← Quay lại trang sách

Chương 3 - 3 Tan biến dần

Trạng thái tinh thần trước khi chết của ông nội Tôn Hữu Nguyên giống hệt con trâu sắp bị giết trong làng. Trong mắt tôi lúc ấy là một con trâu to kềnh càng ngoan ngoãn nằm trên đất, dơ bốn chân để người ta lấy dây thừng buộc chặt. Lúc đó tôi đứng ở một đầu sân phơi của thôn. Hai anh em trai của tôi đứng ở phía trên cùng. Chiều hôm ấy, giọng em trai tôi không hiểu giả vờ hiểu bay loạn xạ như bụi đất, xen lẫn tiếng mắng của anh trai Tôn Quang Bình:

Mày có biết cái rắm thối.

Thoạt tiên giống như em trai không biết gì, tôi cứ tưởng con trâu không biết số phận của nó. Nhưng tôi đã nhìn thấy nước mắt nó. Sau khi nó bị trói bốn chân, tôi đã nhìn thấy nước mắt nó rơi lã chã trên nền xi măng, giống như những giọt mưa rào. Trước cái chết, mạng sống đã thể hiện sự lưu luyến vô hạn đối với quá khứ. Trạng thái tinh thần của con trâu đã không chỉ là bi ai, nói một cách chính xác, tôi đã chứng kiến một sự tuyệt vọng. Còn gì có thể cảm động lòng người hơn tuyệt vọng? Sau đấy tôi nghe thấy anh trai bảo một cậu bé khác, khi bị trói con trâu mắt đỏ hoe. Trong những năm tháng sau này, tôi cứ dờn dợn nhớ lại cảnh tượng trước khi chết của con trâu. Trước cái chết nó nín nhịn không có bất cứ phản kháng nào, trước mặt tôi xuất hiện một bức tranh nát vụn khiến người ta lo lắng không yên.

Lâu nay cái chết của ông nội luôn luôn là một bí mật đối với tôi. Cái chết của ông vừa huyền bí vừa thực tế, tôi không sao biết được nguyên nhân thực sự. Đúng như vui quá hoá buồn, trong buổi chiều mưa tầm tã ấy, sau khi ngẩng mặt lên Trời gào thét một cách cực kỳ dũng cảm, ông tôi lập tức rơi xuống vực thẳm sợ hãi, tôi đã nhìn thấy ông há mồm trợn mắt sau khi không biết làm thế nào hơn. Trong giây lát há mồm gào thét, ông tôi ngạc nhiên cảm thấy từ trong cơ thể có một cái gì đó buột ra khỏi mồm. Cái thứ ấy hình như vỗ đôi cánh xinh đẹp giống một con chim. Sau đó ông hốt hoảng quay người buồn bã thốt lên:

Ôi, hồn ta, hồn ta đã bay đi.

Linh hồn của ông tôi giống như con chim bay ra khỏi mồm. Đối với một đứa trẻ mười ba tuổi như tôi, chuyện này vừa ly kỳ vừa đáng sợ.

Chiều hôm ấy tôi đã nhìn thấy trạng thái tinh thần trước khi chết của con trâu xuất hiện trên nét mặt ông nội. Lúc bấy giờ mưa tạnh trời hửng, đúng là lúc nhiều cụ già trong làng ngạc nhiên trước lời dự đoán của ông tôi đã biến thành sự thật, trong khi ông tôi đã không còn tâm tư nào hưởng thụ niềm tự hào của bản thân. Ông tôi vẫn đang chìm đắm trong nỗi buồn mất linh hồn. Nước mắt rưng rưng ông tôi ngồi trên ngưỡng cửa trước ánh nắng đang hửng dần. Mồm ông đang phát ra tiếng rên hừ hừ hết sức thương tâm. Từ sau khi bố mẹ tôi vác cuốc ra đồng làm việc, ông tôi bắt đầu khóc, cho mãi đến lúc bố mẹ tôi đi làm về, ông vẫn còn khóc. Tôi chưa bao giờ thấy một người đàn ông nào khóc dai như thế.

Từ ngoài đồng về nhìn thấy ông tôi khóc, bố tôi động lòng cảm thấy ông tôi khóc với con trai, bố tôi càu nhàu:

Tôi đã chết đâu mà ông khóc đưa đám.

Sau đó, ông tôi đứng lên, vừa khóc vừa đi qua bên chúng tôi. Ông tôi không cùng ngồi ăn cơm với con cháu như thường ngày, mà đi vào gian buồng chứa đồ tạp nham, nằm trên giường của mình. Nhưng chẳng bao lâu,ông đã gọi con trai bằng giọng nói kinh khủng:

Tôn Quảng Tài.

Bố tôi không đáp, nói với mẹ tôi:

Lão già làm ra vẻ, bắt tôi bưng cơm vào.

Ông tôi tiếp tục gọi:

Tôn Quảng Tài, hồn bố mất rồi, bố sắp chết đây.

Lúc này bố tôi mới đi đến trước cửa buồng ông tôi, nói vào trong:

Sắp chết rồi sao còn to tiếng thế?

Ông tôi khóc hu hu, trong tiếng khóc, giọng ông mơ hồ, câu được câu mất:

Con ơi, bố con sắp chết đây. Bố không biết chết là thế nào, bố sờ sợ.

Tôn Quảng Tài rất khó chịu, nhắc nhở bố:

Ông vẫn đang sống sờ sờ đây thôi?

Có lẽ được nói chuyện với con trai, tinh thần ông tôi phấn chấn hẳn lên:

Con ơi, bố không thể không chết, bố còn sống ngày nào, con còn khổ ngày ấy.

Giọng ông sáng láng khiến bố tôi cảm thấy không yên. Bố tôi bực tức nói:

- Ông nói khe khẽ một chút có được không, kẻo người ta nghe thấy hình như tôi đang bức hại ông.

Trái tim non trẻ của tôi cảm thấy ngạc nhiên và sợ hãi không miêu tả nổi trước sự dự đoán và sắp xếp cái chết của ông nội. Bây giờ nghĩ lại, đối với ông tôi, cảm thụ sinh lý trong giây lát cảm thấy linh hồn bay đi là chân thực đáng tin. Tôi nghĩ trước cái chết của bản thân, con người sẽ không giả vờ giả vịt. Có lẽ sau khi ngã gẫy cột sống, có thể ông tôi đã thiết kế cho mình ngày kết liễu cuộc đời. Do đó cảm thụ sinh lý như đơn thuần có được khi ông ngửa mặt lên trời gào thét đã thăng hoa thành dự báo cái chết là linh hồn bay đi. Buổi chiều hôm mưa tạnh trời hửng, khi ông tôi khóc dai dẳng là đã hoàn thành sự phán quyết đối với bản thân. Ông già cuối đời đã từng không biết lựa chọn từ đâu giữa việc sắp gặp lại người vợ đã chết và vĩnh viễn từ biệt cõi trần mịt mù cát bụi. Chín năm đằng đẵng ông tôi đã do dự không quyết. Đến giây phút cuối cùng cảm thấy đã không né tránh được cái chết đến với mình, ông tôi đã dùng nước mắt để biểu đạt sự luyến tiếc đối với cõi trần gian truân như thế nào. Yêu cầu duy nhất của ông tôi là đòi con trai sắm cho mình một chiếc áo quan và tổ chức kèn trống đưa đám:

Kèn đưa tang thổi to lên một chút để báo tin cho mẹ con.

Ông tôi sắp chết nằm trên giường. Tôi vô cùng kinh ngạc trước sự việc này. Trong giây phút ấy hình tượng ông nội hiện ra trong trái tim tôi đã thay đổi hoàn toàn, không còn là hình tượng một ông già lụ khụ ngồi ở góc nhà hồi tưởng quá khứ. Ông tôi đã gắn liền với cái chết. Đối với tôi, ông đã trở nên xa vời vợi, hoà làm một với bà nội chẳng còn mấy ký ức trong tôi.

Thằng em tôi rất quan tâm đến cái chết của ông nội. Cả buổi chiều nó đứng ở cạnh cửa, nhìn ông nội qua khe hở, chốc chốc lại chạy đi báo tin cho anh trai tôi:

Vẫn còn sống - Nó giải thích với Tôn Quang Bình - Da bụng ông còn động đậy.

Đối với bố tôi, quyết tâm ra đi của ông nội chẳng qua chỉ là hư trương thanh thế. Buổi chiều hôm ấy, sau khi vác cuốc ra khỏi nhà, bố tôi hậm hực cho rằng ông tôi tìm cách hành hạ bố tôi. Nhưng chiều tối sau khi cả nhà đã ăn cơm, ông tôi vẫn không ra khỏi buồng. Khi mẹ tôi bưng bát cơm đi vào, chúng tôi nghe thấy tiếng ông thều thào:

Chết đến nơi rồi, tôi không ăn cơm.

Đến lúc này bố tôi mới thật sự coi trọng quyết tâm sẽ chết của ông tôi. Sau khi bố tôi ngạc nhiên đi vào buồng ông tôi, hai vị oan gia lại nói chuyện như một đôi anh em thân thiết. Bố tôi ngồi trên mép giường ông tôi. Tôi chưa bao giờ nghe thấy bố tôi nói chuyện với ông tôi một cách tình cảm như thế. Sau khi ra khỏi buồng ông tôi, bố tôi đã tin chẳng bao lâu nữa ông tôi sẽ qua đời. Nỗi mừng lộ trên nét mặt, bố tôi không hề che dấu niềm vui của mình, bố tôi hoàn toàn không quan tâm đến việc mình có phải đứa con hiếu thảo hay không. Chính bố tôi loan tin ông tôi chuẩn bị chết. Ngồi trong nhà tôi có thể nghe rõ bố tôi nói oang oang ở bên ngoài:

- Một người đã bỏ ăn còn sống được bao lâu?

Ông tôi nằm một đêm trong chờ đợi, sáng hôm sau khi nhìn thấy con trai đi vào, nhanh chóng nhổm dạy, ông tôi hỏi bố tôi:

Áo quan đâu?

Không nhìn thấy ông tôi đang thoi thóp như mình tưởng tượng, bố tôi ngạc nhiên, tỏ vẻ thất vọng đi ra ngoài. Bố tôi lắc đầu quầy quậy nói:

Xem ra còn phải dăm ba hôm, lão vẫn nhớ đến cỗ áo quan.

Có thể bố tôi lo khi ăn trưa, ông tôi sẽ đột nhiên đi ra ngồi giữa đám con cháu. Bố tôi cảm thấy chuyện ấy có thể xảy ra lắm, cho nên bố tôi phải coi trọng cỗ áo quan trong con mắt và trái tim của ông tôi. Thế là sáng hôm ấy, bố tôi cầm hai thanh gỗ bước vào giống như một kẻ cắp, ra lệnh cho em trai tôi bằng nét mặt thần bí đáng cười, bảo nó gõ hai thanh gỗ vào nhau. Bố tôi xưa nay vốn thật thà, bỗng dưng tỏ ra gian giảo khiến tôi vô cùng ngạc nhiên. Sau đó bố tôi đứng thẳng người, đẩy cửa buồng ông tôi, nói bằng giọng của đứa con có hiếu:

Bố ơi, con đã mời thợ mộc đến.

Từ cửa buồng mở một nửa, tôi nhìn thấy ông nội khẽ nhổm người để lộ nụ cười an ủi. Lúc này cậu em tôi vốn ham chơi lêu lổng đã tạm thời có việc. Tôn Quang Minh vung hai thanh gỗ đánh trận giả ầm nhà. Là cậu bé tự do, nó không chịu hoạt động lâu dài trong gian nhà chật hẹp. Rất nhanh chóng, Tôn Quang Minh lao mình vào cuộc chiến đấu thật sự, giống như một vị tướng thời xưa, mồ hôi thấm áo, cậu lao ra khỏi nhà. Lúc này cậu đã quên ắng nhiệm vụ bố giao, say sưa trong niềm vui chém giết. Nó hò hét, thở hổn hển, dần dần lao ra xa dưới ánh nắng buổi sáng, không ai biết nó đi đâu, mãi đến lúc sắp sửa ăn cơm tối, nó mới về với hai bàn tay không. Khi bố tôi hỏi vứt thanh gỗ ở đâu, mặt nó thuỗn ra, ấp a ấp úng giải thích mãi, hình như chưa nhìn thấy thanh gỗ bao giờ.

Sau khi em trai tôi đi xa, tôi nghe thấy ông nội nằm trong buồng tối lờ mờ lo lắng nói:

Áo quan.

Sau khi tiếng hai thanh gỗ đập cành cạch vào nhau có thể làm cho linh hồn ông tôi cảm thấy yên ổn xa dần và mất hẳn, trong giọng nói thều thào của ông tôi có tiếng nuốt nước miếng đói khát. Do cậu em tôi mải chơi, hy vọng cuối cùng khi còn sống của ông tôi bỗng chốc trở nên mong manh hư vô.

Sau đó tôi đảm nhiệm gõ thanh gỗ giả làm tiếng thợ mộc đóng quan tài để an ủi tinh thần ông nội. Anh trai mười lăm tuổi của tôi đã không thèm để ý đến việc này. Bố tôi tóm luôn tôi giao việc. Ông đột nhiên phát hiện thằng nhãi lầm lì như tôi có lúc cũng có thể làm một chút việc. Khi đưa hai thanh gỗ cho tôi, mặt ông khinh khỉnh:

Mày cũng không thể chỉ ăn không làm gì.

Trong hai ngày sau đó, với tiếng gõ đơn điệu tôi đã an ủi ông tôi. Lún sâu trong tâm trạng đau buồn, tôi không tự bứt ra được. ở tuổi mười ba, tôi đã nhạy cảm nhận ra tôi đang gõ cho mình. Trong thời gian sau khi tôi trở về Cửa Nam, mặc dù ông nội không hiểu và đồng tình với tôi, nhưng do hoàn cảnh của hai ông cháu trong gia đình giống nhau, ông tôi lúc nào cũng tỏ ra thương thân, đến lượt mình, tôi cũng cảm thấy thương thân. Lòng hận thù của tôi đối với bố và gia đình đã tăng lên trong tiếng gõ cành cạch thúc ông tôi chết. Rát lâu về sau này, tôi vẫn cảm thấy bố tôi đã vô tình gán cho tôi một hình phạt tàn nhẫn. Tâm tình tôi lúc bấy giờ giống như một tử tù chấp hành lệnh xử bắn một tử tù khác.

Việc Tôn Hữu Nguyên sẽ chết đã gây sự ngạc nhiên và ầm ĩ trong thôn xóm xưa nay vốn nhàn rỗi của chúng tôi. Những cụ ông cụ bà sau khi trải qua bao tháng năm đằng đẵng, trái lại đã trở nên thơ dại, tỏ ra thành kính một cách ngạc nhiên đối với việc sắp sửa qua đời của ông tôi. Thái độ của ông tôi đối với Bồ Tát khiến các cụ cảm thấy rất có thể ông tôi sắp về nhà. Một cách nói thú vị làm cho ngày sinh của ông tôi trở nên hài hước buồn cười. Hình như ông tôi từ trên Trời xuống đất như mưa, bây giờ ông biết trước đối với cái chết của bản thân, lại chứng tỏ kỳ hạn ở cõi trần của ông đã hết, ông phải về Trời, về với gia đình thật sự của ông.

Còn những người trẻ tuổi hơn ghi sâu lời dạy của Đảng cộng sản chẳng có thần thánh nào cả, họ xem thường những lời nói của bậc ông cha, giống như bố tôi mắng ông tôi những người già đáng yêu kia đều bị chửi mắng như chó, càng sống càng lẩn thẩn.

Giữa lúc ấy tôi ngồi trong nhà mở toang cửa, gõ lên những âm thanh đơn điệu cho ông nội. Trong ánh mắt của dân chúng bên ngoài, xem ra tôi đang làm một công việc buồn cười. Tôi suy nghĩ thế nào đây? Nhất là đám trẻ con trong thôn, chúng hoa chân mua tay chỉ vào tôi cười hì hì ha ha, lòng tự tôn vốn yếu đuối của tôi làm sao thoát ra khỏi cảnh tủi nhục và đau buồn.

Nhân lúc ông tôi sắp tắt thở,tiếng ồn ào ở bên ngoài đã khiến ông tái hiện cảnh tượng bị quân đội Quốc dân đảng bắn đuổi theo hồi còn trẻ. Mất hết sự yên tĩnh, ông tôi gọi rầm rầm bố tôi ở trong buồng. Ông tôi không biết xảy ra chuyện gì ở bên ngoài. Khi bố tôi chạy vào buồng, ông tôi đang ngồi trên giường tinh thần phấn chấn, ông hỏi con trai có phải nhà ai đang cháy.

Ông tôi nằm trên giường những tưởng ra đi ngay, nhưng đã ba ngày nay càng ngày càng tỉnh táo. Mặc dù ngày nào ông tôi cũng bảo không ăn, nhưng mẹ tôi vốn ít nói vẫn xới một bát cơm bưng vào. Trước cái chết lý tưởng và cơn đói cồn cào, ông tôi đã từng do dự quyết liệt, nhưng cuối cùng vẫn khuất phục trước sức mạnh của cơn đói. Lần nào mẹ tôi cũng cầm bát không đi ra.

Bố tôi vốn là một người nóng nẩy thiếu kiên nhẫn. Ông tôi không mỗi lúc một thoi thóp như bố tôi tưởng tượng. Thế là ông mất ngay lòng tin đối với cái chết của ông tôi. Khi mẹ tôi bưng bát cơm đẩy cửa buồng ông tôi, ông tôi cố ý nhắc lại câu nói không ăn, bố tôi liền kéo mẹ tôi lại, nói với ông tôi:

Muốn chết thì đừng ăn, muốn ăn thì đừng chết.

Mẹ tôi lúc ấy hết sức kinh hoàng, khẽ nói với bố tôi:

Ông nói thế là gây nghiệp chướng, ông Trời sẽ phạt ông.

Bố tôi không đếm xỉa đến chuyện ấy, quay ngoắt ra ngoài sân, nói với những người gần đó:

Bà con đã từng nghe nói người chết còn ăn không?

Thực tế ông tôi không giống như bố tôi nhận xét. Ông tôi cảm thấy linh hồn mình đã bay đi là cảm thụ thật sự. Ông tôi tin chắc đối với cái chết sắp đến của mình.Lúc đó ông tôi đã chết về mặt tâm lý, đang chờ đợi sinh lý của mình cũng đi vào cõi vĩnh hằng. Khi bố tôi càng ngày càng tỏ ra nôn nóng khó chịu, ông tôi cũng buồn khổ từ lâu vì mình chưa chết.

Trong những ngày cuối cùng của cuộc đời, bằng tinh thần và trí tuệ không hoàn chỉnh của mình, ông tôi đã suy nghĩ tại sao mình chưa chết. Khi những bông lúa sắp gặt rung rinh dưới ánh nắng, trong gió đông nam thổi đến có hơi thở thực vật, tôi không biết ông nội có ngửi thấy hay không, nhưng suy nghĩ kỳ dị của ông nội chắc chắn mình chưa chết có liên quan đến những bông lúa vàng nặng trĩu.

Sáng hôm ấy ông tôi lại gọi to tên bố tôi. Sau khi trút quá nhiều tức giận, bố tôi có vẻ buồn chán, ông uể oải bước vào buồng ông tôi. Bằng giọng nói thần bí ông tôi khẽ bảo bố tôi, linh hồn ông chưa bay xa, còn quanh quẩn đâu đây, cho nên ông vẫn chưa chết. Nói câu này ông tôi có vẻ thận trọng, hình như ông tôi lo linh hồn sẽ nghe thấy lời ông. Linh hồn chưa bay xa là bởi vì bị mùi thơm của đồng lúa cuốn hút. Ông tôi bảo bố tôi, linh hồn của ông đang lẫn trong bầy chim sẻ, đó chính là bầy chim sẻ lúc này đang bay lượn trên cánh đồng lúa chín. Ông tôi giục bố tôi bện mấy hình nộm rơm đặt ở chung quanh nhà để doạ linh hồn ông bay đi, không thì linh hồn ông lúc nào cũng sẵn sàng nhập về thể xác ông. Ông tôi há mồm rụng hết răng móm mém nói với bố tôi:

Con ơi, một khi hồn bố trở về, con lại phải chịu khổ.

Bố tôi nói lại ngay:

- Bố ơi, bố đừng chết, bố sống lại cho xong, lúc thì áo quan, lúc thì hình nộm rơm, bố hành hạ con vừa vừa chứ.

Từ những lời ca cẩm của bố tôi, một số cụ ông cụ bà trong thôn biết chuyện này, không ai nhận xét ông tôi đang hành hạ con trai như bố tôi nghĩ. Ông tôi cho rằng linh hồn vẫn quanh quẩn đâu đây, đối với các cụ, nhận xét ấy là chân thực đáng tin cậy. Buổi trưa hôm ấy, khi tôi không còn gõ hai thanh gỗ vào nhau nữa, đã nhìn thấy mấy cụ già vác hai hình nộm rơm đi vào. Dưới ánh nắng, dáng vẻ thành kính của các cụ tỏ ra nghiêm trang kỳ lạ. Các cụ dựa một hình nộm rơm lên tường cổng nhà tôi, còn một hình nộm rơm khác các cụ đặt bên cạnh cửa sổ buồng ông tôi. Đúng như sau đó các cụ giải thích với bố tôi, các cụ làm như thế là để ông tôi lên Trời được thuận lợi.

Đúng là đại hạn của ông tôi đã đến gần. Trong ba ngày sau đó, tình hình của ông tôi sa sút hẳn. Khi bố tôi vào buồng ông tôi một lần nữa, ông tôi đành phải nói chuyện với con trai bằng những lời thều thào vo ve như muỗi. Lúc này ông tôi đối với cơn đói không yếu ớt uể oải như mấy hôm trước, có thể nói ông tôi đã mất hẳn khẩu vị tối thiểu. Bát cơm mẹ tôi bưng vào ông tôi chỉ ăn hai ba miếng là nhiều nhất. Việc này khiến bố tôi cứ nghi nghi hoặc hoặc quanh đi quẩn lại bên hai hình nộm rơm khá lâu, mồm lẩm bẩm:

Phải chăng hình nộm rơm đã có tác dụng?

Ông tôi nằm trong gian buồng mùa hè, đã nhiều ngày liên tục không tắm rửa. Trong mấy ngày hấp hối sau đó lại ỉa đái ra giường, gian buồng chứa đồ đạc nồng nặc mùi hôi thối.

Sau khi ông tôi thật sự đi vào cơn hấp hối, bố tôi bắt đầu yên tĩnh lại. Hai buổi sáng liền bố tôi vào buồng ông tôi quan sát, lúc đi ra lông mày ông nhíu lại. Vốn quen lối nói phóng đại, bố tôi khảng định ông tôi ỉa đái ra một nửa giường. Buổi sáng hôm thứ ba bố tôi không đi vào buồng ông tôi, ông bảo không chịu nổi mùi khai thối. Bố tôi sai mẹ tôi vào xem ông tôi thế nào, rồi ngồi trước bàn dậy bảo anh trai và em trai tôi:

- Ông nội chúng mày sắp chết rồi - Lý do của ông là - Con người giống con chồn con cáo, mình định bắt nó, nó đánh rắm thối làm mình choáng ngất rồi chạy trốn. Ông nội chúng mày định chạy trốn, cho nên trong buồng thối chết người.

Khi ra khỏi buồng ông nội, sắc mặt mẹ tôi tái nhợt. Hai tay nắm chặt vạt tạp dề, mẹ tôi nói với bố tôi:

Ông mau mau vào mà xem.

Bố tôi như bật khỏi ghế, lao vào buồng ông tôi, một lát sau đi ra, dậm chân múa tay hết sức căng thẳng, nói:

Chết rồi, chết rồi.

Thực ra lúc đó ông tôi vẫn chưa chết, ông tôi đang trong cơn hấp hối. Bố tôi sơ ý đã vội vàng lao đi tìm hàng xóm giúp đỡ. Lúc ấy bố tôi chợt nghĩ đến vẫn chưa đào huyệt. Ông nhăn nhó vác cuốc tìm mấy người trong thôn ra ngoài đồng đào một cái huyệt chôn ông tôi bên cạnh mộ bà nội.

Bố tôi là một người không dễ dàng biết đủ. Khi mấy bà con đào xong huyệt chuẩn bị về, bố tôi đi đằng sau cứ leo lẻo bào họ, đã giúp người ta thì giúp đến nơi đến chốn, không thì đừng giúp nữa. Bố tôi nhờ họ vào khiêng xác ông tôi ra, còn mình cứ đứng ở ngoài cửa.Khi anh chàng Vương Việt Tiến về sau đánh nhau với bố tôi chau mày hỏi sao thối thế, bố tôi gật đầu khom lưng nói:

Người chết ai cũng thế.

Trong khi họ khiêng xác ông tôi lên, ông tôi liền mở mắt. Ông tôi không biết họ sắp sửa đem chôn mình. Sau khi thoát ra khỏi cơn hôn mê, ông tôi cười hì hì với họ. Nụ cười xuất hiện đột ngột của ông tôi khiến mọi người sợ hết hồn. ở bên ngoài tôi nghe rõ tiếng kêu loạn xạ của họ ở trong buồng, sau đó từng người hoảng hốt lao ra ngoài. Vương Việt Tiến cường tráng nhất sợ hãi mặt xám ngoét, đặt tay lên ngực rối rít nói:

Sợ chết người, sợ chết người.

Tiếp theo anh ta mắng bố tôi:

- Đù mẹ mười tám đời tổ tông nhà ông. Mẹ kiếp, ông có muốn doạ người cũng không được làm thế.

Bố tôi đầy lòng hoài nghi nhìn họ. Ông không biết đã xảy ra chuyện gì, mãi đến lúc Vương Việt Tiến cất tiếng chửi đổng:

Mẹ kiếp, vẫn còn sống.

Lúc này bố tôi mới vội vàng đi vào buồng ông tôi. Sau khi nhìn thấy con trai mình, ông tôi lại cười hì hì. Tiếng cười của ông tôi khiến bố tôi đùng đùng nổi giận. Chưa bước ra khỏi buồng, bố tôi đã quát mắng:

Ông đã chết đếch đâu, nếu ông muốn chết thật, thì đi mà treo cổ, thì đi mà tự vẫn, mẹ kiếp, đừng nằm trên giường nữa.

Mạng sống của ông tôi như dòng suối nhỏ róc rách chảy dài triền miên, khiến dân làng vô cùng kinh ngạc. Lúc đầu ai cũng thầm nghĩ, ông tôi sẽ lập tức ra đi, nhưng ông tôi đã kéo quá dài cơn hấp hối. Ngạc nhiên nhất là vào lúc chiều tối, vì mùa hè oi bức, chúng tôi kê bàn dưới gốc cây du, đang ngồi ăn cơm, thì ông nội đột nhiên xuất hiện.

Nằm trên giường suốt hai mươi ngày liền, ông tôi lại lần mò xuống đất, bám tường bước chập chững như đứa trẻ tập đi. Cả nhà đều sững sờ. Ông tôi lúc ấy hoàn toàn chìm đắm trong bứt rứt không yên. Sự thực vẫn chưa chết, khiến ông cảm thấy sốt ruột và lo lắng. Ông tôi đi đến bên ngưỡng cửa một cách rất khó khăn rồi run rẩy ngồi xuống. Ông tôi nhìn mà không thấy sự ngạc nhiên của chúng tôi. Ông tôi giống như một túi khoai lang xếp ở đó. Chúng tôi nhìn thấy ông cúi đầu buồn bã, lẩm bẩm:

Thật chẳng ra sao, vẫn chưa chết.

Sáng sớm hôm sau ông tôi qua đời. Khi bố tôi đến bên giường ông tôi, mắt ông mở trừng trừng nhìn con trai. Chắc chắn ánh mắt của ông tôi lúc đó vô cùng đáng sợ, không thì bố tôi đâu đến nỗi hồn xiêu phách lạc. Về sau bố tôi bảo các con, ánh mắt của ông tôi lúc đó hình như kéo bố tôi cùng chết một thể. Nhưng bố tôi không bỏ chạy, phải nói là không thể bỏ chạy. Tay bố tôi đã bị ông tôi lúc lâm chung bóp chặt.Sau khi đuôi mắt lăn ra hai giọt lệ nhỏ xíu, mắt ông tôi đã vĩnh viễn khép lại. Bố tôi cảm thấy bàn tay mình bị bóp chặt lỏng dần, lúc bấy giờ bố tôi mới hoảng loạn chạy ra, mồm líu ríu giục mẹ tôi vào xem. So với bố tôi, mẹ tôi tỏ ra bình tĩnh hơn nhiều. Rõ ràng, khi đi vào mẹ tôi hơi do dự, nhưng lúc ra, bà bước từng bước một. Mẹ tôi nói với bố tôi:

Đã lạnh giá.

Bố tôi cười như trút được gánh nặng. Bước ra sân, bố tôi rối rít nói:

Coi như đã chết, Trời Đất ơi, coi như đã chết.

Bố tôi ngồi trên hè trước cửa, nhìn mấy con gà đi đi lại lại gần đó cười hì hì. Nhưng không bao lâu, sắc mặt bố tôi chợt buồn đau, sau đó mồm méo xệch, nước mắt trào ra, bố tôi lau nước mắt khóc thành tiếng. Tôi nghe thấy bố nghẹn ngào:

- Bố ơi, con xin lỗi bố. Bố ơi, bố khổ suốt một đời. Con là đồ chó má, con bất hiếu với bố. Nhưng thật tình con cũng không còn cách nào khác.

Ông tôi đã ra đi một cách toại nguyện. Đối với tôi lúc đó, sự ra đi của ông nội không đưa lại một cảm nhận mình đã mất đi một con người sống động. Tâm tình tôi lúc bấy giờ hết sức kỳ quặc, không hẳn là bi ai, hay lo lắng không yên. Điều tôi nhận ra được một cách rõ ràng, đó là một cảnh tượng vĩnh viễn mất đi trong mắt mình: Lúc chiều tối ông tôi bước loạng choạng trên con đường mòn đi đến chỗ tôi và ao cá. Từ rất xa, tôi đã nhìn thấy chiếc ô vải dầu ông ôm trong lòng và cái túi vải xanh khoác trên vai. Nên biết rằng, cảnh tượng này đã từng nhiều lần đem đến cho tôi niềm an ủi và ấm áp như ánh nắng.

Ông tôi đã đánh bại bố tôi

Tôn Hữu Nguyên không phải là một người yếu đuối, ít nhất nội tâm ông tôi là như vậy. Sự nhún nhường của ông trên mức độ rất lớn biểu đạt sự bất mãn đối với bản thân. Năm thư tư tôi rời khỏi Cửa Nam, hay nói cách khác, sau khi em trai tôi cưa chân bàn, hoàn cảnh của ông tôi trong gia đình càng ngày càng trở nên tồi tệ.

Sau khi ông tôi xúi em trai tôi cưa chân bàn, không có nghĩa là hai đối thủ sừng sỏ ông tôi và bố tôi có thể thu cờ dẹp trống. Bố tôi là con người truy đuổi đến tận cùng, bố tôi không bao giờ để ông tôi được yên ổn lâu dài. Không bao lâu bố tôi đã không để ông tôi ngồi cạnh bàn ăn cơm, mà đơm cho ông tôi một bát nhỏ bắt ngồi ăn ở góc nhà.Ông tôi phải học cách chịu đói. Ham muốn ăn của ông già đã bước sang những năm tháng cuối đời giống như một chàng trai vừa cưới vợ, nhưng đành phải ăn một bát cơm bé tý tẹo. Nét mặt hằm hằm khó chịu của bố tôi khiến ông tôi rất khó đòi hỏi được ăn thêm bát nữa. Ông tôi đành phải bấm bụng đói cồn cào, thèm thuồng nhìn bố mẹ và anh em trai tôi nhai nhóp nhép ngon lành. Cách cứu đói duy nhất của ông tôi là liếm một lượt tất cả bát đĩa trước khi rửa. Trong thời gian này, qua cửa sổ sau nhà, dân làng thường trông thấy ông tôi thè lưỡi liếm đi liếm lại rất cản thận những cái bát còn dính bám chút cơm canh.

Trong khi bị xỉ nhục, ông tôi không cam tâm. Tôi đã từng nói, ông tôi không phải một con người yếu đuối, đến nước ấy, ông tôi đành phải đối đầu với bố tôi, chứ không có cách né tránh khác.Khoảng một tháng sau, khi mẹ tôi bưng bát cơm nhỏ đưa đến, ông tôi cố tình không cầm chắc, để rơi vỡ bát. Tôi có thể tưởng tượng lúc ấy bố tôi đùng đùng nổi giận như thế nào. Sự thực đúng như thế. Bố tôi đứng phắt dạy, chỉ vào ông tôi mắng xơi xơi:

Đồ phá hại, mẹ kiếp, đến cái bát cũng không cầm nổi, còn ăn cái cứt gì.

Ông tôi lúc ấy đã quỳ trên nền nhà, hót cơm trên đất vào vạt áo. Ra vẻ tội đáng chết, ông tôi rối rít nói với bố tôi:

- Tôi không nên đánh vỡ bát, tôi không nên đánh vỡ bát. Cái bát này còn phải để truyền lại cho đời sau.

Câu sau cùng của ông tôi khiến bố tôi há mồm trợn mắt. Lâu lắm bố tôi mới kịp phản ứng. Bố tôi nói với mẹ tôi:

Bà còn bảo lão già không chết đáng thương, bà xem lão nham hiểm biết chừng nào.

Ông tôi không thèm nhìn bố tôi. Ông bắt đầu nước mắt lưng tròng, đồng thời vẫn nói một cách cố chấp:

Cái bát này còn phải để truyền lại cho đời sau.

Điều này khiến bố tôi tức lộn ruột, thở hổn hển, mắng ông tôi:

Mẹ kiếp, lão đừng có giả vờ.

Ông tôi liền hu hu gào to, tiếng ông lanh lảnh:

Cái bát này vỡ mất rồi, con trai tôi sau này ăn bằng gì?

Giữa lúc này em trai tôi đột nhiên bật cười. Trong mắt nó, điệu bộ của ông nội hết sức buồn cười. Thằng em không hiểu gì cả của tôi, lúc ấy lại buột mồm cười to. Anh trai tôi Tôn Quang Bình, tuy biết cười lúc này không đúng lúc, nhưng tiếng cười của Tôn Quang Minh đã lây sang, anh tôi cũng không nín nổi cười. Bố tôi lúc ấy bị bao vây tứ phía. Một bên là ông tôi dự đoán cảnh tồi tệ của bố tôi trong những năm cuối đời, còn bên kia hình như là tiếng cười của thế hệ sau trên đau khổ của thế hệ trước. Bố tôi lo lắng không yên, nhìn hai đứa con trai yêu quý của mình thầm nghĩ, quả thật không trông mong gì hai thằng nhóc.

Tiếng cười của anh em trai tôi là sự ủng hộ mạnh mẽ đối với ông tôi. Tuy hai anh em của tôi vô ý, nhưng người bố luôn luôn tràn đầy tin tưởng của tôi, trong giờ phút này, khó lòng tránh khỏi đôi chút hoang mang. Trước người bố vẫn đang gào khóc, bố tôi đã mất đi sự giận dữ thích đáng. Bố tôi vừa lùi ra cửa một cách yếu đuối, vừa xua tay nói:

- Thôi bố ơi, bố đừng gào lên nữa, coi như bố đã thắng, coi như con sợ bố, mẹ kiếp, bố đừng gào lên nữa.

Nhưng sau khi ra nhà ngoài, bố tôi lại nổi giận lôi đình. Chỉ tay vào những người trong nhà, bố tôi mắng:

- Mẹ kiếp! Chúng bay toàn là đồ chó!