Chương 1
Đoàn lính Tây đang từ dưới đồn lên. Viên thiếu úy chỉ huy khoảng hai chục tên gồm vừa Tây trắng, Tây đen, Tây rạch mặt và Ma–rốc cùng với sáu người lính ba–ti–giăng và một viên thông ngôn đeo kính trắng.
Dân chúng đang ồn ào trên khu chợ lộ thiên nhận ra đoàn lính đang tới gần bỗng im lặng, một vài tiếng xì xào nhỏ, đưa mắt nhìn nhau lo âu và cố ý lờ đi như không chú ý tới đoàn lính, cử chỉ của họ lúng túng ngượng ngập, có kẻ run lên, vì rất có thể, một cách vô tình là mất mạng hoặc cũng bị mấy cái tát tai hoặc một chiếc báng súng phang vào người cho ngất lịm đi.
Trong giữa đám lính người ta nhận thấy có năm người bị trói giật khuỷu tay về phía sau như người ta trói chó trước khi chọc tiết làm thịt. Trong năm người có hai người quen mặt đó là ông Thành và anh nhiêu Đại con trai của ông Thành, ông Thành trước đây một tháng còn là lý trưởng của xã Đoài. Ba người kia đều là thanh niên lạ, nét mặt người nào cũng thiểu não, vàng vọt với bộ quần áo tả tơi bẩn thỉu. Chắc lại một cuộc lùng bắt mới, người dân quê nghĩ thế, vì mới hôm qua đây xảy ra một vụ ám sát hai người ở trên xã Đoài, một là phó lý, hai là hộ lại vào giữa ban ngày.
Đoàn người đi im lặng, bọn lính súng cầm tay nhìn ngó xung quanh và lúc nào cũng như chờ đợi động vào cò súng. Tiếng giày đinh lạo xạo vẻ hung bạo trên mặt đường đá. Đám dân chúng trong khu chợ nín thở chờ cho đoàn lính đi qua. Bỗng một tiếng súng nổ chát chúa, người ta giật mình nhìn lên, có kẻ dé chân muốn chạy nhưng lo âu dừng lại vì sợ, chạy một cái có thể bỏ mạng.
Đoàn lính dừng lại ở đầu chợ và cười ồ lên. Người ta đưa mắt nhìn và thấy một ông già đang quỳ xuống đất mà lạy viên thiếu ủy Tây như tế sao, người ta nghe thấy tiếng tên thông ngôn:
– Quan lớn muốn được ăn con bò của mày. Sao mày chạy?
– Con lạy quan lớn, cả gia tài nhà con chỉ có con bò, mất nó chúng con lấy gì cầy ruộng để nuôi mười mấy miệng ăn, con lạy quan lớn nói giúp cho.
– Nhưng quan lớn không chịu. Muốn chết hả?
Một phát súng nữa nổ, ông già vẫn lạy và kêu khóc. Đoàn lính cười ồ khoái trá.
– Lạy quan. Lạy quan.
– Không lạy van gì cả, muốn vừa mất bò, vừa muốn chết sao? Giao bò đây rồi trả cho hai trăm.
Không chờ đợi, viên thông ngôn ra dấu cho một tên lính ra dắt bò, ông già lăn ra đất khóc lóc thê thảm, viên thông ngôn cầm hai tờ giấy trăm vứt ra đó và đoàn lính lại đi. Rất lâu sau khi đoàn lính đi khuất, tiếng động ồn ào mới lại dấy lên trên khu chợ và người ta vội vã mua bán để về vì họ biết một lúc nữa đoàn lính sẽ trở lại qua đó và bất trắc lúc nào cũng có thể đến với họ.
Thạch ngồi yên trên xe đò quan sát tấn bị kịch vừa xảy ra, chàng lo âu nóng lòng muốn trở về với làng xóm. Người tài xế và người ét vẫn loay hoay với chiếc máy xe già cũ. Chỉ còn có bốn cây số nữa là tới nhà, và xe đã chết.
Thời gian trôi chậm chạp, chàng đã thấy ê âm cả người, bốn người trên xe vẫn ngồi im theo lời khuyên của bác tài, người lạ không nên xuống vì xuống gặp lính họ thấy lạ xét hỏi có thể phiền phức. Người ét đã quay máy mấy lần nhưng chiếc máy vẫn không chịu nổ. Một người đàn bà đi đến phía đầu xe hỏi chuyện bác tài, hình như là một người quen biết cũ.
– Liệu máy có chạy được không bác Đấu.
Người tài xế ngẩng lên, vuốt mồ hôi trên trán:
– À chị Cai, chị đi chợ đấy à.
– Đi giao hàng, mấy phiên nay ế quá, chẳng ma nào mua bán gì cả, chợ mấy phiên bị tan, họ làm ghê quá. Định hôm nay đi Hà Nội đấy. Xe bác không chạy được thì hết rồi, xe của Liên Thành bị mìn hôm trước còn đâu nữa mà chạy. Tôi định đi nhờ công–voa nhưng ngán quá vì bọn lính mới đổi về không quen và nham nhở quá. Cho xuống dưới Đoài chút.
– Thì chờ đi, trời hành tôi quá. Hôm qua làm máy thấy ngon ai ngờ vừa đi được chuyến đầu không trót đã nằm. Xuống dưới đó có chuyện gì vậy?
– Đón thằng em, tiện xe tải cho nó đi Hà Nội luôn. Dưới đó mấy hôm nay kinh quá. Bác biết chuyện sáng hôm qua không?
– Hai người bị chết chớ gì.
– Đêm du kích họ về nằm phục ở ngay cổng làng, trên nóc và mấy ngã vào làng. Buổi sáng lão phó lý cùng với chức việc vừa đi ngủ ở bốt về tới chờ lấy phu đưa lên quận thì họ ném lựu đạn rồi nhảy xuống, họ đuổi bắt lão phó lý. Lão ấy chống cự lâu ghê lắm, đâm chết một tên du kích, nhưng vẫn không thoát vì du kích họ về đông, họ đã xả lão phó lý và hộ lại ra từng mảnh nhỏ trộn lẫn vào nhau như đất bùn. Người ta thuật lại mà phát sợ. Không hiểu họ hiềm thù gì mà ghê thế. Người làng bảo vì lão phó lý mới báo cho đồn tìm được một hầm bắt sống bốn du kích, còn ba người không chịu lên bị liệng lựu đạn cho chết thui ở dưới đó nên họ về trả thù. Du kích về rồi qua cầu Đầm rút đi mất tăm, mãi trưa lính ở đồn mới về. Thế là càn quét bắt đầu, lại một vụ trả thù nữa vì hai người bị giết là người được Tây tin cẩn. Kết quả một người thấy chừng sợ bỏ chạy bị bắn chết. Ba cô bị lính luân phiên hãm hiếp, một cô bị chết vì chống cự, bốn căn nhà bị đốt vì bị nghi là cho du kích núp. Cả làng xanh mắt. Ngay tối hôm đó đạn mọt–chê được bắn về xung quanh làng, bắn dọa cho sợ, nhưng đạn lạc cũng làm một nhà bốn người chết nát và cháy ra tro. Vừa xong họ lại dẫn mấy người về dưới không biết chuyện gì nữa. Đêm du kích về cũng giết, ngày Tây về cũng giết, tối đến phải ra hẳn ngoài tỉnh mất... Tôi còn kẹt mấy món, nếu không cũng đã đi rồi, ở lại đêm không nhắm mắt được.
Người tài xế lắc đầu le lưỡi, mắt trợn:
– Nghe nói tôi phát sợ, hết muốn chạy đường này nữa, như cảnh vừa rồi bọn họ lấy bò của ông già.
– May mà còn thoát chết đó.
– Có phải họ vừa dẫn bố con ông Lý Thành đó phải không?
– Còn ai nữa. Trước đây làm tay sai của Tây cũng đắc lực lắm, nhiều người đã khổ, con gái làng Đoài có ai thoát tay lão, có cả bà già nữa là khác, lão còn bắt cả một đứa con nít mới mười tuổi cho bọn đàn em cùng chân tay cho lão hiếp. Thật tởm! Thế mà không hiểu sao Tây nó lại bảo chính lão chứa chấp du kích và bắt đi cả bố lẫn con. Có người cho tại lão phủ lý đã báo cáo gì đó để giành chức lý tưởng. Chỉ tranh nhau ăn mà giết nhau, cuối cùng đều bị chết và bị bắt. Quả báo thật.
Người đàn bà lên xe, người tài xế tiếp tục chúi đầu vào chiếc máy.
Bây giờ Thạch mới quan sát người đàn bà này, chàng đoán đây là một người buôn bán, nửa tỉnh nửa quê, răng nhuộm đen nhánh, ăn trầu, tóc vấn trần, mặc chiếc áo cánh phin mỏng, quần đen, ước độ ba mươi tuổi, cách nói và cử chỉ có vẻ thành thạo. Bà ta cũng là người ở xã Đoài sao? Chàng muốn hỏi chuyện cho rõ hơn. Chàng thấy mình xa lạ với làng nước quá. Tuy là người ở Đoài nhưng chàng không sống ở quê bao nhiêu, ngay từ thuở nhỏ cha mẹ chàng đã gửi chàng theo sống với ông bác ở Hà Nội để theo học. Thời kỳ tản cư chàng theo gia đình chạy sang mạn Bắc Ninh. Trong suốt thời gian còn nhỏ thỉnh thoảng chàng mới trở về Đoài một lần, như một người lạ chàng chẳng quen biết bao nhiêu, ngay cả họ hàng nữa, dù cha chàng đã dẫn đi thăm từng nhà, nói tới từng người một. Sau một thời gian chạy ra hậu phương, gia đình bác Hoạch đã hồi cư và đây là lần đầu tiên chàng trở về làng cũ sau khi hay tin mẹ chàng còn sống và muốn chàng trở về.
Thạch dời chỗ ngồi bước xuống khỏi xe. Phiên chợ đã vãn. Chàng nhớ không lầm thì chính ở chỗ này là ngôi đình tổng xưa kia, cũng là chợ nữa. Ngôi đình lớn đã không còn gì ngoài một nền đất trống và mấy phiến đá xanh của bậc tam cấp, chắc ngôi đình đã bị đốt trong thời gian kháng chiến. Khung cảnh mấy mái rạ xơ xác và vài người lúi húi với áo nâu, nón lá thật tiêu điều.
Ven đường hai quán nước với băng ghế dài, chiếc bàn, mấy chiếc bát sành nhem nhuốc sứt mẻ, một nải chuối và mấy chiếc bánh lá treo lủng lẳng.
Phía bên kia bờ đê, những ngôi nhà xiêu vẹo. Bên này, đầm nước mông mênh bãi mía xa chạy ra ngoài sông Đáy không còn nữa, đất đã bị bỏ hoang nhiều, rất ít chỗ được khai thác cày bừa chừng như dân chúng tản cư về chưa hết với phiên chợ lèo tèo, với con đường đê bị đào xới gập gềnh một phần nào phản ảnh rõ rệt cảnh tàn phá của chiến tranh thời gian mấy năm qua, hiện vẫn còn đang bị đe dọa và chưa biết bao giờ mới chấm dứt.
Thạch lo âu cho sự xa lạ của chàng khi trở về chốn xưa. Chính bác Hoạch đã ngăn chàng không nên về vì an ninh tại các vùng quê. Nhưng chàng nghĩ đến gia đình với người mẹ còn sống, chàng muốn trở về thăm. Anh chàng ra đi từ hồi đầu khởi nghĩa, trong nhiều năm đã không có một chút tin tức nào, không biết còn sống hay đã сhết.
Nắng đã lên cao. Thạch khát nước, chàng vào quán uống một bát nước vối và ăn một trái chuối lá, chàng lắng nghe tiếng người đàn bà hỏi bác tài xế:
– Tôi trong cái cậu kia có vẻ quen, hình như đã gặp.
– Chắc là người làng chị. Cậu ấy về Đoài đấy mà, chắc bỏ làng đi đã lâu, về dọc đường tôi thấy cậu ấy có vẻ ngỡ ngàng.
– Cậu ấy cũng về Đoài. Hình như con ông giáo Nhâm. Ông ấy có người con gửi cho một ông bác nuôi...
Thạch yên tâm, đúng bà ta người làng rồi vì bà ta biết chàng. Chàng không muốn họ nói về chàng nữa nên trả tiền nước rồi trở lại xe ngồi vào chỗ cũ, cầm cặp để lên lòng.
Người đàn bà nhìn chàng và không nói gì nữa. Bỗng bác tài kêu lên:
– Được rồi, quay đi...
Sau vòng quay xe đã nổ máy, bác tài thở ra cười hô hố và khoái trá, hai thầy trò đậy thùng máy rồi trèo lên xe.
Bác tài kêu:
– Thật hú hồn, tưởng nằm đây luôn thì chết rồi!
Người đàn bà nói:
– Bác xuống dưới rồi khi lên đón tôi được chứ.
– Được, nhưng lẹ lẹ, tôi không đợi lâu vì nếu trễ không ra kịp mà ngủ ở dọc đường thì chết. Chuyến ra chắc đông lắm, mai phải cố chạy lấy hai chuyến chớ điệu này thì vợ con chết đói.
Người ét đã nhảy lên phía sau, bác tài rồ máy cho xe chạy. Thạch yên tâm, chàng có thể về đến nhà. Tới cuối chợ chàng vẫn thấy ông già mất bò nằm ở đó khóc rống như một con chó dại, ông la, ông thét, ông lăn ra đường. Mấy người đứng quanh bàn tán. Bác tài chỉ tay ra phía bên kia đầm rồi nói:
– Lại cháy ở Thượng Hiệp rồi, khói đen như thế kia là lại khói thóc ra tro trong khi không có gạo mà ăn!
Rất xa, trên những lùm tre xanh khói đen mù mịt đang bốc lên.
Lắng nghe, Thạch như thấy có tiếng súng nổ nhỏ. Về đây, xa Hà Nội chưa đầy ba chục cây số, chàng thấy chiến tranh vẫn tàn khốc trong khi ở thành phố hầu như đã thái bình.
Đi được nửa đường xe gặp đoàn lính lúc trước đang đi trở về. Xe chạy ép sang một bên mặt và chạy từ từ. Đoàn lính nghênh ngang chia làm hai tốp đi xuống ven bờ đê một chút. Thạch không thấy năm người bị trói đâu nữa, Chạy xa một quãng, người đàn bà kêu:
– Bác có thấy gì không?
Bác tài ngạc nhiên:
– Cái gì?
– Bác không thấy sao?
– Không.
– Cha con lão lý và ba người bị trói đâu mất.
– Hay họ tha về rồi.
– Tôi nghi lắm, chẳng lẽ họ lại dẫn về làng rồi thả. Hay bị bắn rồi.
– Bị bắn.
– Tây nó hay bắn đền mạng lắm. Nó bắn để dọa dân và du kích.
Khi về tới đầu làng, vừa bước xuống, Thạch đã thấy rõ về điều người đàn bà vừa nói. Ngay bên sườn đê năm xác người bị trói nằm chết cong queo đó. Có một người đàn bà già đang ngồi khóc bên xác ông lý Thành, hình như vợ ông ta.
Bỗng chàng chú ý tới một tờ giấy vừa được để gần đó với hàng chữ: xác giặc, cấm chôn. Thạch ngừng lại, người đàn bà đứng lên bỗng kéo tay chàng.
– Đi đi đừng đứng lại đó.
Chàng bước xuống dốc, người đàn bà đi phía trước bỗng nói:
– Nó bắn và bắt phơi xác.
– Dã man.
– Cậu là con ông giáo Nhâm phải không?
– Sao bà biết?
– Tôi có quen bà nhà, cậu đi từ nhỏ, lạ quá, khiến tôi khó nhận ra. Gia đình bác cậu đã hồi cư rồi sao, chắc cậu về chơi.
– Tôi về thăm mẹ tôi ít ngày.
– Cậu lạ, về đây cẩn thận, không yên ổn gì đâu, cậu nên đi ngay, ở nhà đêm có thể phiền cho cậu.
– Tôi có làm gì đâu.
– Du kích cũng như Tây họ đâu có nghĩ vậy. Ở đây không ai được bảo đảm gì cả, cậu còn nhớ nhà không.
– Thưa, còn nhớ.
– Tôi cũng qua đó.
Thạch đã vào đến ngõ xóm, ngang qua ngôi nhà cũ của chàng, căn nhà ngang phía cổng vào đã không còn, ngôi nhà thờ trên còn nguyên vẹn. Tới cửa, chàng chào người đàn bà rồi đi vào.
Chàng đứng lại ngoài ngõ, bây giờ không còn là chiếc cổng gach có mái ngói đỏ cùng với hai cánh cửa gỗ chắc chắn nữa. Bây giờ chỉ còn là hai chiếc cột tre và một tấm phên làm cánh cửa buộc vào một cách lỏng lẻo. Ngôi nhà ngang chỉ còn lại mấy bức tường thấp, gạch bị đốt cháy nám loang lổ, cùng với những khoảng tường bị đổ hẳn nay được xếp lên bởi những viên gạch rời, nền nhà đã được cuốc lên và trồng rau.
Phía trong, nơi chỗ phòng khách của cha chàng nay được dựng lên một túp lều nhỏ dường như là bếp. Chàng chờ đợi một bóng người nào đó. Một người đàn bà từ trong căn nhà lá ngó đầu ra. Chàng kêu lên:
– Chị, chị.
Chàng đã nhận ra chị Hiền, chị Hiền còn cầm tay đôi đũa cả, đi vội ra và kêu lên:
– Kìa Thạch... mẹ ơi, Thạch nó về.
Mẹ chàng từ trên nhà thờ đi ra bà cảm động líu tíu không nói được, bà ôm chầm lấy Thạch mà khóc. Tóc bà đã hoa râm nhưng bà còn khỏe, Thạch nhận ra được điều đó và chàng thấy vui mừng vô tận.
Bây giờ Thạch yên tâm rằng mẹ chàng còn sống. Bà hỏi thăm đủ điều, chị Hiền kêu hai đứa cháu ra chào cậu. Mẹ chàng bảo:
– Sao con về mà không báo cho mẹ biết tin. Bác con vẫn mạnh?
– Vâng.
– Con đi đường có gì sợ không?
– Con thấy mấy người bị bắn ngoài đầu làng.
Chàng quay ra chị Hiền:
– Anh đâu chị?
– Anh ra đồng, cũng sắp về rồi. Em lại béo ra. Mấy năm trời lúc nào ở nhà cũng nhắc đến em. Lúc nghe tin bác và em đã về, mẹ mừng muốn đi ngay Hà Nội nhưng sợ chẳng biết đâu mà tìm. Gặp ai đi cũng nhắn xem ra sao. Ai báo tin nhà cho em vậy...
– Em cũng không biết. Chỉ nghe bác nói, và em nhất định về. Về đây thấy tình trạng này, em lo quá, ở nhà hình như không yên.
Mẹ Thạch buông chàng ra, lo lắng nhìn con. Thạch nói:
– Con vừa gặp một bà người làng, con thấy người tài xế gọi là chị Cai, chị ấy bảo con nên đi ngay, ở lại nguy hiểm. Mẹ biết bà ấy không?
– A chị Mai, quen nhà mình mà. Bây giờ chị ấy buôn hàng tấm. Mấy hồi này ở nhà dữ lắm. Đêm họ bắn về, ngày thì còn đỡ; mấy người chết như sáng qua, mẹ nghe mà run người. Nhưng mình có làm gì đâu. Con về mẹ mừng lắm, hãy ở lại mấy ngày.
Ba người đứng lại ngoài sân lâu lắm rồi mới đi vào nhà, chị Hiền lo nấu cơm, Thạch xúc động một điều gì vừa đau sót buồn rầu và vừa vui đang nhen lên trong lòng chàng. Ai ngờ được rằng chàng còn trở về...
Thạch thấy mình như được sống lại, căn nhà xa dù đã bị tàn phá hoang tàn nhưng những người thân còn đây, hơi thở, sự sống của họ như bao bọc lấy chàng.
Mẹ chàng nói đến nỗi nhớ mong, những truân chuyên gian khổ của một thời tao loạn. Thạch muốn ở lại ở lại bên mẹ, bên chị và không còn muốn đi đâu nữa.
Một đàn quạ đen bay và kêu tiếng kêu khô khan thảm đạm. Chị Hiền ngó lên, mẹ Thạch lẩm nhẩm điều gì trong miệng. Không khí tang tóc như xâm chiếm từng phân khối không khí trong cuộc sống, ngoài đường đi một đoàn công voa đang chạy lác đác mấy tiếng súng nổ bâng quơ như tiếng súng bắn chim, không khí ngây ngất chập chờn.
Chị Hiền nói:
– Lại có bố ráp ở miền dưới rồi.
Đàn quạ đen vẫn kêu từ ngoài bờ đê, đứng trên hiên nhà nhìn ra, về phía những người bị bắn, trên ngọn tre cao Thạch thấy ba con quạ đậu đó, trên đầu chúng nhiều con khác đang lượn vòng.
Mẹ Thạch nói:
– Quạ thấy hơi người chết kéo về đó, đêm qua chim lợn kêu suốt đêm, tiếng xẻ gỗ, buồi chiều dáng đỏ có mây thành... loạn còn lâu lắm. Mấy người bị bắn không biết là những ai vậy?
Thạch nói:
– Con nghe bác Cai nói trên xe là cha con ông Lý, mấy người kia là du kích, chừng như người lạ. Con còn thấy Tây ra lệnh không cho chôn. Rồi thối thì sao?
– Làm sao, thì chịu vậy chứ làm sao. Như hồi cách đây ít lâu du kích mang chôn sống ông Hộ Mẫn vậy: đào hố chôn hết người chỉ hở khỏi mặt đất cái đầu, cho người ta đi qua mà coi... ai dám làm gì người ta có tội sao không giết ngay lại hành hạ người ta như thế... làm sao hiểu được...
Thạch bần thần lo ngại:
– Vậy người dân, theo ai, ai giữ an ninh cho họ. Không pháp luật, không lương tâm...
Thạch cảm thấy rợn người nhìn chính bản thân, số phận chàng đang bị đe dọa. Thạch hỏi:
– Tại sao người ta bắt rồi giết bố con ông Lý vậy chị.
– Chẳng hiểu tại sao, trước đó bố con ông ấy đi với Tây từ lúc Tây mới về lấy đồn ở trên huyện... Nhiều người có con ra chiến khu đã khổ vì ông ấy không ít, nhưng vì quyền lợi giữa ông ấy – với ông phó lý. Ông phó lý lại chạy chọt với cha sở, thân với Tây hơn, rồi người ta thấy bố con ông lý bị bắt... Bây giờ cả hai đều chết, du kích giết một, Tây giết một...
Tiếng súng nổ chát chua ngoài cổng làng, đàn quạ bay lên kêu thảm thiết. Chị Hiền bế đứa cháu nhỏ chạy vào nhà, Thạch và bà mẹ cũng vội vàng đi theo. Chị Hiền kêu:
– Chắc họ lại vây rồi.
Chị Hiền ngồi bệt xuống nền gạch. Thạch ngồi theo xuống bên, những đe dọa trở thành thường trực và người dân quê đã có thói quen đề phòng một cách nhanh chóng những đe dọa vây đến quanh họ.
Mẹ Thạch nói:
– Có lẽ con phải đi ngay thôi, ở nhà sợ không yên cho con đâu. Ngày Tây về cũng có thể bị bắt, đêm du kích về cũng có thể bị bắt.
Bà mẹ sụt sịt khóc, ở làng quê có lẽ rồi chỉ còn toàn đàn bà trẻ con, đàn ông một phần lớn đã kéo nhau đi ra tỉnh làm ăn, đi lính hoặc theo du kích. Hiện trạng ấy Thạch đã thấy rõ: nằm ở thành phố, chiến tranh tưởng như đã lùi xa và sắp chấm dứt nhưng khi về đây Thạch mới thấy rõ chiến tranh mỗi lúc một bi thảm và khốc liệt hơn.
– Con có thể ở nhà đến mai được không?
– Hôm nay còn xe để ra không?
– Chuyến xe đưa con về vẫn chưa thấy lên, bây giờ hình như đường này chỉ còn một chiếc xe độc nhất, bác Cai lúc từ chợ về có nói với con vậy. Bác ấy về đón người em rồi đi luôn.
– Vậy sao, thế thì con có thể đi được rồi đấy.
Tiếng súng nổ rộ lên một lúc rồi im, lúc sau một đoàn lính đi ngang ngoài mặt đường, Thạch ló đầu lên khỏi mặt cửa nhìn đoàn lính, bọn người ăn mặc không đồng nhất, lẫn lộn Tây trắng, Tây đen, Ma–rốc và người Việt, ở giữa đoàn lính có một số người nhà quê bị trói, và hai con bò dắt theo đoàn lính. Mẹ Thạch hỏi:
– Bác con thế nào?
– Bác đang lo xin việc làm.
– Mấy đứa nhỏ sao. Có thêm đứa nào không?
– Có đứa sinh ở Phú Thọ, nhưng đứa thứ hai bị chết vì máy bay oanh tạc; cả nhà đều sốt rét...
– Khổ chưa! Nếu không loạn thì đâu đến nỗi thế. Thật chưa bao giờ loạn lạc, khổ sở đến thế này, xưa kia mẹ chỉ nghe đến giặc Cờ Đen, Cờ Vàng gì thôi, nhưng đâu thế này... Mẹ lo cho con là vậy...
Thạch hỏi chị Hiền:
– Ở nhà anh có được yên không chị?
– Biết thế nào là yên, nhưng phải làm để có ăn, mỗi ngày anh dậy từ sớm mang cơm theo ở ngoài đồng cho tới chiều tối mới về. Muốn đi nhưng đi đâu? Mình không có nghề trong tay ra tỉnh biết lấy gì sống, ruộng bỏ cho ai cày...
– Mình bán ruộng đi...
Mẹ ngắt ngang:
– Bán ruộng, còn mồ mả ông trên đó...Và bán bây giờ ai mua. Ruộng còn bỏ hoang đầy cả không có người cấy, trong làng chẳng ai còn tiền, ai điên mà mua ruộng bây giờ.
– Mẹ cũng không muốn đi, mẹ già còn đi đâu nữa... chỉ có con, con nên giữ thân, ra ngoài đó học hành, nếu còn thế này con cũng không nên về nữa, rồi mẹ sẽ ra chơi.
Thạch lưỡng lự không biết nên đi hay nên ở lại một thời gian. Giữa những quyến luyến lo âu cho chính mình, phần nào Thạch muốn được ở lại mấy ngày bên người mẹ, người chị và nhân thể để biết thực tình người dân đang phải sống. Chàng nói:
– Con ở lại ít ngày xem thế nào đã, đằng nào con cũng phải đi rồi. Vừa về chẳng lẽ lại đi ngay.
– Nhưng mẹ lo cho con, nếu nhỡ dại...
Trong óc người mẹ hình ảnh của cả một giai đoạn bi đát lại trở về. Xóm làng đêm hôm nào vừa mới bước đi, qua khỏi sông nhìn lại đã thấy ngọn lửa đỏ bốc cao thảm khốc những người ra đi đều dừng lại, nhìn về ứa nước mắt, ngọn lửa đang thiêu hủy những căn nhà êm ấm đầy kỷ niệm thân yêu của họ, và từ đây họ bắt đầu một cuộc phiêu lưu không biết đưa họ đến đâu, một cuộc sống bấp bênh, không cơm ăn, nhà ở, nheo nhóc chờ đợi họ. Ngọn lửa đó do những dân quân du kích, do chính những người làng đã châm, sao họ nhẫn tâm đến thế. Phải chăng họ không muốn những kẻ ra đi có cơ hội trở về nữa. Rồi những ngày lang bang trong vùng Thạch Thất, ngủ đình ngủ chùa vạ vật... cho đến khi trở về nhìn cảnh vườn hoang nhà trống, cỏ dại tan hoang. Những người chết, những càn quét, những giết chóc...
Bây giờ nhìn mặt người con trở về, với những việc mỗi ngày khiến người mẹ lo âu....