Chương 1 - 2 + 3 Lễ cưới
Những ngày tháng tôi ngồi cạnh bờ ao, với hơi thở tràn đầy sức trẻ, Phùng Ngọc Thanh trong thôn đi qua đi lại đã từng đem đến cho tôi mơ ước khôn nguôi. Cô gái trẻ thường xuyên xách thùng gỗ đi đến, khi đến cạnh sân giếng, cô tỏ ra hết sức thận trọng. Sự thận trọng của cô khiến tôi đâm lo. Tôi lo rêu xanh bên giếng làm cô trượt chân ngã. Khi cô cúi xuống thả gầu vào trong giếng, mớ tóc đuôi sam ở sau lưng đã rơi sang trước ngực rủ xuống. Tôi nhìn thấy nó lắc la lắc lư đẹp vô cùng.
Vào một mùa hè, hay nói một cách khác là năm cuối cùng Phùng Ngọc Thanh ở Cửa Nam. Một buổi trưa, khi nhìn thấy Phùng Ngọc Thanh đi đến, tôi đột nhiên có cảm giác khác thường. Lúc đó Phùng Ngọc Thanh mặc chiếc áo sơ mi vải hoa lấm tấm. Tôi nhìn thấy hai vú cô nhảy nhót trong vải áo. Cảnh tượng này khiến da đầu tôi rần rật tê tê. Mấy hôm sau đi học qua cổng nhà Phùng Ngọc Thanh, cô gái béo tốt đẫy đà đang đứng ở cổng, đón nắng ban mai chải đầu. Cổ cô nghiêng về bên trái. ánh nắng ban mai chảy trên cổ trắng ngần, chảy xuống theo đường cong thân hình xinh đẹp của cô. Hai cánh tay cô dơ cao. Lông nách cô màu nhạt hiện rõ trong gió sớm. Hai hình ảnh này thay nhau xuất hiện. Từ đó về sau, khi lại trông thấy Phùng Ngọc Thanh, ánh mắt tôi đâm ra rụt rè. Tình cảm của tôi đối với Phùng Ngọc Thanh đã trở nên phức tạp. Ham muốn đầu tiên xuất phát từ tâm lý, tôi đã nhằm vào cô.
Sau đó ít lâu, một cử chỉ của anh Tôn Quang Bình trong đêm đã khiến tôi ngạc nhiên. Chàng trai mười lăm tuổi rõ ràng đã phát hiện sớm hơn tôi sự cám giỗ toả ra từ thân thẻ Phùng Ngọc Thanh. Đêm trăng sáng đó, khi Tôn Quang Bình gánh nước từ giếng về nhà, gặp Phùng Ngọc Thanh giữa đường. Trong giây lát hai người đi qua sát vai nhau, Tôn Quang Bình đột nhiên thò tay vào ngực Phùng Ngọc Thanh, rồi rụt ngay lại. Tôn Quang Bình bước vội về nhà. Phùng Ngọc Thanh ngỡ ngàng trước cử chỉ của anh. Cô đứng sững tại chỗ, mãi cho đến lúc trông thấy tôi, cô mới trở lại trạng thái bình thường, đi ra giếng gánh nước. Tôi để ý khi múc nước, cô luôn luôn hất mớ tóc đuôi sam trước ngực về phía sau.
Trong mấy ngày đầu, tôi luôn luôn cảm thấy Phùng Ngọc Thanh sẽ tìm đến nhà. Tối thiểu bố mẹ cô cũng sẽ sang. Mấy ngày đó Tôn Quang Bình thường nhìn ra cổng với ánh mắt hốt hoảng không yên. Việc sợ hãi luôn luôn không sảy ra, anh mới dần dần trở lại trạng thái bình thường. Một lần tôi nhìn thấy Tôn Quang Bình và Phùng Ngọc Thanh gặp nhau. Tôn Quang Bình nở nụ cười lấy lòng. Phùng Ngọc Thanh hằm hằm nét mặt, bước thật nhanh.
Tôn Quang Minh em trai tôi cũng để ý đến sự cám giỗ của Phùng Ngọc Thanh. Cậu bé mười tuổi còn hết sức lạ lùng, chưa hiểu tí gì về sinh lý, nhìn thấy Phùng Ngọc Thanh đi đến, đã dám nói bô bô:
Vú to!
Cậu em tôi bẩn thỉu, lúc ấy ngồi bệt trên đất, tay đang nghịch một hòn gạch vỡ buồn tẻ. Khi cậu ta cười nhăn nhở với Phùng Ngọc Thanh, nước dãi ngu xuẩn đang chảy ra mép.
Sắc mặt Phùng Ngọc Thanh đỏ ửng, cúi đầu đi về nhà. Mồm cô hơi xếch, rõ ràng cô đang cố kìm nụ cười của mình.
Chính mùa thu năm ấy, số phận của Phùng Ngọc Thanh đã thay đổi hoàn toàn. Tôi nhớ rất rõ, trưa hôm ấy tan học về,đi qua cầu gỗ, tôi đã nhìn thấy Phùng Ngọc Thanh hoàn toàn khác hẳn ngày thường. Cô ôm chặt eo Vương Việt Tiến giữa đám đông vây xem. Cảnh tượng này là một đòn choáng váng đối với tôi lúc đó. Cô gái đại diện cho toàn bộ mơ ước của tôi. Với thần hồn mù mịt, cô đang nhìn những người chung quanh.Trong mắt cô chan chứa nỗi buồn và dáng vẻ van xin. Mà ánh mắt của những người xem cô lại thiếu sự đồng tình tương xứng, nhiều người trong họ tỏ ra hiếu kỳ. Bị ôm chặt, Vương Việt Tiến cười hì hì, nói với những người xung quanh:
- Các bạn xem, cô ta bỉ ổi biết chừng nào.
Tiếng cười của mọi người không hề ảnh hưởng đến cô.Vẻ mặt của cô chỉ càng thêm nghiêm túc và cố chấp. Có lúc cô nhắm mắt.Trong giấy phút Phùng Ngọc Thanh nhắm mắt, lòng tôi ngổn ngang trăm mối tơ vò. Thứ cô đang ôm chặt đâu có thuộc về cô. Sớm muộn gì cái thân thể ấy sẽ bỏ đi. Bây giờ tôi nhớ lại chuyện cũ, hình như nhìn thấy thứ cô ôm không phải con người, mà chỉ là không khí. Thà mất danh dự, chịu xấu hổ, Phùng Ngọc Thanh đã đi ôm một thứ trống rỗng.
Vương Việt Tiến mềm nặn rắn buông, lúc hắn chửi, khi hắn cười, đều không làm cho Phùng Ngọc Thanh buông tay. Ra vẻ bất lực, hắn nói:
Sao lại có hạng đàn bà như thế!
Trước sự tiếp tục nhục mạ của Vương Ngọc Tiến, từ đầu chí cuối, Phùng Ngọc Thanh vẫn không tranh cãi. Có lẽ thấy không thể tranh thủ được sự đồng tình của những người bên cạnh, ánh mắt cô quay ra nhìn dòng sông đang chảy.
Đù mẹ mày, rút cuộc định làm gì ông hả?
Vương Việt Tiến quát một câu oang oang, hằm hằm lôi cô, bóp hai tay cô vào nhau. Tôi nhìn thấy Phùng Ngọc Thanh quay mặt đi nghiến răng nghiến lợi.
Sau khi cố gắng thất bại, Vương Việt Tiến bắt đầu hạ giọng. Hắn hỏi:
Nói đi, cô đòi tôi làm gỉ?
Lúc này Phùng Ngọc Thanh mới khẽ nói:
Anh dẫn tôi đi bệnh viện kiểm tra.
Khi nói câu này, Phùng Ngọc Thanh không mảy may xấu hổ. Giọng cô hết sức bình tĩnh. Hình như sau khi tìm ra mục tiêu, cô bắt đầu bình chân như vại. Lúc này cô liếc nhìn tôi. Tôi cảm thấy ánh mắt của cô và thân thể mình cùng run rẩy.
Lúc này Vương Việt Tiến nói:
Thì cô hãy buông tay ra đã nào, nếu không tôi đưa cô đi sao được.
Do dự một lát, Phùng Ngọc Thanh buông tay. Được giải thoát, Vương Việt Tiến co cẳng chạy. Vừa chạy hắn vừa quay lại bảo:
Cần đi cô tự đi.
Phùng Ngọc Thanh hơi chau mày nhìn Vương Việt Tiến đang bỏ chạy, sau đó lại nhìn người đứng xem. Cô đã nhìn thấy tôi lần thư hai. Cô không đuổi theo Vương Việt Tiến, mà đi một mình đến bệnh viện trong thành phố. Trong thôn có mấy đứa trẻ tan học không về nhà, cứ đi theo cô đến bệnh viện. Tôi đứng trên cầu nhìn cô đi xa. Khi đi Phùng Ngọc Thanh dỡ mớ tóc đuôi sam vừa giờ bị rối. Tôi nhìn thấy cô lấy ngón tay chải mái tóc đen nhánh dài bẫm gót, rồi vừa đi vừa bện lại.
Cô gái thường ngày hay thẹn thùng xấu hổ, lúc này tỏ ra hết sức bình tĩnh. Nỗi lo trong lòng cô chỉ thoáng lộ ra qua sắc mặt nhợt nhạt. Phùng Ngọc Thanh gạt ra ngoài tất cả. Khi đăng ký lấy số ở bệnh viện, y như một người đàn bà đã lấy chồng, cô bình tĩnh lấy số khám phụ khoa. Sau khi ngồi trong phòng phụ khoa, cô vẫn bình tĩnh trả lời câu hỏi của bác sĩ. Cô nói:
Kiểm tra xem có phải thụ thai không?
Chú ý đến cột ghi rõ chưa kết hôn trong bệnh án, bác sĩ hỏi cô:
Chị vẫn chưa kết hôn phải không?
Vâng!- Cô gật gật đầu.
Ba cậu bé cùng thôn tôi trông thấy cô cầm chiếc lọ thuỷ tinh nho nhỏ màu hạt dẻ đi vào nhà vệ sinh nữ.Khi đi ra vẻ mặt cô trang trọng. Lúc chờ kết quả hoá nghiệm nước tiểu, cô ngồi trên chiếc ghế băng ngoài hành lang, giống như một người bệnh. Hai mắt cô chăm chắm nhìn vào cửa sổ phòng hoá nghiệm.
Sau đó biết mình không có thai, cô mới dần dần mất bình tĩnh. Đi đến một cột điện bê tông ngoài bệnh viện, cô dựa người vào đó, hai tay bưng mặt khóc nức nở.
Bố cô hồi trai tráng có thể uống một hơi hết một lít rượu trắng. Bây giờ về già vẫn uống được già nửa lít. Lúc xáo máo tối, đứng trước cửa nhà họ Vương, ông dậm chân buột mồm chửi tướng. Trong gió chiều, tiếng chửi của ông bay khắp làng. Nhưng đối với đám trẻ con trong thôn, mọi lời chửi mắng của ông không địch nổi một câu đầy oan uổng duy nhất:
Mày đã ngủ với con gái tao!
Mãi đến sau nửa đêm, trên mồm trẻ trong thôn vẫn còn bám câu này, y như cục thò lò bám trên mũi. Khi nhìn thấy ông, bọn trẻ con từ xa đã đã đồng thanh nói to:
Mày đã ngủ với con gái tao.
Trong mấy đám cưới tôi nhìn thấy tận mắt ở Cửa Nam, đám cưới của Vương Việt Tiến khiến tôi khó quên.
Chàng trai cao to đã từng bị Tôn Quang Bình cầm dao thái rau đuổi chạy toé khói khắp chốn, sáng sớm hôm ấy diện bộ quần áo ka ky Tôn Trung Sơn mới cứng, sắc mặt hồng hào như một cán bộ ở tỉnh về, chuẩn bị qua sông đi đón cô dâu mới. Lúc bấy giờ mọi người trong nhà họ đều bận tíu tít cho lễ cưới của hắn sắp đến. Chỉ có hắn không biết làm gì bởi vì đã mặc bộ quần áo mới. Khi tôi đến trường đi qua trước nhà hắn, hắn đang thuyết phục một thanh niên cùng thôn đi phù rể đón dâu. Hắn nói với chàng trai:
Không có ai khác, chỉ có cậu chưa lấy vợ.
Chàng trai nói:
Mình đã hết tuổi thiếu niên từ lâu.
Lời thuyết phục của hắn qua loa lớt phớt, như việc công hàng ngày. Người bị thuyết phục cũng không phải không muốn đi, chẳng qua là vì vô vị mà tỏ ra thế thôi.
Đám cưới đã mổ hai con lợn và mấy chục con cá trắm cỏ. Việc giết mổ đều làm tại sân phơi. Tiết lợn và vẩy cá chiếm cứ sân phơi một buổi sáng, mãi đến khi chúng tôi tan học về, sân phơi mới được gột rửa sạch, kê hai mươi chiếc bàn tròn. Lúc ấy vẩy cá bám đầy mặt Tôn Quang Minh. Khắp người sực nức mùi tanh, cậu ta nói với Tôn Quang Bình đi ngang qua:
Anh thử đếm xem em có bao nhiêu con mắt?
Tôn Quang Bình quát em như bố quát:
Rửa hết đi!
Tôi trông thấy Tôn Quang Bình túm cổ áo sau gáy Tôn Quang Minh, kéo xềnh xệch ra cầu ao. Lòng tự tôn nhỏ nhỏ của Tôn Quang Minh bị tổn thương. Cậu ta buột mồm chửi to bằng cái giọng the thé.
- Đù mẹ mày, Tôn Quang Bình.
Đoàn người đón dâu xuất phát vào buổi sáng. Trong tiếng trống và chũm chọe nhịp phách chuệch choạc hỗn loạn, một đội ngũ thống nhất mục tiêu, nhưng rời rạc phân tán vượt qua con sông mà về sau Tôn Quang Minh bị mất mạng, đí đến nhà bạn giường chiếu của Vương Việt Tiến.
Cô dâu đến từ thôn bên là một cô gái béo tròn béo trục, thẹn thà thẹn thùng đi đến gần thôn. Hình như cô cứ tưởng trong thôn không ai biết cô đã từng nhiều lần đến trong đêm, cho nên khi tỏ ra e thẹn là chuyện đương nhiên.
Đám cưới ấy, Tôn Quang Minh ăn đủ một trăm năm mươi hạt đậu tằm, đến nỗi trong giấc ngủ đêm hôm ấy, cậu ta vẫn đánh rắm tum tủm. Sáng hôm sau, khi Tôn Quang Bình chỉ ra điều này với mình, cậu ta cứ cười hì hì lâu lắm. Cậu ta nhận mình đã ăn năm cái kẹo hoa quả, còn đậu tằm cậu không có thì giờ đếm. Một ngày trước khi chết, Tôn Quang Minh còn ngồi trên ngưỡng cửa dò hỏi Tôn Quang Bình trong thôn ai sắp sửa kết hôn. Cậu thề đám cưới tới sẽ ăn mười cái kẹo hoa quả. Khi nói câu này, mũi cậu ta thò lò đến tận mồm.
Tôi thường hay nhớ lại cảnh tượng dũng mãnh tranh cướp kẹo hoa quả và đậu tằm chiều hôm ấy của cậu em chết sớm. Khi chị dâu của Vương Việt Tiến bưng cái rổ tre ra, Tôn Quang Minh không phải người xông vào đầu tiên, mà cậu ấy đã ngã ra đất trước. Trong rổ đậu tằm chỉ lẫn có mấy chục chiếc kẹo hoa quả. Chị dâu nhà họ Vương đổ ra chỗ bọn trẻ đang xúm đen xúm đỏ số thức ăn trong rổ như ném thóc cho gà. Khi anh tôi Tôn Quang Bình xô đến, bị đùi gối của một cậu bé khác vô ý thúc vào má. Tính tình nóng nẩy, anh tôi chỉ biết đánh lại cậu bé kia, không cướp được gì. Tôn Quang Minh lại khác hẳn. Khi sà vào cướp đậu tằm và kẹo hoa quả, cậu ta bị ăn các kiểu đòn. Đến nỗi sau đó mồm đầy bùn đất, cậu ngồi bệt ra đất lâu lắm, nhe răng thè lưỡi xuýt xoa, vò tai vò đầu và bảo Tôn Quang Bình, chân cậu cũng đầy rẫy vết thương.
Tôn Quang Minh vồ được bảy cái kẹo hoa quả và đầy một nắm đậu tằm. Ngồi trên đất, cậu cẩn thận tách chúng ra khỏi đá vụn và đất. Đứng một bên, Tôn Quang Bình hằm hằm nhìn bọn trẻ túm tụm nhìn em mình một cách tham lam, làm cho không đứa nào dám đến cướp kẹo cướp đậu trong tay em mình.
Nhưng Tôn Quang Minh chỉ chia cho Tôn Quang Bình một chiếc kẹo hoa quả và vài hạt đậu tằm. Nhận xong Tôn Quang Bình hết sức không hài lòng. Anh nói:
Chút xíu thế này à!
Tôn Quang Minh xoa tai mình bị chen đỏ ửng, do dự nhìn Tôn Quang Bình, sau đó hình như có vẻ thương hại, đưa cho anh một chiếc kẹo hoa quả và một nhúm đậu tằm. Khi anh trai vẫn chưa có ý bỏ đi, giọng the thé, cậu ta nói đầy vẻ đe doạ:
Anh còn đòi, em sẽ khóc bây giờ.
Cô dâu về thôn vào lúc trưa. Cô gái mặt tròn mông tròn, tuy cúi đầu, nhưng vẻ tự đắc đối với hôn nhân rõ rệt như nụ cười của cô.Chàng rể có dáng vẻ như thế, hiển nhiên đã quên khuấy mấy hôm trước bị Phùng Ngọc Thanh ôm chặt như thế nào. Hắn hơn hớn chạy đi chạy lại, tay phải vẫy chào chúng tôi hết sức vụng về. Lúc này trái tim tôi ăm ắp niềm vui tĩnh lặng. Bởi vì Phùng Ngọc Thanh tốt đẹp trong con mắt và trái tim tôi đã không còn bị Vương Việt Tiến vấy bẩn. Nhưng khi tôi nhìn vào trong nhà Phùng Ngọc Thanh. Một nỗi buồn thương khó nói bỗng trào lên. Tôi đã nhìn thấy hoá thân của mơ ước trong tim mình đang hết sức chăm chú nhìn sang bên này.Phùng Ngọc Thanh đứng trước nhà, thần tình mù mịt, nhìn nghi thức đang tiến hành không liên quan gì đến cô. Trong tất cả mọi người, chỉ có Phùng Ngọc Thanh được thể nghiệm mùi vị bị gạt ra rìa như thế nào.
Sau đó họ ngồi ăn uống trên sân phơi trong thôn.Bố tôi Tôn Quảng Tài, buổi tôí đi ngủ bị sái cổ. Lúc này nửa bên vai để trần, ông ngồi tại chỗ y như một hảo hán lục lâm. Mẹ tôi đứng đằng sau uống một hớp rượu trắng mừng đám cưới, phun vào vai bố tôi. Bố được tay mẹ xoa bóp, cứ lắc la lắc lư. Ông kêu ái à ái à, tỏ ra yếu đuối đáng yêu. Nhưng điều này cũng không ảnh hưởng đến việc đánh chén của ông. Khi ông gắp miếng thịt to tướng bỏ vào mồm, khiến Tôn Quang Bình và Tôn Quang Minh đứng bên cạnh thèm nhỏ dãi. Tôn Quảng Tài chốc chốc lại quay đầu đuổi con trai:
Cút!
Họ ăn uống suốt từ trưa cho mãi đến tối mịt. Cao trào của lễ cưới diễn ra vào buổi chiều. Lúc đó Phùng Ngọc Thanh tay cầm sơị dây thừng xuất hịên một cách bất ngờ. Vương Việt Tiến không nhìn thấy cô đến. Lúc ấy hắn đang chạm cốc với một chàng trai trong thôn. Khi có người vỗ vai hắn, hắn đã nhìn thấy Phùng Ngọc Thanh đứng ngay đằng sau. Chàng trai mặt mày hớn hở, sắc mặt lập tức tái xám. Tôi còn nhớ sân phơi ồn ào lúc đó bỗng trở nên nhốn nháo ầm ĩ. Đứng ở xa tôi vẫn nghe rõ tiếng Phùng Ngọc Thanh lúc bấy giờ:
Anh đứng dạy.
Vương Việt Tiến lặp lại sự hoảng loạn của hôm bị Tôn Quang Bình vác dao thái rau đuổi chém. Giống như ông già động tác chậm chạp, anh chàng cao to đứng dạy. Phùng Ngọc Thanh cầm chiếc ghế anh ta ngồi, đi đến dưới một thân cây cạnh sân phơi. Dưới hàng trăm con mắt dõi nhìn, Phùng Ngọc Thanh đứng trên ghế. Dưới bầu trời mùa thu, thân hình Phùng Ngọc Thanh tỏ ra mạnh mẽ vô cùng. Nhìn tư thế hơi ngẩng lên của cô, tôi thấy đẹp mê hồn. Cô buộc sợi dây lên cành cây.
Lúc này ông già La kêu toáng lên:
Sắp chết người bây giờ!
Đứng trên ghế, Phùng Ngọc Thanh hình như ngạc nhiên liếc nhìn ông, sau đó với động tác điềm đạm nho nhã, cô thắt một vòng tròn có thể chui đầu vào. Tiếp theo cô nhảy khỏi ghế. Khi nhảy khỏi ghế, tư thế của cô toát lên sự nhanh nhẹn hoạt bát của người con gái. Sau đó cô trang trọng bỏ đi.
Sau khi Phùng Ngọc Thanh bỏ đi, sân phơi im phăng phắc lại ầm ầm sôi nổi. Vương Việt Tiến sắc mặt tái xám, toàn thân run rẩy, bắt đầu ngoác mồm chửi rủa. Khi thể hiện sự căm phẫn của mình, hắn tỏ ra hèn kém của kẻ thiếu lẽ phải cần thiết. Tôi vốn cứ tưởng anh ta sẽ bước đến giựt đứt sợi dây thừng, nhưng kết quả anh ta đã ngồi lên chiếc ghế người ta đưa cho, không đứng dạy nữa. Cô dâu đã biết tỏng tất cả mọi chuyện của anh ta, lúc này lại tương đối bình tĩnh hơn nhiều. Ngồi tại chỗ, ánh mắt cô thẫn thờ. Động tác duy nhất của cô là uống một hơi cạn bát rượu trắng. Chàng rể của cô chốc chốc lại nhìn trộm sợi dây thừng và sắc mặt cô dâu. Sau đó anh trai hắn tháo dây thừng. Hắn vẫn luôn luôn nhìn vào chỗ đó. Cảnh tượng này kéo dài rất lâu. Sơị dây thừng đến với đám cưới một cách náo nhiệt khác thường, y như đội chiếu phim về làng, làm cho buổi lễ cưới vẫn còn chưa kết thúc đã treo xà tự vẫn.
Chẳng mấy chốc cô dâu đã say. Cô khóc thét lên, nghe rợn tóc gáy, đồng thời chếnh cha chếnh choáng đứng lên tuyên bố:
Tôi phải treo cổ.
Khi cô lảo đà lảo đảo đi đến chỗ dây thừng không còn treo lơ lửng, bị chị dâu Vương Việt Tiến ôm chặt. Người đàn bà đã có hai con gọi to Vương Việt Tiến:
Mau mau dìu thím vào trong nhà.
Khi cô dâu được mấy người đưa vào nhà, vẫn cố chấp gào lên:
Tôi phải treo cổ.
Một hồi lâu, Vương Việt Tiến cùng mấy người mới đi ra khỏi nhà. Nhưng họ vừa đi ra, cô dâu lại bám sát theo sau. Lần này tay cô lăm lăm cầm con dao thái rau, kề sát vào cổ. Người ta nghe không rõ cô hờ hay cô cười, chỉ nghe thấy cô hét:
Các người xem đây.
Lúc này Phùng Ngọc Thanh đang ngồi trên hè trước nhà, từ xa đã nhìn thấy tất cả. Tôi không quên được dáng vẻ trầm tư, mặt hơi nghiêng, tay phải tỳ dưới cằm của cô lúc bấy giờ.Gió thổi phất phơ những sợi tóc của cô trước mắt. Hình như cô nhìn mà không thấy cảnh tưởng hỗn tạp xa xa, hình như ngắm mình trong gương. Chính là giờ phút ấy Phùng Ngọc Thanh không còn quan tâm đến lễ cưới đang tiến hành. Cô bắt đầu u mê mù mịt đối với số phận của mình.
Mấy hôm sau có một ông bán hàng rong đi qua thôn. Người đàn ông trạc bốn mươi tuổi, mặc bộ quần áo màu tro, đặt gánh hàng ở trước nhà Phùng Ngọc Thanh. Bằng giọng lơ lớ của người nơi khác, anh ta xin Phùng Ngọc Thanh đứng trước cửa một bát nước.
Bọn trẻ trong thôn xúm quanh ông một lúc rồi đi hết. Người bán hàng rong đến nơi cách thành phố quá gần, rõ ràng là qua đường. Nhưng ông ta cứ ngồi trước nhà Phùng Ngọc Thanh mãi cho đến lúc tối mịt.
Mấy lần tôi đi qua đó, thường nghe thấy giọng khản đặc của người bán hàng rong. Ông ta mệt mỏi kể lể nỗi gian truân lang thang lên bắc xuống nam. Khi mỉm cười, ông ta tỏ vẻ cay đắng, còn Phùng Ngọc Thanh chăm chú lắng nghe, ánh mắt biến ảo khôn lường. Vẫn dáng vẻ tay tỳ dưới cằm, cô ngồi trên ngưỡng cửa. Người bán hàng rong chỉ thi thoảng ngoái cổ, nhìn Phùng Ngọc Thanh mấy lần.
Người bán hàng rong rời khỏi Cửa Nam vào lúc sáng trăng vằng vặc. Sau khi ông ta đi, Phùng Ngọc Thanh cũng biến khỏi Cửa Nam.
Cái chếtTôn Quang Minh, em trai tôi học đòi vẻ tự kiêu trên mặt anh trai. Một buổi trưa hè, cậu lội ra bờ sông mò ốc. Lại một lần nữa tôi nhìn thấy cảnh tượng lúc ấy. Tôn Quang Minh mặc một chiếc quần đùi, cầm cáí rổ cắt cỏ để ở góc nhà ra đi. Nắng ngoài trời rọi vào lưng trần cậu bé. Nhìn vào, lưng cậu đen nhánh.
Bây giờ trước mặt tôi thường xuất hiện ảo giác lờ mờ. Hình như tôi có thể nhìn thấy dòng chảy của thời gian.Thời gian hiện ra màu tối xám trong suốt. Tất cả đều nằm trong màu tối xám ẩn kín này. Không phải chúng ta sống trên đất. Thực tế chúng ta đang sống trong thời gian. Cánh đồng, đường phố, sông ngòi, nhà ở là bạn trong thời gian chúng ta ở. Thời gian đẩy chúng ta lên trước hoặc sau, đồng thời thay đổi hình dáng của chúng ta.
Trong ngày hè, em trai tôi đi ra khỏi nhà và bỏ mạng, phải nói là bình thường không có gì khác lạ. Cậu đã ra khỏi nhà trăm ngàn lần. Do kết cục sẩy ra sau khi Tôn Quang Minh ra khỏi nhà lần ấy, ký ức của tôi đã sửa lại cảnh tượng lúc bấy giờ. Khi ánh mắt tôi vượt qua con đường hồi ức rộng dài nhìn lại Tôn Quang Minh, cậu bé không phải từ ngôi nhà đi ra. Em trai tôi không cẩn thận đã đi ra khỏi thời gian. Một khi thoát ly khỏi thời gian, cậu đứng lại, còn chúng ta tiếp tục đi lên phía trước trong sự xê dịch của thời gian. Tôn Quang Minh đã nhìn thấy thời gian đem theo những người chung quanh và cảnh sắc chung quanh. Tôi đã nhìn thấy cảnh chân thực như thế này: Sau khi người sống chôn người chết, người chết sẽ vĩnh viễn nằm tại chỗ, còn người sống tiếp tục đi. Cảnh chân thực này là ám thị mà thời gian giành cho những người vẫn để vết tích trong hiện thực.
Cậu bé lên tám trong thôn, tay xách rổ cắt cỏ đứng bên ngoài chờ Tôn Quang Minh em trai tôi. Tôi chú ý đến sự thay đổi tế nhị trên người em trai. Tôn Quang Minh đã không còn bám sau anh trai Tôn Quang Bình như trước kia. Cậu thích chạy đến giữa mấy cậu bé bảy tám tuổi Tôn Quang Bình không thèm đế ý, từ đó mà được hưởng chút uy quyền của Tôn Quang Bình trong đám trẻ thôn quê. Khi tôi ngồi bên bờ ao, thường xuyên nhìn thấy Tôn Quang Minh đi đi lại lại diễu võ dương oai như một hoàng thân dưới sự túm tụm của mấy đứa trẻ lệch tà lệch tệch chỉ chực vấp ngã khi đi.
Trưa hôm ấy, từ cửa sổ đằng sau, tôi trông thấy Tôn Quang Minh đi ra phía bờ sông. Chân đi đôi giầy cỏ to rộng của bố, lê trên đường đất tung bụi mù mịt. Đôi giầy rộng của bố chở cái mông lép kẹp và cái đầu nhỏ thó của em trai đi về phía trước. Khi đến trước ngôi nhà của gia đình họ Tô vừa chuyển đi, Tôn Quang Minh đội cái rổ lên đầu.Vậy là thân thể luôn nghịch ngợm của em tôi bỗng trở nên cứng đơ. Tôn Quang Minh hy vọng duy trì kỹ thuật của mình đến bờ sông. Nhưng cái rổ không chịu hợp tác với cậu đã rơi xuống ruộng lúa bên đường. Tôn Quang Minh chỉ ngoái đầu lại một cái rồi tiếp tục đi. Cậu bé tám tuổi lội xuống ruộng nhặt rổ cho Tôn Quang Minh. Cứ thế tôi luôn luôn nhìn theo Tôn Quang Minh dương dương tự đắc đi đến cái chết chưa biết. Còn cậu bé vẫn sống lâu dài đi đằng sau, loạng quà loạng quạng và mệt mỏi khoác hai cái rổ hai bên hông lẽo đẽo đuổi theo con người sẽ chết đi phía trước.
Cái chết chưa đến thẳng với Tôn Quang Minh. Thông qua cậu bé tám tuổi, nó tìm đến em trai tôi. Khi Tôn Quang Minh mò ốc dọc ven sông, cậu bé tám tuổi không sao thoát khỏi niềm si mê với nước, bắt đầu dịch dần ra chỗ sâu không biết trước, tiếp theo trong chớp mắt đã dẫm hụt, bị chìm trong nước sông. Cậu bé dãy dụa gào thét trong nước. Tiếng gào thét đã cướp mất em tôi.
Để cứu cậu bé, Tôn Quang Minh mới chết đuối. Nói em tôi quên mình cứu người, rõ ràng là nói quá. Em tôi chưa cao thượng đến mức nguyện lấy cái chết của mình đổi sự sống của người khác. Hành vi trong giây lát của nó xuất phát từ uy quyền của mình đối với mấy đứa trẻ bảy tám tuổi. Khi cái chết tấn công cậu bé dưới quyền Tôn Quang Minh, cậu sơ xuất cho rằng mình có thể dễ dàng cứu được.
Cậu bé được cứu hoàn toàn không thể nhớ được cảnh tượng lúc bấy giờ. Nó chỉ biết há mồm trợn mắt nhìn người hỏi mình. Vài năm sau có người nhắc đến việc này, mặt cậu nửa tin nửa ngờ, hình như đây là chuyện người ta bịa đặt. Nếu không có người trong thôn nhìn thấy tận mắt, rất có thể Tôn Quang Minh bị coi là tự chết đuối.
Lúc sự việc xẩy ra, người đó vừa vặn bước lên cầu gỗ. Ông nhìn thấy Tôn Quang Minh đẩy cậu bé một cái, tình hình tiếp theo là cậu bé hốt hoảng chạy lên bờ, còn Tôn Quang Minh dãy dụa trong nước. Khi em trai tôi dãy dụa trong nước thò đầu lên lần cuối cùng, trợn hai mắt nhìn thẳng vào mặt trời chói lọi kéo dài những mấy giây, cho đến lúc cậu bị chìm nghỉm. Buổi trưa mấy hôm sau, em tôi được chôn cất, tôi ngồi bên bờ áo nắng chói chang, cũng định nhìn thẳng vào mặt trời. Nhưng ánh nắng chói loà khiến tôi cụp mắt ngay. Thế là tôi tìm ra sự khác nhau giữa sống và chết. Người đang sống không thể nhìn rõ mặt trời. Chỉ có mắt người sắp chết mới có thể xuyên qua ánh sáng nhìn rõ mặt trời.
Khi người ấy hồn xiêu phách lạc chạy về, tôi không biết đã sảy ra chuyện gì. Tiếng gào của ông rào rào như mảnh kính vỡ vụn. Lúc bấy giờ Tôn Quang Bình đang lấy liềm gọt dưa ăn. Tôi nhìn thấy anh mình quăng liềm chạy khỏi nhà. Tôn Quang Bình vừa chạy vừa gọi bố. Bố Tôn Quảng Tài từ ruộng rau chạy ra. Hai bố con chạy thục mạng ra bờ sông. Mẹ tôi cũng xuất hiện trên con đường ấy. Chiếc khăn vuông đội đầu cầm trong tay khi mẹ chạy cứ vung lên vung xuống. Tôi nghe thấy tiếng khóc thảm thiết của mẹ. Tiếng khóc của mẹ trong giờ phút ấy khiến tôi cảm thấy, cho dù em tôi còn sống cũng lại chết đi.
Lâu nay tôi cứ lo lo trong nhà lại một lần nữa sảy ra chuyện gì. Cái tệ quái gở xa lánh người nhà của tôi đã được dân làng quen, cho là thường. Đối với tôi, bị người ta lãng quên trái lại càng hay. Nhưng một khi trong nhà có chuyện gì xảy ra, tôi sẽ nổi hẳn lên, lại được người ta chú ý. Khi trông thấy dân làng đều chạy ra bờ sông, tôi cảm thấy một sức ép ghê gớm. Hoàn toàn có thể tuân theo lẽ thường, tôi chạy ra bờ sông. Nhưng tôi lại lo hành vi của mình bị người nhà và dân làng cho là vui mừng trên tai hoạ của người khác. Những giờ phút thế này, tôi đành phải chọn cách tránh xa. Hôm ấy, mãi đến nửa đêm tôi mới về nhà. Sau khi trời tối, tôi ra bờ sông. Dưới sáng trăng, nước sông chảy dạt dào. Một vài thứ đến từ đất liền trôi theo sóng trên mặt nước.Tiếng nước chảy dào dạt vui tai như thường ngày. Dòng sông vừa cướp mất em tôi không hề thay đổi sự tĩnh lặng trước kia. Tôi nhìn lửa đèn trong thôn xa xa, nghe thấy tiếng người ồn ào bay theo gió. Tiếng khóc như gào thét của mẹ khi đứt khi nối, còn có cả tiếng khóc của mấy người đàn bà đi theo mẹ. Đây là cảnh xa xăm thương xót một người đã ra đi. Còn dòng sông vừa nuốt đi một tính mạng lại tỏ ra không có chuyện gì hết. Giờ phút ấy tôi biết dòng sông cũng có mạng sống. Nó nuốt mất em trai tôi, là bởi vì nó cần sinh mạng khác để bổ sung cho sinh mạng nó. Những người đàn bà gào khóc và những người đàn ông đau buồn ở xa xa cũng thế, cần có sinh mạng khác để bổ sung sinh mạng mình. Từ ruộng rau, họ cắt những cây rau xanh mọc lên trong hân hoan, hoặc giết mổ một con lợn. Những người ăn mạng sống khác cũng coi như không có chuyện gì sảy ra như dòng sông lúc này.
Tôn Quang Minh được Tôn Quảng Tài và Tôn Quang Bình nhảy xuống nước vớt lên. Hai bố con vớt được Tôn Quang Minh dưới cầu gỗ. Khi Tôn Quang Minh được bế lên bờ, mặt nó đã xanh như cỏ. Tôn Quảng Tài mệt bơ phờ, cầm hai chân Tôn Quang Minh dốc ngược, cõng con chạy trên đường. Thân thể Tôn Quang Minh xóc mạnh trên lưng bố. Đầu cậu va đập đều đều vào bắp chân bố. Anh trai tôi chạy theo sau. Buổi trưa mùa hè ấy, ba thân hình ướt sũng khi chạy trên con đường bụi mù, hình như cứ dúi dụi vào nhau. Đằng sau ba bố con vẫn là bà mẹ cầm chiếc khăn vuông đội đầu gào khóc, còn có cả đám dân làng nhốn nháo.
Tôn Quảng Tài đang chạy, đầu ngẩng dần ra sau. Ông thở hổn hà hổn hển, chân bước mỗi lúc một chậm, cuối cùng đã dừng lại, mồm gọi Tôn Quang Bình. Tôn Quang Bình tiếp nhận em trên lưng bố, dốc ngược tiếp tục chạy. Tôn Quảng Tài tụt lại phía sau nói đứt đứt nối nối:
Chạy… Đừng dừng lại… Chạy…
Bố tôi đã nhìn thấy đầu Tôn Quang Minh dốc ngược đang rỏ nước.Đó là nước trên người và tóc em tôi. Tôn Quảng Tài cứ tưởng mồm Tôn Quang Minh ộc ra nước. Lúc ấy ông vẫn chưa biết Tôn Quang Minh đã vĩnh viễn tắt thở.
Chạy được hai mươi mét, Tôn Quang Bình bắt đầu lảo đà lảo đảo. Tôn Quảng Tài vẫn giục:
Chạy… chạy…
Tôi nhìn thấy thân anh trai cuối cùng ngã vật xuống. Tôn Quang Minh bị văng sang một bên. Tôn Quảng Tài laị một lần nữa nhấc con chạy tiếp. Tuy nhiên ông chạy loạng choạng, chỉ chực ngã. Tốc độ ông chạy lúc đó chậm kinh khủng.
Khi mẹ tôi và dân làng đuổi đến cổng nhà tôi, bố tôi biết con trai mình đã chết. Do căng thẳng và mệt mỏi quá độ, Tôn Quảng Tài quỳ trên đất nôn thốc nôn tháo. Tôn Quang Minh thì nằm ngửa duỗi chân duỗi tay dưới cây du.Lá cây che nắng hè chang chang cho nó. Anh tôi Tôn Quang Bình đến sau cùng. Sau khi trông thấy bố nôn mửa, cũng quỳ xuống gần đó bắt đầu nôn trước mặt bố.
Lúc này chỉ có mẹ tôi tỏ ra buồn đau của người thường. Trong lúc gào thét và nức nở, thân bà cũng nhô lên hạ xuống. Bố và anh tôi cuối cùng đã hết nôn. Hai bố con bụi bám đầy người vẫn quỳ tại chỗ, thẫn thờ nhìn mẹ tôi gào khóc trước mặt.
Xác em tôi được đặt ở giữa bàn trên một cái chiếu rách, trên xác phủ tấm ga trải giường.
Sau khi bố và anh tôi trở lại trạng thái bình thường, việc đầu tiên là ra giếng múc một xô nước thay nhau uống ừng ực. Sau đó mỗi người xách một cái làn ra thành phố mua đậu phụ. Khi đi sắc mặt bố tái xanh, ông bảo với người bên cạnh nói lại với người nhà của thằng bé được cứu:
Tôi về sẽ đến tìm họ.
Tối hôm ấy, dân làng ai cũng dự cảm sắp có chuyện sẩy ra. Từ thành phố trở về, khi bố và anh tôi mời bà con đến ăn cơm đậu phụ truy điệu người chết, hầu như mọi người đều đến. Chỉ có người trong gia đình cậu bé được cứu mãi mới đến.
Bố cậu bé được cứu, sau chín giờ tôí mới đến một mình. Mấy anh em ông không ai đến. Xem ra ông sẵn sàng tự gánh chịu tất cả. Ông nghiêm nghị bước vào nhà. Đầu tiên quỳ bên xác người chết khấu đầu ba cái, sau đó đứng lên, ông nói:
- Hôm nay dân làng đều có mặt - Ông đã nhìn thấy đội trưởng - Đội trưởng cũng đến. Để cứu con tôi,Tôn Quang Minh bị chết. Tôi rất đau đớn. Tôi không có cách nào để Tôn Quang Minh sống lại, chỉ có thể đem sang một ít tiền- Ông móc túi lấy tiền đưa cho Tôn Quảng Tài - Đây là một trăm đồng. Ngày mai tôi lại bán nốt những thứ đáng giá trong gia đình, góp tiền cho ông. Chúng ta đều là bà con trong thôn, ông cũng biết, tôi không có nhiều tiền, thôi thì có bao nhiêu, tôi đưa cho ông ngần nấy.
Tôn Quang Tài đứng lên tìm cho ông chiếc ghế và giục:
Ông hãy ngồi xuống đã.
Giống như một cán bộ thành phố, bố tôi khảng khái xúc động nói:
- Con tôi chết không thể sống lại. Ông đưa cho bao nhiêu tiền cũng không đền được mạng con tôi. Tôi không đòi tiền ông. Con tôi chết vì cứu người là anh hùng.
Sau đó bị Tôn Quang Bình cướp lời. Cũng khảng khái xúc động, anh tôi nói:
- Em tôi là anh hùng, cả nhà tôi đều cảm thấy kiêu hãnh. Ông đền thứ gì chúng tôi cũng không lấy. Chúng tôi chỉ cần ông tuyên truyền sự tích anh hùng của em tôi để người khác cũng biết.
Cuối cùng bố tôi nói:
Ngày mai ông ra thành phố bảo họ phát trên đài.
Ngày hôm sau tổ chức đám tang Tôn Quang Minh. Xác em tôi được chôn giữa hai cây bách gần sau nhà. Khi đưa đám, tôi luôn luôn đứng ở xa. Cô đơn lâu dài và bị ghẻ lạnh, khiến tôi dường như không còn tồn tại là một người trong thôn. Tiếng khóc cuối cùng như gào thét của mẹ bay lên dưới trời nắng chói chang. Vẻ đau thương của bố và anh trai, tôi ở xa không nhìn rõ. Xác Tôn Quang Minh được bó chiếu khiêng ra đó. Dân làng đi rải rác trên con đường từ đầu thôn đến phần mộ. Bố và anh tôi đặt thi thể em vào trong huyệt, rồi lấp đất. Thế là em trai chính thức kết thúc những năm tháng chung sống với con người.
Tối hôm ấy tôi ngồi cạnh cầu ao sau nhà, cứ nhìn mãi ngôi mộ em trai cao lù lù trong yên tĩnh dưới sáng trăng. Tuy em nằm ở xa, nhưng lúc này tôi cảm thấy em đang ngồi cạnh mình. Cũng như tôi, cuối cùng em tôi đã xa cách bố mẹ, anh trai và bà con trong thôn. Lối đi khác nhau, song rút cuộc gần như vậy. Chỉ có điều em tôi ra đi càng tỏ ra quyết đoán và nhẹ nhàng.
Bởi ngăn cách nội tâm, tôi cách xa hiện trường lúc em chết và đám tang, do vậy tôi dự cảm sẽ bị gia đình và thôn xóm chỉ trích mạnh mẽ hơn. Nhưng bao nhiêu ngày đã trôi qua, không ai có lời nói và việc làm khác thường. Điều này khiến tôi thầm ngạc nhiên. Cũng chính giờ phút ấy, như trút được gánh nặng, tôi thấy mình đã bị hoàn toàn lãng quên. Tôi được bố trí ở vị trí dân làng ai cũng biết, ai cũng phủ định tôi.
Ngày thứ ba sau khi chôn em tôi, loa phát thanh có dây trong nhà đã đưa tin sự tích anh hùng của Tôn Quang Minh quên mình cứu người. Đây là giờ phút bố tôi đắc ý nhất. Ba ngày qua, chỉ cần loa cất tiếng là bố tôi cầm chiếc ghế đẩu ra ngồi bên dưới. Sự chờ đợi của bố tôi sau khi được thực hiện trong giờ phút ấy, ông xúc động chạy khắp nơi giống như con vịt hớn hở vỗ cánh. Buổi chiều việc đồng áng thư thả, giọng oang oang, bố tôi ra ra vào vào các gia đình trong thôn:
Đã nghe thấy gì chưa?
Lúc đó, đứng dưới cây du trước nhà, anh tôi hai mắt lấp lánh nhìn bố mình.
Nét mặt hồng hào rạng rỡ, bố và anh tôi bắt đầu sống trong vài ngày ngắn ngủi. Hai bố con luôn luôn háo hức cảm thấy chính quyền sẽ lập tức cử người đến tìm minh. ảo tưởng của hai người, bắt đầu từ huyện cho mãi đến Bắc Kinh. Giờ phút huy hoàng nhất là ngày lễ quốc khánh trong năm, là thân thuộc của anh hùng, gia đình tôi sẽ nhận được giấy mời lên thành lầu Thiên An Môn. Khi ấy anh trai tôi tỏ ra thông minh sáng suốt hơn bố nhiều. Trong đầu anh ngoài chứa đầy những ảo tưởng trống rỗng, còn có một suy nghĩ tương đối thiết thực. Anh nhắc bố, cái chết của em mình có khả năng khiến anh kiếm được một chân cán bộ nhân viên gì đó trong huyện. Tuy anh còn đang đi học, nhưng thế nào chẳng được xét vào diện đối tượng bồi dưỡng. Lời anh đã tăng thêm thành phần thực tế trong ảo tưởng trống rỗng đến loá mắt của bố tôi. Lúc ấy bố tôi cứ rối rít xoa hai tay, không biết biểu đạt sự xúc động trong lòng như thế nào.
Với niềm phấn khởi không thể kìm chế, bố con nhà họ Tôn nhồi nhét cho dân làng những suy nghĩ và tưởng tượng hết sức không chắc chắn của mình trong từng giai đoạn. Thế là tin nhà họ Tôn sắp sửa chuyển đi đồn rầm trong thôn. Lối nói kinh khủng nhất là gia đình tôi có thể dọn lên ở Bắc Kinh. Khi tin này đến tai nhà tôi, một buổi chiều nào đó tôi đã nghe thấy bố vô cùng sung sướng nói với anh trai:
- Không gió làm gì có sóng, dân làng ai cũng nói thế, xem ra người Nhà nước sẽ đến nay mai.
Cứ thế, trước tiên bố tôi nhồi nhét ảo tưởng của mình trong dân làng, sau đó củng cố ảo tưởng của mình bằng tin đồn lan truyền trong dân chúng.
Trong khi chờ đợi cái tên đẹp bố anh hùng đến với mình, Tôn Quảng Tài quyết định trang trí lại bộ mặt của gia đình. Ông cảm thấy cứ để cái nhà bừa bộn thế này sẽ ảnh hưởng đến nhận xét đúng đắn của người nhà nước cử đến đối với gia đình. Làm đẹp bộ mặt bắt đầu từ ăn mặc. Bố tôi vay tiền sắm cho mỗi người một bộ quần áo mới. Thế là tôi bắt đầu được gia đình coi trọng. Xử sự đối với tôi như thế nào đã trở thành chuyện đau đầu của bố. Mấy lần tôi nghe thấy ông nói với anh trai:
Nếu không có thằng nhãi thì tốt.
Sau một thời gian rất dài gia đình coi thường tôi, xác nhận tôi là kẻ dư thừa gây phiền toái cho gia đình. Mặc dù vậy, một buổi sớm, mẹ tôi cầm một bộ quần áo mới đến trước mặt bảo tôi mặc. Cả gia đình làm bộ làm tịch mặc lên người bộ quần áo đồng màu. Quen với quần áo rách rưới, buộc phải mặc bộ quần áo mới cứng đơ, tôi suốt ngày thấp thỏm không yên. Cái thằng tôi mất dần trong con mắt của người nhà và bạn học, bây giờ lại được người ta chú ý đến.
Khi Tô Vũ tỏ vẻ ngạc nhiên thốt lên:
Cậu đã mặc quần áo mới.
Tôi hoảng loạn biết chừng nào.Tuy Tô Vũ nói rất bình thản, tôi cảm thấy không có chuyện gì sảy ra.
Hai hôm sau, bố tôi đột nhiên phát hiện cách làm của mình dở hơi. Ông cảm thấy gia đình mình nên tỏ ra chất phác và gian khổ trước những người nhà nước cử đến. Vậy là số quần áo rách nhất, cũ nhất trong nhà đều được đem ra mặc. Mẹ tôi ngồi dưới ngọn đèn dầu suốt một đêm. Sáng hôm sau cả nhà đều mặc quần áo vá chằng vá đụp, trông y như vẩy cá. Chúng tôi giống như bốn con cá đáng cười bơi ra khỏi nhà đón nắng sớm mai. Khi trông thấy anh trai lưỡng lự cắp sách đi học, lần đầu tiên tôi cảm thấy tâm tình anh mình cũng có lúc giống tôi.
Tôn Quang Bình thiếu hẳn tính kiên định không lay chuyển trong khi chờ đợi vận may đến của bố Tôn Quảng Tài. Tôn Quang Bình mặc quần vá áo rách, sau khi ăn đủ lời chê tiếng cười của nhà trường, dù có cho làm vua cũng không muốn tiếp tục mặc quần áo rách rưới. Do đó anh tôi đã tìm được một lý do có sức mạnh mẽ nhất. Anh nói với bố:
- Mặc thứ quần áo chỉ ở xã hội cũ mới có là bôi nhọ, là vu cáo xã hội mới của Đảng cộng sản.
Câu này làm cho ông bố mấy ngày đứng ngồi không yên. Trong mấy ngày đó, bố tôi luôn luôn giải thích với bà con làng xóm, nhà tôi mặc quần rách áo vá không có ý gì khác, mà là để ôn nghèo nhớ khổ:
- Cứ nghĩ đến cảnh khổ của chế độ cũ, càng cảm thấy vị ngọt của xã hội mới chúng ta.
Người của nhà nước mà bố và anh tôi ngày đêm ngóng đợi, hơn một tháng sau vẫn không xuất hiện trong thôn. Vậy là dư luận trong làng đã chuyển hướng, chọc thẳng vào vết đau của bố và anh tôi. Trong những ngày việc đồng áng rảnh rỗi, họ có đủ thời gian truy tìm căn nguyên. Kết quả phát hiện, mọi tin đồn đều xuất phát từ gia đình tôi.Bố và anh tôi bị dân chúng trêu chọc bằng những ngôn từ hài hước rôm rả. Bất cứ ai cũng có thể rướn mày nháy mắt hỏi Tôn Quảng Tài và Tôn Quang Bình:
Người nhà nước đến chưa?
Ảo tưởng luôn luôn bao trùm gia đình tôi bắt đầu bị chọc thủng lỗ chỗ.Tôn Quang Bình là người đầu tiên rút khỏi ảo tưởng. Với lối suy nghĩ thực dụng chạy theo lợi ích trước mắt của một chàng trai, anh đã cảm thấy trước bố, tất cả đều không bao giờ sẩy ra.
Trong những ngày đầu vỡ mộng, tôi thấy Tôn Quang Bình tỏ ra trầm buồn u uất, thường hay nằm khườn một mình trên giừơng. Bởi lúc bấy giờ bố tôi vẫn giữ vững ảo tưởng, quan hệ giữa hai bố con cũng trở nên càng ngày càng lạnh nhạt. Bố tôi đã có thói quen ngồi dưới loa phát thanh. Mặt thẫn thờ, ông ngồi tại chỗ, nước dãi chảy dài từ cái mồm nửa mở nửa ngậm. Hiển nhiên, Tôn Quang Bình không muốn nhìn dáng vẻ đần độn của bố. Có lần tôi đã nghe thấy anh rất khó chịu nói với ông:
Đừng nghĩ chuyện ấy nữa.
Nghe vậy, đương nhiên bố tôi đã nổi giận lôi đình. Tôi trông thấy ông đứng phắt dạy chửi toáng lên, nước bọt bắn tung toé:
Mẹ kiếp, mày cút xéo!
Không hề chịu lép, anh tôi đánh trả mạnh hơn:
Câu ấy bố đi mà nói với gia đình họ Vương.
Lúc bấy giờ bố tôi gào lên như trẻ con, lao đến chỗ Tôn Quang Bình. Ông không nói tao đánh chết mày, mà bảo:
Tao liều mạng với mày.
Nếu không có mẹ, với thân hình gầy guộc và tiếng khóc của của bà đã ngăn cản hai người đàn ông gầm gừ như chó, thì cái gia đình vốn đã tồi tàn rệu rạo của tôi rất có thể trở thành đống đổ nát.
Nét mặt hằm hằm ra khỏi nhà, vừa vặn nhìn thấy tôi,Tôn Quang Bình liền bảo:
Lão già muốn vào quan tài mất rồi.
Thực tế bố tôi đã nếm cảnh cô độc rất lâu. Giữa tôi và anh đã hoàn toàn mất hẳn sự tâm đầu ý hợp khi em trai tôi chết, hai anh em không thể lại hăng hái sôi nổi cùng nhau khắc hoạ viễn cảnh tốt đẹp. Anh tôi rút lui trước, khiến bố tôi một mình bị hắt hủi trong ảo tưởng, hơn nữa ông còn tự chống lại lối nghĩ tai hại người nhà nước sẽ không bao giờ đến. Vì vậy, khi anh tôi nhìn bố mỗi lúc một trở nên chướng tai gai mắt, bố tôi cũng đang tìm cơ hội cãi nhau với anh. Sau lần tranh cãi ấy, trong một thời gian rất dài, hai người như quân hằn quân thù, nếu không quắc mắt coi khinh, thì cũng lạnh lùng nhìn nhau.
Bố tôi Tôn Quảng Tài lúc nào cũng chú ý con đường mòn vào thôn. Ông mong ngóng đến mỏi mắt đại diện của nhà nước mặc bộ quần áo Tôn Trung Sơn tìm đến nhà. Bọn trẻ trong thôn đứa nào cũng đi guốc trong bụng ông. Thế là thường hay có mấy đứa chạy đến trước cửa nhà tôi lu loa:
Ông Tôn Quảng Tài ơi, người mặc quần áo Tôn Trung Sơn đã đến ngoài kia kìa!
Thời gian đầu lần nào ông cũng hốt hoảng. Khi xúc động, bố tôi tỏ ra nôn nóng không yên cả về tâm hồn lẫn thể xác.Tôi nhìn thấy ông sắc mặt nhợt nhạt chạy ra đầu thôn.Khi quay về trông ông tưng hửng như kẻ mất hồn mất vía. Lần cuối cùng ông bị mắc lừa là dịp sắp sang đông. Một cậu bé chín tuổi tự chạy đến goị to:
Ông Tôn Quảng Tài có mấy người mặc quần áo Tôn Trung Sơn đến ngoài kia.
Vơ cái cán chổi, bố tôi xông ra:
Tao giết mày thằng nhóc con.
Cậu bé quay người bỏ chạy. Chạy ra xa xa, cậu đứng lại nói tiếp:
Cháu nói dối ông, cháu sẽ là thằng chó đẻ chó nuôi.
Lời thề bố láo hết sức vô trách nhiệm đối với bố mẹ mình của cậu bé, làm cho bố tôi sau khi quay vào nhà đứng ngồi không yên. Ông xoa tay đi đi lại lại, lẩm bà lẩm bẩm:
Nếu đến thật thì làm thế nào? Chẳng chuẩn bị gì hết.
Bởi trong lòng không yên, bố tôi vẫn chạy ra đầu thôn. Ông đã nhìn thấy cánh đồng trống không và mấy cây cô quạnh. Lúc ấy tôi ngồi bên bờ ao gần đó, nhìn thấy bố mình đứng như phỗng ở đầu thôn. Gió lạnh thổi vù vù, bố phải ôm chặt áo trước ngực. Sau đó ông ngồi xổm, có lẽ do đùi gối bị lạnh, hai tay bố cứ nắn bóp đùi gối liên tục. Buổi chiều tối sắp bước sang đông, bố tôi ngồi run run ở đầu thôn, mắt nhìn con đường mòn vươn dài tít tắp.
Bố tôi cố bám ảo tưởng của mình, mãi đến lúc sắp sang xuân mới không thể không đau đớn từ bỏ. Lúc bấy giờ nhà nào trong thôn cũng vọng đến tiếng dã bánh tết. Do chia năm sẻ bẩy, gia đình tôi không hề có không khí ăn tết. Sau đó mẹ tôi cố bạo phổi hỏi bố:
- Tết này nhà mình ăn thế nào?
Ngồi dưới loa phát thanh lúc đó, bố tối buồn rười rượi, im lặng hồi lâu, ông mới nói:
- Xem ra, người mặc quần áo Tôn Trung Sơn không đến.
Tôi bắt đầu để ý bố thường nhìn trộm anh trai. Rõ ràng bố muốn hoà giải với anh tôi. Đêm ba mươi tết, cuối cùng bố đã nói chuỵen với con trai cả. Lúc ấy Tôn Quang Bình ăn xong cơm tối đang chuẩn bị đi, bố gọi lại bảo:
Có việc cần bàn với anh.
Hai người vào trong nhà, bắt đầu thì thầm với nhau. Sau khi đi ra, sắc mặt hai người có vẻ nghiêm túc. Sáng hôm sau, tức mồng một tết, hai bố con ôngTôn ra khỏi cửa, đi tìm người nhà cậu bé được cứu sống.
Xem chừng đã hết hy vọng trở thành bố anh hùng, ông Tôn Quảng Tài đã nhìn nhận lại sức hấp dẫn của tiền bạc. Ông đòi gia đình kia bồi thường cái chết của Tôn Quang Minh. Vừa mở mồm ông đã đòi người ta năm trăm đồng. Họ giật mình trước cái giá ông đòi trả. Họ bảo bố con nhà họ không kiếm đâu ra nhiều tiền thế. Sau đó họ nhắc ông hôm nay mồng một tết, để hôm khác sang bàn.
Cha con ôngTôn cứ khăng khăng đòi họ trả tiền ngay.Nếu không sẽ đập nát mọi đồ đạc trong gia đình. Ông Tôn Quảng Tài nói:
Không đòi lấy lãi đã là hời cho nhà ông lắm rồi.
Lúc ấy tôi tuy ở xa, nhưng tiếng tranh cãi vọng lại nghe rất rõ. Tôi đã hiểu chuyện gì sẩy ra. Sau đó tôi nghe thấy tiếng đập đồ đạc nhà người ta của bố và anh trai.
Hai hôm sau có ba người mặc đồng phục cảnh sát về thôn. Lúc đó chúng tôi đang ăn cơm, có mấy đứa trẻ chạy đến cổng gọi to:
Ông Tôn Quảng Tài, những người mặc quần áo Tôn Trung Sơn đã đến.
Khi ông Tôn Quảng Tài cầm cán chổi chạy ra, đã trông thấy ba viên cảnh sát đang đi tới. ông đã hiểu tất cả.Ông nói to với cảnh sát:
Các anh định đến bắt người hả?
Đây là lúc bố tôi oai phong lẫm liệt nhất. Ông nói với cảnh sát:
- Xem các anh dám bắt ai? - Ông vỗ ngực mình nói - Tôi là bố của anh hùng.- Tiếp theo ông chỉ vào Tôn Quang Bình - Đây là anh trai của anh hùng- Sau đó chỉ vào mẹ tôi - Đây là mẹ của anh hùng - Bố cũng nhìn tôi đứng bên cạnh, nhưng không nói gì - Tôi xem các anh dám bắt ai?
Cảnh sát không hề quan tâm lời bố tôi, chỉ lạnh lùng nói:
Ai là Tôn Quảng Tài?
Bố tôi đáp;
Tôi đây.
Cảnh sát nói với ông:
Ông đi theo chúng tôi.
Bố tôi luôn mong ngóng người mặc quần áo Tôn Trung Sơn đến. Rút cuộc những người đến lại mặc đồng phục cảnh sát. Sau khi bố tôi bị giải đi, đội trưởng dẫn người nhà bị đập phá đến nhà tôi. Đội trưởng nói với anh trai và mẹ tôi, đòi chúng tôi đền bù tổn thất. Tôi đi đến bờ ao sau nhà, nhìn đồ dùng trong nhà bị người ta đem đi. Qua một vụ cháy lớn, đồ đạc khó khăn biết chừng nào mới sắm được bây giờ lại trở thành sở hữu của người khác.
Nửa tháng sau, bố tôi ra khỏi trại giam, trắng trẻo như đứa trẻ vừa ra khỏi tử cung. Trước kia, da dẻ bố thô ráp sần sùi quá thể, bây giờ đi đến với chúng tôi, trông bố da mịn thịt non như một cán bộ thành phố. Đi đến đâu, ông cũng toang toác phải kiện lên Bắc Kinh. Có ai hỏi bao giờ ông đi, bố trả lời ba tháng nữa có tiền tàu sẽ đi. Nhưng ba tháng sau, bố không đi Bắc Kinh, mà bò vào trong chăn của bà goá ở chênh chếch trước cửa.
Hình tượng bà goá để lại trong ký ức tôi là một người đàn bà bốn mươi tuổi to khoẻ, mồm rộng, chân đất, đi thoăn thoát trên bờ ruộng.Dấu vết nổi bật nhất của bà là bà thường hay nhét áo lót vào trong quần. Vì thế cái mông núng na núng nính của bà không hề dè sẻn phát tán một cảm giác đẫy đà ngồn ngộn. Thời đó đàn bà goá ăn mặc như thế tỏ ra nổi bật khác thường và kỳ lạ. Thời đó ngay đến thiếu nữ son trẻ cũng không dám phơi eo phơi mông ra như vậy. Bà goá đã chẳng còn eo để mà nói, cái mông to phè lắc lư, kéo theo cả người lắc lư. Bộ ngực của bà lại không phốp pháp tương xứng, trái lại phẳng phiu như đường bê tông thành phố. Tôi nhớ ông già La đã từng nói, thịt ở ngực bà dồn cả xuống mông. Ông già La còn có một câu:
Như thế lại đâm tiện, bóp mông bà cũng bóp vú một thể.
Lúc còn bé, chập choạng tối ngoài đồng về, tôi thường nghe thấy bà goá đon đả mồi chài cánh trai trẻ trong thôn:
Tối sang nhà chơi nhé!
Cánh trai trẻ được mời chào thường trả lời:
Mẹ kiếp, ai thèm ngủ với mụ, cái món kia nhẽo nhèo nhèo.
Thời đó tôi đâu có hiểu hàm ý cuộc đối thoại giữa họ. Sau khi khôn lớn dần, tôi mới bắt đầu biết đời sống khoái lạc da thịt của bà goá trong thôn. Hồi đó tôi thường xuyên nghe thấy câu nói đùa như thế này: Ban đêm khi có người trèo cửa sổ mò vào trước giường của bà goá, trong tiếng thở hổn hển và tiếng rên sung sướng, bà goá nói một cách hàm hồ không rõ:
Không được đâu, đang có người!
Khi kẻ đến chậm bỏ đi, còn nghe thấy bà hẹn:
Tối mai đến sớm nhá!
Chuyện cười này thật ra phản ánh một tình hình chân thực. Sau khi màn đêm buông xuống, giường của bà goá rất hiếm có lúc rỗi. Cho dù là đêm hè nóng nực nhất, tiếng rên hư hử của bà goá vẫn vượt qua cửa sổ, bay đến sân phơi có người làng hóng mát, khiến ông già La cảm khái muôn phần:
Trời nóng như thế này, đúng là anh hùng lao động.
Bà goá cao to chắc nịch thích ngủ với trai trẻ. Trong ký ức của tôi cho đến tận bây giờ còn vang vọng cái giọng ồm ồm khi bà đứng đầu bờ ruộng. Một lần bà nói trước mặt mấy chị em trong thôn:
Cánh trai trẻ khoẻ lắm, sạch sẽ không hôi mồm.
Nhưng khi ông đội trưởng nhiệm kỳ trước hơn năm mươi tuổi về sau bị lao phổi qua đời đến trước giường, bà vẫn hớn hở kết nạp. Có lúc bà cũng khuất phục trước quyền lực. Về sau bà bắt đầu gìa yếu, thế là loại dòng dòng trung niên bà cũng vui vẻ chấp tất.
Giữa lúc này, bố tôi Tôn Quảng Tài liền mò vào chiếc giường gỗ đã dần dần trở nên cô quạnh của bà goá, như một nhà từ thiện. Một buổi chiều đầu xuân, bố tôi vác năm ki kô gam gạo tẻ đi vào nhà bà goá. Lúc ấy bà đang ngồi trên ghế băng khâu lót giầy. Bà liếc mắt nhìn ông Tôn Quảng Tài đi vào.
Bố tôi cười nhăn nhở để bao gạo trước chân bà, đang định ôm cổ bà, bà dơ tay ngăn:
- Hượm đã nào - Bà nói - Tôi đâu phải hạng người hễ trông thấy tiền là tối mắt tối mũi lại.
Vừa nói bà vừa thò tay sờ dưới háng bố tôi mấy cái. Bố tôi cười hỏi lại:
Thế nào?
Còn được - Bà trả lời.
Sống một thời gian dài theo nề nếp quy củ, ảo tưởng bị tan vỡ và sự trớ trêu của hiện thực đối với ông, bố tôi bỗngvỡ lẽ. Từ đó trở đi, ông Tôn Quảng Tài thường xuyên đi dẫn dắt bọn trẻ trong thôn, với khẩu khí của người đã từng trải, ông đắc ý nói:
- Nhân lúc còn trẻ, các cậu nên tranh thủ ngủ thêm với mấy con đàn bà, còn những chuyện khác toàn là giả dối.
Bố tôi khệnh khạng trèo lên chiếc giường gỗ chạm hoa kiểu cổ lỗ sĩ của bà goá, Tôn Quang Bình đều nhìn thấy hết. Phớt bơ dân làng, bố tôi tự tiện ra vào nhà bà goá khiến Tôn Quang Bình cảm thấy hết sức bẽ mặt. Hôm nay ăn no uống đủ, khi bố tôi sắp sửa sang nhà bà goá, anh tôi nói:
Ông nên biết đủ.
Mặt tỉnh khô, bố tôi trả lời:
Chuyện ấy chẳng bao giờ biết đủ.
Trong thời gian Tôn Quảng Tài đi vào nhà bà goá với tinh thần hăng hái, rồi lại đi ra với điệu bộ mệt mỏi. Với tâm lý u buồn tôi len lén nhòm trộm mẹ mình. Trong những ngày ngậm đắng nuốt cay, mẹ tôi ít nói, lúc nào cũng luôn chân luôn tay làm việc gì đó, coi như không sảy ra chuyện gì. Lần nào Tôn Quảng Tài chui ra khỏi chăn của bà goá, về nhà leo lên giường vợ trong đêm, mẹ tôi đã nghĩ gì. Tôi thường nghĩ mãi điều này. Tôi suy đoán ý nghĩ của mẹ một cách độc ác, đồng thời lại mang lòng xót thương.
Chuyện sảy ra sau đó khiến tôi cảm thấy, mẹ tôi làm như không có việc gì, thật ra đang ẩn chứa một uất hận mạnh mẽ. Mẹ tôi hận thù đối với bà goá khiến tôi cảm thấy lòng dạ hẹp hòi của đàn bà. Đã bao nhiêu lần tôi nhủ thầm mẹ mình, mẹ nên hận bố chứ không phải bà goá. Lúc bố xuống khỏi giường bà goá đến bên mẹ, mẹ nên từ chối ông. Nhưng mặc dù thế nào, mẹ đều không từ chối, còn rộng lòng đón ông như trước.
Rút cuộc lòng phẫn nộ của mẹ tôi đã bùng nổ trong lúc tưới phân trên ruộng rau. Lúc đó bà goá đang tươi tỉnh, hớn hở từ bờ ruộng đi đến. Sắc thái của bà goá khiến mẹ tôi đột nhiên run bắn người. Thù hận tích góp lâu nay đã sai khiến chiếc gầu tưới trong tay mẹ vung về hướng bà ta. Nước phân theo gió đã bắn lên thân thể đang hơn hớn đắc ý của bà Lúc ấy giọng bà vang lên như kèn đồng:
Mắt bà mù hả!
Phẫn nộ vô cùng, tiếng mẹ tôi run run:
Mụ vào thành phố nằm ra bãi mà ngủ, để bọn đàn ông xếp hàng đú đởn.
- Úi - Bà goá không hề chịu lép - Bà có tư cách gì mà nói thế. Về nhà rửa sách đi, chồng bà bảo cái chỗ ấy hôi ngút trời.
Hai người đàn bà giọng the thé công kích nhau bằng những lời bẩn thỉu khó nghe, giống như hai con vịt cạc cạc kêu loạn xạ, ầm ĩ cả thôn giữa ban trưa. Mẹ tôi, một người đàn bà gầy yếu, sau đó đã dũng cảm lao đầu vào bà goá trên bờ ruộng.
Vừa vặn lúc ấy, Tôn Quảng Tài từ thành phố đi về, tay cầm một chai rượu trắng, để ra sau lưng đang chếnh choáng đi đến. Từ xa, ông đã trông thấy hai người đàn bà đầu tóc rũ rượi giằng xé nhau. Cảnh tượng này khiến ông khoái trá vô cùng. Đến gần vài bước, khi nhận ra là ai, ông hoảng loạn bước sang một bờ ruộng định bỏ chạy. Nhưng người làng chặn lại nói:
Ông mau mau lại khuyên đi.
- Không được, không được - Bố tôi lắc đầu lia lịa - Một người là vợ, một người là con đĩ, người nào tôi cũng để mất lòng, có