← Quay lại trang sách

Chương 23 BƯỚC RA
1

Derry/ 9 – 10 giờ sáng

Đến 9 giờ 10 phút sáng, tốc độ gió ở Derry đo được trung bình là 88 ki-lô-mét trên giờ, gió giật lên đến 112. Phong tốc kế ở tòa án ghi nhận một cơn gió giật chạm mức 130 ki-lô-mét trên giờ, sau đó kim rơi thẳng về vạch không. Gió đã giật phăng thiết bị trông như những chiếc cốc quay quay trên nóc tòa án khỏi dây neo, khiến nó bay vèo đi trong không gian tối sầm vì mưa xối xả của ngày hôm ấy. Giống con thuyền của George Denbrough, nó biến mất không chút tăm tích. Đến 9 giờ 30 phút, điều mà Cục Nước Derry thề thốt không thể nào có giờ sắp sửa xảy ra đến nơi: lần đầu tiên, trung tâm thị trấn Derry có thể bị ngập lụt kể từ tháng 8 năm 1958, khi đó những cống thoát nước cũ bị tắc hoặc sụp đổ trong cơn mưa giông dị thường này. Khoảng 10 giờ kém 15 phút, những người đàn ông với khuôn mặt hết sức nghiêm trọng lái xe ô tô và xe bán tải đến hai bên bờ Kênh Đào, bộ đồ chống thời tiết xấu phần phật điên đảo trong cơn gió rít gào chẳng khác nào tàu chở hàng. Lần đầu tiên kể từ tháng 10 năm 1957, các bao cát được chất dọc hai bờ xi măng của Kênh Đào. Vòng cung ở vị trí Kênh Đào xuyên ngầm dưới ngã ba ở chính giữa trung tâm thị trấn Derry được đắp cao hết cỡ, đường Chính, đường Kênh Đào và chân đồi Dặm Trên không thể nào lưu thông, trừ khi đi bộ, những người đàn ông hối hả xách bao cát đến gia cố bờ kênh cảm nhận được đường dưới chân rung lắc với dòng nước ào ào chảy xiết, giống cái cách cầu vượt sẽ rung lên khi những chiếc xe tải cỡ lớn chạy ngang qua. Nhưng khác ở chỗ, sự rung lắc này đều đều, và họ lấy làm mừng vì mình đang ở mạn Bắc của trung tâm thị trấn, cách xa cái sự ầm ì đều đều, không nghe thấy mà cảm nhận được qua từng thớ thịt ấy. Harold Gardener hét lên hỏi Alfred Zitner, chủ văn phòng bất động sản Zitner trên mạn tây thị trấn, liệu đường có đổ sập hay không. Zitner đáp trước khi chuyện đó xảy ra thì địa ngục phủ băng khắp trần gian rồi. Thầm tưởng tượng cảnh Adolf Hitler và Judas Iscariot đứng phát giày trượt băng, Harold tiếp tục khiêng bao cát. Giờ thì mực nước chỉ cách mép thành xi măng của Kênh Đào chưa tới tám phân. Dưới Vùng Đất Cằn, sông Kenduskeng đã tràn bờ, đến trưa, những bụi cây um tùm, rậm rạp sẽ thò lên từ cái hồ rất rộng, nông và hôi rình. Những người đàn ông cặm cụi làm việc, chỉ dừng lại khi bao cạn cạn đi… và rồi, đến 10 giờ kém 10 phút, tất cả đờ đẫn trước âm thanh đổ gãy vô cùng chói tai. Về sau, Harold Gardener kể với vợ rằng anh còn tưởng tận thế sắp xảy ra đến nơi. Thứ sập xuống không phải khu vực trung tâm thị trấn mà là Standpipe. Andre Keene, cháu trai của ông Norbert Keene, là nhân chứng duy nhất tận mắt chứng kiến cảnh này, sáng hôm ấy, anh ta hút quá nhiều cần sa Colombia Đỏ nên ban đầu còn tưởng mình thấy ảo giác. Anh này đi loanh quanh những con đường bị mưa giông quần thảo của Derry từ khoảng 8 giờ sáng, tầm thời điểm bác sĩ Hale trên đường lên trời để hành nghề thầy thuốc. Người ướt như chuột lột (chỉ có túi cần sa năm mươi gam kẹp dưới nách là khô ráo), song đương sự không hề ý thức được việc đó. Anh ta vào công viên Tưởng niệm nằm bên hông đồi Standpipe. Và anh ta có nhầm không nhỉ, Standpipe đang xiêu vẹo khủng khiếp, như hình tháp nghiêng Pisa chết tiệt in trên vỏ hộp nui. “Ối chà!” Andrew Keene ré lên, mắt đã trợn nay còn trợn hơn, khi những tiếng răng rắc bắt đầu vang lên. Càng lúc, Standpipe càng nghiêng trong lúc anh ta cứ đứng đực ra đấy nhìn, quần jean bết vào hai cẳng chân như cò hương cùng khăn chít đầu hoa hòe nhỏ tong tỏng nước vào mắt. Những mảnh ngói trắng bong tróc ở phần chân bể chứa nước đồ sộ… không, nói bong tróc thì không chuẩn lắm; trông chúng như đang bắn ra . Rồi một vết nứt rõ ràng đã xuất hiện cách nền móng bằng đá của Standpipe chừng sáu mét. Nước đột nhiên phun ra từ vết nứt này, và giờ thì ngói không bắn ra khỏi phần chân bể nữa mà ùn ùn xổ vào cơn gió dữ. Âm thanh răng rắc vang lên từ Standpipe, và Andrew có thể nhìn thấy bể chứa chuyển động, tựa kim đồng hồ dịch từ 12 giờ sang 1, rồi 2 giờ. Bọc cần sa rời khỏi nách anh ta, mắc lại trong áo, chỗ gần thắt lưng. Nhưng anh ta chẳng hay biết. Anh ta như kẻ mất hồn. Tiếng lựt phựt vang lên từ bên trong Standpipe, tưởng chừng từng sợi dây của chiếc đàn ghi-ta lớn nhất thế giới đang đứt. Đây là tiếng của hệ thống cáp bên trong bể trụ, có nhiệm vụ duy trì sức ép cân bằng với áp lực nước. Standpipe nghiêng càng lúc càng nhanh, ván, rầm đua nhau gãy, những mảnh gỗ bắn vào không trung, xoay vòng vòng. “HOÀNH TRÁNG THẶC SỰ!” Andrew Keene re ré hét lên, song hoàn toàn bị khỏa lấp trong màn đổ sập xuống của Standpipe cùng tiếng ầm ì càng lúc càng to của 1,75 triệu gallon nước, tức 7000 tấn, ào ào trào ra từ phần nứt toác của tòa tháp. Nước vồ vập thành cơn sóng xám xịt, và tất nhiên nếu Andrew Keend đứng đối diện Standpipe ở phần giáp ngọn đồi, anh ta đã về chầu tiên tổ trong vòng một nốt nhạc. Nhưng Chúa ưu ái những gã say, trẻ nhỏ và những kẻ phê thuốc đến mụ mị đầu óc; thành thử Andrew đứng ở vị trí có thể nhìn thấy toàn cảnh mà không bị văng miểng. “HIỆU ỨNG ĐẶC BIỆT GÌ ẤN TƯỢNG QUÉ!” Andrew hét lên trong lúc nước ào xuống công viên Tưởng niệm như một vật rắn, quét phăng đồng hồ mặt trời ở cạnh chỗ cậu bé Stan Uris năm xưa hay đứng quan sát chim bằng ống nhòm của bố. “STEVEN SPIELBERG CÒN PHẢI GỌI BẰNG CỤ!” Đài nước cho chim bằng đá cũng trôi theo dòng nước. Andre ngẩn ra nhìn nó quay mòng mòng, bệ và đài nước thay phiên nhau vòng lên vòng xuống rồi mất dạng. Hàng cây phong và bạch dương phân tách công viên Tưởng niệm với đường Kansas bị đổ rạp như con ki trong dãy bowling. Chúng kéo theo những đường dây điện tua tủa đứt phựt. Nước chảy lên đường và bắt đầu tản mát, trông giống nước hơn chứ chẳng còn là bức tường rắn chắc khiến ta không khỏi bàng hoàng, nuốt chửng đồng hồ mặt trời, đài nước cho chim và hàng cây lâu năm, thế mà nó vẫn có đủ sức mạnh cuốn phăng gần chục căn nhà cuối đường Kansas khỏi móng và trôi xuống tận Vùng Đất Cằn. Những căn nhà trôi đi hết sức nhẹ nhàng, đa phần vẫn còn nguyên vẹn. Andrew Keene nhận ra một trong những căn nhà ấy là của gia đình Karl Massensik. Ông Massensik là thầy giáo lớp Sáu của anh ta, một lão gai mắt. Khi căn nhà trượt ra khỏi móng xuống con dốc, Andrew nhìn thấy ngọn đèn cầy vẫn cháy sáng bên trong một khung cửa sổ, thầm tự hỏi hay mình đã dùng tâm trí để hất phăng nó đi nhỉ, nghe có lý đấy chứ. Có tiếng nổ vang lên từ Vùng Đất Cằn, ngọn lửa vàng lóe lên khi chiếc đèn măng sông hiệu Coleman nhà ai đó bắt lửa vào dầu chảy từ thùng chứa nhiên liệu bị bể. Andrew trố mắt nhìn quang cảnh đường Kansas mới bốn mươi giây trước còn là dãy nhà trung lưu ngay ngắn xinh xẻo. Giờ thì dãy nhà ấy chỉ còn là dĩ vãng, và thật sự là thế, khiếp quá. Thế chỗ chúng là chục tầng hầm trông chẳng khác nào hồ bơi. Andrew muốn cảm thán rằng thế này thì quá lắm rồi, nhưng không còn sức mà la hét nữa. Họng anh ta tắc tị. Bụng anh ta yếu ớt, vô dụng. Anh nghe thấy một chuỗi tiếng răng rắc vang lên, giống tiếng một gã khổng lồ mang đôi giày nhét đầy bánh quy Ritz ầm ầm lao xuống cầu thang. Standpipe đang lăn xuống đồi, bể chứa hình trụ màu trắng khổng lồ, vẫn phun ra chút nước còn sót lại, những sợi dây cáp chắc chắn được dùng để cố định bể bắn lên không trung rồi lao xuống đất như roi sắt, đục những rãnh nước trên mặt đất mềm nhão và ngay lập tức ngập nước mưa. Andrew ngẩn ngơ nhìn, cằm rụt giữa xương quai xanh, cảnh tượng Standpipe lúc này đang nằm ngang, dài gần bốn mươi mét, bay vào không trung. Thời khắc ấy, bể nước như đông cứng, một hình ảnh vô thực như xuất hiện từ vùng đất của những bệnh nhân tâm thần, với nước mưa lấp lánh trên mặt bể vỡ nát, cửa sổ bể, khung cửa lủng lẳng, đèn pha trên đỉnh, vốn được dùng để cảnh báo những chiếc máy bay hạng nhẹ tầm thấp, vẫn loang loáng ánh đèn, rơi thẳng xuống đường với tiếng rầm inh tai nhức óc. Đường Kansas ngập nước, và giờ thì nước bắt đầu rốt ráo cháy theo hướng đồi Dặm Trên. Mới ban nãy còn bao nhiêu nhà ở đó, Andrew Keene nghĩ rồi bủn rủn hết cả hai chân. Anh ta ngồi thụp xuống nước đánh tõm. Anh ta trân trối nhìn phần nền bằng đá bể nát mà Standpipe luôn sừng sững uy nghiêm bên trên từ lúc anh ta sinh ra cho đến giờ. Anh tự hỏi liệu có ai tin những gì anh ta thấy không nhỉ. Nói đâu xa, liệu bản thân anh ta có dám tin vào mắt mình hay không.

Một trong những đạo diễn, nhà sản xuất thành công nhất trong lịch sử điện ảnh.

2

Kết liễu/ 10 giờ 2 phút sáng, ngày 31 tháng 5 năm 1985

Bill và Richie trông thấy Nó quay về phía mình, hàm hết đóng vào lại mở ra, con mắt lành lặn quắc lên nhìn họ, và Bill phát hiện người Nó phát ra ánh sáng riêng, tựa một con đom đóm gớm ghiếc. Nhưng ánh sáng leo lét và nhấp nháy; cho thấy Nó bị thương khá nặng. Những suy nghĩ của Nó rì rầm huyên náo

(để ta đi! để ta đi, ta sẽ cho các người mọi thứ các người muốn – tiền tài, danh vọng, vận may, quyền lực – ta có thể cho các ngươi tất cả những thứ này)

trong đầu anh.

Bill tiến về phía trước, với tay không, mắt anh dán chặt vào độc nhãn đỏ ngầu của Nó. Anh cảm nhận sức mạnh đang lớn dần trong cơ thể mình, trợ lực cho anh, đan cánh tay chắc như dây thừng, khiến bàn tay đang siết chặt thành nắm đấm hội tụ năng lượng riêng. Richie bước đi bên cạnh anh, gầm gừ nhe nanh.

(ta có thể đưa vợ ngươi trở về – ta là kẻ duy nhất làm được điều đó – cô ta sẽ không nhớ bất cứ điều gì giống như bảy người các ngươi)

Lúc này, họ đã tiến đến gần, rất gần. Bill có thể ngửi thấy thứ mùi xú khí mà Nó tỏa ra, anh kinh hoàng nhận ra ấy là mùi của Vùng Đất Cằn, thứ mùi mà họ lầm tưởng là mùi của cống rãnh, của những dòng suối ô nhiễm, của bãi rác cháy… nhưng ngày ấy, có thật họ nghĩ trong thứ xú khí kia chỉ có chừng ấy mùi không? Hóa ra đó là mùi của Nó, và có lẽ, Vùng Đất Cằn là nơi mùi hôi nồng nặc nhất, những thứ mùi ấy phủ khắp Derry như đám mây, song người dân không ngửi thấy, cũng giống như nhân viên sở thú không ngửi thấy mùi của con vật tỏa ra sau một thời gian, hay thậm chí thắc mắc tại sao khách quan lại nhăn mũi khi bước vào.

“Hai bọn mình,” anh lẩm bẩm với Richie, và Richie gật đầu mà không rời mắt khỏi con Nhện, kẻ thù đang rụt lại, những cẳng chân xương xẩu gớm guốc lấp lánh. Cuối cùng, Nó đã bị dồn vào đường cùng.

(ta không thể cho các ngươi cuộc sống bất tử nhưng nếu ta chạm vào ngươi ngươi sẽ sống đời đời kiếp kiếp – hai trăm năm, ba trăm năm, thậm chí năm trăm năm – ta có thể biến các ngươi thành chúa tể ở trần thế - chỉ cần các ngươi để ta đi chỉ cần các ngươi để ta đi chỉ cần các ngươi…)

“Bill?” Richie khô khốc cất tiếng gọi.

Gầm lên một tiếng thét chất chứa bấy lâu, phun trào như vỡ đê, Bill lao tới. Richie chạy bên cạnh, cùng tốc độ. Hai người vung tay phải đấm Nó, nhưng Bill hiểu thứ họ đang dùng để tấn công Nó không phải nắm đấm của họ mà là sức mạnh họ đoàn kết lại, được thúc đẩy bởi sức mạnh của Thế Lực Khác; đó là sức mạnh của ký ức và khát khao; trên tất cả, đó là sức mạnh của tình yêu, của thuở ấu thơ không thể nào quên tựa bánh xe to lớn.

Tiếng rít gào của con Nhện choán lấy đầu Bill, như muốn đập nát não anh thành nghìn mảnh. Anh cảm nhận nắm tay mình sục sâu vào thứ ẩm ướt đang quằn quại. Tay anh cũng thọc vào theo, sâu đến tận vai. Anh kéo tay ra, thứ máu đen đúa của con Nhện nhỏ tong tỏng. Huyết chảy ra từ cái lỗ mà anh vừa đâm vào.

Anh nhìn thấy Richie ngay dưới thân thể to tướng của Nó, nhoe nhoét từ đầu đến chân trong thư máu lấp lánh đen đúa, đứng ở thế như võ sĩ quyền anh, nắm đấm tong tỏng máu vung tới.

Con Nhện dùng chân quất túi bụi vào họ. Bill cảm nhận được một chân của Nó rạch vào người anh xé toạc áo và da anh. Vòi chích của Nó đập xuống sàn vô dụng. Tiếng thét của Nó rít lên như kèn trong đầu anh. Nó loạng choạng nhào đến, cố cắn anh, nhưng thay vì rút lui, Bill lao tới, không chỉ dùng nắm đấm mà dùng toàn bộ cơ thể, biến cả người mình thành quả ngư lôi. Anh lao vào bụng Nó như hậu vệ phi hết tốc lực, hạ thấp hai vai và đơn giản là nhào thẳng về phía trước.

Trong thoáng chốc, anh cảm thấy thứ thịt hôi thối của Nó chùng xuống, như thể sẽ đàn hồi rồi đánh bật anh về sau. Gầm gừ thét lên, anh thúc mạnh hơn, đẩy người tới trước, dồn sức vào chân, dùng tay thọc vào người Nó. Và anh đã chọc thủng được Nó; cả người anh ngập trong thứ huyết nóng hổi. Chúng chảy xuống mặt anh, vào tai anh. Anh vô tình hít chúng lên mũi thành những dòng nhỏ.

Và rồi bốn bề quanh anh lại tối đen, anh ngập đến tận vai trong cơ thể đang co giật của Nó. Trong lỗ tai lùng bùng của mình, anh có thể nghe thấy tiếng động đều đều Thình THỊCH thình THỊCH như tiếng trống trầm cỡ bự, loại trống dẫn đầu đoàn diễu hành khi rạp xiếc đến thị trấn cùng bầu đoàn những kẻ quái dị và những chú hề múa may quay cuồng.

Là tiếng của tim Nó.

Anh nghe thấy Richie thét lên vì đau đớn, tiếng thét cao dần rít thành tiếng rên hối hả, gấp gáp rồi ngưng bặt. Bất thình lình, Bill đẩy cả hai nắm tay của mình về phía trước. Anh nghẹt thở, bị siết trong mớ ruột gan phèo phổi còn co bóp cùng máu me của Nó.

Thình THỊCH thình THỊCH…

Anh lại nhét tay vào Nó, xé toạc, rạch thủng, phá nát, tìm kiếm nguồn phát ra âm thanh kia; nội tạng của Nó vỡ ra, những ngón tay nhớp nháp hết bóp vào lại nói ra, lồng ngực mắc kẹt dường như sưng phồng vì thiếu không khí.

Thình THỊCH thình THỊCH…

Bỗng dưng, thứ đó lọt vào tay anh, một thứ còn sống hôi hổi, bơm máu và đập thình thịch trong lòng bàn tay, đẩy tay anh tới lui

KHÔNGKHÔNGKHÔNGKHÔNGKHÔNGKHÔNGKHÔNG

Có! Bill hét lên, nghẹt thở, đuối sức. Có! Thử màn này đi, đồ khốn! THỬ MÀN NÀY XEM! THÍCH CHỨ? MÀY THÍCH CHỨ? THÍCH CHƯA?

Anh bao các ngón tay mình quanh quả tim đang đập của Nó, lòng bàn tay xòe ra theo hình chữ V ngược - rồi dồn hết sức bình sinh bóp thật chặt.

Tiếng rít cuối cùng, đầy đau đớn và sợ hãi vang lên khi trái tim Nó nổ tung giữa hai bàn tay anh, chảy qua kẽ tay thành dòng run rẩy.

Thình THỊCH thình TH…

Tiếng thét phai dần, tiêu biến. Bill cảm nhận cơ thể Nó thít chặt xung quanh anh như nắm đấm trong găng tay trơn. Và rồi mọi thứ buông dần. Anh nhận thấy cơ thể Nó đang nghiêng, từ từ ngả sang một bên. Cùng lúc đó, anh vận sức kéo người, sự tỉnh táo đội nón ra đi.

Con Nhện ngã vật sang một bên, khối thịt khổng lồ, xa lạ, nghi ngút khói, những cẳng chân vẫn chưa thôi run rẩy và co giật, quơ quàng vào thành gian hầm, cào lung tung lên sàn.

Bill loạng choạng lùi lại, hồng hộc hít lấy hít để không khí, cố gắng khạc nhổ để làm sạch miệng khỏi cái vị gớm ghiếc mà Nó để lại. Chân nam đá chân chiêu, anh vấp phải chính chân của mình rồi khuỵu gối.

Đoạn anh nghe thấy Giọng nói của Thế Lực Khác rõ mồn một; con Rùa có thể đã chết, nhưng thế lực ban sức mạnh cho nó thì không.

“Con trai, con làm tốt lắm.”

Và rồi giọng nói biến mất. Sức mạnh của anh cũng mất theo. Anh thấy mình bủn rủn, hồn xiêu phách tán, bên bờ phát điên. Anh nhìn qua vai và trông thấy cái xác đen đúa kinh dị của con Nhện đang thoi thóp, vẫn còn giật giật và run bần bật.

“Richie!” Anh hét lên, giọng khàn đặc, vụn vỡ. “Richie, cậu ở đâu?”

Không có lời đáp.

Ánh sáng đã không còn mà tiêu biến theo con Nhện. Anh sục sạo trong túi áo bết máu của mình tìm xấp diêm cuối cùng. Diêm thì tìm ra đấy, nhưng không đánh lửa được vì đầu diêm đã thấm đẫm máu.

“Richie!” Anh lại gào lên, nước mắt theo đà ứa ra. Anh bò tới trước, đầu tiên là một tay, rồi dùng cả tay kia lần mò trong bóng tối. Cuối cùng, tay anh chạm vào thứ gì đó mềm mềm. Sau một hồi mò mẫm, anh dừng lại khi tay chạm vào mặt Richie.

“Richie! Richie!

Vẫn không có câu trả lời. Vật lộn trong bóng tối, Bill luồn một tay dưới lưng Richie, tay kia đặt dưới đầu gối. Anh gắng gượng đứng dậy rồi loạng choạng đi ngược trở lại con đường mà ban nãy họ đi với Richie trong tay.

3

Derry/ 10 – 10 giờ 15 phút sáng

Đến 10 giờ, tình trạng rung lắc đều đều qua các con đường khu trung tâm thị trấn Derry càng lúc càng dữ dội. Về sau, tờ Derry News đưa tin hệ thống trụ hỗ trợ phần Kênh Đào chạy dưới lòng đất bị yếu đi do chịu sự tấn công của lượng nước mạnh ngang ngửa lũ quét nên đã sụp đổ. Tuy nhiên, có nhiều người bất đồng với quan điểm này. “Anh đã ở đó nên anh biết,” Harold Gardener nói với vợ. “Không phải trụ Kênh Đào bị sập mà là do động đất. Động đất xảy ra đấy em ạ.”

Nhưng dù nguyên nhân thật sự là gì thì kết quả vẫn không thay đổi. Rung chấn càng lúc càng mạnh, khiến các cửa sổ vỡ tan tành, trần thạch cao sập xuống, và tiếng răng mắc của xà ngang và móng nhà cong vẹo biến thành dàn đồng ca khủng khiếp. Những vết nứt chạy dọc mặt tiền bằng gạch lỗ chỗ vết đạn của tiệm Machen như những bàn tay đang vươn tới. Những sợi cáp cố định hiên của rạp phim Aladdin đối diện con đường đứt phựt, toàn bộ mái hiên đổ ầm xuống. Con hẻm Richard chạy đằng sau Tiệm thuốc đường Trung Tâm ngập trong núi gạch vàng khi Tòa nhà chuyên môn Brian X Dowd, xây dựng vào năm 1952, sụp đổ. Màn bụi khổng lồ vàng vọt bao phủ không gian rồi bị thổi bay như tấm mành.

Cùng lúc đó, bức tượng Paul Bunyan trước trung tâm thị trấn nổ tung. Tựa hồ lời đe dọa làm cho công trình này tan tành của tay giáo viên Mỹ thuật ngày xưa chẳng phải dọa chơi mà là nghiêm túc. Cái đầu râu ria nhe nhởn cười bắn thẳng lên trời. Một chân đá về phía trước, chân kia quặp ra sau, như thể Paul cố xoạc chân, hăng quá nên nào ngờ chân đứt lìa. Phần thân giữa của bức tượng nổ thành nghìn mảnh, lưỡi rìu nhựa phi lên bầu trời mưa giăng, biến mất rồi cắm xuống, xoay vòng vòng. Nó chặt qua mái che của cầu Hôn Nhau và cắt vào sàn cầu.

10 giờ 2 phút sáng, khu vực trung tâm Derry trở thành đống đổ nát.

Hầu hết phần nước trào ra từ bể chứa Standpipe bị phá hủy chảy qua đường Kansas xuống Vùng Đất Cằn, nhưng hàng tấn nước vẫn ào ào xối xả xuống quận kinh doanh theo đường đồi Dặm Trên. Có lẽ đó chính là giọt nước làm tràn ly, hoặc có lẽ như những gì Harold Gardener nói với vợ mình, quả thật động đất đã xảy ra. Mặt đường Chính nham nhở đầy vết nứt. Ban đầu, chúng chỉ là những khe hẹp… nhưng rồi chúng bắt đầu toác ra như những cái miệng hau háu, và tiếng Kênh Đào vẳng lên, không còn bị át đi mà ầm ì đến đáng sợ. Mọi thứ bắt đầu rung lắc. Tấm biển nê-ông quảng cáo đề GIÀY MỌI BÁN XẢ HÀNG trước cửa hàng lưu niệm Squires Lùn rơi xuống đường rồi chập mạch dưới chín mươi phân nước. Chốc sau, cửa hàng Squires Lùn bên cạnh tiệm sách Ông Bìa Mềm bắt đầu lún xuống. Buddy Angstrom là người đầu tiên trông thấy hiện tượng này. Anh huých Alfred Zinner, anh này nhìn xong, há hốc miệng rồi huých Harold Gardener. Trong vài giây, quá trình đắp bao cát dừng lại. Những người đàn ông dọc hai bên bờ Kênh Đào chỉ biết đứng ngẩn ra nhìn về khu vực trung tâm thị trấn dưới cơn mưa xối xả, khuôn mặt ai nấy đều in hằn vẻ kinh ngạc. Tựa hồ tiệm lưu niệm và tạp hóa Squires được xây trên chiếc thang máy khổng lồ đang trên đường chạy xuống. Nó lún sâu xuống mặt bê tông vững chắc một cách bi hùng, tráng lệ. Đến lúc cửa tiệm dừng lại, ta có thể quỳ mọp xuống vỉa hè ngập nước rồi chui vào bằng đường cửa sổ trên tầng ba. Nước bắn tung tóe xung quanh tòa nhà, và chốc sau, Ông Lùn trèo lên mái nhà, vẫy tay điên cuồng cầu cứu. Nhưng rồi ông bị xóa sổ khi tòa nhà văn phòng ngay bên cạnh, nơi tiệm sách Ông Bìa Mềm tọa lạc ở tầng trệt, cũng chìm xuống đất.Thật không may, tòa nhà này không lún thẳng xuống dưới như tòa nhà Ông Lùn mà nghiêng hẳn sang một bên (trong thoáng chốc, trông nó giống y cái tháp nghiêng Pisa chết tiệt in trên vỏ hộp nui). Tòa nhà vừa xiêu vẹo thì gạch đá từ trên nóc và hai bên trút xuống như mưa. Ông Lùn bị gạch xối xả rơi trúng. Harold Gardener thấy ông loạng choạng lùi về sau, hai tay ôm đầu… và rồi ba tầng trên cùng của tòa nhà Ông Bìa Mềm trượt xuống gọn đanh như bánh kếp rơi từ chồng bánh. Ông Lùn không còn tăm tích. Một người xếp bao cát hét lên, mọi thứ biến mất trong tiếng rầm rầm sụp đổ. Những người đàn ông mất thăng bằng, ngã khuỵu xuống hoặc lảo đảo, loạng choạng lùi khỏi Kênh Đào. Harold Gardener trông thấy những tòa nhà đối diện nhau trên đường Chính nghiêng về phía trước như những bà cô túm tụm bàn tán khi đánh bài, thiếu điều đụng đầu nhau. Bản thân con đường lún xuống, nứt toác ra và nát như tương. Nước bắn lên tung tóe. Và say đó, lần lượt từng tòa nhà hai bên đường đung đưa chệch khỏi trọng tâm nên đổ sập xuống đường - Ngân hàng Đông Bắc, cửa tiệm Thuyền giày, Alvey’s Smokes ‘n Jokes, Bailey’s Lunch, Nông trại Âm nhạc và Băng đĩa Bandler. Có điều, lúc ấy chẳng còn đường phố để chúng đâm sầm xuống nữa. Con đường đã rơi xuống Kênh Đào, ban đầu kéo giãn chẳng khác nào kẹo đường rồi bể vụn thành những mảng nhựa đường. Harold trông thấy con lươn ở ngã giao của ba con đường bỗng biến mất khỏi tầm mắt. Khi nước phụt lên, anh chợt nhận ra chuyện gì sắp sửa xảy đến.

“Chạy khỏi đây mau!” Anh hét lên với Al Zitner. “Nước sắp trào lên rồi! Al! Nước sắp trào lên rồi!”

Tuy nhiên, Al Zitner không tỏ dấu hiệu nào cho thấy mình nghe thấy. Trông mặt anh đờ đẫn như người mộng du, hay bị thôi miên. Anh đứng ngây người trong chiếc áo khoác sọc ca rô xanh dương đỏ sũng nước, áo thun Lacoste không gài nút với hình con cá sấu nho nhỏ trên ngực trái, đôi tất xanh dương với hình hai chiếc gậy chơi golf trắng bắt chéo thêu bên hông, mang đôi giày thuyền màu nâu hiệu L. L. Bean đế cao su. Anh đang chứng kiến có lẽ là hàng triệu đô-la vốn đầu tư cá nhân của mình chìm xuống đường, ba hoặc bốn triệu đô-la đầu tư của bạn bè anh – những tay anh cùng chơi bài poker, chơi golf, đi trượt tuyết trong tổ hợp bất động sản mà họ mua chung ở Rangely. Bất thình lình, thị trấn nơi anh ở, Derry, Maine kia mà, lạy Chúa lòng lành, trông chẳng khác nào thành phố đổ nát nơi dân da đen phải đi lại trên những chiếc ghe dài và hẹp. Nước cuồn cuộn, ào ào giữa những tòa nhà vẫn còn trụ vững. Đường Kênh Đào trông như cầu nhảy đen đúa lởm chởm trên mép của cái hồ đang ùng ục chảy xiết. Chẳng trách Zitner không nghe thấy Harold nói. Còn những người khác cũng đã rút ra được kết luận giống với Gardener – thả một đống thứ như vậy vào con nước đang nổi cơn thịnh nộ thì thể nào cũng chuốc lấy rắc rối. Một số người thả túi cát mình đang cầm rồi co giò bỏ của chạy lấy người. Trong số đó có Harold Gardener, vậy nên anh giữ được mạng. Những người khác không tốt số đến vậy, họ vẫn bị kẹt lại quanh khu này khi Kênh Đào, con kênh ngập trong hàng tấn nhựa đường, bê tông, gạch, vôi vữa, thủy tinh, cùng đủ thứ hàng hóa trị giá khoảng bốn triệu đô-la, trồi lên và tràn qua bờ bê tông, cuốn trôi cả người lẫn bao cát. Harold cứ tưởng nó sẽ đuổi kịp mình; bất kể anh chạy nhanh cỡ nào, nước vẫn tiếp tục dâng lên. Cuối cùng, anh thoát được nhờ trèo kịp lên bờ đê khá dốc mọc đầy cây cỏ. Quay đầu nhìn lại thêm một lần, anh trông thấy một người mà anh đoán là Roger Lernerd, trưởng bộ phận cho vay tại hiệp hội tín dụng Harold, đang cố khởi động xe ô tô trong bãi đậu xe ở Trung tâm thương mại Kênh Đào cỡ nhỏ. Dù bị tiếng nước ầm ầm và gió gào rú át đi, Harold vẫn nghe thấy tiếng động cơ như máy khâu con con của chiếc K-car khó nhọc khọt khẹt, khọt khẹt, khọt khẹt khi dòng nước đen dâng cao ngang thanh ba bô lê. Rồi một tiếng động trời vang lên, sông Kenduskeag vỡ bờ, cuốn phăng Trung tâm thương mại Kênh Đào cỡ nhỏ cùng chiếc ô tô đỏ tươi của Roger Lernerd. Harold tiếp tục leo, chộp lấy cành cây, rễ cây, bất cứ thứ nào trông có vẻ cứng cáp đủ trụ cho sức nặng của anh. Trèo lên khu vực cao may ra mới thoát khỏi cửa tử. Nếu Andrew Keene có mặt ở đó, khéo anh ta sẽ nhận xét sáng hôm ấy, Harold Gardener chỉ chăm chăm nghĩ đến chuyện đứng trên thiên hạ. Sau lưng mình, anh có thể nghe thấy khu vực trung tâm thị trấn Derry tiếp tục sụp đổ. Âm thanh nghe chẳng khác nào tiếng pháo nổ đì đùng.

4 BILL

“Beverly!” Anh hét lên. Lưng và cánh tay anh đau nhức không chịu nổi. Tưởng chừng Richie phải nặng hơn hai tạ là ít. Vậy thì bỏ cậu ta xuống, tâm trí anh thì thầm. Cậu ta chết rồi, mày thừa biết mà, cậy tại sao mày không bỏ cậu ta xuống?

Nhưng anh không thể làm vậy, nhất quyết không.

“Beverly!” Anh hét lên lần nữa. “Ben! Có ai không?”

Anh thầm nghĩ: Nó ném mình – và Richie – ở đây, nhưng Nó quăng xa hơn – xa hơn rất nhiều. Là thế nào nhỉ? Sao chưa gì mình đã mù mờ, quên bẵng rồi…

“Bill? Là giọng của Ben, run rẩy và mệt lử, đâu đó khá gần anh. “Cậu ở đâu?”

“Tớ ở đằng này. Tớ đang bế Richie. Cậu ấy… cậu ấy bị thương.”

“Cứ nói đi.” Ben đã gần hơn. “Cứ nói tiếp đi, Bill.”

“Bọn tớ đã giết Nó,” Bill nói, tiến về phía giọng nói của Ben phát ra. “Bọn tớ đã giết thứ khốn kiếp ấy. Và nếu Richie chết…”

“Chết?” Ben thảng thốt hỏi lại. Anh đã ở rất gần… và rồi cánh tay anh vươn ra từ bóng tối, chạm nhẹ vào mũi Bill. “Cậu bảo chết là sao?”

“Tớ… cậu ấy…” Cả hai cùng đỡ Richie. “Tớ không thấy tình trạng cậu ấy,” Bill nói. “Vấn đề nằm ở đó. Tớ kh-kh-không thể th-th-thấy cậu ấy!”

“Richie!” Ben hét lên và lắc lấy lắc để cậu bạn. “Richie, tỉnh lại đi! Khốn kiếp, tỉnh lại đi!” Giọng Ben càng lúc càng nghẹn ngào, run rẩy. “RICHIE, CẬU TỈNH LẠI CHO TỚ NHỜ!”

Và rồi trong màn đêm, Richie cất tiếng, giọng mơ màng, bực mình, như vừa bị đánh thức khi đang ngủ say. “Rồi rồi, bớ ngài Haystack. Rồi rồi. Cần quái gì dăm ba cái phù hiệu thối…”

“Richie!” Bill hét lên. “Richie, cậu có sao không?”

“Thứ khốn ấy đã quăng tớ đi,” Richie lầm bầm với giọng nói mệt mỏi, ngái ngủ ấy. “Tớ đập người vào thứ rất cứng. Tớ chỉ nhớ có thế… Bevvie đâu rồi?”

”Quay lại lối này,” Ben nói. Anh tóm lược cho mọi người chuyện những quả trứng. “Tớ đạp phải đến cả trăm quả. Tớ nghĩ tớ đạp hết sạch rồi.”

“Cầu Chúa cậu đã đạp toàn bộ,” Richie đáp. Giọng anh nghe đã tươi tỉnh hơn. “Để tớ xuống đi, Bill To Bự. Tớ tự đi được… Mà hình như tiếng nước to hơn phải không?”

“Đúng thế,” Bill đáp. Cả ba người bọn họ nắm tay nhau trong bóng tối. “Đầu cậu sao rồi?”

“Đau như búa bổ. Chuyện gì đã xảy ra sau khi tớ bất tỉnh nhân sự thế?”

Bill kể cho các bạn nghe những gì mà anh nặn óc nhớ ra, nhiều nhất có thể.

“Vậy là Nó chết rồi,” Richie trầm trồ. “Cậu chắc chưa, Bill?”

“Chắc,” Bill nói. “Lần này tớ hoàn toàn ch-ch-chắc.”

“Cảm ơn Chúa,” Richie cảm thán. “Đỡ tớ với, Bill, tớ buồn nôn quá.”

Bill làm theo và sau khi Richie nôn xong, cả ba bước tiếp. Thỉnh thoảng, chân anh lại hất trúng thứ gì đó cưng cứng khiến chúng lăn vào màn đêm. Chắc đó là trứng của con Nhện mà Ben đã đạp nát, anh rùng mình đoán. Biết mình đang đi đúng đường nên anh nhẹ cả lòng, đồng thời anh cũng mừng khi mình không thể trông thấy những thứ còn sót lại.

“Beverly!” Ben hét lên. “Beverly!”

“Tớ đây…”

Tiếng cô khe khẽ vang lên, gần như bị khỏa lấp trong tiếng nước ầm ì. Họ bước trong màn đêm, vừa đi vừa tập trung gọi cô.

Cuối cùng, khi đến được chỗ cô, Bill hỏi cô còn que diêm nào không. Cô đưa cho anh nửa xấp. Anh đốt một que và nhìn thấy khuôn mặt của mọi người lập lòe trong ánh lửa – Ben vòng tay quanh Richie, lúc này đang khuỵu xuống, máu chảy từ thái dương bên phải, Beverly để Eddie gối đầu trong lòng mình. Rồi anh quay lại. Audra đang nằm trên sàn đá, hai chân sõng soài, đầu ngoẹo sang một bên. Tơ nhện đã tan gần hết khỏi người cô.

Diêm bén xuống tay nên anh đành thả xuống. Trong bóng tối, anh ước lượng sai khoảng cách nên vấp phải cô và suýt chút nữa ngã dúi dụi.

“Audra! Audra, em ngh-ngh-nghe th-thấy không?”

Anh vòng một tay ra sau lưng cô rồi dựng cô dậy. Anh luôn một bàn tay vào tóc cô, ấn các ngón tay lên cổ cô. Mạch vẫn còn đập: chậm, nhưng đều đặn.

Anh quẹt thêm một que diêm, và khi lửa lóe lên, anh trông thấy đồng tử của cô co lại. Nhưng đó chỉ là một chức năng không tự chủ; ánh nhìn vô định của cô vẫn không thay đổi, ngay cả khi anh đưa que diêm lại gần mặt cô đến độ da cô ửng đỏ. Cô còn sống nhưng không có phản ứng. Chết tiệt, anh biết tình hình còn tồi tệ hơn thế. Cô mất tri giác rồi.

Que diêm thứ hai cũng bén vào tay nên anh dập tắt nó.

“Bill, tiếng nước chảy nghe sốt ruột quá,” Ben nói. “Tớ nghĩ bọn mình phải rời khỏi đây thôi.”

“Không có Eddie, sao mà bọn mình làm được bây giờ?” Richie thì thầm.

“Bọn mình làm được,” Bev nói. “Bill, Ben nói đúng. Bọn mình phải ra khỏi đây.”

“Tớ sẽ đem cô ấy theo.”

“Tất nhiên. Nhưng bọn mình phải đi thôi.”

“Hướng nào bây giờ?”

“Cậu sẽ biết,” Beverly nhẹ nhàng. “Cậu đã giết Nó. Nên cậu sẽ biết thôi, Bill ạ.”

Anh bế Audra lên như ban nãy làm với Richie rồi bước trở lại chỗ các bạn. Cảm giác bế cô trong tay khiến lòng anh như lửa đốt và sợ hãi, tưởng chừng cô là một tượng sáp đang thở.

“Hướng nào, Bill?” Ben hỏi.

“Tớ kh-kh-không…”

(cậu sẽ biết, cậu đã giết Nó nên cậu sẽ biết)

“Nào, đ-đi thôi,” Bill cất tiếng. “Xem bọn mình tìm được đường ra không. Beverly, gi-gi-giữ hộ tớ.” Anh đưa cô xấp diêm.

“Eddie thì sao?” cô hỏi. “Bọn mình phải đưa cậu ấy ra.”

“S-Sao m-mà được?” Bill hỏi. “Chuyện đó… B-Beverly, n-nơi này s-sắp sập rồi.”

“Bọn mình phải đưa cậu ấy ra khỏi đây, trời ạ,” Richie nói. “Phụ tớ với, Ben.”

Bọn họ dựng thi thể của Eddie dậy. Beverly quẹt diêm, đưa mọi người quay trở lại cánh cửa cổ tích. Bill bế Audra qua cửa, cố hết sức giữ cho người cô không chạm đất. Richie và Ben khiêng Eddie qua.

“Bỏ cậu ấy xuống đi,” Beverly đề nghị. “Cậu ấy ở lại đây được rồi.”

“Tối thui tối mò,” Richie giàn giụa nước mắt. “Cậu thấy đấy… tối như hũ nút. Eds… cậu ấy…”

“Không sao đâu,” Ben nói. “Có lẽ đây là nơi cậu ấy phải nằm lại. Có lẽ là chốn này.”

Họ đặt Eddie xuống, sau đó Richie hôn lên má anh. Anh ngơ ngẩn ngước nhìn Ben. “Cậu chắc chứ?”

“Chắc. Đi thôi, Richie.”

Richie đứng dậy, quay người về phía cánh cửa. “Tiên sư nhà mày, đồ khốn!” Anh chợt thét lên rồi đưa chân đạp cánh cửa đóng sầm. Nó phát ra tiếng rầm trầm đục khi sập vào chốt.

“Cậu làm thế chi vậy?” Beverly hỏi.

“Tớ cũng chẳng biết,” Richie đáp, nhưng trong thâm tâm mình, anh biết rõ. Anh quay lại nhìn qua vai đúng lúc que diêm trên tay Beverly tắt ngóm.

“Bill – vết trên cửa?”

“Nó làm sao à?” Bill thở gấp.

“Nó biến mất rồi,” Richie đáp.

5

Derry/ 10 giờ 30 phút sáng

Hành lang bằng kính nối giữa thư viện người lớn và thư viện trẻ em bất thình lình nổ tung trong luồng sáng lóe lên chói lóa. Kính bắn tung tóe thành hình tán dù, vun vút quất vào hàng cây đang oằn mình, điểm xuyết trên khu đất thư viện. Ai có mặt ở đấy thể nào cũng bị thương nặng hoặc thậm chí mất mạng trong bão đạn bằng kính ấy, nhưng may thay không có bóng dáng người nào, cả ở bên trong lẫn bên ngoài. Số là hôm ấy, thư viện không mở cửa. Hành lang mà Ben mê tít hồi còn nhỏ không bao giờ được xây dựng lại; Derry chịu quá nhiều tổn thất đắt đỏ nên thà cứ để hai thư viện thành những tòa nhà tách biệt nhau xem ra còn đơn giản hơn. Chẳng bao lâu sau, không một thành viên nào trong Hội đồng thị trấn nhớ ngày xưa, hành lang bằng kính ấy có công dụng gì. Có lẽ Ben là người duy nhất có thể mô tả cho họ cảm giác đứng bên ngoài thư viện, trong cái lạnh se sắt của một đêm tháng Giêng, mũi chảy thò lò, đầu ngón tay tê rần dưới lớp găng, nhìn người ta đi đi lại lại bên trong, bước qua mùa đông mà không mặc áo khoác, được ánh sáng vỗ về là như thế nào. Nói với họ như thế cũng được thôi, nhưng có lẽ đó không phải điều mà ta đứng lên trình bày trong cuộc họp của Hội đồng thị trấn – rằng anh đã ngẩn ngơ đứng trong màn đêm lạnh lẽo và mê mẩn ánh sáng tỏa ra từ hành lang. Ừ thì có thể là thế, nhưng sự thật chỉ đơn giản là: hành lang bằng kính nổ tung không rõ lý do, không ai bị thương (một điều quá sức may mắn, vì con số tổn thất cuối cùng mà cơn bão buổi sáng hôm ấy để lại – chỉ tính theo số thương vong - là 67 người thiệt mạng và hơn 320 người khác bị thương), và nó chẳng bao giờ được xây lại. Sau ngày 31 tháng 5 năm 1985, nếu muốn đi từ thư viện trẻ em sang thư viện người lớn, ta phải đi bộ ra bên ngoài. Nếu trời lạnh, có mưa hay tuyết rơi thì ta buộc lòng phải mặc áo khoác.

6

Ra ngoài/ 10 giờ 54 phút sáng, ngày 31 tháng 5 năm 1985

“Đợi đã,” Bill thở hổn hển. “Cho tớ… nghỉ chút.”

“Để tớ phụ cậu đỡ cô ấy,” Richie đề nghị. Cả nhóm đã để Eddie lại ở hang ổ của con Nhện, và đó là điều không ai trong số họ muốn nhắc đến. Nhưng Eddie đã qua đời, trong khi Audra còn sống - chí ít nếu xét về mặt kỹ thuật thì là thế.

“Tớ lo được mà.” Bill phì phò nói giữa những hơi thở hồng hộc.

“Vớ vẩn. Cậu coi chừng lên cơn đau tim bây giờ. Để tớ phụ, Bill To Bự.”

“Đ-Đ-Đầu cậu sao rồi?”

“Đau lắm.” Richie gọn lỏn. “Đừng đánh trống lảng.”

Bill lưỡng lự để Richie đỡ lấy người cô. Tình thế này còn đỡ chán; Audra vốn cao ráo, với cân nặng bình thường là sáu mươi ba kí-lô. Nhưng vai cô sắp diễn trong Phòng áp mái là một cô gái bị bắt cóc bởi tên thần kinh ảo tưởng bản thân là khủng bố chính trị. Freddie Firestone muốn quay tất cả các cảnh trên tầng áp mái trước nên Audra phải kiêng khem hết sức gắt gao bằng thịt gia cầm - phô mai tươi với cá ngừ – và sút mất chín cân. Dẫu vậy, sau khi lảo đảo bế cô trong bóng tối suốt quãng đường sáu trăm mét (hoặc tám trăm, nghìn hai, hoặc chẳng rõ bao xa), anh thấy năm mươi cân chẳng khác nào một tạ.

“C-Cảm ơn c-c-cậu,” anh nói.

“Có gì mà khách khí. Tiếp theo đến lượt cậu nhé, Haystack.”

“Bíp bíp, Richie,” Ben nói và Bill không nhịn được cười. Nụ cười ấy tuy hằn in sự mệt mỏi và cũng thoáng qua như mây bay, nhưng chí ít cười còn hơn không.

“Đi đường nào đây Bill?” Beverly hỏi. “Tiếng nước nghe to hơn hẳn rồi. Tớ không thích bị chết chìm dưới này chút nào đâu.”

“Đi thẳng, rồi rẽ trái,” Bill đáp. “Có lẽ bọn mình phải đi nhanh hơn.”

Cả nhóm đi tiếp suốt nửa tiếng đồng hồ theo sự dẫn dắt của Bill. Tiếng nước chảy càng lúc càng to, cho đến khi nó bao vây lấy họ chẳng khác nào hiệu ứng âm thanh trong rạp chiếu phim. Bill mò mẫm chỗ góc quanh, một tay lần theo tường gạch ẩm thì bỗng dưng, nước chảy vào chân anh. Dòng nước nóng nhưng khá nhanh.

“Để tớ cõng Audra cho,” anh nói với Ben lúc này đang phì phò như kéo bễ. “Giờ mình đi ngược dòng.” Ben cẩn thận chuyền cô về phía Bill để anh vắt người cô qua vai. Anh chỉ ước giá mà cô chống đối… chuyển động… hay làm gì đó. “Còn nhiều diêm không Bev?”

“Còn ít lắm. Chắc khoảng năm hay sáu que. Bill này… cậu có biết bọn mình đang đi đâu không?”

“Tớ nghĩ là c-c-có,” anh nói. “Đi nào.”

Mọi người theo anh vòng qua khúc cua. Nước tung bọt cao đến mắt cá của Bill rồi ngang ống quyển, sau đó dâng đến ngang đùi. Tiếng nước ban nãy còn ầm ì thì giờ rống lên trầm đục đều đặn. Đường cống mà họ đi cứ rung lắc từng hồi. Có lúc Bill còn tưởng nước sẽ chảy siết đến độ họ không thể lội, nhưng sau đó, họ băng qua một ống phụ đang đổ nước ầm ầm vào trong cống ngầm mà họ đang đi – anh đến tròn mắt vì dòng nước trắng xóa khá mạnh – nó khiến dòng nước yếu đi phần nào, dù mực nước dần sâu hơn. Trông…

Ô kìa, mình nhìn thấy nước đổ ra từ ống phụ! Mình nhìn thấy rồi!

“N-N-Này!” Anh hét lên. “Mọi ng-ng-người có nhìn thấy gì không?”

“Tầm mười lăm phút đổ lại, không gian có vẻ sáng hơn thì phải!” Beverly hét lên đáp lại. “Bọn mình đang ở đâu vậy Bill? Cậu có biết không?”

Tớ cứ tưởng là tớ biết, suýt chút nữa anh nói. “Chịu! Đi tiếp nào!”

Ban nãy, anh đã đinh ninh họ đang tiến đến phần sông Kenduskeag với lòng sông bằng bê tông, được gọi với cái tên Kênh Đào… phần sông chạy ngầm dưới trung tâm thị trấn và xuất hiện trở lại ở công viên Bassey. Nhưng ở đây có ánh sáng, ánh sáng, trong khi chắc chắn không thể nào có ánh sáng trong Kênh Đào dưới lòng thị trấn. Tuy nhiên, bốn bề cứ từ từ sáng dần lên.

Bill càng lúc càng khó lòng xoay xở với Audra. Vấn đề không nằm ở dòng nước - nó đã bớt siết hơn – mà nằm ở độ sâu. Chút nữa thôi, mình sẽ phải cho cô ấy nổi trên mặt nước, anh nghĩ. Anh có thể nhìn thấy Ben bên trái, Beverly bên phải, khẽ quay đầu lại, anh nhìn thấy Richie đằng sau Ben. Bước chân càng lúc càng kỳ cục. Đáy cống lổn nhổn, chất đống đất đá, gạch vụn. Xa xa đằng trước, có một thứ thò lên khỏi mặt nước trông chẳng khác nào mũi thuyền đang chìm dần xuống nước.

Ben bì bõm tiến lại, lẩy bẩy trong dòng nước lạnh. Một hộp xì gà ướt sũng trôi thẳng vào mặt anh. Anh gạt nó sang bên rồi chộp lấy thứ nhô lên khỏi mặt nước. Mắt anh trợn tròn. Thứ anh nhặt được là một tấm biển lớn. Anh đọc chữ được chữ mất trên biển: AL, và bên dưới là TƯƠ. Chợt anh vỡ lẽ.

“Bill! Richie! Bev!” Anh cười ha hả đầy ngạc nhiên.

“Gì thế Ben?” Beverly hét lên hỏi.

Chộp lấy nó bằng cả hai tay, Ben giật nó ra sau. Có tiếng nghiến kèn kẹt vang lên khi cạnh tấm biển cào dọc thành cống. Giờ thì họ đã có thể đọc được chữ ALADDI và bên dưới là dòng chữ TRỞ LẠI TƯƠNG LAI.

“Là tấm biển ngoài hiên rạp Aladdin,” Richie ồ lên. “Làm thế nào mà…”

“Đường lún xuống rồi,” Bill thì thầm, mắt trợn lên vì kinh ngạc. Anh ngước nhìn cống ngầm. Trên đầu anh, bốn bề còn sáng hơn.

“ Gì thế Bill?”

“Có chuyện quái gì xảy ra vậy?”

“Bill? Bill? Chuyện…”

“Hệ thống cống!” Bill tuôn ra một tràng. “Cống cũ quá rồi! Đã có một trận lụt xảy ra! Và tớ đoán lần này…”

Anh hối hả lội về phía trước, vừa đi vừa giữ Audra để cô không chìm. Ben, Bev và Richie lục tục kéo theo sau. Đi được năm phút, Bill ngẩng lên thì nhìn thấy bầu trời xanh. Anh đang nhìn qua vết nứt trên trần cống, vết nứt toác rộng hơn hai mươi mét từ vị trí anh đang đứng. Rải rác giữa dòng nước là lởm chởm những hòn đảo lớn có, nhỏ có - gạch chất đống, mui sau của chiếc xe Plymouth, cốp xe mở toang, nước chảy ào ào, một cái máy thu tiền đậu xe xiêu vẹo tựa vào thành hầm như gã say rượu, dòng chữ VI PHẠM đỏ chói quay lên trên.

Đến lúc này, bước đi trở thành chuyện bất khả – những ngọn núi thu nhỏ lởm chởm chẳng theo nhịp điệu hay quy tắc nào, sơ suất chỉ tổ mẻ cả mắt cá chân. Nước chảy ngang đến nách họ.

Nước hiền hòa lúc này thôi, Bill thầm nghĩ. Chứ nếu bọn mình đến đây tầm hai tiếng trước, chắc cả bọn sẽ được dịp nhớ đời.

“Chuyện này là thế nào vậy, Bill To Bự?” Richie hỏi. Anh đứng ngang khuỷu tay trái của Bill, mặt thộn ra vì bất ngờ khi giương mắt nhìn vết nứt trên nóc cống ngầm – có điều nó không còn là nóc cống, Bill nhủ thầm. Mà là đường Chính. Chí ít nó từng là vậy.

“Tớ nghĩ khu vực trung tâm thị trấn Derry đã sụp xuống Kênh Đào và bị sông Kenduskeag cuốn trôi rồi. Chẳng chóng thì chày, mọi thứ sẽ trôi ra sông Penobscot và ra tận Đại Tây Dương, lúc đó thì một đi không trở lại. Cậu giúp tớ đỡ Audra được không, Richie? Tớ thấy đuối quá…”

“Được chứ,” Richie đáp. “Chuyện nhỏ, Bill. Đừng khách sáo.”

Anh đón lấy Audra từ tay Bill. Dưới ánh sáng, Bill có thể nhìn thấy cô rõ hơn anh thầm mong – mặt cô tái nhợt, nhoe nhoét nhưng không bị khỏa lấp dưới đất cát, cáu bẩn dính đầy trên trán và đóng hai bên má. Mắt cô vẫn mở to… mở to và ngây thơ vô cùng. Tóc cô buông xõa và ướt nước. Cô trông chẳng khác nào một cô búp bê bằng phao có thể bơm phồng mà người ta bán tại Rương Khoái Lạc New York hoặc dọc trên con phố đèn đỏ Reeperbahn ở Hamburg. Sự khác biệt duy nhất là hơi thở chậm rãi nhưng đều đặn của cô… nhưng khéo ấy là thủ thuật tạo ra từ đồng hồ cũng nên.

“Làm sao bọn mình lên được trên kia bây giờ?” Anh hỏi Richie.

“Nhờ Ben đan tay đỡ cậu lên đi,” Richie nói. “Sau đó, cậu kéo Bev lên, hai bọn tớ giữ vợ cậu. Ben đẩy tớ lên, rồi bọn mình kéo Ben. Sau đó, tớ sẽ chỉ cho cậu cách tổ chức cuộc thi bóng chuyền cho một ngàn em gái sinh viên.”

“Bíp bíp, Richie.”

“Bíp bíp cái đầu cậu, Bill To Bự.”

Cơn mệt mỏi như ngọn sóng đều đặn cứ thế ập vào người anh. Tình cờ nhìn sang, thấy ánh nhìn của Beverly, anh neo mắt nơi cô suốt một lúc. Cô khẽ gật đầu với anh, và anh nở nụ cười.

“Nhờ cậu đan tay đỡ tớ nhé, B-B-Ben?”

Mệt bã đến độ nói chẳng ra hơi, Ben gật đầu. Trên má anh có một vết rách rất sâu. “Tớ nghĩ chắc sức tớ làm được.”

Anh hơi khom người xuống rồi đan mười ngón tay vào nhau. Bill đặt chân vào lòng bàn tay của Ben rồi bật lên. Vừa suýt soát. Ben nâng hai tay tạo đà cho Bill chộp lấy mép của mái hầm bị thủng. Anh kéo người lên. Thứ đầu tiên anh trông thấy là rào chắn giao thông màu trắng cam xen kẽ. Tiếp theo là đám đông cả nam lẫn nữ đằng sau rào chắn ấy. Thứ ba là Trung tâm thương mại Freese’s – chỉ có điều, trông nó phình ra và thấp bé một cách kỳ dị. Mất một lúc anh mới nhận ra hơn nửa tòa nhà trung tâm thương mại đã lún xuống đường và Kênh Đào bên dưới. Nửa trên cùng nghiêng méo xệch và chỉ trong gang tấc nữa thôi, nó có thể đổ nhào như chồng sách xếp bừa phứa.

“Nhìn kìa! Nhìn kìa! Có người dưới đường!”

Một người phụ nữ chỉ tay về phía đầu Bill thò ra khỏi vết nứt trên vỉa hè vỡ nát.

“Lạy Chúa, còn người khác nữa kìa!”

Bà loạng choạng tiến lại, một phụ nữ luống tuổi chít khăn trên đầu. Cảnh sát giữ bà lại. “Ngoài đây nguy hiểm lắm, bà Nelson ơi. Bà biết phần còn lại của con đường có thể sập bất cứ lúc nào mà.”

Chị Nelson, Bill thầm nghĩ. Tôi còn nhớ chị. Ngày xưa, thỉnh thoảng em gái chị lại trông George và tôi. Anh giơ tay lên cho bà biết anh vẫn ổn, và khi bà giơ tay đáp lại, anh chợt cảm thấy lòng mình như được tưới mát – và tràn đầy hy vọng.

Anh quay người, nằm thẳng ra vỉa hè nhấp nhô, cố phân bổ trọng lượng của mình đều nhất có thể như đang đứng trên lớp băng mỏng. Anh đưa tay xuống, chìa ra cho Bev. Cô chộp lấy cổ tay anh và vận chút sức tàn, anh kéo cô lên. Mặt trời ban nãy còn khuất thì giờ đã ló dạng từ đằng sau những lớp mây ti gợn sóng tựa vây cá, đổ bóng họ xuống đường. Beverly ngước nhìn, bàng hoàng trước cảnh tưởng ấy, rồi tình cờ bắt gặp ánh mắt Bill, cô khẽ mỉm cười.

“Tớ thương cậu lắm, Bill ạ,” cô nói. “Tớ cầu mong cô ấy ổn.”

“C-Cảm ơn cậu, Bevvie,” anh đáp, nụ cười dịu dàng của anh khiến lệ hoen mi cô. Anh ôm chầm lấy cô, và đám đông nho nhỏ đằng sau rào chắn vỗ tay rầm rộ. Một nhiếp ảnh gia từ tờ Derry News kịp thời lưu giữ khoảnh khắc ấy. Bức hình xuất hiện trên ấn bản ngày mùng một tháng Sáu, vốn được in trên Bangor vì máy in của tòa báo đã bị hỏng do dính nước. Tựa đề bức ảnh hết sức dung dị, đồng thời chuẩn xác, nên Bill đã cắt bức ảnh ra, nhét trong bóp suốt những năm tiếp theo: NHỮNG GƯỜI SỐNG SÓT. Chỉ vài từ nhưng đắt vô cùng.

Lúc đó là 11 giờ kém 6 phút ở Derry, Maine.

7

Derry/ Chiều cùng ngày

Hành lang bằng kính nối giữa thư viện trẻ em và thư viện người lớn phát nổ vào lúc 10 giờ 30 phút sáng. Đến 10 giờ 33 phút, mưa tạnh. Mưa không ngớt dần mà đột ngột ngưng ngay lập tức, như thể Ai Đó Trên Kia đã gạt công tắc. Gió thôi gào thét, và sức gió giảm nhanh đến độ người ta đưa mắt nhìn nhau với vẻ bối rối, bán tín bán nghi. Tiếng gió nghe chẳng khác nào động cơ của chiếc máy bay 747 sau khi an toàn về bến. Đến 10 giờ 40 phút, mặt trời lần đầu tiên lộ diện. Đến giữa buổi chiều, mây đã biến mất hoàn toàn, thời tiết trở lại chói chang và nóng như thường nhật. 3 giờ 30 phút chiều, mực thủy ngân trên nhiệt kế Orange Crush ngoài cửa tiệm Hoa hồng Si, Quần áo Si ghi nhận 28 độ C – mức nhiệt cao nhất khi chớm vào hạ. Người ta đi lại trên phố như thây ma, chẳng trò chuyện gì nhiều. Nét biểu cảm trên mặt họ giống nhau đến lạ thường: ngẩn ngơ đến ngu dại, trông hết sức tội nghiệp nhưng đồng thời cũng rõ là buồn cười. Đến tối, các phóng viên từ đài ABC, CBS, NBC và CNN đã có mặt ở Derry và mạng lưới phóng viên sẽ vẽ ra cho mọi người phần nào sự thật, họ sẽ bao bọc nó với vẻ thực tế… dù ngoài kia, vẫn có nhiều người cho rằng thực tế là một khái niệm không đáng tin cậy, thậm chí có khi còn chẳng cứng cáp hơn tấm vải bạt trải trên mạng lưới dây đan cài như tơ nhện. Sáng hôm sau, Bryant Gumbel và Willard Scott của chương trình Thời sự Hôm nay sẽ đến Derry. Trong chương trình, Gumbel phỏng vấn Andrew Keene. “Cả bể nước Standpipe đổ nhào rồi lăn xuống đồi,” Andrew cho hay. “Hoành tráng quá chừng. Ông hiểu ý tôi không? Đến Steven Spielberg còn phải gọi bằng cụ, ông hiểu không? Mà tôi nói ông nghe, lúc xem ti vi, tôi cứ có cảm giác ông to con hơn nhiều chứ.” Nhìn thấy mình và hàng xóm láng giềng xuất hiện trên ti vi – điều đó cô đọng sự kiện thành thực tế. Nó cho họ một nơi để nghiền ngẫm biến cố khủng khiếp, không tài nào hiểu nổi này. Họ gọi đây là CƠN BÃO QUÁI DỊ. Vài ngày sau, CON SỐ THƯƠNG VONG tăng lên khi CƠN BÃO SÁT NHÂN CÀN QUÉT. Trên thực tế, đây là CƠN BÃO MÙA XUÂN TỒI TỆ NHẤT LỊCH SỬ MAINE. Tất cả những tiêu đề ấy như xát muối vào tim nhưng được cái hữu dụng - chúng giúp người dân nơi đây xoa dịu bản chất lạ thường của những gì vừa xảy ra… hoặc có lẽ từ lạ thường chưa lột tả được hết. Cuồng loạn xem ra phù hợp hơn. Thấy mình trên ti vi giúp sự kiện ấy thực tế hơn, bớt điên cuồng hơn. Nhưng vài tiếng đồng hồ trước khi nhà đài đến nơi, chỉ có cư dân Derry vò võ với nhau, lặng lẽ bước trên những con đường ngập trong đống đổ nát, nhoe nhoét bùn đất với vẻ bàng hoàng, không tài nào tin vào thực tại trên khuôn mặt. Chỉ có dân Derry với nhau, chẳng nói chẳng rằng, ngơ ngẩn nhìn cảnh vật xung quanh, thỉnh thoảng nhặt đồ đạc lên rồi lại vứt xuống, cố lý giải biến cố vừa xảy ra trong bảy, tám tiếng đồng hồ vừa qua. Một nhóm đàn ông đứng trên đường Kansas, hút thuốc, nhìn những ngôi nhà bị lật ngửa dưới Vùng Đất Cằn. Đàn ông, đàn bà lố nhố đứng đằng sau những rào chắn giao thông màu trắng cam, nhìn vào cái hố đen từng là khu vực trung tâm thị trấn cho đến mười giờ sáng hôm ấy. Tựa đề tờ báo Chủ nhật chạy tít: CHÚNG TÔI SẼ TÁI THIẾT, THỊ TRƯỜNG DERRY HỨA VỚI DÂN, và có lẽ là vậy. Nhưng mấy tuần sau, trong lúc Hội đồng thị trấn còn đang chín người mười ý xem nên bắt đầu công cuộc xây dựng ra sao thì cái hố khổng lồ ngày trước từng là trung tâm thị trấn dần dà rộng thêm. Bốn ngày sau cơn bão, tòa nhà công ty Thủy điện Bangor sập xuống hố. Sau đó ba ngày, Chuồng chó biết bay, tiệm bán món bánh mì kẹp xúc xích xốt cay kèm dưa cải ngon nhất miền Đông Maine, cũng chung số phận. Hết lần này đến lần khác, nước cống trào ngược vào nhà, vào chung cư và các cửa tiệm buôn bán. Ở Mũi Đất Cũ, tình hình tệ đến độ cư dân bắt đầu dứt áo ra đi. Ngày 10 tháng 6 là đêm đầu tiên tổ chức hội đua ngựa ở công viên Bassey; cuộc đua đầu tiên được diễn ra vào lúc 8 giờ tối, ai nấy đều nô nức chờ đợi sự kiện này. Tuy nhiên, một phần khán đài sụp đổ khi đàn ngựa trong vòng đua đầu đang phăm phăm phi về đích, khiến chừng năm, sáu người bị thương. Một trong số đó là Foxy Foxworth, ông đã quản lý rạp phim Aladdin cho đến năm 1973. Foxy phải nằm viện đến hai tuần, gãy một chân và thủng tinh hoàn. Khi được xuất viện, ông quyết định khăn gói đến nhà người chị ở Somersworth, New Hampshire.

Ông không phải là trường hợp duy nhất. Derry tan đàn xẻ nghé từ đây.

8

Họ quan sát hộ lý đóng sầm cửa sau xe cấp cứu rồi vòng qua ghế hành khách. Xe bắt đầu chạy lên đồi, về phía Bệnh viện Derry Home. Richie đã liều tấm thân cùng tứ chi của mình chọn chiếc xe cho bằng được, sau đó cãi lý với viên tài xế đang nổi trận lôi đình khi anh này khăng khăng trong xe không còn chỗ trống. Sau một hồi đôi co, rốt cuộc anh đã giành được một chỗ trên sàn trải cho Audra nằm.

“Giờ thì sao?” Ben hỏi. Dưới mắt anh có hai quầng thâm to tướng, cổ đóng cả lớp ghét.

“Tớ sẽ v-về lại Nhà nghỉ Thị trấn,” Bill nói. “Ch-Chắc tớ ngủ liền tù tì m-mười sáu tiếng mất.”

“Tớ chung hội,” Richie nói. Anh hướng mắt nhìn Bev đầy hy vọng. “Còn điếu thuốc nào không, cô nương?”

“Hết rồi,” Beverly đáp. “Chắc tớ sẽ bỏ thuốc lần nữa.”

“Nghe có lý đấy.”

Họ chậm rãi cất bước lên đồi, bốn người sánh bước cạnh nhau.

“K-K-Kết thúc rồi,” Bill cất tiếng.

Ben gật đầu. “Bọn mình làm được rồi. Cậu làm được rồi, Bill To Bự.”

“Công sức của cả nhóm mà,” Beverly nói. “Ước gì bọn mình có thể mang thi thể của Eddie lên. Tớ chỉ ước có vậy thôi.”

Họ đến góc đường Chính Phố Trên giao với đường Point. Một cậu bé mặc áo mưa đỏ,mang ủng cao su màu xanh lá cây đang chạy theo con thuyền giấy dọc dòng nước ào ào chảy dưới cống. Ngẩng đầu lên, thấy bốn người lớn nhìn mình, cậu dè dặt vẫy tay. Nếu Bill không lầm, đó là cậu bé trượt ván hôm nọ - cậu bé có người bạn trông thấy Hàm cá mập trong Kênh Đào. Anh mỉm cười rồi bước đến chỗ cậu nhóc.

“Mọi chuyển ổn r-r-rồi,” anh nói.

Cậu bé nhìn anh đầy nghiêm nghị rồi ngoác miệng cười. Nụ cười tỏa nắng, lấp lánh niềm tin. “Vâng ạ,” cậu đáp. “Cháu cũng nghĩ vậy.”

“Chuẩn không c-cần ch-chỉnh,” anh đùa.

Cậu bé phá lên cười. “Cháu lướt v-ván cẩn thận đấy nhé?”

“Hên xui chú ơi,” cậu bé đáp và lần này, đến lượt Bill cư?