← Quay lại trang sách

DERRY TAO ĐOẠN CUỐI

“Thời nay, đại dương chỉ là một đoàn tàu ấy mà, đi đông đi tây thể nào chẳng tao ngộ. Băng qua dăm bước là tới, ông Micawber vọc kính, “băng dăm bước há là bao. Khoảng cách chỉ là tưởng tượng thôi.”

Ngày 4 tháng 7 năm 1985

Chừng hai mươi phút trước, Bill bước vào mang cho tôi một cuốn sách – Carole tìm thấy nó trên một cái bàn trong thư viện và đưa cho cậu khi cậu hỏi mượn. Tôi cứ tưởng Cảnh sát trưởng Rademacher đã lấy đi, nhưng xem chừng ông ta không muốn dính líu gì đến nó.

Tật nói lắp của Bill lại biến mất, nhưng cậu bạn tội nghiệp của tôi đã già đi bốn tuổi trong vỏn vẹn bốn ngày vừa rồi. Cậu ấy kể với tôi rằng mình mong Audra được chuyển viện vào ngày mai, từ Derry Home (nơi tôi vẫn chưa được cho về) rồi di chuyển bằng xe cấp cứu tư lên Viện Sức khỏe Tâm thần Bangor. Cơ thể cô không có vấn đề gì ngoài dăm ba vết cắt và bầm tím đang dần lành. Song về mặt tinh thần thì…

“Nếu cậu giơ tay cô ấy lên, nó vẫn giữ nguyên ở vị trí đó,” Bill kể. Cậu ngồi cạnh cửa sổ, hai tay mân mê lon sô-đa ăn kiêng. “Tay cô ấy cứ lơ lửng cho đến khi có người đặt nó xuống. Cô ấy có phản xạ nhưng chậm lắm. Điện não đồ cho thấy dao động thần kinh ở mức sóng alpha cực kỳ thấp. Cô ấy bị m-mất tri giác rồi, Mike ạ.”

“Tớ có ý này, có thể không hay lắm,” tôi lên tiếng. “Nếu cậu không thích thì cứ nói.”

“Gì thế?”

“Tớ sẽ ở trong viện chừng một tuần nữa,” tôi đáp. “Thay vì đưa Audra lên Bangor, cậu đưa cô ấy về nhà tớ đi, Bill? Ở bên cô ấy một tuần. Hàn huyên tâm sự dù cô ấy không đáp lại. Cô ấy có… cô ấy có kiểm soát tiểu tiện được không?”

“Không,” Bill chua chát.

“Cậu có thể… ý tớ là, cậu có…”

“Tớ có thay rửa cho cô ấy không à?” Bạn tôi cười, và nụ cười ấy đau đớn đến độ tôi phải quay mặt đi. Nó giống với nụ cười lần bố kể với tôi về Butch Bowers và sự việc đàn gà. “Có. Tớ nghĩ chừng đó thì tớ làm được.”

“Tớ sẽ không bảo cậu đừng dằn vặt vì rõ ràng còn khuya cậu mới chịu làm thế,” tôi nói, “nhưng hãy nhớ rằng bản thân cậu cũng đồng ý đa phần những điều đã xảy ra đều là số mệnh rồi. Kể cả phần của Audra nữa.”

“Đ-Đáng lý tớ không nên nói ra nơi tớ đ-đi.”

Có những lúc tốt hơn hết là không nói gì – vậy nên tôi lặng thinh. “Được rồi,” rốt cuộc, cậu lên tiếng. “Nếu cậu có lòng thì…”

“Tớ nói thật. Họ để chìa khóa nhà tớ ở Bàn Dịch vụ Bệnh nhân đấy. Trong tủ đá có vài khoanh bít tết dày. Có lẽ số trời đã định cho chúng ở đó cũng nên.”

“Cô ấy chủ yếu ăn thức ăn mềm và, ờ, đồ l-lỏng thôi.”

“Chà,” tôi nói tiếp, cố giữ nụ cười, “biết đâu sẽ có lý do để ăn mừng thì sao. Ngoài ra còn một chai rượu vang rất ngon trên cùng kệ bếp đấy. Mondavi. Hàng nội địa nhưng ngon khỏi chê.”

Cậu ấy bước đến và siết tay tôi. “Cảm ơn cậu, Mike.”

“Đừng khách sáo, Bill To Bự.” Cậu buông tay tôi ra. “Richie mới bay về California sáng nay.”

Tôi gật đầu. “Cậu nghĩ các cậu có giữ liên lạc không?”

“C-Có thể,” cậu đáp. “Chí ít là một thời gian. Nhưng…” Cậu bình thản nhìn tôi. “Tớ nghĩ thể nào hiện tượng ấy cũng sẽ xảy ra.”

“Việc lãng quên sao?”

“Phải. Thật ra tớ thấy chưa gì nó đã khởi phát rồi. Tớ bắt đầu quên những chi tiết nho nhỏ. Nhưng tớ đoán nó sẽ lan dần.”

“Có lẽ như thế sẽ tốt hơn cả.”

“Có lẽ thế.” Cậu nhìn ra ngoài cửa sổ, tay vẫn mân mê lon nước ngọt, hẳn tâm trí cậu đang rối bời chuyện của vợ mình, người phụ nữ lúc nào cũng mở to mắt, lặng thinh, xinh đẹp và trông chẳng khác nào búp bê. Mất tri giác . Có tiếng cửa đóng sầm và khóa lại. “Có lẽ là thế.”

“Ben và Beverly thế nào rồi?”

Cậu lại nhìn tôi rồi khẽ mỉm cười. “Ben mời Beverly về Nebraska cùng cậu ấy, và cô ấy đồng ý, chí ít thời gian sắp tới là thế. Cậu biết chuyện người bạn của cô ấy ở Chicago chứ?”

Tôi gật đầu. Beverly mới kể với Ben, và hôm qua Ben kể với tôi. Nếu cho phép tôi nói giảm nói tránh trong trường hợp này (hay nói đúng hơn là nói giảm tối đa), thì những lời về sau Beverly mô tả Tom – đấng phu quân hoàn hảo tuyệt vời – chuẩn xác hơn những gì cô kể ban đầu rất nhiều. Đấng phu quân vẹn toàn tên Tom ấy trói buộc Bev về mặt tinh thần, cảm xúc, thỉnh thoảng là cả một thể xác suốt bốn năm ròng rã. Anh chồng tuyệt nhất quả đất mò đến đây bằng cách tẩn cô bạn thân duy nhất của Bev một trận thập tử nhất sinh để cô ấy khai ra.

“Cô ấy nói với tớ tuần sau nữa, cô ấy sẽ bay về Chicago để làm đơn báo hắn mất tích. Ý tớ là Tom.”

“Nước cờ chuẩn rồi,” tôi nhận xét. “Sẽ chẳng có ai tìm được hắn dưới đó.” Cả Eddie nữa, tôi thầm nhủ nhưng không nói thành lời.

“Tớ cũng nghĩ thế,” Bill nói. “Khi cô ấy lên đường, tớ cá là Ben sẽ đi cùng. Và cậu biết gì không? Một điều cực kỳ điên rồ?”

“Gì thế?”

“Tớ thấy hình như cô ấy không nhớ chuyện gì đã xảy ra với Tom thì phải.”

Tôi chằm chằm nhìn cậu.

“Cô ấy chưa gì đã quên rồi,” Bill nói. “Đến tớ cũng vậy, tớ không nhớ nổi lối ra vào trông như thế nào. C-C-Chỗ hang ổ của Nó ấy. Tớ cố nặn óc nhớ lại thì một thứ rõ quái dị xảy ra – trong đầu tớ chỉ có h-hình ảnh của đàn d-d-dê bước qua cầu. Từ câu chuyện ‘Ba chú dê Gruff’ ấy. Nghe ngộ nhỉ?”

“Rồi họ sẽ truy vết Tom Rogan đến Derry,” tôi nói. “Giấy tờ hắn ta để lại nhiều lắm. Nào là thuê xe, nào là vé máy bay.”

“Tớ lại không nghĩ vậy,” Bill nói và châm thuốc. “Tớ đoán hắn trả tiền mặt khi mua vé máy bay và dùng tên giả. Có thể hắn ta đã mua đại một chiếc xe rẻ mạt ở đây hoặc ăn cắp một chiếc.”

“Tại sao?”

“Ôi trời,” Bill thốt lên. “Chứ cậu nghĩ hắn ta lặn lội đến tận đây chỉ để cho cô ấy ăn đòn à?”

Bốn mắt chúng tôi nhìn nhau suốt một lúc lâu, đoạn cậu đứng lên. “Nghe này, Mike…”

“Khiếp thật, chịu đấy,” tôi nói. “Tớ bó chiếu.”

Cậu phá lên cười trước câu bông đùa của tôi, cười nắc nẻ, và khi cười xong, cậu nói: “Cảm ơn vì đã cho tớ ở nhà của cậu, Mikey.”

“Tớ không dám thề hứa đảm bảo nó sẽ đem lại kết quả. Theo kinh nghiệm cá nhân, tớ thấy nhà tớ không tiềm ẩn năng lực chữa bách bệnh đâu nhé.”

“Thôi… Gặp lại cậu sau.” Đoạn cậu bạn tôi làm một hành động rất lạ, lạ nhưng khá đáng yêu. Cậu hôn lên má tôi. “Chúa phù hộ cậu, Mike ạ. Tớ sẽ vào thăm cậu sau.”

“Mọi thứ rồi sẽ ổn thôi, Bill ơi,” tôi nói. “Đừng từ bỏ hy vọng. Khéo đâu lại vào đấy ấy chứ.”

Cậu mỉm cười gật đầu, nhưng tôi nghĩ trong đầu hai chúng tôi chỉ văng vẳng cùng một cụm từ: Mất tri giác.

Ngày 5 tháng 6 năm 1985

Hôm nay, Ben và Beverly đã cùng vào bệnh viện để chào tạm biệt. Hai người không đi máy bay. Ben thuê một chiếc Cadillac hoành tráng từ hãng Hertz, họ sẽ thong thả lái xe chứ không vội vàng. Ánh mắt họ nhìn nhau có gì đó thật khác, và tôi dám đem lương hưu của mình ra cá nếu hiện giờ giữa họ chưa nảy nở điều gì thì chắc chắn khi đến Nebraska, tình cảm ấy sẽ đơm hoa kết trái.

Beverly ôm tôi, chúc tôi sớm bình phục rồi bịn rịn khóc.

Ben cũng ôm tôi, nhắc tôi đến ba, bốn lần rằng phải viết thư cho cậu. Tôi hứa mình sẽ viết, và tôi sẽ thực hiện lời hứa ấy… chí ít là trong thời gian tới. Vì lần này, tôi cũng gặp tình trạng như họ.

Tôi đang dần quên.

Và như Bill nói, hiện giờ, chúng tôi chỉ quên những chi tiết nhỏ. Nhưng nó sẽ dần lan ra. Có thể trong một tháng hoặc một năm nữa, cuốn sổ này sẽ là tất cả những gì tôi có để nhắc nhở bản thân về những điều từng xảy ra ở Derry. Tôi e có khi những con chữ rồi đây cũng phai nhòa, cuối cùng, cuốn sổ sẽ trống trơn như cái lúc tôi mua nó ở quầy văn phòng phẩm trong trung tâm thương mại Freese’s. Nghĩ đến đó mà lòng tôi đắng ngắt, suy nghĩ ấy dường như thật điên rồ giữa ban ngày ban mặt thế này… nhưng bạn biết không, khi màn đêm buông xuống, bỗng dưng nó thật có lý.

Cứ nghĩ bản thân đang lãng quên… tôi lại hoảng sợ, nhưng đồng thời, nó cũng cho tôi chút nhẹ nhõm lẩn lút. Trên tất thảy, nó thầm cho tôi hay lần này, họ thực sự đã giết chết Nó; rằng không cần phải có một người canh gác đợi cho chu kỳ ấy xoay vần.

Hoảng sợ manh nha, nhẹ nhõm lẩn lút. Nhưng tôi nghĩ dù lẩn lút hay không, tôi vẫn sẽ trân quý sự nhẹ nhõm ấy.

Bill gọi tôi, báo cậu và Audra đã dọn vào. Tình trạng cô vẫn thế.

“Tớ sẽ luôn nhớ các cậu.” Đó là điều mà Beverly nói với tôi ngay trước khi cô và Ben lên đường.

Song tôi nghĩ tôi nhìn thấy sự thật khác trong mắt cô.

Ngày 6 tháng 6 năm 1985

Một bài báo thú vị đăng trên tờ Derry News số ra hôm nay, ngay trang nhất. Tựa đề là: CƠN BÃO BUỘC HENLEY BỎ KẾ HOẠCH MỞ RỘNG THÍNH PHÒNG. Henley được nhắc đến ở đây là Tim Henley - nhà phát triển bất động sản lắm tiền nhiều của đến Derry như một cơn lốc vào thập niên 60 – chính Henley và Zitner đã đứng ra quy tụ các công ty phụ trách việc xây dựng Trung tâm thương mại Derry (theo như một mẩu tin khác cũng trên trang nhất, có khả năng dự án trên sẽ được tuyên bố tổn thất toàn bộ). Tim Henley rất tâm huyết với việc kiến thiết Derry. Tất nhiên động cơ lợi nhuận vẫn có, nhưng không chỉ dừng lại ở đó. Henley thực lòng muốn nhìn Derry thay da đổi thịt. Việc ông ta đột nhiên từ bỏ kế hoạch mở rộng thính phòng nói lên một vài điều. Điều hiển nhiên nhất là Henley đã ngán tận cổ Derry rồi. Tôi nghĩ cũng có thể ông ta tán gia bại sản và trung tâm thương mại bị phá hủy là đằng khác.

Những bài báo cũng úp mở rằng Henley không phải người duy nhất, những người đã đầu tư và dự tính đầu tư vào Derry trong tương lai sẽ cân nhắc lại sự lựa chọn của mình. Tất nhiên, Al Zitner không phải nhọc công suy tính, Chúa cho ông ta về hưu khi trung tâm thị trấn sụp đổ. Một số người cùng chung góc nhìn với Henley thì đang phải đối mặt với một vấn đề khó khăn – làm thế nào tái thiết được khu vực đô thị hiện đang chìm dưới nước ít nhất là năm mươi phần trăm?

Tôi nghĩ sau quãng thời gian tồn tại dài đằng đẵng, phồn vinh nhờ máu xương của kẻ khác, Derry có lẽ đã tận số… như bông hoa bạch anh mãn khai rồi úa tàn.

Chiều nay, tôi vừa gọi cho Bill Denbrough. Tình hình Audra vẫn thế.

Một tiếng trước, tôi còn gọi cho Richie Tozier ở California. Máy trả lời tự động nhận cuộc gọi với nhạc nền là bài hát của nhóm Creedence Clearwater Revival. Mấy thứ máy móc này lúc nào cũng phá đám tôi. Tôi để lại tên, số điện thoại, lưỡng lự một chút, tôi nói thêm mình mong cậu đã có thể đeo kính áp tròng trở lại. Tôi toan gác máy thì Richie nhấc điện thoại và nói, “Mikey! Cậu sao rồi?” Giọng cậu dễ chịu và ấm áp… nhưng rõ ràng có chút hoang mang ẩn bên dưới. Dường như cậu vừa bị chơi một vố bất ngờ đến choáng váng.

“Xin chào, Richie,” tôi đáp lời. “Tớ vẫn ổn.”

“Thế thì tốt. Cậu còn đau nhiều không?”

“Chút thôi. Gần hết đau rồi. Nhưng ngứa ngáy mới gọi là kinh khủng. Tớ chỉ mong bác sĩ sớm quyết định cho tớ tháo băng lồng ngực thôi. Nhân tiện, tớ thích Creedence đấy.”

Richie phá lên cười. “Bậy nào, đấy đâu phải Creedence mà là bài hát ‘Em gái Rock and Roll’ từ album mới của Fogerty mang tên Giữa sân đấy. Cậu chưa nghe bài nào hết à?”

“Chưa.”

“Nghe đi kẻo phí, hay lắm. Nó hoài niệm như..” Cậu buông lửng khúc cuối rồi nói, “Nó hoài niệm như những ngày xưa.”

“Tớ sẽ đi mua,” tôi nói và có lẽ tôi sẽ làm thế thật. Xưa nay, tôi vẫn thích John Fogerty. Trong số các bài hát của Creedence thì tôi thích “Sông Xanh” nhất. Lời bài hát thủ thỉ về nhà đi. Về trước khi ngày tàn.

“Bill sao rồi?”

“Cậu ấy và Audra đang giữ nhà giùm tớ trong lúc tớ nằm viện.”

“Tốt quá. Vậy thì tốt quá.” Cậu thoáng ngập ngừng. “Cậu muốn nghe một điều vô cùng kỳ quặc không, Mikey?”

“Nghe chứ,” tôi đáp, lờ mờ đoán được cậu ấy sẽ nói gì.

“Chà… Số là ban nãy, tớ đang ngồi trong phòng làm việc nghe vài tên tuổi mới nổi trội trong tạp chí Cashbox , xem qua một vài trang quảng cáo, đọc ghi chú… có cả hai núi giấy tờ tồn đọng, và trên tinh thần là cả tháng tới, tớ sẽ phải nai lưng cày hai mươi lăm tiếng một ngày. Nên tớ bật máy trả lời tự động và mở loa to, nhờ thế tớ có thể nhận cuộc gọi nào tớ muốn, còn những cuộc gọi vớ vẩn thì cứ cho nói vào máy thu. Lý do tớ để cậu nói với máy tự động lâu đến thế là vì…”

”… vì ban đầu cậu không nhớ ra tớ là ai.”

“Chúa ơi, đúng rồi! Sao cậu biết thế?”

“Vì ký ức của chúng ta lại bắt đầu phai nhạt rồi. Lần này là cả nhóm.”

“Mikey, cậu chắc chứ?”

“Thế họ của Stan là gì nào?” Tôi hỏi cậu.

Đầu dây bên kia im lặng - một khoảng lặng kéo dài. Loáng thoáng trong sự lặng thinh ấy, tôi nghe thấy lẫn tiếng một người phụ nữ nói chuyện ở Omaha… hoặc ở Ruthven, Arizona hoặc Flint, Michigan. Tôi nghe thấy cô cảm ơn ai đó vì món bánh quy, tiếng nói xa xăm như người du hành vũ trụ đang rời khỏi hệ mặt trời trong chóp hình nón của tên lửa đã phóng phụt lên.

Và rồi Richie dè dặt lên tiếng: “Nếu tớ không lầm thì là Underwood, nhưng cái tên này lại không phải Do Thái nhỉ?”

“Là Uris.”

“Uris!” Richie la lên, giọng nói đầy nhẹ nhõm và run rẩy. “Chúa ơi, tớ ghét cay ghét đắng những lúc mang máng ngay đầu lưỡi mà không tài nào nhớ ra. Nếu có ai mang bảng trò chơi đố vui Mưu cầu Kiến thức vào đây, chắc tớ sẽ đánh bài chuồn ‘Xin lỗi, tớ bị Tào Tháo rượt rồi nên hôm nay tớ xin kiếu về nhé?’. Nhưng dù gì cậu vẫn nhớ mà, phải không Mikey? Như ngày xưa.”

“Không đâu. Tớ phải tra trong sổ danh bạ đấy.”

Lại một khoảng lặng dài. Đoạn: “Cậu không nhớ à?”

“Không.”

“Thật sao?”

“Thật.”

“Vậy lần này hạ màn thật rồi,” cậu nói, và không nhầm lẫn gì nữa, giọng nói của cậu đầy nhẹ nhõm.

“Ừ, tớ cũng nghĩ vậy.”

Im lặng lại bao trùm khoảng cách giữa hai chúng tôi – xa vời vợi từ Maine đến California. Tôi nghĩ cả hai đều đang nghĩ về một điều: kết thúc rồi, vâng, sau sáu tuần hoặc sáu tháng nữa, chúng tôi sẽ quên sạch về nhau. Chấm dứt rồi, tất cả những gì chúng tôi mất đi là tình bạn này, là mạng sống của Stan và Eddie. Bạn có tưởng tượng được không, chưa gì mà tôi đã quên họ? Đau lòng làm sao, hình ảnh Stan và Eddie đã dần phai mờ trong ký ức tôi. Eddie bị hen suyễn hay bị đau nửa đầu mãn tính nhỉ? Tôi mà nhớ thì tôi xin đi đầu xuống đất, nhưng tôi đoán hình như là đau nửa đầu thì phải. Để tôi hỏi Bill xem. Cậu ấy sẽ biết.

“À, cậu gửi lời hỏi thăm của tớ đến Bill và cô vợ xinh đẹp của cậu ấy nhé,” Richie nói, giọng điệu vui tươi nhưng có gì đó không thật.

“Tớ sẽ nói, Richie,” tôi đáp, nhắm mặt, đưa tay bóp trán. Cậu ấy nhớ vợ của Bill ở Derry… nhưng không nhớ tên hay chuyện gì đã xảy ra với cô ấy.

“Nếu cậu đến LA thì có số của tớ rồi đó. Bọn mình tụ họp rồi hàn huyên tâm sự.”

“Hẳn rồi.” Tôi cảm thấy lệ nóng hổi trong mắt. “Và nếu cậu có về đây thì cũng liên lạc với tớ nhé.”

“Mikey?”

“Tớ đây.”

“Tớ thương cậu lắm.”

“Tớ cũng vậy.”

“Được. Lăn tay đàng hoàng đấy.”

“Bíp bíp, Richie.”

Cậu cười. “Ừ, ừ, ừ. Rồi nhét nó vào tai nhé, Mike. Ối chà, nhét vào tai mới được.”

Cậu ấy cúp máy, tôi cũng làm theo. Đoạn tôi ngả người lên gối, nhắm thật chặt mắt, mãi không mở ra.

Ngày 7 tháng 6 năm 1985

Cảnh sát trưởng Andrew Rademacher, người kế nhiệm Cảnh sát trưởng Borton vào cuối những năm 60, đã qua đời. Tai nạn ấy kỳ quặc vô cùng, nó khiến tôi liên tưởng tới những gì đã xảy ra ở Derry… hoặc những gì vừa mới chấm dứt nơi đây.

Tổ hợp đồn cảnh sát – tòa án tọa lạc trên rìa khu vực sập xuống Kênh Đào, và dù không bị hủy hoại, cơn chấn động - hoặc cơn lũ – hẳn đã phá vỡ cấu trúc của công trình nhưng không ai hay biết.

Theo như báo chí đưa tin, đêm hôm qua, Rademacher ở lại làm việc khuya trong văn phòng, từ lúc cơn bão và trận lũ xảy ra thì hôm nào ông ấy cũng mẫn cán như thế. Văn phòng làm việc của cảnh sát trưởng đã được dời từ tầng ba lên tầng năm từ ngày xưa, ngay dưới tầng áp mái, nơi chứa đủ thể loại giấy tờ, đồ đạc vớ vẩn của thị trấn. Một trong những món đồ ấy là ghế lang thang mà tôi từng mô tả ở những trang trước. Nó được làm bằng sắt và nặng gần hai tạ là ít. Tòa nhà đã hứng chịu một lượng mưa rất lớn trong ngày 31 tháng 5, khiến kết cấu tầng áp mái yếu đi (theo đánh giá của báo chí). Bất kể nguyên nhân là gì, chiếc ghế lang thang rơi từ tầng áp mái thẳng xuống đầu Cảnh sát trưởng Rademacher lúc ấy đang ngồi ở bàn làm việc đọc các báo cáo tai nạn. Ông chết ngay tắp lự. Sĩ quan Bruce Andeen chạy vào thì thấy ông tắc tử trên cái bàn nát vụn, cây bút vẫn cầm trên tay.

Nói chuyện điện thoại với Bill. Cậu bảo Audra đã ăn được chút đồ ăn cứng, ngoài ra chưa có gì biến chuyển. Tôi bèn hỏi cậu ấy ngày xưa Eddie mắc hen suyễn hay đau nửa đầu.

“Hen suyễn,” cậu liền đáp. “Cậu không nhớ ống thở của cậu ấy à?”

“Có chứ,” tôi nói và nhớ ra. Nhưng tôi chỉ nhớ khi Bill nhắc lại mà thôi.

“Mike?”

“Sao thế?”

“Họ của cậu ấy là gì?”

Tôi dò trong cuốn danh bạ nằm trên chiếc bàn đầu giường nhưng tìm không ra. “Tớ chịu, không nhớ ra.”

“Là Kerkorian thì phải.” Bill nói với vẻ xót xa, “nhưng cứ có gì đó sai sai. Cậu viết mọi thứ vào sổ rồi, phải không?”

“Phải,” tôi đáp.

Cảm ơn Chúa.”

“Cậu có nghĩ ra phương án gì với Audra không?”

“Có,” cậu chia sẻ, “nhưng nó điên rồ lắm, nên tớ không muốn nhắc tới.”

“Cậu chắc chứ?”

“Chắc.”

“Vậy thôi.”

“Mike, cậu có thấy đáng sợ không? Khi bọn mình cứ dần quên thế này?”

“Có,” tôi chua xót. Và thật sự là thế.

Ngày 8 tháng 6 năm 1985

Vào tháng Bảy, tập đoàn Raytheon lên kế hoạch động thổ xây dựng nhà máy ở Derry, nhưng rồi phút chót, họ quyết định chuyển dịch địa điểm đến Waterville. Bài viết trên trang nhất tờ News bày tỏ sự tiếc nuối… và nếu tôi bắt đúng hàm ý của họ thì có cả chút sợ hãi.

Tôi nghĩ tôi biết ý tưởng của Bill là gì. Cậu ấy sẽ phải mau chóng bắt tay vào thực hiện trước khi chút ma thuật cuối cùng biến mất khỏi chốn này. Ấy là trong trường hợp nó còn sót lại.

Có lẽ suy cho cùng, điều mà ngày trước tôi nghĩ không phải hoang tưởng. Tên họ, địa chỉ của những người tôi ghi trong cuốn sổ nhỏ đang phai dần. Màu mực, chất mực kết hợp lại khiến những gì tôi viết trông như đã được ghi năm mươi, bảy mươi lăm năm trước những đoạn mà tôi mới ghi. Hiện tượng này mới xảy ra cách đây năm, sáu ngày thôi. Tôi dám chắc đến tháng Chín, tên của bọn họ sẽ biến mất hoàn toàn.

Tôi còn nghĩ đến chuyện lưu giữ chúng bằng cách sao lưu liên tục. Nhưng chắc hẳn chúng sẽ dần phai đi, và chẳng mấy chốc, công cuộc ấy sẽ như dã tràng xe cát – giống như việc ta phải chép câu Em hứa không ném giấy trong lớp năm trăm lần, tôi sẽ viết những cái tên vô nghĩa vì một lý do tôi còn chẳng nhớ.

Thôi thì tùy duyên, tùy duyên.

Bill, mau lên… nhưng hết sức cẩn thận!

Ngày 9 tháng 6 năm 1985

Tỉnh giấc giữa đêm từ cơn ác mộng khủng khiếp mà tôi còn không nhớ nổi, hoảng đến độ thở không ra hơi. Với tay đến nút gọi y tá nhưng chẳng dám ấn. Nhớ lại khung cảnh Mark Lamonica nghe thấy tiếng chuông và đến với kim tiêm trong tay… hoặc Henry Bowers với con dao bấm.

Tôi chộp lấy cuốn sổ danh bạ, gọi cho Ben Hanscom ở Nebraska… địa chỉ và số điện thoại đã mờ hơn, nhưng vẫn đọc được. Vô ích. Tiếng tổng đài nói rằng số điện thoại quý khách vừa gọi không còn được sử dụng.

Ngày xưa Ben mập hay bị vẹo chân nhỉ?

Cứ thể nằm thao thức đến sáng.

Ngày 10 tháng 6 năm 1985

Họ thông báo tôi có thể xuất viện vào ngày mai.

Tôi gọi điện cho Bill để báo tin – có lẽ tôi muốn nhắc nhở cậu ấy rằng thời gian đang gần cạn. Bill là người duy nhất tôi còn nhớ rõ và tôi dám chắc tôi là người duy nhất cậu còn nhớ rõ. Tôi đoán lý do là vì cả hai chúng tôi vẫn ở Derry.

“Được rồi,” cậu đáp. “Ngày mai, bọn tớ sẽ thôi quấy quả cậu.”

“Cậu vẫn ấp ủ ý tưởng kia à?”

“Ừ. Chắc đến lúc phải thử rồi.”

Cẩn thận nhé.”

Cậu cười và nói gì đấy mà tôi vừa hiểu lại vừa không hiểu. “Trượt v-ván sao mà c-c-cẩn thận được chứ, bạn hiền.”

“Làm thế nào tớ biết kết quả đây, Bill?”

“Rồi cậu sẽ biết thôi,” bạn tôi đáp rồi dập máy.

Bất luận kết quả ra sao, lòng tớ luôn hướng về cậu, Bill ạ. Lòng tôi hướng về tất cả mọi người, và tôi nghĩ ngay cả khi chúng tôi lãng quên nhau, chúng tôi sẽ nhớ trong những giấc mơ.

Tôi đã viết gần xong cuốn nhật ký này rồi – và tôi đoán cuốn sổ là nơi duy nhất lưu giữ mọi thứ, thiên truyện về những đảo điên và báo biến của Derry chẳng tồn tại ở đâu ngoại trừ những trang giấy này. Với tôi thế cũng không sao, tôi nghĩ ngày mai, khi người ta cho tôi xuất viện, có lẽ đã đến lúc tôi cân nhắc bước sang trang mới của cuộc đời… dù tôi vẫn chưa rõ thứ gì sẽ đợi tôi phía trước.

Tớ đã thương các cậu lắm, các cậu biết không.

Thương nhiều, rất nhiều.