← Quay lại trang sách

Chương IX & X

Tờ mờ sáng hôm sau, bọn giặc càn những người bị bắt lên tới Nhụng. Chỗ đó là một tổng nhỏ, cách tỉnh thành độ ba mươi cây số. Nhà cửa ở thưa thớt, hoặc chênh vênh trên đỉnh gò, hoặc náu mình dưới gốc sậy. Hết thảy đều một kiểu như nhau, mái gianh vách nứa, cảnh tiều tụy mà ủ ê. Dân cư phần nhiều là Thổ, Mán, Nùng. Muốn tránh sự hành hạ, họ phải nhập bọn với giặc, nhân tiện kiếm miếng ăn. Người Việt Nam ở vùng xuôi bị giặc bắt lên đấy, ở tản mát khắp mọi nơi, phát nương cày ruộng, sống heo hút cho qua thì. Ở Nhụng, ngày thường chỉ có độ dăm chục quân Cờ Đen án ngữ, nhưng bấy giờ, Hoàng Tử Trung được lệnh của Lưu Vĩnh Phúc kéo quân về đóng ở đấy, hiệu triệu các bọn Bá Thái, Sen Hồ, Tài Lảo Dè, Woòng Tsi để cùng sửa soạn về đánh nhau với quân Pháp đang tiến lấy thành Tuyên. Bởi vậy, lúc Lày Sập Trưởng giải bọn bị bắt lên, thì quân giặc đã bạt ngàn cả, và sự canh phòng cũng nghiêm mật khác thường.

Toán người ngựa đang bon bon trên đường dốc, bỗng thấy nổ đùng một tiếng lệnh, rồi một toán quân canh núp trong bụi rậm xồ ra. Lày Sập Trưởng chào khẩu hiệu xong, người ngựa lại chạy thẳng về hướng bắc, mà quân canh lại biến hình trong cỏ rậm. Qua một cánh rừng nhỏ, cả bọn đứng lại trước một cái cổng gỗ lớn. Lày Sập Trưởng hô khẩu hiệu một lượt nữa. Cánh cổng bật mở, người ngựa kéo vào. Quân giặc dẫn những người bị bắt đến chờ ở chân thang. Lày Sập Trưởng một mình leo lên nhà sàn trình bày công việc với chủ tướng. Nhân lúc ấy, Thục Nương để ý nhìn quanh. Nàng rùng mình, níu lấy mẹ, bàng hoàng như người lạc xuống một cảnh địa ngục. Gần ngay chỗ nàng đứng, một người đàn bà bị trói riệt vào cột chuồng trâu. Áo xống lột hết, da dẻ trắng hếu như lợn cạo, người đàn bà khốn khổ gục đầu xuống trước ngực, mái tóc rối tung như mớ bòng bong. Người ấy rên đều, ủ rũ như gần chết. Lúc thấy tiếng lao xao ở cạnh mình, người ấy cố ngửng đầu lên, giương cặp mắt lờ đờ nhìn ngớ ngẩn... Mặt tròn nhưng hốc hác, da trắng bệch như sáp ong, miệng méo xệch vì đau đớn, môi nhợt nhạt và khô khan. Ngực phanh ra, đầm đìa những máu. Đôi vú, bị khoét gần đứt, buông thõng xuống ngang bụng, mở ra cái hốc đỏ lòm. Thục Nương sợ nhủn cả người, vội quay đi thì mắt lại thấy một thảm trạng khác: trong xó chuồng trâu, một người đàn ông võ vàng, quần áo rách bướp, da thịt tơi bời đang quằn quại, hấp hối trên vũng bùn nhớp nhúa. Ngoài sân thì quân giặc ngồi xổm từng bọn, ăn uống xô bồ. Trông chúng ăn, người ta ngờ là bọn ma đói. Canh riêu bừa bãi, xương xẩu bộn bề, chúng vừa ăn vừa uống, vừa bông đùa chửi bới nhau. Có đứa rượu say, tức khí rút dao đâm nhau chết tươi là thường. Những đứa ấy, chủ tướng đều sai bắn chết ngay, nhưng cũng không thể sao lập nghiêm cho xuể được. Lẫn với bọn giặc ngồi ăn, thì nào gà, lợn, chó xúm xít, len lỏi, chui rúc, rình mò, tranh nhau, cắn nhau inh ỏi. Thực là một cảnh tượng ghê tởm, hỗn độn, thô bỉ và cẩu trệ vô cùng. Thục Nương còn đang mải nhìn, mải nghĩ thì trên nhà có tiếng thét to. Bọn giặc đứng chờ ở chân thang vội vàng lên tiếng và điệu những người bị bắt lên sàn, theo dãy hành lang đến quỳ cả ở cửa giữa. Bọn Cờ Đen lạy ra mắt chủ tướng xong, chắp tay đứng thị lập hai bên để chờ lệnh. Thục Nương liếc nhìn vào trong nhà. Trên một chiếc chiếu cạp điều, cạnh bộ bàn đèn lộng lẫy, một viên lão tướng đang nhìn chằm chặp bọn tù nhân. Khổ mặt chữ dụng, gò má cao, trán gồ, một nửa khuất sau vành mũ nhung đen. Lông mày chữ bát, mũi diều hâu, miệng rộng, môi dày. Viên tướng ấy ngồi lẳng lặng như một pho tượng, hoạt động có chăng cặp mắt sáng ngời.

Đứng cạnh viên tướng già, trừ Lày Sập Trưởng, Thục Nương còn nhận thấy một người thanh niên mặt đẹp như ngọc, da trắng môi son, cặp mắt cũng sáng ngời như mắt lão tướng. Thanh niên mặc cái áo gấm lam ngắn rộng tay, ngoài phủ một chiếc chấn thủ bằng vóc vàng, lưng giắt đoản kiếm, quần nhiễu phớt tím, chân đi võ hài. Thục Nương đoán ngay viên tướng nọ là Hoàng Tử Trung, mà người trẻ tuổi kia tức là Hoàng Thiếu Hoa công tử.

Hoàng Tử Trung nhìn mọi người một cách ái ngại:

- Đã lên tới đây, bọn đàn ông hãy cho ra ngoài tiền dinh, bọn đàn bà con gái phải xuống hầu phu nhân. Nhưng hãy nghe ta dặn: phu nhân tính khắc lắm! Những thảm trạng chắc các ngươi đã nhìn thấy ở dưới nhà, đều do mệnh lệnh của phu nhân cả. Phu nhân bị đau, ta không nỡ trái ý, nhưng thấy những cực hình đó, lòng ta thương xót vô cùng. Các ngươi phải có ý tứ lắm mới được!

Giọng nói sang sảng như chuông và rất sõi, vừa có oai, vừa có đức, khiến cho người nghe phải cảm. Lão tướng nói xong quay lại người trẻ tuổi:

- Hoàng công tử hãy đưa bọn này xuống bè!

Công tử cúi đầu lĩnh mệnh, nhưng mặt có vẻ buồn. Chàng ra hè, xuống thang gác. Bọn quân hầu bảo những người đàn bà con gái đi theo. Ra tới bến sông, Thục Nương thấy một chiếc bè lớn đậu lơ lửng giữa dòng, xung quanh vô số những thuyền con, chừng đợi sai vặt.

Lúc sắp lên cầu, chàng trẻ tuổi quay lại nhìn mọi người một cách ái ngại:

- Các ngươi có nhớ lời cha ta dặn không? Phải cẩn thận lắm đấy nhé!

Lúc nói, chàng chợt để ý đến Thục Nương:

- Cô này là con cái nhà ai vậy?

Bà cụ Điều đáp:

- Bẩm, nó là con tôi.

- Bà cụ quê ở đâu ta?

- Chúng tôi quê ở Tuyên, chồng tôi làm Điều hộ...

- À, bà cụ Điều ở Tuyên! Thế đây hẳn là Thục Nương?

- Bẩm phải ạ!

Hoàng lang có vẻ thẹn, ngập ngừng nói:

- Xin cụ và cô tha lỗi cho nhé! Việc xảy ra thực là ngoài ý muốn của chúng tôi! À thế cụ ông đâu?

- Trong lúc hỗn độn, không biết thầy cháu lạc đâu mất.

Bà cụ nói đoạn, lâm râm ứa nước mắt.

Hoàng lang tỏ ý ân hận:

- Việc này chỉ tại tên Lày Sập Trưởng tham tàn và muốn mua chuộc sự che chở của mẫu thân tôi. Để tôi phải trừng trị hắn mới được. Nay đã trót như thế, xin cụ và cô đành lòng vậy. Tôi sẽ cho người về tỉnh dò hỏi tin tức cụ ông nhà ta và nếu có dịp, tôi sẽ cho người hộ tống cụ và cô về. Hiện nay thì chưa nên, vì ở tỉnh sắp có chiến tranh lớn. Trong khi cụ và cô ở đây, tôi sẽ hết sức bảo toàn.

CHƯƠNG X

Trên con đường Bắc Nhụng, lờ mờ một vệt trắng chạy tun hút giữa khoảng tối tăm, bố cu Khải nằm rạp trên lưng con ngựa ô phi nước đại. Tiếng vó ngựa vỗ mặt đường kế tiếp nhau lọt thỏm vào trong cái lặng lẽ đêm khuya. Trên trời thẳm, những ngôi sao lấp lánh như những cặp mắt xa nhìn trộm xuống cõi đời. Rừng núi hai bên dọc đường lù lù từng đám mây đen bí mật. Ngựa chạy đến chỗ đường rẽ, bố cu Khải dừng cương nhảy xuống đất, dắt ngựa buộc vào một gốc cây. Con vật hí rầm lên, tỏ ý lo sợ. Rừng cây xung quanh giật mình vì cái tiếng kêu bất thường.

Bố cu Khải lẩm bẩm nói:

- Thôi mà! Tới đích rồi đây!...

Nói đoạn, lão cố sức nhìn vào trong rừng. Bóng tối dày quá. Bố cu Khải chỉ thấy những đám đen lù lù hiện trên những đám khác đen hơn. Lão ngần ngừ một lát, vỗ về con ngựa và nói như nó có thể hiểu được:

- Thôi, từ giã ngươi nhé! Ta đi đây cũng chẳng chắc đâu đã được vẹn toàn, một chút lòng son chỉ đành mong cậy ở cao xanh!...

Bố cu Khải nói xong, quả quyết lận vào rừng. Một tiếng cú kêu lạnh lùng thảm đạm như một điều gở. Tuy vậy, lão cũng vẫn cố sờ soạng tiến lên. Độ dăm chục bước, bố cu Khải bỗng lạnh tái người, trái tim dừng hẳn lại...

Bên tai lão, có tiếng ai khẽ nói:

- Cứ đi! Nếu quay đầu lại thì "nị" chết!

Một tiếng nữa tiếp theo:

- Nếu nói một câu "nị" cũng chết!

Tiếng cú lại kêu. Rồi, vụt cái, xa xa trước mặt hiện ra một cái ánh lửa tròn và to bằng quả bưởi, lừ lừ tiến lên như cái ma chơi.

- Theo ánh lửa mà đi!

Bố cu Khải gật đầu. Trong lòng sợ hãi lắm. Nghĩ đến những cái nhục hình ghê gớm, lão toát mồ hôi giá ngắt. Càng vào sâu trong rừng, bóng tối càng như bưng lấy mắt. Tuy có ánh lửa dẫn đường, song lão Khải vẫn vấp ngã luôn.

Như thế chừng một khắc canh. Ánh lửa tắt. Bố cu Khải ngẩng đầu, lại thấy sao sáng lấp lánh, mà đường tối cũng phẳng phiu hơn. Ra khỏi rừng rồi. Lão vừa nghĩ thế thì một sợi dây choàng ngay xuống trước ngực, cuốn chặt lấy thân thể và hai tay lão như một khúc giò. Rồi, một bàn tay vỗ mạnh vào vai lão, giúi mạnh đi.

Vượt qua một cánh đồng hoang, đến một cái cổng bằng tre gai.

Tiếng cú lại kêu. Cánh cổng bật mở. Bố cu Khải bị xô mạnh vào trong sân. Một tiếng hiệu lệnh. Trăm nghìn bó đuốc cháy bùng lên. Quân giặc xí xố vây quanh lão già. Gươm giáo tuốt ra sáng nhoáng như chớp. Một tên hung ác nhất hỏi:

- Mày là ai?

- Tôi là một tên thường dân tên gọi bõ Khải.

- Ở đâu đến?

- Ở Bắc Mục về.

- Mày đang đêm lặn lội vào chỗ đóng quân làm gì? Do thám à?

- Không! Tôi đến xin theo các quan.

- Mày nói dối! Nếu mày định theo thì phải chờ ban ngày ban mặt tử tế chứ!

- Nguyên tôi ở với một nhà kia, chủ nhà ác quá, đánh chửi tôi luôn. Tức mình, tôi trót giết chết hắn rồi cướp lấy ngựa chạy trốn về đây.

Bố cu Khải nói dứt lời bỗng giật nảy mình, tái mặt. Dưới ánh đuốc, lão vừa nhận thấy con trai mẹ Chánh ú đang nhìn lão tủm tỉm cười:

- Thế nào già Khải đã nhận rõ mặt người quen rồi đấy chứ?

Nói đoạn, hắn quay lại bảo với bọn giặc:

- Nếu không có tôi thì hôm nay các chú tất bị lão này đánh lừa! Hắn chẳng phải ai xa lạ, chính là đầy tớ nhà lão Điều Hộ ở dưới tỉnh. Lão giỏi võ lắm. Việc mưu sát Lày Sập Trưởng bữa qua chỉ có hắn chứ không còn ai nữa. Nay hắn lên đây, chắc muốn tháo cho mẹ con Thục Nương, không thì cũng do thám binh tình của ta để báo thù cho chủ hắn.

Một tiếng reo kinh ngạc tiếp ngay câu tố cáo quan trọng đó. Rồi bọn Cờ Đen bảo nhau khám lưng lão già. Hàng trăm lưỡi gươm dí sát vào mình bố cu Khải như một bức mành. Một tên giặc đến lần lưng bố cu Khải. Hắn kêu lên một tiếng mừng rỡ:

- Đây rồi!

Nói đoạn giơ cho bọn giặc xem một con dao găm sắc như nước:

- Con dao này giống hệt con dao đã làm cho Lày Sập Trưởng suýt nguy!

- Giết!...

- Chôn sống!

- Ừ phải!... chôn sống!

Bọn giặc lôi lão già ra một thửa ruộng hoang, nới dây cho lão chỉ vừa đủ để cuốc đất. Xung quanh thì đèn đuốc sáng rực, gươm súng như rừng. Chúng ném bố cu Khải một cái cuốc mà rằng:

- Đào lấy huyệt của mày đi!

Lão già biết rằng có van nài cũng vô ích, mà dùng sức cũng chẳng xong. Dưới hàng nghìn con mắt thù địch, nếu mình hơi khác ý, chẳng khỏi chiếc thân cô độc sẽ bị tan tành trăm mảnh. Lão Khải tuyệt vọng lắm, ngước mắt nhìn trời; trong thẳm không gian, mây vẫn bay, sao vẫn tỏ, vũ trụ vẫn thờ ơ. Bốn bề im lặng, lão chỉ nghe tiếng gió vụt đầu cành, trùng kêu trong nội, và thỉnh thoảng tiếng súng hiệu xa xa...

- Mau lên!

Tiếng quát to làm cho lão Khải giật mình ứa hai hàng nước mắt.

- Trời ôi! Thân tôi nào có tiếc gì! Chỉ đau đớn thay cho một nhà chủ tôi phải tan tành chia rẽ, nỗi niềm oan khổ ấy biết bao giờ giải được!