← Quay lại trang sách

Chương 2

Thạch đã quyết định ở lại. Nắng đã lên cao, không khí thoáng mát khiến Thạch thấy dễ chịu hơn. Nhưng không khí có vẻ gì đe dọa mỗi lúc, những đe dọa thường xuyên chừng như đã làm cho những khuôn mặt thân yêu chung quanh chàng hắt hiu cô quạnh, vẻ hắt hiu cô quạnh của hầu hết những con người Việt đã chịu đựng những thảm khốc liên tiếp trong bao nhiêu năm, và ngay bây giờ trong lúc gặp lại người thân tưởng đã chết đáng ra họ vui mừng bao nhiêu nhưng nào có được sự vui mừng hồn nhiên nào nữa.

Đàn quạ đen vẫn còn bay lượn như dấu hiệu của thần chết vẫn chờn vờn, và ngay bên cạnh họ không bao xa năm người, như họ, vừa bị bắn có khi vẫn còn thoi thóp thở...

Bữa cơm trưa thanh đạm, nhưng vì đói và lạ miệng nên Thạch ăn một cách ngon lành.

Giữa lúc cả nhà sắp đứng lên khỏi mâm cơm thì từ ngoài cửa có một người đàn ông đi vào, ông ta vào khoảng gần năm mươi tuổi, dáng nhỏ có vẻ gì ốm yếu bịnh hoạn, ông ta mặc quần áo nâu đã bạc, chân đi đất. Mẹ Thạch lim dim đôi mắt nhìn ra xem ai, bà nói:

– Tưởng ai lạ, vào chơi bác Thành ơi.

– Tôi nghe bác Cai nói cháu nó về nên tôi tạt qua thăm nó chút xem nó bây giờ thế nào, có khác gì không.

Bác Thành đã bước lên hiên nhà, ông ta phải chống một tay lên đầu gối như cố gắng lắm mới bước lên được. Thạch cúi chào, chị Hiền bế cháu nói với nó:

– Lạy ông đi con.

Ông Thành nhìn Thạch với vẻ hân hoan và kêu lên:

– Trời Phật ơi thằng nhỏ khá tệ, nó là người lớn rồi còn gì nữa, trông hơn bố nó khi xa rồi. Sao, bác cháu thế nào?

– Thưa ông, bác cháu vẫn thường.

– Thế là mừng rồi.

– Vâng.

– Còn cháu? Đã kiếm ra tiền chưa?

– Thưa ông cháu còn đi học, đã làm gì ra tiền...

– Trời ơi! Thế thì nhất rồi, lớn thế này mà còn đi học... nhưng mà phải học chứ, dốt thì làm ăn gì được...

Ông Thành đã ngồi xuống cỗ ghế ngựa. Ông là người bác họ của Thạch, nhưng chính Thạch cũng không biết một mảy may vì chàng đã xa quê quá lâu.

Ông Thành hiện mang bệnh, một bệnh mà ông nghĩ không thể nào chạy chữa được. Thời gian đã hơn hai năm, khi vừa ở hậu phương trở về tới đất tề, một hôm chính là ngày giỗ ông cụ, giữa khi ông đang cúng thì Tây nó về càn quét, ông Thành sợ bỏ chạy, ông vẫn còn mặc áo dài the quần trắng lại thêm cái nón trên đầu, ông vẫn yếu không chạy được nhanh nên cứ lẹt đẹt mãi và Tây nó thấy, lại gặp hai thằng Tây đen, nó tưởng ông Thành là con gái nên càng đuổi riết, khi đã bắt kịp nó thấy là đàn ông thì thất vọng, nhưng chừng như nó không kìm hãm được thèm khát điên cuồng của xác thịt, một thằng đã đẩy sấp ông Thành xuống mà hiếp. Cái cảnh khủng khiếp đó mỗi lúc ông Thành nhớ tới lại rùng mình cái cảm giác đau đớn hôm nào lại như đang hành hạ thân thể ông.

Một đứa hiếp trước rồi đứa thứ hai cũng làm theo, ông Thành không chịu đựng nổi mà chết giấc cho tới khi có người thấy khiêng ông về nhà, thấy ông máu me đầm đìa tưởng đâu ông bị bắn, có ngờ đâu.

Cảnh hiếp chóc dã man vẫn thường xảy ra, chị kia đã có mang gần đến ngày sinh con bị chúng hiếp cho tới chết. Ông Thành từ ngày gặp nạn sinh ra mang bệnh, bệnh làm ông gầy mòn đi.

Mẹ Thạch ngồi nói cho ông Thành nghe những lo âu của bà khi Thạch muốn ở lại nhà một ít ngày, Ông Thành tự lự, miệng lẩm bẩm:

– Ở nhà... ở nhà... nhưng...

Mẹ Thạch:

– Bao nhiêu lâu mẹ con mới được trông thấy mặt nhau. Tôi muốn nó ở nhà lấy ít bữa cho đỡ nhớ, nhưng tôi sợ... người ta có để cho nó được yên không, lỡ có điều gì thật khổ...Bác có thấy khổ tâm không? Mà biết làm sao....

– Nó tội gì... Cứ ở lại mấy ngày. Du kích bắt nó à; còn bố nó đó, nhà mình có làm gì đâu mà sợ? Còn bọn Tây thì lại càng vô lý nữa, nó ở tỉnh về chứ đâu phải ở chiến khu về?

– Thì sự thực là vậy, nhưng bác thấy đó, thiếu gì những chuyện vô lý bằng vạn mà vẫn xảy ra hàng ngày.

Ông Thành quay sang phía Thạch:

– Ý cháu thế nào?

Thạch lưỡng lự một chút rồi trả lời:

– Cháu định ở lại.

Ông Thành gật gật đầu:

– Kể ra thì cũng nguy hiểm thực.

Chị Hiền xen vào:

– Em cứ ở lại ít ra cũng đến mai hãy đi, gặp anh đã, chứ về gì anh em chưa được gặp nhau đã đi là thế nào. Tối anh mới về.

Nghe bàn ra bàn vào mãi làm cho Thạch lo âu, chàng chẳng biết phải quyết định ra sao nữa.

Cũng từ đó chàng nhận thấy bao nhiêu đau khổ, bao nhiêu đe dọa mà người dân quê đang phải chịu đựng từng mỗi giờ phút. Ở đây không còn có một pháp luật nào nữa ngoài pháp luật của những sức mạnh dã man chống đối hẳn nhau, người dân là một đám tù nhân của những đe dọa đó, họ như một thứ, bạ ai giết, ai đánh cũng được và họ chỉ còn biết mỗi một cách là chịu đựng cho đến mức không chịu đựng được nữa thì chết đi như một con sâu, cái kiến.

Chàng thấy rõ chàng đang giáp mặt với những sự thực mà chàng không làm sao hiểu được trong đời sống thị thành, nơi mà dù sao tình thế đã ổn định một phần, nhưng đâu phải tất cả mọi nơi đều là thị thành.

Với Việt Minh không thể chịu đựng được, về vùng được mang danh là Quốc Gia cũng không thể sống yên, như vậy họ còn biết đi đâu cho được yên ngoài cách chết đi cho xong kiếp.

Thạch nói:

– Vừa xong con còn nghe thấy người tài xế nói có lẽ không dám chạy xe đường này nữa vì quá nguy hiểm, một chiếc mới bị mìn đây.

Ông Thành nói:

– Đúng rồi, chết tám mạng tất cả, may không có người nào ở làng mình, chiếc xe cháy và nát mất xác... Nghĩ mà rợn tóc gáy. Chừng như bác Cai bác ấy cũng định bỏ không dám đi buôn nữa, bác ấy vừa nói với tôi là đón thằng em ra ở ngoài tỉnh luôn.

Mẹ Thạch nói:

– Để tôi chạy qua bên đó chút xem thế nào.

Ông Thành đứng lên theo:

– Thôi tôi cũng phải về đây, thấy cháu nó lớn thế này là mừng rồi.

Ông ôm lấy vai Thạch một cách thân mật:

– Thôi cố mà học cho thành người còn cho mẹ cháu và cả bác nữa được nhờ. Có lẽ cháu cũng không nên ở nhà, cháu thử nghĩ lại xem.

Ông Thành cùng với mẹ Thạch bước ra khỏi nhà, bóng nắng nghiêng ngoài sân, chị Hiền đã đặt đứa cháu lên võng và đang cất tiếng ru. Thạch nằm ngả người xuống chiếc ghế ngựa. Không khí im lặng một vẻ gì khác lạ, chừng như cảnh vật chìm hẳn đi trong cơn nắng, không một chút gió nhẹ nhưng vẫn không oi bức.

Thạch hồi tưởng lại những ngày cũ, những ngày thanh bình của quá khứ mỗi lần trở về đây còn cha chàng, các bác, các chú vui vẻ trong những ngày giỗ chạp, tết nhất. Trên bàn thờ này khói hương nghi ngút, ánh nến lung linh những trang nghiêm thành kính của những người sống với những người chết, cũng ở đó chàng biết thế nào là một đời sống gia đình, những thân yêu đùm bọc thiêng liêng.

Nhưng những ngày đó đã trôi qua không còn nữa, chiến tranh đã dấy lên cùng với ngọn lửa, cùng với tiếng súng, nhà cửa tan hoang, bây giờ chàng trở về đây không còn người cha thân yêu, không còn bà nội, không còn dãy nhà ngang, không còn những nong tầm những quầy thóc cao ngất, chỉ còn cảnh tan hoang của một khu nhà cháy dở, khu vườn hoang cỏ dại, người mẹ già còm cõi, người chị lo âu với chồng và đứa cháu đầu lòng, cùng không khí chết chóc, đe dọa...

Tại sao chàng không lớn hơn, đi làm ăn kiếm ra tiền để Thạch có thể mang mẹ và chị ra khỏi nơi này. Tại sao? Chàng nghĩ tới những ngày chàng vắng mặt ở đây, những ngày sẽ tới ở nơi thành tỉnh êm ấm, yên ổn, chàng sẽ chẳng có được sự yên tâm cần thiết cho sự học. Thạch thiếp đi mệt mỏi.

Ở Đoài ai cũng biết gia đình họ Đặng. Người ông của Thạch xuất thân là một tá điền cho gia đình nhà họ Nguyễn Xuân, giàu có tiếng đã nhiều đời. Từ một tá điền nghèo khó nhưng có chí, ông ta đã dành dụm, làm ăn mua dần từng sào ruộng xấu một, trong lúc làm tá điền, ông làm thêm những sào ruộng có được đó, và cứ thế, dần dần, ông giàu, ông bỏ làm tá điền trở về cưới vợ, làm ăn.

Khi cha Thạch ra đời thì gia đình đã khá, ông thấu hiểu cảnh cày bừa nặng nhọc, vất vả nên bắt buộc hai người con trai đầu phải đi học, bác của Thạch, và cha Thạch nhờ vậy được ăn học, nhưng còn người con thứ ba lúc sinh ra đã ngù ngờ sau trở thành điên rồi một hôm nhào đầu xuống giếng làng mà chết.

Đến đời cha Thạch, đi học rồi trở về làng làm hương sự, người bác học giỏi hơn, ghét cảnh nhà quê nên ở luôn tỉnh, bao nhiêu ruộng vườn giao cho cha Thạch trông nom cả. Ông giáo là một người yêu cảnh ruộng vườn nên dù khá cũng không có ý muốn bỏ ruộng đất mà đi làm ăn tỉnh.

Biến cố năm 1930 đã phát lộ ra việc ông giáo hoạt động đảng kín Việt Nam Quốc dân đảng, ông giáo bị lùng bắt phải trốn tránh. Cho đến khi Việt Minh cướp chính quyền thì ông giáo làm chủ tịch Liên Việt hàng huyện, đồng thời lúc đó người con cả của ông, anh của Thạch, biệt tích, theo những tin tức để lại chừng như người này bỏ sang Tàu theo một đảng bí mật nào đó cho đến sau này vẫn không có tin tức gì xác đáng.

Ông giáo sau một lần đi họp hội nghị rồi cũng mất tích luôn... chiến tranh lan tràn, gia đình họ Đặng sa sút, nhưng những dư vang ngày cũ vẫn làm cho cả hàng tổng kính trọng, nhất nữa ông giáo còn hai đứa con, một người là Thạch, người em dưới thì trong lúc tản cư, đã theo bộ đội để đi học một trường võ bị của Việt Minh, điều này bà mẹ biết, nhưng với dân làng có nhắc đến thì bà đều nói: chừng như nó đã chết.

Đêm tối bao quanh, một tấm màn đen dày đặc, vài tiếng muỗi vo ve kêu bên tai. Anh Hiền nói:

– Có lẽ du kích mới khủng bố liên tiếp mấy ngày sợ nên không dám về, mọi đêm giờ này họ dã sục sạo rồi.

Thạch trở mình hỏi:

– Tức là họ không ở làng.

– Thường thì họ ở bên kia sông, nhưng cũng có người ở làng, họ có những hầm bí mật, mới đây có mấy hầm bị Tây nó kiếm ra, nhưng chắc chưa hết, họ buộc phải có hần, nếu không bị vây bất ngờ thì làm sao chạy thoát, nhưng em cũng không nên ở nhà, phiền lắm. Một cổ mấy tròng, anh cũng chỉ muốn bỏ đi...

Tiếng mẹ Thạch từ trong buồng vọng ra:

– Thôi các con ngủ đi, có tiếng chó cắn rồi đó.

Hiền và Thạch cùng lắng nghe, Hiền nói:

– Nếu họ về vào đây em phải trốn đi, chỗ lúc nãy anh chỉ đó.

– Nhỡ họ thấy.

– Nếu họ biết em về, chắc chắn là có người nói rồi, họ sẽ lại thăm, hôm trước đây, con bà Nhâm cũng vậy, họ đến và mời đi luôn.

– Biết thế em đi hồi chiều cho xong.

– Không lo, thế nào họ cũng vào đây, anh sẽ bảo em đi hồi chiều rồi.

Tiếng chó sủa đã gần, và chừng như có tiếng động. Hiền bấm tay Thạch mà không nói nữa, Thạch xuống giường men ra cửa hiên, khom người theo bờ tường đổ ra bên cạnh chuồng tro, nơi đó bên một bức tường còn có một đống gạch được xếp cao, rất chông chênh, nhưng là một chỗ núp vô tình kín đáo, Thạch ngồi xuống, ba bề gạch kín, một bề là vại nước nhìn vào bếp với hai bờ tường đất ngắn phía trong, từ đó chàng có thể quan sát được cả sân và căn nhà. Thạch thấy hồi hộp vô cùng. Tim chàng đập mạnh với tiếng chó cắn và tiếng bước chân tới gần.

Hai bóng đen từ ngoài bờ ao men theo hàng cây thấp đi ngang qua sân rồi chui vào căn bếp. Thạch nhô đầu lên khỏi bờ gạch. Tim chàng đập mạnh. Như vậy là du kích đã biết chàng về, nếu gặp chàng chắc họ sẽ bắt mang đi, tiếng chó vang lên từng đợt và vắng xa. Hai bóng đen vẫn còn trong nhà bếp. Họ đang làm gì trong đó, một lúc bỗng hai bóng đen trở ra sân, họ xầm xì với nhau, dù rất cố gắng cũng không nghe rõ. Khi tới hiên nhà bóng đen thấy trở lại đường cũ đi mất, bóng đen cao, nhỏ thì nhảy qua bờ tường, không khí im lặng trở lại.

Thạch nghĩ chắc họ đã đi, chàng đứng lên định trở vào nhà, bỗng lại nghe tiếng động, tiếng cười rất nhỏ. Từ phía bên kia tường tiếng nói vọng sang của đàn ông và của đàn bà nữa.

Tiếng đàn ông:

– Có qua được không?

– Được mà.

– Hay để anh cõng.

– Thôi đi, anh trèo trước xem.

Bóng đèn cao và gầy lúc trước đã qua tường.

– Qua đi.

Một bóng đen khó khăn nhô lên rồi trườn qua, bóng đàn ông bên này giơ tay đỡ bóng đen đàn bà và chạy vào nhà bếp trở lại. Bóng đàn bà co người lại ôm lấy cổ gã đàn ông cười cung cúc, tiếng nói trong đó:

– Em tưởng đêm nay anh không về.

– Sao vậy?

– Mấy người bị bắn chết đó, anh không sợ sao, có anh Hoàng, anh Chính, bạn anh...

– Ăn thua gì, bọn nó giết hộ mình.

– Sao?

– Thì cha con lão Lý, nó hại bộ đội biết mấy. Còn mấy thằng kia nó sợ chết, giặc nó mới đánh đã khai lung tung khiến bao nhiêu cơ sở bị lộ, mấy hầm bị đào, xuýt nữa anh cũng bỏ mạng, chết đáng, nếu Tây mà nó có thả, các anh cũng xử tử rồi...

– Tội nghiệp mấy cái xác, các anh có chôn họ không?

– Ờ hơi đâu, mặc cho thối, chết là hết, ăn thua gì cái đống thịt đó... Thôi nói gì chuyện đó...

Im lặng, tiếng quần áo sột soạt, tiếng con gái cười:

– Nhột quá anh ơi...

Thạch nhô đầu lên, trong bóng tối mờ chàng nhìn rõ hai thân thể trắng lộ ra đang ôm lấy nhau quấn quít, vật đi, vật lại trong nền bếp... Thạch nghĩ đúng tên đàn ông là một du kích nhưng còn người con gái là ai?

Tiếng nói lại bắt đầu, Thạch nhìn thấy hai thân xác đang nằm nghiêng ôm lấy nhau, một bàn tay trên một thân thể xoa lên xoa xuống từ trên cổ xuống mãi đôi mông tròn và trắng nhô cao.

– Anh biết không...

– Làm sao?

– Hình như có đứa nó biết chuyện anh và em...

Hai thân thể đã rời nhau và nằm riêng ngửa mặt lên trời, dáng điệu thỏa mãn một cách mệt mỏi.

Tiếng con gái xúc động:

– Sao anh không mang em đi cho xong.

– Đi, đi đâu. Anh sống lén lút như thế này còn được.

– Mang em ra hẳn hậu phương...

– Nhưng rồi em ở ngoài đó, đêm anh về đây ở với người khác em chịu không?

– Anh đểu...

– Ở thế này sợ nhưng thích...

Bóng đàn ông trườn ra nằm úp mặt lên ngực bóng người con gái:

– Em sợ thằng chồng nó về, nó có thể giết em.

– Bây giờ nó ở đâu?

– Nó đóng ở ngoài Quần Ngựa, nhưng ba–ti–giăng nó đi càn quét luôn luôn, thằng bất nhân ghê... Anh biết không, trước nó về nó mang cho đủ thứ, cả quần áo, mâm đồng nó ăn cướp của người ta, bọn nó đi càn quét không bỏ bất cứ cái gì có thể lấy được... Lương chính thức của họ chỉ có mấy trăm bạc... nhưng nhờ càn quét, vơ vét, trộm cắp bán ra giàu, nó nói với em sẽ tậu ruộng và làm lại nhà cửa. Anh thấy chưa. Anh muốn em có hai thằng chồng một lúc sao?

– Thôi em đừng nói?

– Anh ghen sao?

– Ghen.

– Anh không nghĩ khi nó ngủ với em, thằng cha như súc vật, nó hành hạ vợ đủ trò, nó mà về, hoặc kêu em ra ngoài đó... trời anh không thể tưởng được... Anh khéo léo... Em yêu anh là vậy... Nó ghê lắm.

– Anh phải giết nó.

– Chắc không?

– Em ngờ anh.

– Vì em nghĩ anh chỉ lợi dụng em chốc lát.

Đứa con gái ngồi dậy mặc quần áo. Người đàn ông vẫn nằm im, lúc lâu tiếng đứa con gái khóc:

– Nếu anh muốn em là vợ anh, anh phải mang em đi, nếu không...

– Nếu không làm sao?

Người đàn ông nhỏm dậy:

– Em ra tỉnh với thằng chồng cho xong một bề. Sống như thế này mãi em khổ tâm lắm.

– Em định phản bội anh sao?

Tiếng chó cắn từ ngoài ngõ bỗng vang lên, người đàn ông vội mặc quần áo rồi cùng nhau khuất vào phía trong. Thạch thụt đầu xuống nghe ngóng. Tiếng người không rõ ngoài mé bờ ao rồi hai bóng đen xuất hiện. Hai bóng đen vào sân và lên nhà.

Người đàn ông và đứa con gái vẫn im lặng trong bếp. Trên nhà tiếng cửa mở, lúc sau có ánh sáng. Thạch hồi hộp, họ vào nhà làm gì? Tiếng đứa cháu khóc. Và sau đó tiếng nói đối đáp không rõ ràng, khá lâu hai bóng đen trở ra không theo lối cũ mà ra chỗ tường gạch, một người bỏ tay lên miệng huýt sáo rồi cả hai nhảy qua bờ tường.

Bỗng có tiếng súng nổ phía đầu làng, tắc bọp… hai tiếng súng nhỏ thưa cách quăng nhau rồi im. Tiếng nói từ trong bếp:

– Có lẽ Tây nó về.

– Bọn nó mà dám về đêm...

– Chắc bọn nó tính bắn chết mấy người, đêm về thế nào cũng có người lấy xác, nên chúng nó phục kích.

– Có nguy không.

– Anh chết cũng khó, mình phải về thôi, tình hình hồi này gay có lẽ đến rồi các anh không hoạt động được...

– Anh không về nữa...

– Sợ thế.

– Thật sao.

– Lo thế nhưng chưa đâu, bọn Tây nó mở rộng rất nhiều vùng tề, và đóng thêm nhiều đồn bót nữa. Bọn hương chức cũ nó trở giáo theo giặc hết trọi. Bọn bán nước ức quá. Tên cha sở ở huyện cũ đã bắt đầu dùng tới mật thám rồi.

– Làm sao?

– Tên cha sở trước kia độc quyền nấu rượu lậu đó, bây giờ đang làm tay sai đắc lực cho Tây. Vì trước đó nó được bầu làm Phó Chủ tịch Mặt trận Liên Việt, nay nó làm kẻ nhận mặt những người nó đã gặp, vô phúc cho mấy tên phản động xưa kia vì sợ buộc phải vào mặt trận, nay trở cờ về lại bị Tây bắt. Đáng kiếp... Có những đứa trốn về đến dọc đường các anh đã bắn chết rồi...

– Anh đi chưa?

– Để nghe xem thế nào, sao không thấy súng nổ nữa, hay là...

– Sao?

– Tối nay có vụ hỏi tội mụ Cai ở xóm dưới.

– Bác Cai buôn vải ấy à.

– Còn ai nữa, vì theo tin thì mụ ta mượn cớ đi buôn chứ thực tình là làm mật thám, dò đường, mụ ta có nhiều tiền mà lại không chịu ủng hộ du kích, nhờ mua thuốc Tây cho còn tìm đủ mọi cách ăn lời, bắt chẹt... cho nên đêm nay có vụ xử đó, có khi hai phát súng vừa rồi đã kết liễu đời mụ ta...

– Trời ơi, bác Cai mà bị giết, có lẽ oan rồi anh ơi.

– Em biết gì.

– Sao không. Bác ấy buôn bán tần tảo, hà tiện bao lâu nay mới khá ra một chút thế mà các anh đã bảo người ta làm mật thám mà giết. Em không thể ngờ được.

Hai người đã đi ra, Thạch im lặng theo rõi, chàng nghĩ đến số phận người đàn bà mà buổi sáng chàng đã gặp...

Bỗng đạn đại bác ở đâu câu về chát chúa, sáng lên ở ngoài đầu làng. Anh Hiền mở cửa nhà chạy ra và kêu nhỏ tên Thạch, mọi người đều bỏ nhà ra ngoài sân và núp ngay bên phía tường gạch, chừng như việc đề phòng đã có từ nhiều lần như thế.

Anh Hiền đã ra đến chỗ Thạch:

– Thạch.

– Em đây... Bọn nó lúc rồi vào nhà có chuyện gì?

– Nó hỏi em, nó nói nghe tin em về nên đến hỏi thăm.

– Hỏi thăm. Tây nó bắn vào làng sao?

– Có lẽ nó được tin báo nên bắn về dọa, và như thế báo hiệu nó đã vây phía bãi sông rồi, sáng nó sẽ lục soát. Thường thường nó vẫn làm như thế, nó bắn dọa nhưng nhiều khi đạn cũng rơi vào làng, nên cứ nghe súng nổ người ta phải bỏ nhà ra ngoài đỡ chết hơn...

Súng vẫn nổ liên tiếp, Thạch giật mình ngó lên, một làn đạn sáng lóa lướt qua trên đầu và nổ về phía cuối làng, liền sau một đám cháy bốc lên. Anh Hiền kêu:

– Chết rồi, nó bắn vào nhà người ta rồi, cháy nữa, đêm mà cháy nguy lắm, đạn nổ người ta đâu dám ra khỏi nhà mà đi cứu, vô phúc mà lửa lan ra thì chết cả làng.

Ngọn lửa vẫn hực lên.

Thạch bồn chồn, chỉ mới trải qua một thời gian rất ngắn từ buổi sáng mà bao nhiêu biến cố đến cho dân làng và ngay cả với chính chàng. Sống ở tỉnh dù cảm thấy cảnh chiến tranh đe dọa, cảnh chiến tranh ở cùng khắp mọi nơi, nhưng chàng không sao nhìn thấy, cảm được khi chiến tranh gần kề bên chính cuộc sống nhỏ bé của chàng, cảnh chiến tranh thúc bách lúc nào tưởng cũng có thể cuốn chàng theo, như một dòng cuồng lưu cuốn theo rác rưởi hay bèo bọt nơi ven bờ nước nổi trội.

Tiếng đại bác vẫn nổ, vẫn rơi xuống và trong nỗi kinh hoàng, một trái nào rơi xuống sân nhà này chẳng hạn, chàng rùng mình khi thót nghĩ đến điều này, những viên đạn vô tình như định mệnh kia, đâu biết nó lựa chọn để rơi xuống chỗ nào. Tiếng anh Hiền:

– Em về đây mới hiểu dân chúng khổ ra sao. Súng nổ đã năm năm và đe dọa chưa biết đến bao giờ... Tình trạng mỗi lúc một tăng phần bi thảm. Đó là một khổ tâm lớn...

– Hồi đó thầy đã chết ra sao.

– Nhắc lại làm gì cho buồn.

Thạch im lặng. Hiền ngồi bên. Tiếng súng đã thưa hơn, tiếng mẹ Thạch cầu kinh.

– Anh nghĩ thầy đã bị Việt Minh giết thật sao.

– Bởi vì không họ còn ai vào đấy. Chính lúc mang khăn gói ra đi chừng như thầy đã cảm thấy rằng thầy sẽ chết, thầy đã nói với mẹ đừng mong, lo giữ gìn nuôi con. Mắt thầy đỏ hoe nhìn mọi người... nhưng điều anh không ngờ là họ đã giết thầy dã man như thế.

– Chính trị tự nó đã dã man.

– Nhiều người đã chết, nhiều người sẽ chết nữa, đánh Tây để rồi Tây lại trở lại, và chỉ riêng mình chết. Em biết thầy hoạt động cho V.N.Q.D.Đ. Chính cuộc đảo chính lúc đó ở huyện do Việt Quốc làm, bởi vì lúc đó phần lớn các nhà giáo đều là đảng viên, với tư cách đó họ đã nắm được ưu thế và nhất là họ có tổ chức thật, nhưng họ thiếu hẳn một chỉ đạo trung ương, họ thiếu hẳn một căn bản về chính trị, làm đảo chính nhưng không duy trì được guồng máy cai trị, tinh thần cá nhân lại nặng, thế là các cán bộ Việt Minh dần dần nắm hết các cơ sở, những người yêu nước ngay thật đã thiếu hẳn xảo thuật, thiếu hẳn sự tráo trở cần thiết, họ bị dồn dần vào thế cô lập. Đến lúc biết thì đã muộn. Thầy về nhà nằm thở dài. Đến lúc Mặt trận Việt Minh ra đời mà nhiều người vẫn tưởng Việt Minh yêu nước. Riêng thầy, thầy biết, biết nhưng đã muộn. Nghe người sống trở về, trong khi dự hội nghị thầy đã phanh phui ra tất cả mọi sự thật chung quanh những giấu giếm lừa lọc của Việt Minh, nhưng sức thầy cũng có thế, và tất nhiên họ phải giết thầy, công khai thì không thể được, điều ấy đã hẳn, trên đường trở về sau hội nghị, ngược dòng sông, về tới bãi họ đã hạ thủ. Khi nhận ra được xác thì thầy đã bị giết có đến mấy ngày... Chính Việt Minh giết nhưng Việt Minh lại lên án kẻ giết, lại tổ chức đám tang một cách linh đình để che giấu bộ mặt thật với dân chúng, và dân chúng tất nhiên không ai hiểu được hoặc chỉ hiểu một cách mơ hồ và im lặng, đó là sự thật không thể chối cãi. Trên một xác chết khô, con mã tấu ghim vào ngực màu đen trên bãi cát, và khuôn mặt xám như chì. Đó, họ đã giết thầy như thế, và họ lớn tiếng ca tụng thầy, lên án bọn Việt gian, bọn phản quốc, bọn đê tiện... thật không thể tưởng được.

Hiền dừng lại. Súng đã ngừng nổ một lúc, đám cháy chỉ còn một ít khói, chắc đã có người chết trong căn nhà đó.

– Chính mẹ cũng không thể nghĩ rằng thầy đã bị giết như thế. Một mình anh biết và anh ngậm miệng, bởi vì nếu anh không ngậm miệng anh sẽ chết theo thầy. Khi rút mũi mã tấu, anh cầm lên đưa ra trước mặt tên chủ tịch xã và hỏi hắn: mũi mã tấu này sẽ giết ai. Hắn lặng đi, sau khi chôn thầy xong hắn tiến lại nhà đưa cho mẹ một số tiền nói là để giúp đỡ nhưng đó chỉ là cách để làm cho gia đình mình im.

Hắn nói với anh: mong anh hiểu và thông cảm, mong anh đừng bận tâm, nhưng tất nhiên cái đó còn tùy anh... chúng tôi cũng không biết làm sao cho được... Đằng nào cụ nhà cũng đã mất rồi... Trong câu nói hắn muốn có một chút đe dọa cho mình hiểu Sau này, thắng Trước du kích đã nói rõ lại, chính tên chủ tịch đã ra lệnh hạ sát thầy sau khi nhận được chỉ thị của huyện. Khi ra lệnh các du kích đều không dám hành sự, phần nể, một số người trong đó là học trò thầy, khiến cho tên chủ tịch phải chính mình cầm mã tấu đâm và chửi bới om sòm. Thầy không kháng cự gì cả. Thầy chỉ bảo: Chúng mày đểu lắm, chúng mày sẽ chết như tao. Và đúng như thầy đã nói, tên chủ tịch đã bị chính đồng bọn bắn chết chỉ vì tranh nhau gái... Anh tin trời có mắt, ai làm ác phải chịu ác.

Sương xuống lạnh ướt trên mái tóc, Thạch tưởng như mình có thể khóc được nhưng chàng không khóc, hình ảnh mơ hồ của người cha hiện ra trong óc chàng, một hình ảnh rất mơ hồ.