bên dưới hộp kẹo bạc hà Altoid, cô chộp lấy và khẽ reo lên mừng rỡ. Trong một khoảnh khắc, cô còn tưởng đó là chìa khóa chiếc Rover của hai vợ chồng, lúc này đang nằm trong bãi đậu xe của nhà ga Fleet cách đây gần năm nghìn ki-lô-mét, và rồi cô sờ thấy tấm mica của chiếc xe thuê. Quýnh quáng tra chìa vào ổ khóa, cô thở hồng hộc từng nhịp ngắn và xoay chìa. Đúng lúc đó, một bàn tay chạm lên vai khiến cô thét lên thất thanh… lần này cô la rất to. Đâu đó có tiếng chó sủa đáp lại, nhưng chỉ có thế.

Bàn tay rắn như sắt bấu chặt vào vai, ép cô quay người lại. Khuôn mặt lừ lừ trước mặt cô sưng vù và đầy khối u. Mắt hắn long lên. Khi đôi môi vều nhếch thành nụ cười gớm ghiếc, cô thấy răng cửa của hắn đã gãy. Phần chân răng trong lởm chởm đến ghê người.

Cô cố cất tiếng nhưng không nói được gì. Bàn tay đó siết chặt hơn, bám vào vai cô.

“Tao thấy mày trên phim rồi thì phải?” Tom Rogan thì thầm.

3 PHÒNG CỦA EDDIE

Beverly và Bill nhanh chóng mặc quần áo rồi lên phòng của Eddie. Trên đường ra thang máy, họ nghe thấy tiếng chuông điện thoại reo đằng sau. Tiếng chuông bị nghẹt như thể phát ra từ chốn nào đó.

“Bill, điện thoại phòng cậu à?”

“C-Có th-th-thể lắm,” anh đáp. “C-Có thể một ng-người trong nhóm g-gọi.” Anh ấn nút LÊN.

Eddie mở cửa cho họ, mặt nhợt nhạt và đầy mệt mỏi. Tay trái của anh bẻ quặt thành một góc kỳ dị, gợi nhớ đến ngày xưa.

“Tớ ổn,” anh nói. “Tớ uống hai viên Darvon rồi. Cơn đau không quá tệ.” Nhưng rõ ràng cơn đau cũng không hề nhẹ nhàng. Môi anh mím chặt thành đường chỉ, tím bợt vì quá đỗi hoảng loạn.

Nhìn ra sau bạn mình, Bill trông thấy người đàn ông đang nằm trên sàn. Chỉ nhìn lướt qua cũng đủ để anh hiểu hai điều – đây là Henry Bowers, và hắn đã chết. Anh bước qua Eddie rồi quỳ gối cạnh cái xác. Cổ chai Perrier cắm chặt vào bụng Henry, kéo theo cả chiếc áo tả tơi hắn mặc vào trong. Mắt của Henry khẽ mở và mờ đục. Miệng hắn nhe ra, đầy máu đang đông lại. Tay hắn quặp lại như móng vuốt.

Một bóng đen đổ xuống khiến Bill ngước lên. Là Beverly. Cô nhìn xuống Henry, mặt vô cảm.

“Bao lần hắn truy đ-đ-đuổi chúng ta,” Bill nói.

Cô gật đầu. “Trông hắn chẳng già đi chút nào. Cậu biết chứ, Bill? Trông hắn chẳng già đi chút nào.” Bỗng cô quay lại nhìn Eddie lúc này đang ngồi trên giường. Sao mà Eddie trông già nua đến thế, già nua và phờ phạc. Tay anh đặt trong lòng đầy thừa thãi. “Mình phải gọi bác sĩ khám cho Eddie.”

“Không,” Bill và Eddie đồng thanh nói.

“Nhưng cậu ấy bị thương! Tay…”

“Giống y như l-l-lần tr-tr-trước,” Bill nói. Anh đứng dậy, hai tay nắm lấy cô rồi nhìn thẳng vào mắt cô. “Nếu mình r-ra ngoài… nếu m-m-mình k-k-kéo cả th-th-thị trấn v-vào…”

“Họ sẽ bắt tớ vì tội giết người,” Eddie ngây ra đáp.”Hoặc bắt tất cả bọn mình. Hoặc họ cản trở bọn mình. Hay gì đó. Rồi bỗng dưng có tai nạn xảy ra. Một thứ tai nạn khủng khiếp mà chỉ Derry mới có. Khéo họ sẽ tống mình vào tù, và rồi một tay cảnh sát phát rồ, nã đạn giết sạch bọn mình. Có khi bọn mình sẽ chết vì ngộ độc, hoặc treo cổ tự vẫn trong tù.”

“Eddie, toàn những thứ điên rồ! Như thế…”

“Thật sao?” Anh hỏi. “Cậu đừng quên đây là Derry.”

“Nhưng bọn mình lớn cả rồi! Hẳn cậu không nghĩ… ý tớ là, nửa đêm nửa hôm, hắn xuất hiện… tấn công cậu…”

“B-Bằng cái gì?” Bill hỏi. “C-C-Con dao đâu?”

Nhìn quanh nhưng không thấy gì cả, cô bèn quỳ xuống tìm dưới giường.

“Kệ đi.” Eddie nói bằng cái giọng yếu ớt, khò khè. “Tớ tông cửa vào tay hắn lúc hắn cố đâm tớ. Con dao rơi, và tớ đá thẳng nó xuống dưới ti vi. Nó biến mất rồi. Ban nãy tớ có xem thử.”

“B-B-Beverly, g-gọi mọi người đi,” Bill nói. “Tớ ngh-nghĩ tớ có thể b-bó tay của E-E-Eddie lại.”

Cô nhìn anh suốt một lúc lâu, đoạn nhìn cái xác trên sàn. Cô nghĩ cảnh tượng trong căn phòng này thừa sức kể một câu chuyện rõ như ban ngày cho bất cứ viên cảnh sát nào dù chỉ có nửa bộ não. Cả căn phòng như một mớ hỗn độn. Eddie bị gãy tay. Gã đàn ông kia đã chết. Rõ ràng, đây là một vụ tự vệ chống lại kẻ trộm ban đêm. Chợt cô nhớ đến ông Ross. Nhớ ảnh ông ta đứng dậy, nhìn cô rồi gấp báo, bỏ vào nhà.

Nếu mình ra ngoài… nếu mình kéo cả thị trấn vào…

Câu nói ấy khiến cô nhớ lại hình ảnh Bill lúc nhỏ, mặt cắt không còn giọt máu, mệt mỏi và nửa muốn phát điên, khi cậu nói Derry chính là Nó. Các cậu có hiểu không? Dù mình đi đâu chăng nữa… khi Nó bắt được mình, sẽ chẳng ai thấy, chẳng ai nghe, chẳng ai biết. Các cậu không thấy vậy sao? Mình chỉ có thể cố chấm dứt thứ mà mình bắt đầu thôi.

Đứng đây lúc này, nhìn thi thể của Henry, Beverly thầm nghĩ trong đầu: Cả hai cậu ấy đều đang nói tất cả bọn mình lại thành ma nữa rồi. Rằng mọi chuyện tái diễn. Tất cả mọi chuyện. Khi còn con nít, mình có thể chấp nhận chuyện này, vì hầu hết trẻ con bị tảng lờ như ma. Nhưng…

“Cậu chắc chứ?” Cô tuyệt vọng hỏi. “Bill, cậu chắc chứ?”

Anh đang ngồi trên giường với Eddie, nhẹ nhàng chạm vào cánh tay bạn. “C-C-Cậu kh-không chắc sao?” Anh hỏi lại. “Sau b-b-bao nhiêu chuyện x-xảy ra ngày h-hôm nay?”

Phải. Sau bao nhiêu chuyện đã xảy ra. Mớ bòng bong gớm ghiếc vào cuối bữa trưa hội ngộ của họ. Bà cụ đẹp lão biến thành mụ già nhăn nheo, quỷ quái trước mắt cô,

(bố ta cũng là mẹ ta)

những câu chuyện mọi người thay nhau kể lúc ngồi ở thư viện đêm nay cùng các hiện tượng đi kèm. Tất cả những điều đó. Tuy thế… tâm trí cô vẫn tuyệt vọng gào thét yêu cầu cô ngăn chuyện này lại, đưa lý trí vào suy xét, bởi nếu cô không làm thế, thể nào tối nay họ cũng sẽ xuống Vùng Đất Cằn, tìm trạm bơm năm xưa và…

“Tớ không biết,” cô đáp. “Tớ chỉ… tớ không biết. Dù sau chừng ấy chuyện xảy ra, Bill, tớ nghĩ có lẽ mình nên gọi cảnh sát. Có lẽ vậy.”

“G-G-Gọi c-cả nhóm đi,” anh lặp lại. “Mình sẽ h-h-hỏi xem mọi người ngh-nghĩ gì.”

“Được thôi.”

Cô gọi cho Richie trước rồi đến Ben. Cả hai nói sẽ đến ngay lập tức. Không ai thắc mắc đã có chuyện gì xảy ra. Tìm thấy số điện thoại của Mike trong danh bạ, cô bấm số nhưng không thấy ai nghe máy; sau hơn mười hồi chuông chờ đợi, cô gác máy.

“Th-Th-Thử gọi cho thư v-v-viện xem,” Bill nói. Sau khi kéo hai thanh treo rèm ngắn từ khung cửa sổ nhỏ trong phòng Eddie, anh cột thật chặt vào tay bạn mình bằng dây nịt của áo tắm và dây rút từ bộ đồ ngủ của mình.

Trước khi cô tìm ra số điện thoại thì có tiếng gõ cửa. Ben và Richie đến cùng nhau, Ben mặc quần jean, áo sơ-mi không đóng thùng, còn Richie mặc quần vải bông màu xám, bên trên mặc áo ngủ. Đằng sau cặp kính, đôi mắt mệt mỏi của anh đảo quanh phòng.

“Chúa ơi, Eddie, có chuyện gì…”

“Lạy Chúa tôi!” Ben ré lên. Anh trông thấy xác của Henry trên sàn.

“Nh-Nh-Nhỏ tiếng th-thôi!” Bill gắt. “Và đóng c-cửa l-lại!”

Richie đóng cửa, mắt dán chặt vào thi thể. “Henry?”

Ben tiến ba bước về phía cái xác rồi khựng lại, như thể sợ nó sẽ bật dậy cắn mình. Anh bất lực nhìn Bill.

“C-C-Cậu k-kể đi,” anh nói với Eddie. “T-T-Tật n-nói lắp ch-ch chết toi c-càng l-l-lúc càng t-t-tệ.” Eddie giải thích sơ những chuyện đã xảy ra trong lúc Beverly tìm số điện thoại của Thư viện công cộng Derry và bấm số. Cô đoán có lẽ Mike đã ngủ quên ở đó – có khi anh còn để sẵn giường xếp trong văn phòng ấy chứ. Nhưng điều xảy ra lại nằm ngoài dự tưởng của cô: có người nhấc máy ngay hồi chuông thứ hai và một giọng nói lạ lẫm vang lên.

“A lô,” cô đáp lại, quay sang nhìn mọi người, đưa tay ra dấu im lặng. “Anh Hanlon có ở đó không?”

“Cho hỏi cô là ai?” Giọng nói hỏi.

Cô liếm môi. Bill nhìn cô với ánh mắt như thấu tận thâm can. Ben và Richie nhìn quanh. Trong lòng cô cuộn trào cảm giác báo động.

“Vậy ông là ai?” cô hỏi ngược lại. “Ông không phải Hanlon.”

“Tôi là Andrew Rademacher, cảnh sát trưởng Derry,” giọng nói đáp. “Anh Hanlon hiện đang ở Bệnh viện Derry. Ban nãy, anh ta bị tấn công và bị thương rất nặng. Giờ thì làm ơn cho hỏi cô là ai? Cho tôi xin tên của cô.”

Nhưng cô chẳng còn tâm trí nghe hết câu. Choáng váng như từng đợt sóng đánh vào người, khiến cô chống chếnh, trôi dạt ra khỏi cơ thể. Cơ bắp từ vùng bụng xuống hai chân của cô bủn rủn, tê dại, và cô ngây ngô nghĩ: Chắc hẳn đây là cảm giác khi người ta sợ đến són ra quân. Chắc hẳn rồi. Họ không thể kiểm soát được các cơ trong bụng nữa…

“Cậu ấy bị thương nặng không?” Cô nghe thấy mình cất tiếng hỏi, đầu óc trống rỗng, giọng mỏng tang, và rồi Bill đi đến bên cạnh, đặt một tay lên vai cô, theo sau là Ben cùng Richie, lòng cô tràn dâng niềm biết ơn vì có mọi người làm chỗ dựa. Cô chìa tay còn lại ra cho Bill nắm lấy. Richie đặt tay mình lên tay Bill, sau đó, Ben lại áp lên tay Richie. Eddie cũng bước đến, đặt bàn tay còn lành lặn của mình lên trên.

“Làm ơn cho tôi biết tên của cô,” Rademacher hỏi, ra chiều mất kiên nhẫn và trong phút chốc, đứa trẻ với lá gan thỏ đế chực bỏ của chạy lấy người, đứa trẻ được bố cô nuôi nấng, chồng cô chăm sóc, suýt chút nữa đã lên tiếng: Tôi là Beverly Marsh, hiện tôi đang có mặt ở Nhà nghỉ Thị trấn Derry. Làm ơn hãy cử ông Nell đến đây. Có người chết, vẫn còn là một đứa trẻ mà chúng tôi đang có cùng sợ hãi.

Nhưng rồi cô đáp: “Tôi… Tôi e là mình không nói được. Hiện giờ thì chưa.”

“Cô biết gì về chuyện này?”

“Không biết gì cả,” cô đáp, bàng hoàng. “Sao ông lại nghĩ tôi biết? Lạy Chúa tôi!”

“Vậy cô có thói quen gọi điện thoại cho thư viện vào lúc ba rưỡi sáng à?” Rademacher hỏi. “Có phải như vậy không? Đừng vớ vẩn nữa, thưa cô. Đây là một vụ tấn công, và nhìn tình trạng của anh ta thì nếu mặt trời lên, có khi vụ này sẽ trở thành án mạng đấy. Tôi xin hỏi lại: cô là ai và cô biết đến mức nào?”

Nhắm mắt, dồn hết sức nắm chặt tay Bill, cô hỏi lại: “Cậu ấy có thể mất mạng ư? Ông không nói vậy chỉ để hù dọa tôi chứ? Cậu ấy sẽ chết sao? Xin hãy cho tôi biết.”

“Anh ta bị thương rất nặng. Và nếu điều đó không khiến cô sợ thì cũng lạ đấy. Giờ thì tôi muốn biết cô là ai và tại sao…”

Tựa hồ nằm mơ, cô nhìn tay mình tự động gác máy. Đưa mắt nhìn Henry, cô cảm thấy choáng như vừa bị bàn tay lạnh ngắt tát cú trời giáng. Một bên mắt của Henry nhắm nghiền. Con mắt còn lại, con mắt bị đâm thủng, trừng trừng ứa dịch.

Tưởng chừng Henry đang nháy mắt với cô.

4

Richie gọi điện đến bệnh viện. Bill dẫn Beverly qua giường, để cô ngồi với Eddie, thẫn thờ nhìn vào vô định. Cô nghĩ khéo mình sẽ khóc mất, nhưng nước mắt chẳng rơi. Cảm giác duy nhất mà cô ngay lập tức ý thức được rõ ràng là cô ước gì ai đó sẽ che xác Henry Bowers lại. Cái nhìn như nháy mắt ấy chẳng đẹp đẽ gì cho cam.

Loáng một cái, Richie trở thành phóng viên của tờ Derry News . Anh biết tin anh Michael Hanlon, thủ thư trưởng của thư viện thị trấn, đã bị tấn công khi ở lại tăng ca. Bệnh viện có thể phát biểu đôi lời về tình hình của anh Hanlon được không?

Richie vừa nghe vừa gật đầu.

“Tôi hiểu rồi, thưa ông Kerpaskian – tên của ông có hai chữ K phải không? Ra vậy. Được rồi. Và ông là…”

Anh lắng nghe, chú tâm vào hình tượng mình dựng trong đầu đến độ lấy tay hí hoáy như thể đang viết vào sổ.

”Ừm… ừm… vâng. Vâng, tôi hiểu rồi. Chà, thường thì trong các trường hợp như vậy, chúng tôi chỉ để một nguồn tin cho hay. Vâng, sau đó, ta có thể… ừm… phải! Chính xác!” Richie cười sang sảng và đưa tay lau mồ hôi trên trán. Anh tiếp tục lắng nghe. “Được, thưa ông Kerpaskian. Vâng, tôi… vâng, tôi biết rồi, K-E-R-P-A-S-K-I-A-N, phải! Người Do Thái gốc Séc phải không? Thật sao! Chà… Quả là khác thường. Vâng, tôi sẽ làm thế. Chúc ông ngủ ngon. Cảm ơn ông.”

Anh cúp máy rồi nhắm mắt lại. “Chúa ơi!” Anh thét lên, giọng trầm đục, khản đặc. “Chúa ơi! Chúa ơi! Chúa ơi!” Anh vung vẩy thiếu điều hất tung điện thoại khỏi bàn nhưng chỉ buông thõng hai tay. Anh tháo kính và lấy áo ngủ lau tròng.

“Cậu ấy còn sống, nhưng đang tình trạng nguy kịch,” anh nói với mọi người. “Henry xiên cậu ấy như xiên con gà tây Giáng sinh. Vết đâm cắt thẳng vào động mạch đùi, khiến cậu ấy mất một lượng máu mà một người có thể mất nhưng vẫn giữ được mạng. May sao Mike xoay xở cầm được máu, nếu không lúc họ tìm ra, cậu ấy đã chết rồi.”

Beverly òa lên khóc như một đứa trẻ, hai tay bưng mặt. Suốt một lúc lâu, tiếng khóc nức nở của cô và tiếng thở khò khè hổn hển của Eddie là hai âm thanh duy nhất trong phòng.

“Mike không phải là người duy nhất bị xiên như gà tây Giáng sinh đâu,” mãi lúc sau, Eddie mới lên tiếng. “Trông Henry như thể vừa trải qua mười hai vòng đấu với Rocky Balboa trong máy xay sinh tố ấy.”

“Cậu v-vẫn m-m-muốn đ-đ-đến c-c-cảnh sát sao, Bev?”

Trên chiếc bàn cạnh giường có giấy ăn Kleenex nhưng chúng đã cứng lại và ướt sũng giữa vũng nước Perrier. Cô vòng thật rộng đi qua Henry vào nhà tắm, lấy khăn và xả nước lạnh. Áp khăn lên khuôn mặt nóng bừng, sưng húp của cô mới dễ chịu làm sao. Cô cảm thấy mình có thể suy nghĩ mạch lạc trở lại – không phải lý trí mà là mạch lạc. Chợt cô dám chắc nếu cố gắng lý trí lúc này thì họ chỉ tổ mất mạng. Tay cảnh sát ấy. Rademacher. Hẳn ông ta đã nghi ngờ. Không mới lạ, chẳng ai gọi đến thư viện lúc ba rưỡi sáng cả. Chắc ông ta sẽ suy luận cô có dính líu. Rồi ông ta sẽ suy luận gì nếu phát hiện cô gọi cho ông ta từ một căn phòng có xác người trên sàn với cổ chai lởm chởm cắm ngay giữa bụng? Rằng cô cùng bốn kẻ lạ mặt tình cờ đến thị trấn này một ngày trước để hội ngộ sau bao năm và người này tình cờ xuất hiện? Nếu cô là người ngoài, liệu cô có tin không? Liệu có ai tin không? Phải rồi, họ có thể củng cố câu chuyện bằng cách thêm thắt rằng họ trở về để kết liễu con quái vật ẩn nấp trong cống ngầm dưới thị trấn này. Có lý quá, như thế càng khiến câu chuyện trở nên thực tế và đầy sức thuyết phục ấy chứ.

Bước ra khỏi phòng tắm, cô nhìn Bill. “Không” cô nói. “Tớ không muốn đến đồn cảnh sát. Tớ nghĩ Eddie nói đúng - bọn mình có thể gặp chuyện. Một hồi kết. Nhưng đó không phải lý do thật sự.” Cô nhìn cả bốn người bạn của mình. “Bọn mình đã thề với nhau,” cô tiếp tục. “Cả bọn đã lập lời thề. Em trai của Bill… Stan… bao nạn nhân khác… và giờ là Mike. Tớ sẵn sàng rồi, Bill ạ.”

Bill nhìn mọi người.

Richie gật đầu. “Được, Bill To Bự. Mình thử đi.”

“Vận may không mỉm cười cho lắm. Mình thiếu mất hai người rồi,” Ben nói.

Bill không nói gì. “Được.” Ben gật đầu. “Cô ấy nói đúng. Bọn mình đã thề với nhau.”

“E-E-Eddie?”

Eddie khẽ mỉm cười. “Tớ đoán chắc tớ lại được cõng xuống thang rồi nhỉ? Nếu cái thang còn ở đó.”

“Được cái lần này không có ai ném đá,” Beverly nói. “Ba người bọn chúng đều chết cả rồi.”

“Bọn mình làm bây giờ luôn à, Bill?” Richie hỏi.

“U-U-Ừ,” Bill đáp. “Tớ ngh-nghĩ đến l-l-lúc rồi.”

“Tớ nói một chút được không?” Ben đột ngột lên tiếng.

Bill nhìn anh và khẽ mỉm cười. “C-C-Cậu cứ nói.”

“Các cậu vẫn là những người bạn tốt nhất tới từng có,” Ben nói. “Bất kể chuyện này kết thúc ra sao. Tớ chỉ… các cậu biết đấy, tớ chỉ muốn nói vậy thôi.”

Anh đưa mắt nhìn mọi người, và cả nhóm cũng nghiêm trang nhìn lại anh.

“Tớ mừng là tớ đã nhớ ra mọi người,” anh nói thêm. Richie phụt cười. Beverly khúc khích. Đoạn cả hội cùng phá lên cười, nhìn nhau như thuở xưa, bất chấp việc Mike còn nằm trong bệnh viện, có thể đang hấp hối hoặc đã lìa đời, bất chấp việc tay của Eddie bị gãy (thêm lần nữa), bất chấp việc họ đang ngụp lặn dưới đáy sâu.

“Haystack, phải công nhận cậu phát ngôn xuất thần quá,” Richie nói, vừa cười vừa lau mắt. “Cậu ấy nên làm tiểu thuyết gia mới đúng, Bill To Bự.”

Nụ cười vẫn vương trên môi, Bill nói: “Về việc đ-đ-đó…”

5

Cả nhóm dùng chiếc limo mà Eddie thuê. Richie ngồi sau bánh lái. Sương mù càng lúc càng dày, bảng lảng qua những con đường như khói thuốc, nhưng chỉ là là dưới mặt đất chứ không cao đến chụp đèn đường. Sao trời như vô vàn mảnh băng lấp lánh, hằng hà sa những bông hoa li ti… nhưng khi nghiêng đầu về phía cửa sổ đang hé mở bên ghế hành khách, Bill có cảm tưởng mình như nghe thấy sấm hè đì đùng vọng lại từ đằng xa. Mưa đang tích tụ đâu đó ở đường chân trời.

Richie bật đài thì giọng hát của Gene Vincent ca bài Be-Bop-A-Lula cất lên. Anh ấn nút chuyển kênh thì nghe thấy giọng của Buddy Holly. Lần ấn nút thứ ba cho họ Eddie Cochran hát vang Summertime Blues .

“Ta rất muốn giúp cháu, nhưng cháu chưa tới tuổi để đi bỏ phiếu,” một giọng nói trầm khàn rền rĩ.

Lời bài hát Summertime Blues của Eddie Cochran.

“Tắt nó đi, Richie,” Beverly khẽ nói.

Anh vươn tay tới nhưng rồi khựng lại. “Đừng chuyển kênh, hãy tiếp tục nghe buổi biểu diễn nhạc rock ‘Chết sạch sành sanh’ của Richie Tozier!” Tiếng thét rít ré, ha hả của gã hề vang lên, lấn át tiếng vỗ tay và gảy đàn của Eddie Cochran. “Đừng xớ rớ chuyển kênh, hãy đợi để nghe nhạc của Rockpile, tuy đã biến mất khỏi các bảng xếp hạng nhưng họ vẫn còn mãi trong lòng chúng ta, và đến đây nào, đến đây đi, hỡi quý vị! Dưới này, bọn ta chơi đủủủủ những bài hát nổi nhất! Đủủủủ những bài hát nổi nhất! Và nếu không tin thì xin mời quý vị lắng nghe khách mời khung giờ thiêng sáng sớm hôm nay, Georgie Denbrough! Nói chúng đi, Georgie!”

Và đột nhiên trên đài vang lên tiếng gào thét của em trai Bill.

“Anh đã bảo em ra ngoài chơi cho Nó giết em! Em tưởng Nó ở dưới tầng hầm, anh Bill To Bự, em tưởng Nó ở dưới tầng hầm kìa, nhưng hóa ra Nó ở dưới cống, Nó ở dưới cống và Nó giết em, anh đã để Nó giết em, Bill To Bự, anh đã để Nó…”

Richie tắt đài mạnh đến độ nút bấm bật ra, rơi xuống tấm thảm lót sàn.

“Rock and roll nghe ở vùng quê dở quá,” anh nói, giọng run run. “Bev nói đúng, thôi mình tắt đài đi cho lành nhỉ?”

Không một ai đáp lại. Khuôn mặt Bill xanh như tàu lá, cứng đờ và trầm mặc dưới ánh đèn đường lướt qua, và từ phía tây, họ nghe thấy tiếng sấm chớp ầm ì.

6 TRONG VÙNG ĐẤT CẰN

Vẫn cây cầu đó.

Sau khi Richie đậu xe bên cạnh nó, cả nhóm xuống xe, đi đến rào chắn – rào chắn năm nào - rồi nhìn xuống.

Vùng Đất Cằn vẫn như xưa.

Dường như hai mươi bảy năm vừa qua chẳng hề tác động đến nơi này, trong mắt Bill, cầu vượt cao tốc, chi tiết khác biệt duy nhất, trông thật vô thực, tưởng chừng chỉ là bức màn kỹ xảo hoặc hiệu ứng màn chiếu sau trong phim. Nhìn những hàng cây lít nhít, bụi rậm gớm guốc ánh lên trong sương khói, Bill thầm nghĩ: Có lẽ miền ký ức khắc khoải khôn nguôi là thế này đây, là những thứ khi ta nhìn đúng thời điểm, đúng góc độ, là hình ảnh khiến bao cảm xúc ồ ạt trào dâng như động cơ phản lực. Nó rõ ràng quá, sắc nét quá, đến độ bao thứ xảy ra giữa ngày ấy và bây giờ đều biến mất. Nếu khát khao là thứ đóng vòng tròn giữa thế gian mà vẫy vùng, thì vòng tròn ấy đã khép rồi.

“Đ-Đ-Đi thôi,” anh nói và trèo qua rào chắn. Mọi người theo anh trượt xuống triền dốc, sỏi đá lạo xạo lăn dưới chân. Khi xuống đến chân dốc, trong vvô thức, Bill quay sang tìm Ánh Bạc rồi tự phá lên cười. Ánh Bạc đang dựng vào tường trong ga-ra nhà Mike mà. Có lẽ Ánh Bạc không có vai trò nào trong toàn bộ tấn kịch này, dù nếu xét tới cách nó xuất hiện trở lại trong đời anh thì điều đó quả lạ lùng.

“D-Dẫn đường đi Ben,” Bill nói với Ben.

Ben nhìn anh, và Bill đọc được suy nghĩ trong mắt bạn mình – đã hai mươi bảy năm rồi, Bill, cậu cứ tiếp tục mơ đi – đoạn anh gật đầu, tiến về bụi cây còi cọc.

Cỏ dại đã mọc kín con đường năm xưa – con đường của bọn họ , khiến cả nhóm phải gạt bao bụi gai tua tủa, tú cầu dại tỏa hương nồng phát ngấy. Dế hòa ca râm ran xung quanh, vài chú đom đóm chưa gì đã xuất hiện để góp mặt vào cuộc vui rạo rực của mùa hè, lập lòe trong màn đêm. Bill đoán có lẽ trẻ con vẫn chơi dưới này, nhưng chúng có đường ngang ngõ tắt riêng.

Bọn họ đến khoảng đất nơi cả đám dựng phòng sinh hoạt nhóm ngày xưa, có điều, nơi đây không còn là khoảng đất trống nữa. Bụi rậm cùng những cây thông còi cọc đã chiếm cứ mảnh đất này.

“Nhìn kìa, Ben thì thầm rồi băng qua khoảng đất (trong ký ức của họ, nó vẫn còn đây, chỉ là bị khỏa lấp bởi một lớp màn kỹ xảo mà thôi). Anh giật cái gì đó. Hóa ra đó là cánh cửa gỗ dái ngựa mà họ tìm thấy ở rìa bãi rác, sau được trưng dụng làm mái cho phòng sinh hoạt nhóm. Nó bị vứt ở đây, và xem ra không ai đụng vào hơn chục năm nay. Dây leo bám chặt trên mặt cửa dơ dáy.

“Tha cho nó đi, Haystack,” Richie lầm bầm. “Nó già rồi.”

“Đ-Đ-Đưa bọn tớ đ-đến đó đi, B-Ben” Bill lặp lại từ đằng sau.

Thế là cả nhóm lần lượt theo sau anh, rẽ trái, rời khỏi khoảng đất giờ không còn trống như năm nào. Tiếng nước chảy to dần, nhưng suýt chút nữa, họ đã ngã xuống sông Kenduskeng trước khi trông thấy nó: bụi cây um tùm như bức tường ngay mép sông. Bờ sông sụt lở dưới gót đôi giày bốt cao bồi của Ben, may sao Bill kịp thời nắm cổ áo kéo ngược anh ra sau.

“Cảm ơn cậu,” Ben nói.

“ De nada . Ng-Ngày x-xưa, cậu cũng s-sẽ k-kéo tớ v-vào s-s-sau cậu. Đ-Đi l-lối này hả?”

Không có gì (tiếng Tây Ban Nha).

Ben gật đầu và dẫn mọi người đi dọc theo bờ sông rậm rạp, gạt những bụi cây, bụi gai qua hai bên, lòng thầm nghĩ lúc còn bé dễ dàng biết bao, khi anh cao một mét ba và chỉ cần thụp người xuống là có thể luồn lách dưới bụi rậm (anh đoán cả bụi rậm trong tâm trí lẫn trên đường đi). Chà, nhưng mọi thứ đã đổi thay. Bài học của chúng ta hôm nay, các cô các cậu ạ, là dòng đời xô bồ, nhân gian vật đổi sao dời. Kẻ nào bảo dù có nhiều thứ đổi thay, có những thứ vẫn không thay đổi thì đầu óc kẻ ấu rõ là trì độn. Bởi…

Chân vấp phải thứ gì đó, anh ngã đánh thịch, suýt chút nữa đập đầu lên trụ bê tông của trạm bơm. Trụ hoàn toàn bị khỏa lấp trong bụi mâm xôi. Lúc đứng dậy, anh nhận ra mặt mũi cùng hai cánh tay mình đã bị gai mâm xôi cào xây xước rất nhiều chỗ.

“Sao không đâm tao rách như tổ đỉa luôn đi,” anh nói, cảm nhận máu rỉ xuống má.

“Sao kia?” Eddie hỏi.

“Không có gì.” Nói đoạn, anh cúi xuống xem mình vấp phải thứ gì. Chắc là rễ cây.

Nhưng hóa ra không phải. Thủ phạm làm anh ngã là nắp cống bằng sắt. Có ai đó đã đẩy nó mở ra.

Đúng rồi, Ben thầm nghĩ. Bọn mình mở chứ ai. Hai mươi bảy năm trước.

Nhưng rồi anh nhận ra điều đó thật điên rồ, trước khi thấy ánh kim loại lạnh lẽo ánh lên dưới lớp gỉ sét bị cào ra. Hôm ấy, máy bơm không hoạt động. Chẳng sớm thì muộn sẽ có người đến sửa và đặt nắp cống trở về vị trí cũ mới phải.

Anh đứng dậy, năm người bọn họ vây quanh cột trụ, đưa mắt nhìn vào trong. Họ có thể nghe thấy tiếng nước tong tỏng khe khẽ. Chỉ có thế. Trước đó, Richie đã thủ theo tất tần tật diêm trong phòng Eddie. Anh bèn lôi ra đốt một xấp và ném vào trong. Giây sau, họ nhìn thấy thành công ẩm ướt và máy bơm im lìm. Chỉ có thế.

“Chắc nó chết máy bấy lâu nay rồi,” Richie lo lắng nói. “Có lẽ không phải m…”

“Nó mới chết máy gần đây đấy,” Ben nói. “Chí ít là kể từ cơn mưa lần trước.” Anh lấy xấp diêm từ tay Richie, châm một que rồi chỉ cho mọi người những vết xước mới.

“Có gi-gi-gì đó b-bên dưới,” Bill nói khi Ben dập que diêm.

“Gì thế?” Ben hỏi.

“Kh-Kh-Không b-b-biết. Nhìn như s-s-sợi dây. Cậu và R-Richie giúp tớ l-l-lật nó l-lên nhé.”

Họ chộp lấy nắp cống và lật nó như lật một đồng xu khổng lồ. Lần này, Beverly quẹt diêm, Ben cẩn thận nhặt chiếc túi nằm bên dưới nắp cống. Anh nắm dây túi, giơ lên. Toan dập que diêm, Beverly quay sang nhìn Bill. Cô sững sờ cho đến khi lửa bén vào đầu ngón tay khiến cô khẽ há hốc đánh rơi diêm. “Bill? Sao vậy? Có chuyện gì thế?”

Đôi mắt Bill nặng như chì, chẳng tài nào dứt ra khỏi chiếc túi da tả tơi với sợi dây đeo bằng da dài. Anh chợt nhớ tên bài hát phát trên đài vẳng từ gian phòng phía sau cửa hàng bán đồ da lúc anh mua nó tặng cô. Đêm hè Sausalito . Lạ lùng chưa kìa. Miệng anh chẳng còn chút nước bọt, lưỡi và bên trong má anh khô khốc, trơn như kim loại. Anh có thể nghe thấy tiếng dế râm ran, trông thấy đom đóm lập lòe, ngửi thấy mùi cây cỏ hoang tàn sinh sôi xung quanh, và anh nghĩ, Lại một cú lừa một màn ảo giác cô ấy đang ở Anh mà đây chỉ là một màn cố đấm ăn xôi vì Nó sợ, ờ phải, có lẽ Nó không chắc chắn như ngày xưa khi Nó gọi bọn mình về lại, với cả, Bill, nghiêm túc đi – mày nghĩ trên đời này có bao nhiêu chiếc túi da tả tơi có dây đeo dài chứ? Một triệu? Hay mười triệu?

Có thể còn nhiều hơn. Nhưng đây là chiếc túi độc nhất vô nhị mà anh đã mua cho Audra trong một cửa tiệm bán đồ da ở thành phố Burbank lúc trên đài đang phát bài Đêm hè Sausalito ở gian phòng phía sau.

“Bill?” Tay của Beverly đặt lên vai anh, lắc mạnh. Xa quá. Hai mươi bảy dặm dưới đáy biển. Tên của ban nhạc hát bài Đêm hè Sausalito là gì ấy nhỉ? Chắc Richie sẽ biết.

“Tớ biết rồi,” Bill bình thản quay sang nói với Richie, lúc này đang sợ hãi tròn mắt rồi mỉm cười. “Là Diesel. Thấy tớ nhớ ghê chưa?”

“Bill, có chuyện gì vậy?” Richie khẽ khọt.

Bill thét lên. Anh chộp lấy bao diêm từ tay Beverly, châm một que rồi giật túi khỏi Ben.

“Bill, Chúa ơi, cái…”

Anh mở túi rồi dốc ngược nó xuống. Những thứ rơi ra đậm chất Audra đến nỗi trong thoáng chốc, anh bàng hoàng đến độ không thét lên nổi. Giữa khăn giấy Kleenex, thỏi kẹo cao su, đồ trang điểm, anh thấy hộp kẹo bạc hà Altoid… cùng hộp phấn khảm ngọc mà Freddie Firestone tặng lúc cô ký hợp đồng phim Phòng áp mái .

“V-V-V-Vợ tớ dưới đó,” anh nói rồi đổ sụp xuống gối, cuống cuồng vợ tư trang của vợ mình vào trong túi. Trong vvô thức, anh cứ thế đưa tay dụi để những cọng tóc vô hình không đâm vào mắt nữa.

“Vợ cậu? Audra ư?” Beverly sốc ra mặt, trợn tròn mắt.

“T-T-Túi và đ-đồ của cô ấy.”

“Chúa ơi, Bill,” Richie lầm bầm. “Không thể nào, cậu biết…”

Anh tìm thấy ví da cá sấu của cô. Anh mở nó và giơ lên. Richie quẹt thêm một que diêm và nhìn thấy khuôn mặt anh từng xem trong nhiều bộ phim. Bức ảnh trên bằng lái xe California của Audra tuy ít quyến rũ hơn nhưng hoàn toàn thuyết phục.

“Nhưng H-H-Henry chết rồi, Victor, Ợ-Ợ-Ợ Hơi cũng… vậy ai là kẻ bắt cô ấy?” Anh đứng dậy, nhìn bọn họ với ánh mắt đau đáu. “Ai bắt cô ấy kia chứ?”

Ben đặt tay lên vai Bill. “Có lẽ bọn mình phải xuống mới biết được, nhỉ?”

Bill ngơ ngác nhìn như thể không biết Ben là ai, và rồi đôi mắt anh sắc sảo trở lại. “Ph-Phải,” anh nói. “E-E-Eddie?”

“Bill, tớ rất tiếc.”

“Cậu tr-trèo lên được không?”

“Tớ từng làm một lần rồi mà.”

Bill khom lưng, Eddie ben móc tay phải mình quanh cổ Bill. Ben cùng Richie đỡ cho đến khi anh có thể quặp chân quanh bụng Bill.

Khi Bill vụng về đưa chân qua miệng trụ cổng, Ben thấy Eddie nhắm nghiền mắt… và trong phút chốc, anh tưởng như mình có thể nghe thấy tiếng đội quân gớm ghiếc nhất thế giới loạt soạt băng qua bụi cây. Anh quay lại, những tưởng mình sẽ bắt gặp ba kẻ bọn chúng bước ra từ màn sương và bụi rậm, nhưng không, anh chỉ nghe thấy tiếng gió xôn xao khiến rặng tre cành cạch rì rào cách đây khoảng bốn trăm mét. Kẻ thù năm xưa của họ nay đã không còn.

Bill nắm lấy bờ bê tông sần sùi của trụ cống và lần mò bước từng bước, từng thanh sắt. Eddie ôm cứng ngắc làm anh không thở nổi. Túi xách của cô ấy, Chúa ơi, làm thế nào mà túi xách của cô ấy lại ở đây? Chẳng còn quan trọng nữa. Nhưng Chúa ơi, nếu Người có thật trên đời, nếu Người lắng nghe lời nguyện cầu của con, xin Người hãy để cô ấy bình an, đừng để cô ấy liên lụy vì hành động của Bev và con tối nay cũng như những gì con làm vào mùa hè năm ấy… Có phải gã hề không, thưa Chúa? Có phải Bob Gray đã bắt cóc cô ấy không? Nếu phải, thì chẳng biết Người có thể giúp vợ con hay không nữa.

“Tớ sợ quá, Bill ơi,” Eddie khẽ nói.

Chân Bill chạm xuống làn nước lạnh ngắt. Anh từ từ hạ người, nhớ lại cảm giác và thứ mùi ẩm thấp, nhớ lại cảm giác bức bối mà nơi này đem lại… và, nhân tiện, bọn họ đã gặp chuyện gì? Bọn họ làm cách nào để xoay xở trong cống ngầm như mê cung này? Chính xác thì bọn họ đã đi đâu, đã làm gì để thoát ra bên ngoài? Anh vẫn chưa nhớ ra những chi tiết ấy, trong đầu anh lúc này chỉ có hình ảnh của Audra mà thôi.

“Tớ c-c-cũng thế.” Anh khuỳnh chân, nhăn mặt khi nước lạnh ngắt thấm vào quần, chạm vào bộ hạ, thả Eddie xuống. Họ đứng ngập đến ống quyển, nhìn các thành viên còn lại lần lượt leo xuống.