Chương 3 - 1 Xa vời
Bố tôi nhận xét, ông nội tôi Tôn Hữu Nguyên là một con người nóng như lửa, lúc nào cũng bừng bừng nổi giận. Tôn Quảng Tài là người bố khéo đùn đẩy trách nhiệm cho người khác. Khi ông đánh tôi nứt da rách thịt, thì ông cũng thở hổn hà hồn hển, bắt đầu xây dựng hình tượng ông nội. Ông nói:
Nếu là bố tao, ông ấy đã đánh chết mày từ lâu.
Ông nội tôi đã mất. Giống như mọi người vẫn sống thời đó, bố tôi quen thói đặt lên mộ người chết tội danh đáng sợ như một tên bạo chúa, còn bản thân thì văn minh và nho nhã. Lời bố ngày đó ít nhiều đã có hiệu quả đối với tôi. Giờ phút đau đớn không thiết sống trôi qua, tôi không thể không thầm cảm ơn bố. Xét cho cùng, nói như thế chứng tỏ bố còn coi trọng tính mạng tôi.
Khi trở thành người lớn bắt đầu xác lập hình tượng chân thực của ông nội trong con mắt và trái tim của mình, tôi cảm thấy khó lòng tưởng tượng nổi ông nội tôi giống như một con người nóng như lửa, lúc nào cũng bừng bừng nổi giận. Có lẽ bố dùng bài học tuổi thơ của ông an ủi tôi. Hình như bố đã nói: So với hồi nhỏ tao bị đánh, mày đã ăn thua gì. Nếu hồi ấy tôi hiểu được ý này, khi thân thể bị đánh, lòng tự tôn của tôi vẫn sẽ còn nguyên vẹn. Nhưng đau đớn đã khiến tôi mất hết lý trí. Ngoài kêu oai oái như một con vật, tôi còn biết làm gì hơn?
Sự tôn trọng đối với đàn bà của ông tôi thời đó khiến người ta ngạc nhiên. Thật ra, trong vô tri vô giác, ông tôi đã cảm ơn số phận. Bà nội tôi từng là một người đàn bà được nuông chiều. Năm mười sáu tuổi, đi giầy nhỏ thêu hoa, ngồi trong kiệu, bà trở thành vợ người khác. Nhưng hai năm sau, bà lại bị buộc dời khỏi ngôi nhà kín cổng cao tường, nằm trên lưng một người đàn ông độc thân nghèo ngủ li bì. Ông tôi nghèo rớt mồng tơi đã đưa bà đến Cửa Nam cỏ mọc um tùm. Sự xuất thân đáng khoe khoang của bà nội khiến ôngTôn Hữu Nguyên cả một đời u ám.
Bà nội qua đời năm tôi lên ba, luôn luôn giữ thói quen rất không hoà nhập với không khí thời bấy giờ trong gia đình chúng tôi. Bà lấy đó chứng minh mình đã từng sống giầu sang và chưa mất hẳn. Trong mùa đông giá lạnh, gia đình tôi vốn nghèo lại có than đốt sưởi. Bà tôi suốt ngày ngồi bên chậu than hồng, hai mắt lim dim có vẻ nhàn rỗi. Cả đời, bà đều rửa chân bằng nước nóng trước khi đi ngủ. Đôi chân bó nhỏ, hình thù quái gở ngâm trong nước, đỏ dần lên phơn phớt hồng. Trong ký ức tôi ghi sâu mãi ấn tượng này.Tuy ngủ chung với một người làm ruộng hơn ba mươi năm, nhưng đôi chân nhỏ của bà chưa bao giờ lội ruộng. Thói quen quý tộc khảng khái của bà đã không bị cản trở và kéo dài mấy chục năm trong gia đình nghèo xơ nghèo xác của chúng tôi. Trong mắt bố tôi, ông tôi là một người nóng tính, lúc nào cũng bừng bừng phẫn nộ. Nhưng trong mắt tôi, ông tôi là một người khiêm nhường, đứng buông thõng hai tay trước chậu rửa chân của bà nội.
Một buổi sớm mùa đông, đáng lẽ nên thức dạy, bà nội tôi đã không thức. Bà ra đi đột ngột không hề có triệu chứng báo trước. Ông tôi đau buồn, đành chịu bó tay. Gặp bất cứ ai trong thôn, ông đều cười thèn thẹn, làm như trong nhà có chuyện gì xấu, chứ không phải vợ chết.
Hình như tôi đã chứng kiến cảnh tượng: Ông nội Tôn Hữu Nguyên đứng trong mưa tuyết bay lả tả, mặc chiếc áo bông đen không có cúc, vết bẩn loang lổ, bên trong không áo lót, ông buộc áo bông bằng một sợi dây cói, da ngực phơi trong giá lạnh mùa đông, lưng ông gù, hai tay xỏ trong ống tay áo, để mặc hoa tuyết rơi và tan trên da ngực. Trong nụ cười, mắt ông tấy đỏ, rôì ông khóc. Ông muốn truyền sang trái tim đứa cháu chưa hề biết gì nỗi đau của mình Tôi láng máng nghe thấy ông bảo:
Bà cháu đã mất.
Bố bà nội chắc chắn là một người giầu tầm thường nhất thời đó. Với lòng thành kính của kẻ nghèo hèn, ông nội tôi luôn luôn ngưỡng mộ người bố vợ đã từng may mắn được gặp.
Những năm cuối đời, với giọng nói hoang lạnh, ôngTôn Hữu Nguyên kể cho chúng tôi nghe cuộc sống giầu sang phú quý của bà nội ngày xưa, nhưng tai chúng tôi chìm đắm nhiều hơn trong tiếng thở dài không hề có ý nghĩa của ông.
Lúc còn bé, tôi luôn không hiểu, tại sao bố vợ ông nội thường cầm cái thước kẻ trong tay, chứ không phải nên cầm quyển sách đóng buộc chỉ như tôi tưởng tượng.ÔngTôn Hữu Tài cũng đã làm được điều này, chỉ khác ở chỗ bố tôi tay cầm cán chổi. Nhưng công cụ khác nhau, biểu đạt mục đích giống nhau. Vong linh đáng sợ này có sự khắc nghiệt của thời đại cũ.Bằng sự tầm thường của bản thân, ông giáo dục hai đứa con trai tầm thường như ông, hơn nữa còn có ý nghĩ hết sức kỳ cục, mong chúng làm rạng rỡ tổ tông. Đối với con gái, tức bà nội tôi, ông cũng phớt lờ. Hầu như ông biến mỗi khoảnh khắc đời sống của bà nội tôi thành nghi thức. Bà nội đáng thương của tôi không nhận thấy tuân theo ý cha khiến bà mất đi tự do tối thiểu. Với niềm hạnh phúc mù quáng, bà nghiêm chỉnh tuân theo quy định của bố, lúc nào thức dạy, lúc nào thêu hoa, tư thế đi đứng vân vân. Sau này bà lại truyền cho ông tôi sự uy nghiêm của bố đẻ. Bà vừa lòng thoả ý thưởng thức sự ưu việt của bản thân trong ánh mắt sợ hãi của ông tôi. Cả cuộc đời ông tôi đều bị sự giầu sang chốc lát như hoa quỳnh của bà bao phủ. Mà cử chỉ khiêm tốn duy nhất của bà là xưa nay bà đều ngồi nghiêng trước mặt ông tôi. Lời răn dậy của bố bà mạnh mẽ biết chừng nào, sau khi đã sớm xa bố trên thực tế, bà vẫn ngoan ngoãn ghép mình trong khuôn phép.
Khi chọn gia đình chồng cho con gái, với ánh mắt sắc sảo của một người đàn ông lấy nghiêm túc cẩn thận làm vinh quang, vừa nhìn một cái, ông đã ưng người đàn ông tương tự mình. Lúc người chồng đầu tiên của bà tôi đi đến trước mặt ông trong tư thế cứng đờ, số phận của con gái ông đã được xác định. Chàng trai ấy, dù nói một câu bình thường nhất cũng phải suy nghĩ kỹ càng, với tôi hiện nay mà nói, xem ra rất khó coi là loại dốt, so với ông tôi, một chàng trai nghèo, tràn đầy sức sống, quả thực anh chàng kia không là cái gì hết. Nhưng anh ta đã được bố bà nội tôi hài lòng cảm mến. Sự cảm mến của bố đã ảnh hưởng trực tiếp đến bà nội tôi. Mỗi lần nhắc đến anh ta với ông tôi, nét mặt bà cũng tỏ vẻ khoe khoang. Ông nội tôi là nạn nhân thứ hai. Sự cung kính chú ý lắng nghe của Tôn Hữu Nguyên đã khiến anh chàng mặc áo chùng kia, trở thành tấm gương để ông nội tôi suốt đời tự ty.
Anh chàng đần độn mặc áo lụa ấy, đi vào cổng màu đỏ tươi nhà bà nội tôi có vẻ mất tự nhiên. Mái tóc anh ta chải sáp ong óng mượt. Tay phải anh ta khẽ nâng vạt áo chùng, đi xuyên qua sân vào phòng khách, vòng qua mép bàn bát tiên, bước đến trước mặt bố đẻ bà nội tôi. Chỉ đơn giản có thế, anh ta đã lấy được bà nội tôi. Khi ông nội kể chuyện này, tôi mới lên sáu, hay nói một cách khác, khi tôi sắp sửa bị bố Tôn Quảng Tài đem cho người khác. Chuyện kể của ông nội, khó lòng khiến tôi thích thú, chỉ gây tí chút ngạc nhiên. Chỉ cần đi qua một cánh cổng đã mở, lại đi vòng qua một cái bàn, là lấy được một người đàn bà. Tôi nghĩ, việc ấy dễ ợt, mình cũng làm được.
Do hơn ba mươi năm sau đó sống trong nghèo khó, bị thổi phồng qua tưởng tượng của bà, về sau lại thông qua cái mồm rất không đáng tin cậy của ông nội, vẻ hào hoa khi đi lấy chồng của bà nội, đã đến tai tôi. Thế là trong đầu tôi ầm ĩ tiếng chiêng trống, trong đó có chiếc kèn xô na kêu réo rắt, dòng người khiêng đồ cưới dài tít tắp. Ông nội tôi cứ nhấn đi nhấn lại cái kiệu to tám người khiêng, nhưng tôi làm sao có thể hiểu nổi phong thái của chiếc kiệu lớn tám người khiêng. Xét đến cùng, tôi mới lên sáu tuổi. Ông nội kể quá ư xúc động, lễ cưới của bà nội rối tung rối mù trong đầu tôi, khiếp nhất là cái kèn xô - na, tiếng kèn xô - na ông nội tôi thổi lên, cứ y như chó sủa đêm khuya, khiến tôi sợ hãi.
Bà nội tôi mới mười sáu tuổi. Khuôn mặt bà giống như một quả táo chín sắp rụng, mặc dù vậy, bà vẫn bị bôi một lớp phấn dầy. Chiều hôm ấy ngồi trong kiệu được đón về nhà chồng, dưới ánh nắng, khuôn mặt bà lấp lánh như một thứ đồ gốm.
Chàng rể người cứng đơ, khiến bà hết sức ngạc nhiên. Toàn bộ lễ cưới, nét mặt anh ta lúc nào cũng cười mỉm. Nụ cười y như vẽ, không hề động đậy, được nhận xét là trang trọng. Xem ra, anh ta giả vờ cười, không giữ được tư thế quân tử cho đến khi lên giường. Đến giờ thắp nến hoa trong buồng cưới, động tác của anh ta bỗng trở nên nhanh nhậy lạ lùng. Sau giây lát ngạc nhiên, bà đã thấy thân thể mình loã lồ. Khí thế hùng hục, không nói một câu, chàng rể đã làm mọi việc cần làm. Sớm hôm sau thức dạy, thấy cô dâu đã biến mất như truyền thuyết, anh ta hốt hoảng kiếm tìm, mãi đến lúc mở cánh cửa tủ, trông thấy bà loã lồ đang run cầm cập trong tủ quần áo.
Anh ấy rất tốt. Bà nhận xét người chồng trước của mình như thế. Tôi không tưởng tượng nổi, trong đêm tân hôn, sau khi làm cho cô dâu khiếp vía, bằng biện pháp dễ chịu thoải mái, chàng rể lại an ủi vợ một cách có hiệu quả. Trong hai năm sau đó, bà nội tôi đều có thể yên tâm và cảm thấy không hổ thẹn mỗi khi màn đêm buông xuống. Ông nội tôi Tôn Hữu Nguyên gọi chồng trước của bà là người đàn ông biết thương đàn bà. Tôi nghi, đây là hình tượng bà nội xây dựng lại trong hồi ức lâu dài. Bà nội không quên quá khứ, làm cho sự khiêm nhường va ngoan ngoãn của ông tôi hơn ba mươi năm qua trở nên có cũng được, không có cũng chẳng sao.
Mẹ chồng của bà mặc chiếc áo lụa đen, ngồi trong phòng khách mùa hè, bên cạnh là một cô hầu áo vải đứng quạt. Khi nói đến bệnh tật đầy người của mình, bà tỏ ra nghiêm túc. Bà không chấp nhận trong nhà có tiếng kêu rên, kể cả bản thân. Đối với bà, tiếng kêu rên làm hư hỏng lề thói gia đình, giống như tiếng cười sặc sụa. Thế là tiếng kêu rên của bà chuyển hoá thành giọng điệu lạnh nhạt, hình như nói đến một người khác đang chịu đựng nỗi dày vò của bệnh tật. Chìm đắm lâu dài trong các kiểu miêu tả có liên quan đến bệnh tật, có thể biết được không khí âm thầm của bà nội tôi. Nhưng bà nội tôi không bị ảnh hưởng bao nhiêu về mặt tâm lý. Trên thực tế, bố bà đã sớm giáo dục cho bà những điều tương tự. Chỉ có vào ban đêm, khi chồng bà với những cử chỉ hoạt bát chốc lát trên giường, trong gia đình như chết này, mới có chút ít sức sống. Nhưng bà nội tôi lại thấy là lẽ đương nhiên và vô cùng thân thiết. Trước khi nằm trên lưng ông nội tôi, rất khó tưởng tượng bà còn có một gia đình khác. Giống như bà luôn luôn không biết khuôn mặt mình rất đẹp. Mãi cho đến sau này, ông nội tôi vững tâm động viên và ca ngợi chân thành, bà mới coi như biết mình đẹp. Còn bố bà, chồng bà và mẹ chồng bà miệng kín như bưng, không bao giờ hé răng khen nửa lời.
Tôi không biết được nhiều hơn chuyện bà nội mình trong gia đình ấy. Cuộc sống trước kia của họ đã bị chôn vùi từ lâu cùng với họ. Trong mấy năm đầu vợ mới chết, nối hiu quạnh và buồn thương, đã khiến ông nội tôi say sưa với chuyện cũ của bà nội. Khi cặp mắt u buồn của ông sáng lấp lánh, bà nội tôi đã sống lại trong lời kể của ông.
Một buổi sớm trong sáng, số phận của bà nội tôi đã chuyển sang một bước ngoặt. Bà nội tôi trẻ đẹp, không phải là một bà lão nhăn nheo tôi nhìn thấy sau này. Tuy trên người bà có những nét cứng nhắc đồng điệu với gia đình kia, nhưng xét cho cùng bà mới mười tám tuổi. Sống ở nơi thâm nghiêm kín cổng cao tường, con gái trẻ rất dễ bị tiếng chim hót ở bên ngoài cuốn hút. Bà nội tôi mặc chiếc áo đỏ tươi, chân đi giầy thêu, đứng trên thềm đá, ánh nắng sớm mai chiếu lên khuôn mặt hồng hào của bà, đôi tay thon nhỏ của bà buông thõng, mới hấp dẫn làm sao. Trên cành cây trước sân, hai con chim sẻ ríu rít bên nhau, nhảy nhót kêu lích chích. Chúng đã thể hiện một loạt những động tác nho nhỏ, vui nhộn mê hồn trước mặt bà. Bà nôị tôi son trẻ vô tri đâu có biết chúng đang tỏ tình với nhau. Bà bị cảm hoá sâu sắc bởi tình cảm quấn quýt và mê say của chúng, đến nỗi bà không hề nhận ra bước chân nặng trịch của mẹ chồng đi đến sau lưng. Bà hoàn toàn chìm đắm trong tình điệu mê hồn của buổi sớm trong sáng. Chẳng bao lâu, khi hai con chim sẻ vẫn ghé đầu chúc mỏ, say sưa tỏ tình trên cành cây, bà mẹ chồng nghiêm khắc đã không thể chấp nhận hành vi vượt ra ngoài khuôn khổ của con dâu tiếp tục kéo dài. Và thế là bà nghe thấy một giọng nói đáng sợ đột nhiên vang bên tai. Mẹ chồng bà bệnh tật đầy người lạnh lùng nói:
Vào trong nhà.
Nỗi hoảng sợ lúc ấy, bà nội tôi suốt đời khó quên. Sau khi quay vào nhà, bà nội tôi nhìn thấy mặt mẹ chồng không phảỉ nghiêm khắc như thường ngày. Trông vẻ mặt phức tạp và sắc lạnh của mẹ chồng, bà cảm thấy lo lắng cho tiền đồ của mình. Là một người đàn bà thông minh, bà nội tôi lúc ấy biết ngay, biểu hiện vui nhộn của hai con chim sẻ, thật ra là một trò đê tiện. Vào đến buồng ngủ, bà dự đoán mình đã mắc tai hoạ lớn. Trong giờ phút không đoán trước được tiền đồ, trái tim bà bối rối. Bà nghe thấy bước chân mẹ chồng lệt bệt đi vào gian buồng khác. Một lát sau, có tiếng bước chân nhanh nhẹ đang đến gần, đó là cô hầu. Cô hầu đến thư phòng, gọi anh chồng đang ngủ li bì của bà đi.
Sau đó là cảnh tượng yên tĩnh như không có việc gì sảy ra. Nhưng nỗi lo lắng trong lòng bà lại tăng dần. Cuối cùng có thêm phần chờ đợi trong sự lo lắng. Bà đột nhiên mong đợi sự trừng phạt của mẹ chồng đối với mình đến sớm hơn. Cái án treo chỉ có thể làm cho bà càng nơm nớp lo âu.
Lúc ăn cơm tối, bà nội tôi dự cảm chuyện bất hạnh sắp sảy ra. Mẹ chồng bà tỏ ra thân thiết một cách bất ngờ. Mấy lần, vành mắt bà tấy đỏ, còn chồng bà thì buồn thỉu buồn thiu. ăn cơm xong, bà bị giữ lại, bắt đầu nghe mẹ chồng kể lể con cà con kê. Mẹ chồng nói với bà về lịch sử gia đình không bắt bẻ vào đâu được của họ, dù về mặt học vấn, hay lĩnh vực làm quan, đều đáng để thế hệ sau hãnh diện, hơn nữa tổ tiên họ từng có một liệt nữ trinh tiết, do một Hoàng đế đa tình, thương hương tiếc ngọc đời nhà Thanh phong tặng. Kể đến đây, bà tỏ ra lưu luyến say sưa. Cuối cùng bà giục con dâu đi sắp xếp đồ đạc. Chuyện đến đây đã rõ ràng, bà nội tôi có trong tay một tờ giấy ly hôn.
Đêm cuối cùng bà nội tôi khó lòng quên. Anh chồng cứng nhắc kia bắt đầu tỏ ra dịu ngọt như một con người. Tuy vẫn im lặng, nhưng anh ta đưa tay vuốt ve bà lâu lắm ( bà nội tôi sau này kể lại với ông nội). Không biết tại sao ông nội tôi không nói đến nước mắt. Cũng chính trong đêm đó bà nội tôi suốt đời không quên anh ta. Sau này, khi từ mồm ông nội tôi nói ra, anh chàng hủ bại kia đã trở thành một gã đàn ông biết thương đàn bà.
Xét cho cùng, mẹ chồng bà nội tôi là một người đàn bà ở vào cuối thời đại cũ. Bà không có cái chuyên quyền độc đoán của tổ tiên, đối với con trai bà không nói mày phải thế này thế kia, mà cho con một cơ hội lựa chọn, tuy sự lựa chọn của con, từ lâu đã nằm trong dự định của bà.
Sáng hôm sau bà nội tôi dậy rất sớm. Mẹ chồng bà còn dậy sớm hơn. Khi ra phòng khách, chồng bà đã trở lại dáng vẻ trước kia. Bà nội tôi rất khó tìm thấy vẻ đau thương trong đêm trên mặt anh ta. Hai người cùng ăn cơm sáng. Tâm trạng bà nội tôi lúc ấy như thế nào? Người con gái còn quá trẻ đã tỏ ra hoang mang lo sợ. Không còn nghi ngờ gì nữa,vận hạn sắp ập đến, nhưng trước khi đến, bà nội tôi vẫn mê muội đầu óc. Trước mắt bà tất cả đều chao đảo mờ nhoà.
Sau đó ba người đi ra khỏi nhà. Bà nội tôi mặc áo đen được mẹ chồng dẫn ra một con đường cái. Mẹ chồng chỉ thị bà nội tôi đi về hướng hướng tây, còn bản thân bà đi về hướng đông. Lúc bấy giờ tiếng vó ngựa của người Nhật Bản đang đến gần. Dòng người chạy loạn gồng gánh dắt díu nhau, đi cách quãng trên đường lúc sáng sớm. Người đàn bà bảo vệ sự trong trắng của gia tộc đi về hướng mặt trời mọc, còn bà nội tôi đành phải quay lưng về hướng mặt trời. Nhìn bóng sau lưng vợ, với nỗi đau buồn không thể miêu tả, nhưng khỏi phải suy nghĩ gì thêm, cuối cùng chồng bà đã chọn đi về hướng đông theo mẹ.
Cứ thế, bà nội tôi cõng cái túi nặng trên lưng, bên trong là quần áo, đồ trang sức và một số đồng bạc. Sắc mặt bà nhợt nhạt đáng sợ. Hơn ba mươi năm sau đó, nét mặt bà không còn có lúc nào ửng đỏ nữa. Gió sớm thổi rối tung mái tóc bà. Nhưng bà không hề nhận ra mình đang đi trong dòng người chạy loạn. Có lẽ điều này an ủi được bà chút ít, bởi vì xem ra bà không giống một người đàn bà bị ly hôn. Nỗi đau buồn không biết làm thế nào trên mặt bà, cũng có ở người đi bên cạnh. Bà nội tôi y như chiếc lá trôi theo dòng nước. Nỗi đau buồn của bà đã hoà trong cảnh chạy loạn của đám đông. Rõ ràng bà không còn mặt mũi nào quay về chỗ người bố nghiêm khắc. Đi lẫn trong đám đông, đã giúp bà giảm bớt những suy nghĩ cấp thiết đối với tiền đồ.
Trong một cuộc chiến tranh đã bùng nổ, quen sống trong nuông chiều, bà nội đã bắt đầu cuộc sống gối đất nằm sương, mà nguyên nhân mắc nạn của bà lại không hề liên quan đến chiến tranh. Giữa lúc đang xúi quẩy thật sự, bà đã gặp một tên đồ tể không rõ nguồn gốc. Từ mùi hôi và mỡ lợn trên người hắn, bà nội tôi phán đoán gã là tên đồ tể.Trong hơn ba mươi năm sau đó, hễ ngửi thấy mùi thịt lợn sống, bà nội tôi lại run run. Tên đồ tể hùng hùng hổ hổ đã chà đạp thân thể bà nội tôi một cách vô cùng nhanh gọn như xẻo thịt.
Lúc nhập nhoạng tối, lửa đạn chiến tranh bay vèo vèo, hết sức sơ xuất, bà nội tôi đã dời đám người chạy loạn, ra bờ sông rửa mặt bám bụi đất đã dần dần trở nên sần sùi. Khi trên con đường cái vắng teo không còn một bóng người, bà nội tôi vẫn còn ngồi ở bờ sông than thân trách phận. Thế là bà phải một mình đối mặt với tên đồ tể. Khi bóng đêm sắp buông xuống, bà nội tôi quỳ bên chân hắn. Tiếng van xin và thân thể bà cùng run rẩy trong gió chiều. Bà mở gói hành lý bằng lòng cho hắn mọi thứ bên trong, lấy đó đổi lại sự trong trắng của mình. Tên đồ tể phá lên cười, một giọng cười mẹ chồng bà hết sức ớn ghét Hắn nói:
Ta có hiếp cô, những thứ này cũng không chạy nổi.
Khi bà nội tôi ngồi trong kiệu trở thành vợ người khác, ông nội tôi Tôn Hữu Nguyên hai mươi ba tuổi đi theo bố đẻ là một thợ đá nổi tiếng gần xa, cùng với một kíp thợ đến một địa phương có tên là Bắc Đãng Kiều, chuẩn bị xây một cây cầu lớn ba vòm đá. Vào một buổi sớm đầu xuân, cụ tôi thuê một chiếc thuyền gỗ chở mình và kíp thợ đi xuôi theo chiều gió trên dòng sông to rộng. Cụ ngồi ở cuối thuyền, hút thuốc lào, hồ hởi phấn khởi nhìn con trai mình. Tôn Hữu Nguyên phanh ngực đứng ở đầu thuyền. Gió lạnh đầu xuân thổi đỏ ửng một mảng ngực chàng trai. Đầu thuyền khẽ nhấp nhô, nước sông rẽ thành hình mũi dao găm sắc nhọn lùi nhanh về phía sau.
Mùa đông năm nay, một quan chức Trung Hoa Dân Quốc chuẩn bị về nhà thăm gia đình. Trước kia anh ta đốt nhà một tài chủ, khi chạy trốn đã bơi qua con sông to rộng, về sau bắt đầu phát tích trở nên giầu có. Nhiều năm sau, anh ta muốn áo gấm về làng bái tổ vinh quy. Quan chức trong huyện không thể để anh ta lại bơi sông về nhà. Thế là cụ tôi đã nhận tiền bạc của chính quyền. Đối với cụ việc này có ý nghĩa trọng đại, cụ căn dặn học trò dưới quyền:
Xây cầu lần này là cầu nhà quan, chúng ta phải làm hết sức cẩn thận.
Họ đã đến một địa phương chưa có cầu, nhưng có tên là Bắc Đãng Kiều. Lúc bấy giờ cụ tôi tuy đã năm mươi tuổi, nhưng ông già gầy còm có giọng nói sang sảng. Cụ đi đi lại lại bên sông, bắt đầu công việc của mình với tư thế của kẻ chơi bời lêu lổng. Bám theo cụ là ông nội tôi tràn đầy sức sống. Khi cụ tôi thăm dò khảo sát địa hình, luôn luôn quay lại gọi đám học trò, giống như bà cụ tôi gọi gà trong nhà. Ông nội tôi lúc nào cũng cầm cục đất trên tay nắm bóp, lại còn thè lưỡi nếm thử. Cứ thế, họ thăm dò khảo sát địa hình hai bên bờ sông. Vẽ xong bản vẽ, cụ tôi phân công đám thợ dựng lều khai thác đá. Còn cụ cùng ông nội tôi đeo lương khô và đồ dùng đi vào rừng.
Hai bố con vào rừng đục đá long môn. Như con mèo hoang, cụ và ông nội tôi ra ra vào vào trong núi. Trên một trái núi không cao, hai người cứ đốp chát đục đẽo suốt ba tháng trời. Thời bấy giờ tài năng công sức của thợ đá, thể hiện toàn bộ trên hòn đá long môn. Đó là một hòn đá lớn chuẩn bị đặt ở giữa cầu, mà phải đặt vào lúc hợp long khánh thành cầu lớn, vừa không được to hơn một tấc, vừa không được nhỏ hơn một phân.
Cụ tôi là một đàn ông nghèo thông minh nhất thời đó, so với bố bà nội tôi, cụ rất tháo vát và giầu chí tiến thủ. Trên thân ông già luôn luôn phiêu dạt giang hồ có sự lãng mạn của nhà nghệ sĩ và ích lợi thực tế của người nông dân. Ông nội tôi do cụ đẻ ra và lớn khôn trong sự hun đúc rèn luyện của cụ cũng xuất chúng như bố. Hai bố con cụ đã đục ở trong núi một tảng đá long môn hình vuông, mặt chính là bức chạm nổi hai con rồng vờn viên ngọc quý, hai con rồng vàng cùng vọt lên cao, tranh nhau viên ngọc lăn tròn ở giữa. Họ không phải loại thợ bắc một tấm đá qua rãnh nước. Họ tạo ra một cây cầu làm một tác phẩm nghệ thuật quý báu kiêu hãnh nhìn các thế hệ kế tiếp.
Ba tháng sau, các học trò đã khai thác đủ đá, vào rừng đón hai bậc tiền bối của tôi. Thế là một buổi trưa hè oi bức, cụ tôi ngồi xếp bằng trên hòn đá long môn do tám cậu học trò khiêng xuống núi. Cụ cởi trần, hút thuốc lào sòng sọc, hai mắt lim dim có thể làm cho ai nấy cũng có cảm giác hài lòng vừa ý. Nhưng cụ không hề tỏ ra dương dương tự đắc. Cụ đã quen cách làm này. Ông nội tôi Tôn Hữu Nguyên mặt đỏ hồng hào, sải bước chắc khoẻ đi bên cạnh. Cứ đi được mười bước, giọng ông nội lại sang sảng cất lên:
Đá long môn đã đến.
Đây chưa phải là giờ phút huy hoàng. Giờ phút huy hoàng nhất là ngày hợp long khánh thành cầu lớn vào cuối thu trong năm. Hôm đó, hai đầu cầu dựng lầu cổng chào, những dải giấy ngũ sắc rực rỡ như lá cây bay phần phật trong gió. Lúc đó chiêng trống rầm trời, khoí thuốc nghi ngút. Trong vòng trăm dặm vuông, dân chúng nô nức đổ đến xem, tiếng người sôi động. Không có một con chim sẻ nào bay đến. Tiếng động rung chuyển đã khiến chúng hốt hoảng bối rối trên cành cây xa xa. Ông nội tôi Tôn Hữu Nguyên luôn luôn từng trải cảnh tượng huy hoàng này, những năm cuối đời lại tỏ ra kinh ngạc trước lễ cười của bà nội tôi. So với cảnh tượng này, lễ cưới của bà nội tôi chẳng qua chỉ là nước trong cốc.
Cụ tôi hoàn toàn không ngờ, trong giờ phút ấy đã bị gục hẳn, không gượng dậy được nữa. Dựa vào thông minh tài cán của mình, suốt đời rèn luyện và trưởng thành trong thực tế, nhưng cụ đã bị thất bại cay đắng ở Bắc Đãng Kiều. Trên thực tế, cụ tôi đã phát giác từ lâu chất đất ở đây xốp, cầu đang lún. Nhưng cụ đã quá tin vào tính toán của mình. Căn cứ kinh nghiệm trước kia, cụ cảm thấy cầu thường hay lún một chút. Đi đôi với thời gian làm xong cầu càng ngày càng đến gần, tốc độ lún cũng càng ngày càng nhanh. Cụ tôi sơ xuất ở điểm này, đã dẫn đến cảnh thê lương của cụ trong những năm cuối đời.
Mặc dù sau đó bị thất bại thảm hại, nhưng khi tám người học trò khiêng hòn đá long môn lên vẫn náo nức xúc động lòng người.Với tinh thần hăng hái, họ lên đến đình cầu. Tiếng dô ta nào, dô ta, bỗng im bặt. Khi họ hết sức cẩn thận đặt hòn đá long môn vào chỗ lỗ thủng, Tiếng chiêng trống im hẳn. Đám đông vây xem cũng lập tức yên lặng. Giữa lúc ấy, cụ tôi nghe thấy một tiếng “cạch”, chứ không phải tiếng “rắc” như trong dự kiến của cụ. Thế là cụ biết trước tất cả những người đang có mặt tại chỗ tai nạn đã sảy ra. Lúc bấy giờ cụ tôi đang ở trên lầu cổng chào, sự việc đột ngột, cụ chưa kịp tắt nụ cười, khuôn mặt bỗng thuỗn ra. Sau tiếng “cạch”chết người ấy, cụ tôi vụt đứng dạy. Về sau ông nội bảo chúng tôi, giây phút đó cụ giống như con cá sắp chết, mắt trợn ngược. Nhưng xét đến cùng, cụ là con người đã từng phiêu bạt giang hồ, trong khi mọi người chưa ai biết đã sảy ra chuyện gì, cụ đã xuống lầu cổng, để tẩu hút thuốc ra sau lưng, giống như đi ra khỏi khách sạn. Cụ đi thẳng vào trong rừng, để mặc con trai và đám học trò gánh chịu tủi nhục.
Hòn đá long môn lúc này bị kẹt chặt ở miệng lỗ. Tám chàng trai cường tráng như trâu mặt đỏ bừng bừng nín thở định nhấc lại hòn đá khổng lồ, nhưng nó nằm chết dí không hề nhúc nhích. Trong tiếng thở hổn hển như sóng lúa dập dờn, tám khuôn mặt như tám bộ gan lợn lấp loá trong nắng hè chói chang. Hòn đá long môn nằm xiên xiên tại chỗ, y như tấm bập bênh, đẩy không vào kéo không ra.
Tôi không biết Tôn Hữu Nguyên sống như thế nào trong ngày nguy hiểm đó. Cụ tôi trốn chạy lúc đó, giống như một kẻ cắp. Tôn Hữu Nguyên lúc đó chịu hai lần xỉ nhục. Ngoài cúi đầu buồn bã như anh em thợ đá, ông nội tôi còn hết sức xấu hổ mang tiếng là con trai cụ. Cảnh tượng lúc bấy giờ thật tồi tệ. Ông nội tôi kể chẳng khác gì đổ nhà. Tình hình bản thân ông càng tồi tệ hơn. Ông chính là một trong tám người khiêng hòn đá long môn lên cầu. Tôn Hữu Nguyên tì lên lan can cầu, không bước nổi chân, đau đớn như có người bóp dái.
Sau khi trời tối, cụ tôi mới về nhà. Tuy cụ không còn mặt mũi nào đứng trước bà con xúm lại xem, nhưng đối với con trai và đám học trò cụ vẫn có thể tự cho mình hơn người. Ông già cực kỳ hoang mang bối rối trong lòng, bằng giọng nói khô khan, đã mắng tối tăm mặt mũi đám học trò bất lực:
- Việc gì phải nhăn nhó như đưa ma thế, ta đã chết đâu, tất cả đều có thể làm lại từ đầu. Nghĩ đến ngày xưa….
Với giọng khảng khái xúc động, cụ tôi nhìn lại quá khứ oanh liệt một thời, lại vẽ ra một viễn cảnh tốt đẹp hơn với đám học trò, sau đó đột nhiên tuyên bố:
Giải thể.
Giữa lúc đám học trò trố mắt ra nhìn, cụ quay người đi luôn. Khi say sưa với ý tưởng bất ngờ đi đến cửa lều bạt, cụ tôi lại nhanh chóng quay người, giọng đầy niềm tin, nói với đám học trò:
Hãy ghi nhớ lời ta, chỉ cần có tiền không sợ không có đàn bà.
Cụ già thời đại cũ cực kỳ dễ xúc động. Khi quyết định đi đến huyện lỵ ngay trong đêm, quỳ gai nhận tội trước quan chức Nhà nước, cụ lại cảm thấy mình rất sáng suốt nghĩa cả như anh hùng trong truyền thuyết. Cụ nói với ông nội tôi mình làm mình chịu. Giọng cụ run run hoàn toàn xuất phát từ xúc động. Đứng trước ông bố sẽ chuyển thất bại thành vinh quang, Tôn Hữu Nguyên cũng ngờ nghệch xúc động theo bố.
Nhưng sau khi đi được chục bước, khí thế tráng sĩ của cụ tôi đã tan biến. Sai lầm của cụ là ở chỗ quay lại nhìn cầu đá. Quay lại nhìn hoàn toàn do vô tình, hòn đá long môn vểnh lên lấp lánh dưới sáng trăng, giống như con sói hoang trong mơ đang nhe răng đáng sợ với cụ tôi. Cái bóng sau lưng của cụ đang đi đột nhiên run rẩy trong mắt ông nội tôi. Đêm trăng vắng lạnh ấy, cụ tôi đi trên con đường mòn dài tít tắp, chịu sự giày vò của thất bại càng lâu dài hơn. Cụ hoàn toàn không hiên ngang bước vào nhà tù lớn trong thành phố như ông nội Tôn Hữu Nguyên kể với con cháu sau này. Dáng vẻ lúc bấy giờ của cụ còn thảm hại hơn một người bệnh đang thoi thóp được khiêng đến trạm xá.
Trong một thời gian rất dài, Tôn Hữu Nguyên đều bị khích lệ bởi khí phách anh hùng giả tạo của bố. Ông không chuyển sang làm nghề khác như lời giặn của bố trước khi đi. Sau khi nhiều anh em thợ khoác túi về nhà, ông nội tôi và bảy người khác khiêng hòn đá long môn tiếp tục ở lại. Tôn Hữu Nguyên thề phải cứu cây cầu đá. Sau khi bố bỏ đi, thông minh tài trí của ông nội tôi được phát huy triệt để. Ông dẫn bảy anh em thợ, đục mười sáu lỗ nhỏ dưới thân cầu, sau đó đẽo mười sáu cái cọc gỗ. Sau khi đút cọc gỗ vào lỗ nhỏ, tám chàng trai như hổ như sói vung mười sáu cái vồ đóng mạnh vào cọc gỗ. Tám chàng trai, người qua đường ai cũng bảo là thằng điên, đóng suốt hai tiếng đồng hồ liên tục. Trước sức mạnh nhỏ bé của họ, khung cầu khổng lồ đã nhích cao lên. Sau đó ông nội tôi nghe thấy tiếng “rắc rắc” xúc động lòng người, tiếp theo sau là một tiếng uỳnh,thoả mãn ý nguyện của ông nội tôi. Hòn đá long môn nằm êm ru trong miệng lỗ.
Vô cùng xúc động, ông nội tôi co cẳng chạy trên con đường mòn. Ông chạy một mạch hơn bốn mươi dặm vào huyện lỵ. Khi cụ tôi đầu óc u mê đi ra khỏi nhà tù đã nhìn thấy con trai mình toàn thân ướt đẫm như tắm trong mưa. Nhưng lúc bấy giờ trời đang tạnh ráo, nắng vàng chiếu rọi muôn phương. Lượng nước trong người ông nội tôi gần như đã khô hết. Tôn Hữu Nguyên chỉ gọi được một tiếng:
Bố…
Sau đó gục xuống, ngất xỉu.
Cụ tôi có sự yếu đuối đặc biệt của thời đại đó. Thất bại ở Bắc Đãng Kiều mặc dù được con trai cứu vớt, đem lại cho cụ niềm an ủi, nhưng bản thân cụ từ đó mất hết lòng hăng hái. Nản lòng thoái chí, cụ tôi lê từng bước chậm chạp của người nông dân già, về sống với bà cụ xinh đẹp thời con gái. Trong những năm cuối đời, hai ông bà già bắt đầu chung sống sớm chiều bên nhau xưa nay chưa từng có.
Còn ông nội tôi Tôn Hữu Phương thì dương dương tự đắc, thoả mãn với bản thân, giống như bố trước kia, dẫn dắt kíp thợ đá tiếp tục sự nghiệp cụ tôi dóng dựng. Nhưng giờ phút huy hoàng của ông nội tôi chỉ ngắn ngủi như hoa quỳnh. Là thế hệ thợ đá cổ xưa cuối cùng, họ đã nếm đủ sự lạnh nhạt của thời đại đối với mình. Hơn nữa trong vòng mấy trăm dặm vuông, đã có nhiều cây cầu vòm đá sừng sững bác qua mặt sông. Tay nghề quá ư tinh thông của tổ tiên khiến họ không thể trông mong tất cả cầu đá đều sập hết trong một đêm. Tốp thợ đói ăn mang theo một lý tưởng ấu trĩ, đi qua đi lại khắp quê hương sông nước Giang Nam. Một cơ hội duy nhất có được, khiến họ xây được một cây cầu nho nhỏ lát đá tấm, mà lại một chiếc cầu bị chênh chếch. Lần đó Tôn Hữu Nguyên có may mắn nhìn tận mắt phong thái nho nhã của bố vợ.
Lần ấy, có một đám nông dân góp tiền mời tốp thợ đá đến làm cầu. Lúc bấy giờ đói bụng, ông nội tôi đã không chọn ăn. Gia đình họ Tôn xưa nay luôn xây cầu lớn vòm đá, đến lượt Tôn Hữu Nguyên đành phải làm cầu nhỏ lát đá tấm. Họ đã chọn ngã ba đường cái làm móng cầu. Nhưng một cây long não to vừa vặn ngáng móng cầu. Ông nội tôi vung tay bảo chặt cây long não. Lúc ấy ông đâu biết, cây gỗ cần phải chặt là của nhà bố vợ.
Lưu Hân Chi, bố vợ sau này của Tôn Hữu Nguyên là một tài chủ lớn nức tiếng gần xa. Đương nhiên, cả cuộc đời nhà tài chủ đâu có biết con rể sau này của mình lại là một chàng trai nghèo kiết xác. Vị tú tài lúc nào cũng bô bô lo trước thiên hạ sướng sau thiên hạ, vừa nghe nói sẽ chặt cây long não lớn nhà mình, đã nổi giận lôi đình như bị đào mả tổ. Quên hết đầu óc kinh luân, trước mấy người đến thương lượng, ông đã buột mồm chửi ầm ĩ bằng những lời thô tục của nông dân.
Không biết làm cách nào, Tôn Hữu Nguyên đành phải xây móng cầu chếch đi một chút. Ba tháng sau, họ xây xong cây cầu. Những người nông dân góp tiền xây cầu đã mời ngài Lưu Hân Chi đặt tên cho cầu đá.
Chính sáng hôm đó, ông nội tôi đã gặp bố vợ mình. Khi Lưu Hân Chi mặc áo lụa thong thả bước đến, khiến ông nội tôi trố mắt nhìn. Trong con mắt của Tôn Hữu Nguyên, vị tú tài cố làm ra vẻ thâm trầm dưới trời nắng, còn tỏ ra oai phong hơn viên quan chức Trung Hoa dân quốc. Vài năm sau, khi ông ngủ chung với bà nội tôi, nhớ lại cảnh tượng Lưu Hân Chi hủ bại lúc bấy giờ, Tôn Hữu Nguyên dồi dào sức sống cứ than thở mãi.
Với tư thế của người có học, sau khi đến cạnh chiếc cầu, Lưu Hân Chi lập tức tỏ thái độ khinh bỉ. Làm như mình bị xỉ nhục, ông nghiêm giọng nói:
Chiếc cầu vênh vẹo thế này, lại còn nhờ ta đặt tên.
Nói rồi ông phẩy tay áo bỏ đi.
Ông nội tôi vẫn lên bắc xuống nam. Họ lặn lội đường dài trong tiếng súng giữa Quốc dân đảng với Đảng cộng sản và trong cảnh mất mùa đói kém, xác chết đầy đường. Những năm tháng ấy, ai còn bụng dạ nào bỏ tiền ra để những người thợ đá trổ tay nghề? Giống như lũ ăn mày, họ tìm việc khắp nơi. Với quyết tâm cao, chí khí lớn xây cầu, nhưng thật trớ trêu, ông nội tôi sống trong thời đại người ta say sưa với phá hoại. Rút cuộc kíp thợ không thể không đánh mất niềm tin trong trắng ban đầu. Họ làm đủ mọi việc, ngay đến lau rửa những xác chết cứng đơ và đào hố chôn người, họ cũng không từ. Chỉ có như vậy, họ mới không đến nỗi phơi xác ngoài cánh đồng. Trong những giờ phút cực kỳ gian nan, Tôn Hữu Nguyên vẫn dẫn dắt đồng nghiệp đi lung tung, không hề có hy vọng. Tôi không biết ông đã dùng những lời đường mật như thế nào thuyết phục họ theo mình. Mãi cho đến một đêm sau này, khi bị coi là đám du kích của Đảng cộng sản, bị quân đội Quốc dân đảng tấn công, kíp thợ đá tràn đầy lý tưởng lỗi thời, mới không thể không sinh ly tử biệt.
Lúc bấy giờ những chàng trai nghèo của tốp thợ đá đang nằm ngủ trên bãi sông, khi loạt đạn đầu tiên bắn đến, Tôn Hữu Nguyên vẫn an toàn, ông còn chống người dạy hỏi to, ai đang đốt pháo. Sau đó ông nhìn thấy một người anh em bên cạnh bị bắn nát mặt, dưới sáng trăng trông lầy nhày một đống như trứng gà bị đập vỡ. Đang mắt nhắm mắt mở, ông nội tôi liền co cẳng chạy. Khi chạy theo ven sông, ông cứ kêu oai oái. Nhưng một viên đạn đã xuyên qua đũng quần ông, ông lập tức im bặt. Tôn Hữu Nguyên thầm nghĩ toi rồi, dái đã bị bắn mất. Mặc dù vậy, ông nội tôi vẫn chạy thục mạng. Tôn Hữu Nguyên chạy một mạch mấy chục dặm. Lúc ấy ông cảm thấy đũng quần mình đã ướt sũng. Ông không nghĩ liệu đó có phải là mồ hôi, chỉ cảm thấy máu chảy sắp hết. Ông vội vàng đứng lại, thò tay ấn chặt vết thương trong đũng quần. Vừa ấn vào, ông đã sờ thấy hòn dái. Đầu tiên ông giật mình nghĩ bụng, mẹ kiếp cái gì thế này, sờ kỹ mới biết dái vẫn còn. Sau đó, ngồi dưới một gốc cây, ông nội tôi sờ thật lâu hai hòn dái bị mồ hôi ướt sũng, cứ hì hì cười hoài. Sau khi tin chắc mình không chết, ông mới nghĩ đến số anh em thợ đá trên bãi sông. Nghĩ đến người anh em bị bắn nát mặt, ông gào khóc hu hu.
Rõ ràng, Tôn Hữu Nguyên đã không thể nối nghiệp ông cha. Mới hai mươi lăm tuổi, ông đã buộc phải nếm mùi thê lương của bố đẻ khi cáo lão về làng thuở nào. Khi sắp sửa sang xuân, ông nội trẻ tuổi của tôi, với vẻ mặt buồn rươì rượi của người già, lê từng bước trên con đường đầy cát bụi trở về quê.
Trước đó hơn một năm, sau khi trở về nhà, cụ nội tôi lăn ra ốm. Cụ bà tiêu hết số tiền giành giụm cũng không cứu nổi sức sống ngày xưa của cụ ông.Thế là lại cầm cố thêm một số đồ dùng có giá của gia đình. Cuối cùng ngay đến bản thân cụ bà, cũng ốm nằm liệt giường. Đêm ba mươi tết, khi về đến nhà, quần áo ông nội tôi rách bươm, không một đồng xu dính túi. Bố ông ốm nặng đã tắt thở. Mẹ ông nằm cạnh xác bố cũng đang thoi thóp. Bày tỏ niềm vui con trai trở về, bà mẹ bệnh tật đầy người chỉ còn biết thở mạnh và gấp gáp. Ông nội tôi đã mang cái nghèo túng trở về với gia đình nghèo túng như thế đó.
Lúc ông nội tôi còn trẻ, đây là những giờ phút thê thảm nhất. Trong nhà không còn thứ gì đáng để ông đưa ra hiệu cầm đồ, mà trước và sau tết xuân, cũng không có chỗ nào để ông bán sức lao động, đổi lấy một chút gạo củi. Tôn Hữu Nguyên bó tay hết sách. Sáng mồng một tết, đội gió lạnh thấu xương, ông vác xác bố chạy vào thành phố. Ông có ý nghĩ hết sức kỳ cục định đưa xác bố vào hiệu cầm đồ. Dọc đường, ông luôn mồm xin lỗi xác chết trên vai. Dốc hết tâm tư, ông tìm lý do tránh tội cho mình. Xác cụ tôi đã bị rét cóng hai ngày hai đêm trong gian nhà tranh trống huơ trống hoác, sau đó lại bị ông nội tôi vác đi ba mươi dặm trong gió bắc gào thét. Khi đặt trên quầy hiệu cầm đồ trong thành phố, xác cụ đã cứng đơ, rắn như que kem.
Nước mắt lưng tròng, ông nội tôi van xin ông chủ hiệu cầm đồ. Ông nói, ông không phải đứa con bất hiếu, thật tình không có cách nào khác. Ông nói với chủ hiệu:
- Bố tôi chết không có tiền chôn cất. Mẹ tôi còn sống đang nằm trong nhà không có tiền chạy chữa. Xin ông rủ lòng thương, mấy hôm nữa tôi chuộc lại.
Chủ hiệu cầm đồ là một ông già hơn sáu mươi tuổi. Cả đời ông chưa bao giờ nghe nói người chết vẫn có thể cầm cố. Ông bịt mũi xua tay rối rít:
Không nhận, không nhận, ở đây không nhận “bồ tát vàng”.
Mồng một tết, ông nội tôi cứ tưởng bở, có thể kiếm được món hời, khiến cụ tôi vinh hạnh trở thành một pho tượng bồ tát vàng có giá cao.
Nhưng ông nội tôi không thức thời, vẫn rối rít van nài. Thế là ba nhân viên cửa hàng bước đến, thò tay đẩy xác cụ tôi ra. Xác cụ tôi cứng đơ, lăn phịch xuống đất như một tấm đá. Tôn Hữu Nguyên vội vàng ôm xác bố, nhìn xem cụ tôi có bị hư hỏng không, hình như mình đã đã mắc tội nặng. Ngay sau đó, một luồng nước lạnh hắt lên đầu ông nội tôi. Khi ông vẫn còn đứng tại chỗ, người giúp việc hiệu cầm đồ đã bắt đầu quét dọn quầy hàng bị xác cụ tôi bám bẩn. Việc này đã làm cho ông đùng đùng nổi giận. Ông nhằm đúng mũi một người giúp việc đấm một quả búa bổ. Thân anh chàng kia như cục đất bắn khỏi nỏ, ngã quay lơ ra đất. Ông nội tôi cường tráng vô cùng, lại dốc hết sức hất đổ quầy hàng. Mấy người giúp việc khác cầm gậy xông vào đánh.Tôn Hữu Nguyên đành phải dơ xác bố lên chống đỡ và tấn công lại. Buổi sáng sớm giá lạnh ấy, ông nội tôi vung xác chết cứng đờ làm rung chuyển hiệu cầm đồ. Được xác bố chi viện mạnh mẽ, Tôn Hữu Nguyên dũng cảm đánh cho mấy người giúp việc khiếp vía kinh hoàng. Không ai trong số họ dám động đến xác chết, để khỏi gặp rủi ro trong cả năm. Mê tín của thời đó đã làm cho lòng dũng cảm của Tôn Hữu Nguyên hầu như không bị cản trở gì. Khi Tôn Hữu Nguyên vung xác bố đánh ông chủ cửa hiệu sắc mặt tái mét, thì đến lượt Tôn Hữu Nguyên kinh hoàng. Ông đập đầu bố vào một chiếc ghế. Một tiếng kêu đáng sợ khiến ông nội tôi bỗng nhận ra mình đang gây nghiệp chướng. Lúc này ông mới biết mình đã ngang ngược bố láo, lấy xác bố làm vũ khí. Đầu cụ tôi bị đánh ngoẹo sang một bên. Sau giây lát trố mắt ra nhìn, ông nội tôi lập tức vác xác bố ra khỏi cửa, chạy trong gió lạnh thấu xương. Sau đó Tôn Hữu Nguyên khóc lóc đau đớn như một đứa con có hiếu. Lúc bấy giờ ông ngồi dưới gốc một cây du mùa đông, ôm xác bố bị vẹo đầu trong lòng. Hí hoáy mãi, ông nội tôi mới nắn thẳng được đầu bố.
Mai táng bố xong, Tôn Hữu Nguyên vẫn không mai táng được cảnh nghèo khó. Trong mấy ngày sau đó, ông đành phải đào bới một số cây cỏ dại luộc cho mẹ ăn. Đó là những cây cỏ non màu xanh hồng nhạt mọc ở góc tường. Tôn Hữu Nguyên không biết đó là cây ích mẫu. Thế là ông vô cùng sung sướng nhìn thấy mẹ ốm lịêt giường, sau khi ăn cây này có thể lần xuống giường đi lại được. Việc này khiến ông nội tôi ruột để ngoài da chợt hiểu một điều. Ông hết sức ngây thơ cho rằng mình đã tìm ra một chân lý. Ông cảm thấy những thầy lang có bàn tay kỳ diệu, thật ra chẳng có bản lĩnh gì, chẳng qua là cắt một đống cỏ xanh nuôi người bệnh như nuôi dê nuôi cừu. Vì vậy ông đã bỏ ý định ra thành phố làm thuê. Sau khi bỏ nghề thợ đá, ông nội tôi quyết định sẽ đi chữa bách bệnh như thầy lang.
Tôn Hữu Nguyên hăng hái sôi nổi, ông biết mới đầu phải đến tận nhà hỏi khám, sau đó nổi tiếng, có thể ngồi nhà chữa bệnh cho người. Ông khoác một bồ cỏ tạp bắt đầu cuộc sống đi đến từng nhà. Giọng ông sang sảng, rao bán khắp nơi như người buôn đồng nát:
Thuốc đông y chữa bệnh đây!
Khi bố mẹ đứa trẻ từ trong nhà chạy ra hỏi ông nội tôi bằng lời vừa thành thật vừa nghi ngại, thật ngạc nhiên đã nghe Tôn Hữu Nguyên trả lời họ một cách ráo hoảnh:
Nó uống thuốc của tôi, tôi sẽ mang bệnh của nó đi.
Đứa trẻ đáng thương, sau khi uống một nắm cỏ xanh, lập tức miệng nôn trôn tháo ra nước xanh lè, chưa được hai hôm thì bỏ mạng. Rồi một buổi chiều, bà cụ tôi hốt hoảng nhìn thấy cảnh tượng, hơn mười người đàn ông hằm hằm giận dữ, xồng xộc vào nhà.
Lúc này ông nội tôi không hề sợ hãi. Ông giục mẹ sắc mặt nhợt nhạt đi vào trong nhà, rồi khép cửa. Còn mình tươi cười đón tiếp họ một cách cực kỳ hữu nghị. Người nhà và họ hàng người chết đến đòi mạng Tôn Hữu Nguyên. Trước đám người sắc mặt xanh xám, khăng khăng làm theo ý mình, ông nội tôi lại định dùng những lời đường mật lừa họ ra về. Không ai thèm nghe những lời xằng bậy dông dài của Tôn Hữu Nguyên. Họ xúm lại vây chặt ông nội tôi. Mấy lưỡi cuốc sáng loáng nhằm thẳng vào trán nhẵn thín của ông. Tôn Hữu Nguyên từng trải mưa bom bão đạn của quân đội Quốc dân đảng, lúc này tỏ ra rất bình tĩnh. Ông dương dương tự đắc nói với họ, đừng nói mới có hơn mười người, dù có đông gấp đôi, ông cũng đánh cho người nào người ấy đầy mình thương tích. Đứng trước cái chết, Tôn Hữu Nguyên nói ngông như thế, trái lại đã làm cho số người kia ngơ ngác không hiểu ra sao. Lúc này ông nội tôi phanh cúc áo, nói với họ:
Để ta cởi áo đã, sẽ đánh nhau với các người.
Tôn Hữu Nguyên gạt phắt một cái cuốc, đi đến trước nhà, đẩy cửa bước vào, còn dơ chân đạp đóng cửa lại một cách hết sức lịch sự. Ông nội tôi vừa vào đến nhà là như đá chìm đáy biển không bao giờ xuất đầu lộ diện. Đám người đến hỏi tội đứng ngoài xoa nắm đấm chờ đợi. Họ không biết ông nội tôi đã nhảy qua cửa sổ chạy trốn, người nào cũng sẵn sàng đợi lệnh như đứng trước kẻ thù lớn. Chờ chán chờ chê, chờ mãi không thấy Tôn Hữu Nguyên ra, cảm thấy không ổn, mới đạp cửa xông vào, căn nhà trống không. Sau đó họ đã trông thấy Tôn Hữu Nguyên đang cõng mẹ chạy trốn trên con đường mòn xa tít. Ông nội tôi không phải là gã nhà quê ngốc nghếch. Vượt cửa sổ chạy trốn chứng tỏ ông có dũng có mưu.
Sau khi Tôn Hữu Nguyên cõng cụ bà tôi co cẳng chạy trốn, ông rất khó dừng lại. Giống như bà nội tôi, ông chen thân vào dòng người chạy loạn. Có mấy lần ông nghe thấy tiếng súng tiếng pháo của người Nhật Bản ở phía sau. Ông nội tôi là người con hiếu thảo điển hình thời đại đó. Ông không nhẫn tâm nhìn bà cụ tôi với đôi chân nhỏ vẹo vọ đi đường một cách khó nhọc. Thế là ông luôn luôn cõng mẹ, người đẫm mồ hôi, thở hổn hển, đi trên những con đường cát bụi mù mịt, chạy tán loạn theo dòng người tản cư. Mãi đến một buổi tối sau đó, Tôn Hữu Nguyên kiệt sức, đã tách khỏi dòng người, đặt mẹ dưới một thân cây khô héo, tự đi xa tìm nước, ông mới không cõng mẹ nữa. Bôn ba suốt ngày nọ sang ngày kia, bà cụ tôi vốn yếu ớt, vừa nẵm xuống đã ngủ thiếp đi. Trong đêm vắng lạnh dưới sáng trăng, sau khi đi vào giấc ngủ, bà cụ tôi đã bị một con chó hoang ăn thịt. Lúc còn bé, suy nghĩ của tôi khó thoát ra khỏi cảnh tượng như ác mộng này. Một người ngủ say bị chó hoang cắn xé, ăn từng miếng, thật khủng khiếp biết chừng nào. Khi ông nội tôi trở lại gốc cây, bà cụ tôi đã bị cắn nát. Con chó hoang thè cái lưỡi dài ngoẵng cứ liếm vào mũi nó, hằm hằm nhìn ông nội tôi, khiến Tôn Hữu Nguyên khóc thét lên như một người điên. Lúc bấy giờ ông nội tôi hoàn toàn quên mình là một con người. Giống như một con chó hoang, ông gào lên lao đến. Con chó hoang bị tiếng thét của ông nội tôi làm cho hoảng sợ nhiều hơn. Nó quay ngoắt tháo chạy. Tôn Hữu Nguyên điên tiết lại đuổi theo con chó hoang. Buột mồm chửi lớn lúc đuổi theo, không ảnh hưởng đến tốc độ của ông. Rút cuộc chó đã chạy mất tăm mất tích. Còn ông nội tôi vừa thở hổn hển, vừa nước mắt dàn dụa, đành phải quay về bên xác mẹ. Quỳ bên thân mẹ, Tôn Hữu Nguyên cứ đấm vào đầu mình bôm bốp. Tiếng khóc thảm thiết của ông khiến bầu trời đêm trở nên âm u đáng sợ.
Sau khi chôn cất mẹ, vẻ mặt vốn tự tin từ lâu của Tôn Hữu Nguyên đã mất hết. Vô cùng đau khổ, ông như cánh bèo trôi theo dòng nước trên đường chạy loạn. Cái chết của mẹ khiến ông bỗng chốc cảm thấy mình chạy loạn chẳng còn ý nghĩa gì. Do đó, khi chợt nhìn thấy bà nội tôi ngồi trước bức tường đổ, lòng ông bỗng xao xuyến dạt dào. Bà nội tôi lúc ấy không hề còn bóng dáng giầu sang trên người. Quần áo rách bươm, bà ngồi trên bãi cỏ tạp. Từ trong mái tóc loà xoà, ánh mắt bà nhìn thấy khuôn mặt rầu rĩ của ông nội tôi. Sau đó không lâu, bà nội tôi đang thoi thóp trong cơn đói lả, đã nằm ngủ mê mệt trên lưng ông. Thế là chàng trai Tôn Hữu Nguyên nhặt được một người đàn bà có thể làm vợ. Ông không còn phiêu bạt một cách không hề có mục tiêu nữa. Trải qua thời gian dài bị đói kém và nghèo khó cướp đoạt, khi Tôn Hữu Nguyên cõng bà nội tôi đi về phía trước, khuôn mặt hồng hào trẻ trung của ông ánh lên lấp lánh.