← Quay lại trang sách

Chương 4 - 4 Về đến cửa Nam

Phải nói rằng, đối với ông Vương Lập Cường và bà Lý Tú Anh, cho đến nay, tôi vẫn có một ký ức khó phai mờ. Năm mười hai tuổi tôi về đến Cửa Nam, năm mười tám tuổi laị đi xa Cửa Nam. Tôi đã từng nhiều lần có ý định về thăm Tôn Đãng từng sống năm năm. Tôi không biết, sau khi mất ông Vương Lập Cường, số phận bà Lý Tú Anh liệu còn kéo dài đến bây giờ.

Tuy tôi đã làm vịêc nặng nhọc trong nhà họ, nhưng hai ông bà luôn luôn giành cho tôi những tình cảm thân thiết. Năm tôi lên bảy, ông Vương Lập Cường quyết định cho tôi đi một mình ra quán trà lấy nước sôi. Ông nói:

Ta không bảo con quán trà ở đâu, làm sao con đi được?

Câu hỏi này tôi nghĩ toát mồ hôi, cuối cùng đã tìm ra câu trả lời, tôi vui vẻ nói với ông:

Con đi hỏi người khác.

Giống như tôi, ông Vương Lập Cường cười vui vẻ. Khi tôi xách hai phích nước sắp bước ra khỏi cửa, ông Cường đã ngồi xổm, cố gắng rút ngắn chiều cao thân thể để bằng tôi. Ông nói với tôi nhiều lần, nếu đúng là không xách nổi, thì con vứt phích đi. Lúc ấy tôi vô cùng ngạc nhiên, trong con mắt và trái tim tôi, hai cái phích là vật hết sức quí giá, nhưng ông lại bảo tôi vứt đi:

Tại sao lại vứt đi?

Ông bảo, nếu đúng là xách không nổi, ngã ra đất, nước nóng trong phích sẽ làm bỏng người tôi. Tôi hiểu ý ông.

Tôi bỏ hai xu vào túi, xách hai phích nước kiêu hãnh đi ra. Tôi đi men theo đường phố lát đá tấm, bằng giọng trẻ con lanh lảnh, tôi hỏi người bên cạnh, quán trà ở chỗ nào. Mặc dù câu hỏi sau đó có thừa hay không, tôi vẫn hỏi rõ to, mẹo vặt của tôi bỗng chốc thành công. Người lớn bên đường ai cũng ngạc nhiên nhìn tôi. Khi đi vào quán trà, đưa tiền ra, tôi còn nói lanh lảnh hơn, bà già thu tiền giật mình. Bà ôm ngực bảo:

- Làm người ta sợ hết hồn.

Nhìn dáng điệu bà, tôi cười khúc khích, còn bà nhanh chóng chuyển thành ngạc nhiên. Khi tôi xách hai phích nước đi, ở phía sau, bà lo lắng nói:

Cháu xách không nổi.

Sao tôi lại có thể vứt phích nước đi được? Sự nghi ngờ của mọi người chỉ làm tôi thêm tự đắc. Lời giặn của ông Vương Lập Cường khi tôi ra khỏi nhà, đã biến thành hy vọng trên đường đi. Trong tưởng tượng, hy vọng đã vẽ ra cho tôi một cảnh tượng, khi tôi xách hai phích nước nóng về đến nhà, ông Vương Lập Cường đã mừng quýnh, ông gọi to bà Lý Tú Anh. Người đàn bà nằm trên giường cũng đi ra. Từ đáy lòng, hai ông bà nức nở khen tôi.

Chính vì để có cảnh tượng này, tôi đã mím môi mím lợi xách hai phích nước đi về nhà. Tôi luôn luôn động viên mình, không được vứt, không được vứt, giữa chừng tôi chỉ nghỉ có một lần.

Nhưng sau khi về đến nhà, ông Vương Lập Cường không hề tỏ vẻ ngạc nhiên khiến tôi thất vọng. Ông đỡ phích nước, làm như đã biết từ lâu tôi sẽ xách về được. Nhìn bóng ông ngồi xổm, với hy vọng cuối cùng, tôi nhắc nhở ông:

Con chỉ nghỉ có một lần.

Ông đứng dậy mỉm cười, hình như chẳng có gì là giỏi. Tôi buồn thỉu buồn thiu, lánh sang một bên, thầm nghĩ: Mình cứ tưởng sẽ được ông ấy khen.

Tôi đã từng ngu xuẩn chen vào giấc ngủ đêm của ông Vương Lập Cường và bà Lý Tú Anh, vì thế tôi đã bị ăn đòn. Ông Vương Lập Cường khoẻ mạnh và bà Lý Tú Anh gầy yếu, những đêm tối của họ là những đêm tối không yên lành. Lúc tôi mới đến nhà họ, cứ vài ba hôm sau khi tôi đi ngủ, lại nghe thấy tiếng bà Lý Tú Anh van xin và kêu rên. Lúc ấy tôi sợ hãi vô cùng, nhưng sáng sớm hôm sau, tôi lại nghe thấy họ nói chuyện hoà nhã, tiếng hỏi tiếng trả lời đập vào tai tôi thân thiết là thế.

Một buổi tối, tôi đã cởi quần áo lên giường ngủ. Bà Lý Tú Anh uể oải nằm trên giường suốt một ngày, lúc ấy đột nhiên the thé gọi tôi sang. Đêm đông ấy, tôi mặc quần đùi co ro, đẩy cửa buồng vợ chồng họ bước vào. Ông Vương Lập Cường đang cởi quần áo, mặt đỏ bừng bừng đá sập cửa lại, hằm hằm đuổi tôi cút xéo. Tôi không biết đã xảy ra chuyện gì, nhưng tôi lại không dám đi ra. Bà Lý Tú Anh ở bên trong gọi tôi rối rít. Tôi đành phải đứng ở cửa vừa rét vừa sợ, toàn thân run lẩy bảy. Sau đó có thể bà Lý Tú Anh nhảy ra khỏi chăn, người đàn bà mặc áo lót hơi ướt một chút là phát sốt, lúc ấy đã bất chấp tất cả. Tôi nghe thấy ông Vương Lập Cường ở bên trong khẽ nói:

Cô muốn chết hả.

Sầm một tiếng cánh cửa mở ra, tôi còn chưa biết xảy ra chuyện gì, đã bị bà Lý Tú Anh lôi vào giường. Sau đó bà không gọi nữa, mà thở hổn hển, nói với ông Vương Lập Cường:

Tối nay ba người chúng ta ngủ chung.

Bà Lý Tú Anh ôm tôi, mặt bà áp sát vào mặt tôi. Tóc bà che kín một mắt tôi. Tuy bà gầy guộc, nhưng thân thể bà ấm áp. Bằng con mắt kia, tôi nhìn thấy ông Vương Lập Cường đang giận giữ nói với tôi:

Mày ra đi.

Bà Lý Tú Anh ghé sát vào tai tôi bảo:

Con nói không ra.

Lúc này tôi hoàn toàn bị bà Lý Tú Anh thuyết phục. Đương nhiên tôi không muốn dời thân thể ấm áp của bà. Tôi nói với ông Vương Lập Cường:

Con không ra.

Ông Vương Lập Cường tóm luôn cánh tay tôi, nhấc khỏi lòng bà Lý Tú Anh, ném xuống đất. Lúc ấy mắt ông đỏ tấy lên cực kỳ đáng sợ. Thấy tôi nằm ì trên nền nhà không động đậy, ông quát:

Mày còn không ra hả.

Lúc ấy đâm ra gan lì, tôi cũng đáp lại:

Con không đi đâu cả.

Ông Vương Lập Cường sấn đến xách tôi đi. Tôi lập tức bám chặt chân giường, để mặc ông lôi thế nào, tôi cũng không buông tay. Ông Vương Lập Cường điên tiết, nắm tóc tôi đập vào giường. Hình như tôi nghe thấy bà Lý Tú Anh kêu rú lên. Đau đớn quá, tôi đã buông tay. Ông Vương Lập Cường quăng tôi ra, rồi khoá ngay cửa. Tôi lúc ấy cũng điên tiết, bò dậy, đạp mạnh cửa, gào khóc chửi rõ to:

Vương Lập Cường, khốn nạn, trả ta về chỗ bố Tôn Quảng Tài.

Tôi gào thét, đau đớn muốn chết, chỉ mong bà Lý Tú Anh có thể đứng lên viện trợ. Lúc đầu tôi còn nghe thấy bà Lý Tú Anh cãi nhau với ông Vương Lập Cường ở bên trong. Một lúc sau thì im lặng. Tôi tiếp tục gào thét, tiếp tục buột mồm chửi to. Sau đó tôi nghe thấy bà Lý Tú Anh gọi tên tôi ở trong nhà. Tiếng bà gọi yếu ớt:

Con mau mau về ngủ đi, kẻo chết cóng.

Tôi đột nhiên cảm thấy bơ vơ không nơi nương tựa, đành phải nức nở trở về buồng mình. Trong đêm tối mùa đông, ôm hận thù đối với ông Vương Lập Cường, tôi từ từ đi vào giấc ngủ. Hôm sau thức dạy, tôi cảm thấy mặt nhức nhối khó chịu. Tôi không biết mũi mình đã sưng tím. Đang đánh răng, nhìn thấy tôi, ông Vương Lập Cường giật mình ngạc nhiên. Tôi phớt bơ ông, cầm cái chổi lau nhà ở bên cạnh ông. Ông dơ tay ngăn tôi lại, mồm ngậm đầy bọt thuốc, ông nói gì không rõ. Tôi giật mạnh khỏi tay ông, vác chổi lau đi vào buồng bà Lý Tú Anh. Bà Lý Tú Anh cũng giật mình, bà lủng bủng trách ông Vương Lập Cường:

Mạnh tay thế.

Sáng sớm hôm nay, ông Vương Lập Cường mua hai cái bánh quẩy nói là mua cho tôi. Bánh quẩy để trên bàn. Đột nhiên có một bữa sáng ngon, thì đúng lúc tôi tuyệt thực.Họ nói thế nào tôi cũng không ăn một miếng, mà vừa khócvừa nói:

Đưa tôi về chỗ bố Tôn Quảng Tài.

Nói tôi van xin, chẳng thà nói tôi đe doạ hai ông bà. Do ân hận, ông Vương Lập Cường liên tiếp tỏ thái độ, trái lại đã tăng thêm quyết tâm của tôi đối lập với ông. Khi tôi khoác cặp sách đi, ông cũng bám sát theo. Ông thử đặt tay lên vai tôi, tôi nhanh chóng hất ra. Thế là ông lại móc một hào cho tôi, tôi cũng kiên quyết từ chối sự mua chuộc của ông. Tôi lắc đầu nói một cách cố chấp:

- Không cần.

Tôi phải thật sự nếm mùi nhịn đói. Ông Vương Lập Cường tỏ ra không yên đối với tuyệt thực cuả tôi thúc giục tôi tiếp tục kéo dài. Tôi trả thù ông Vương Lập Cường bằng phương thức đầy đoạ mình. Lúc đầu tôi thậm chí còn tỏ vẻ kiêu hãnh. Tôi thề không bao giờ ăn thứ gì của ông Vương Lập Cường. Đồng thời tôi cũng nghĩ đến mình sẽ chết đói. Lúc này nước mắt tôi giàn giụa, cảm thấy mình đáng kiêu hãnh biết chừng nào. Tôi chết đói là một đòn đả kích mạnh mẽ nhất đối với ông Vương Lập Cường.

Nhưng xét đến cùng tôi còn nhỏ tuổi quá, chỉ khi nào ăn no mặc ấm, ý chí của tôi mới kiên cường vô hạn. Một khi đói đến đầu choáng mắt hoa cũng khó lòng chống chọi được sự mê hoặc của thức ăn. Trên thực tế, trước kia và hiện tại tôi đều không phải là hạng người muốn chết vì niềm tin. Tôi tôn thờ tiếng nói của mạng sống chảy trong thân thể mình. Ngoài bản thân, mạng sống tôi cũng không bao giờ tìm được lý do khác để sống tiếp.

Sáng hôm ấy, các bạn đều nhìn thấy mũi tôi sưng tím, nhưng không ai biết sau đó cơn đói đến với tôi khủng khiếp như thế nào. Sáng sớm hôm ấy tôi ra khỏi nhà bụng rỗng không, đến tiết thư ba, tôi đói khủn không chịu nổi. Đầu tiên là một thứ cảm giác trống không, bên trong tĩnh mịch như ngõ lúc nửa đêm, có sự hư vô như gió thổi qua thổi lại. Tiếp theo loang ra toàn thân. Tôi cảm thấy chân tay bủn rủn, đầu choang choáng. Sau đó tôi đứng trước cơn đau thật sự của dạ dầy, đau đớn của suy nhược còn khốn khổ hơn sưng tím trên mặt. Coi như tôi đã chịu được đến giờ ra chơi. Tôi vội vàng chạy ra chỗ giàn nước máy, há mồm vào vòi rô bi nê, uống no một bụng nước. Thế là tôi tạm thời được bình tĩnh, cơn đói lúc ấy đã tạm lắng xuống. Tôi ẻo lả tựa người vào giàn nước máy, ánh nắng dọi vào toàn thân tôi mềm nhũn. Nước được hấp thu và tiêu hoá rất nhanh trong cơ thể. Tôi đành phải liên tục uống nước lạnh mùa đông, cho mãi đến lúc tiếng kẻng vào học vang lên.

Sau khi dời khỏi giàn nước, cơn đói lại ập đến, khiến tôi bó tay. Tôi lúc ấy phải chịu cơn giày vò nặng nề hơn trước nhiều.Thân thể tôi đổ sập trên chỗ ngồi như một bao gạo vứt xuống đất. Tôi nẩy sinh ảo giác, cái bảng đen giống như một hang núi, thầy giáo đi đi lại lại trước cửa hang. Giọng thầy vang oang oang, như hồi âm sau khi đập lên vách đá.

Khi dạ dày tôi chịu cơn đau trống rỗng, thì bàng quang đau chướng giày vò tôi. Tôi uống bao nhiêu là nước như vậy, chúng bắt đầu trả thù tôi. Tôi đành phải dơ tay xin phép thầy Trương Thanh Hải cho tôi đi tiểu. Lúc ấy vừa vào học được mấy phút. Thầy giáo vô cùng không hài lòng mắng tôi:

Giờ ra chơi sao không đi tiểu?

Tôi lò dò bước ra nhà vệ sinh, không dám chạy, hễ chạy là nước trong bọng đái kêu lóc a lóc óc. Đi dải xong, nắm cơ hội tôi lại tu một hơi nước lã.

Tiết thứ tư buổi sáng hôm ấy, đối với tôi có lẽ là giờ phút khó sống nhất trong đời. Vừa ra nhà vệ sinh chưa được bao lâu, bàng quang lại trương lên đau quặn, sắc mặt tôi tím lại. Không sao chịu nổi, tôi đành dơ tay một lần nữa.

Thầy Trương Thanh Hải nhìn tôi hồi lâu, lòng đầy hồ nghi, hỏi tôi:

- Lại buồn đi tiểu tiện.

Tôi xấu hổ lo lắng gật gật đầu.Thầy Trương Thanh Hải sai Quốc Khánh đi theo tôi ra nhà vệ sinh kiểm tra xem tôi có đi dải thật hay không. Sau lần đi dải này, tôi không uống nước nữa. Về đến lớp học, Quốc Khánh lanh lảnh báo cáo với thầy giáo:

Nước dải còn nhiều hơn nước đái trâu.

Trong tiếng cười hì hì của học sinh, tôi mặt đỏ tía tai ngồi vào chỗ của mình. Tuy tôi không uống nước nữa, nhưng chẳng bao lâu bọng đái lại căng lên. Lúc này cơn đói không đáng kể, bọng đái càng phồng càng to. Lần này tôi không dám mạnh dạn dơ tay.Tôi cố chịu cơn đau tức dữ dội, nóng lòng chờ tiếng kẻng tan học sớm vang lên. Tôi không dám cựa quậy, hình như hễ động người một cái là bàng quang như bục ra. Sau đó không thể nào chịu nổi nữa, thời gian trôi qua chậm vô cùng, tiếng kẻng tan học mãi không thấy vang lên. Tôi sợ hãi dơ tay lên lần thứ ba.

Thầy Trương Thanh Hải có vẻ bực tức,nói:

Em định dìm chết chúng tôi hả.

Cả lớp cười ồ lên. Thầy Trương Thanh Hải không cho tôi đi ra nhà vệ sinh, mà bắt tôi đi vòng ra ngoài cửa sổ đái vào tường của lớp học. Thầy muốn nhìn tận mắt xem tôi có tiểu tiện thật không. Khi tôi xoe xoé đái vào tường, thầy đã tin, đi mấy bước tiếp tục giảng. Có thể tôi đi dải lâu quá, thầy Trương Thanh Hải đột nhiên thôi giảng, ngạc nhiên nói:

Em vẫn còn đái à?

Mặt đỏ bừng bừng, tôi xấu hổ cười với thầy giáo.

Tan học buổi sáng, tôi không về nhà như các bạn khác. Tôi tiếp tục đấu tranh tuyệt thực. Cả buổi trưa tôi nằm dưới giàn nước máy, hễ cơn đói dữ dội, tôi liền bò dạy đi uống đầy một bụng nước, rồi tiếp tục nằm tại chỗ, đau buồn một mình. Lúc này lòng tự tôn của tôi chỉ là trang sức mà thôi. Tôi mong ngóng ông Vương Lập Cường tìm mình. Tôi nằm dưới trời nắng, cỏ xanh hân hoan mọc chung quanh tôi.

Khi ông Vương Lập Cường tìm thấy tôi, đã sang buổi chiều, học sinh đi học đang lục tục kéo đến. Ông Cường tìm thấy tôi cạnh giàn nước. Tôi không biết sau khi ăn cơm trưa, ông luôn luôn sốt ruột chờ tôi về. Về sau bà Lý Tú Anh kể với tôi thế. Ông Cường dìu tôi đứng dạy, khi ông dơ tay khẽ sờ vào chỗ sưng tím trên mặt tôi, tôi bỗng oà khóc.

Ông Cường cõng tôi về. Hai tay ông đỡ mạnh hai đùi tôi, đi ra cổng trường. Thân thể tôi xóc nhẹ trên lưng ông. Lúc sáng sớm lòng tự tôn còn kiên cường như thế, bây giờ được thay thế bằng một tình yêu. Tôi không hề hận ông Cường nữa. Khi tựa mặt vào vai ông, tôi cảm thấy xúc động mình đã được bảo vệ.

Chúng tôi đi đến một quán cơm, ông Cường đặt tôi lên quầy, chỉ tay vào một tấm bảng đen viết đầy các loại mì, hỏi tôi muốn ăn thứ nào. Tôi nhìn tấm bảng im lặng không nói gì, tàn dư của lòng tự tôn vẫn còn vương trong tôi. Ông Vương Lập Cường gọi luôn cho tôi một bát mì Tam Tiên đắt nhất, sau đó chúng tôi ngồi xuống một chiếc ghế.

Tôi không quên được ánh mắt ông nhìn tôi lúc đó, suốt đời không quên được. Sau khi ông chết đã ngần ấy năm, cứ nghĩ đến ánh mắt của ông lúc ấy, trái tim tôi lại bùi ngùi chua xót. Ông nhìn tôi xấu hổ và yêu thương biết chừng nào. Tôi đã từng có một người bố như vậy. Nhưng lúc bấy giờ tôi không có cảm nhận như thế. Sau khi ông chết, trở lại Cửa Nam, tôi mới dần dần ý thức được điều này, so với bố đẻ Tôn Quảng Tài, bố nuôi Vương Lập Cường càng giống người bố ở nhiều chỗ. Bây giờ khi tất cả đã trở nên xa vắng, tôi mới phát hiện, sự ra đi của ông Vương Lập Cường đã đem lại cho tôi nỗi buồn đau rất lâu dài.

Sau khi bát mì được bưng ra, tôi không ăn ngay, mà nhìn bát mì sợi đang bốc hơi ngùn ngụt vừa thèm thuồng vừa không yên. Hiểu rõ tâm tư của tôi, ông Vương Lập Cường liền đứng dạy, nói một tiếng phải về đi làm, rôì ông đi luôn. Ông vừa đi khỏi, tôi đã lập tức ăn ngấu ăn nghiến. Nhưng cái dạ dày bé xíu của tôi được thoả mãn quá sớm, sau đó tôi thương cảm vô hạn, cứ gắp những miếng thịt gà, cá nhúng lên xem, rồi lại bỏ xuống, chỉ tiếc quả thật không nuốt nổi.

Chuyện đau buồn đã tan biến như mấy khói từ lâu, tôi trở lại tinh thần sôi nổi thời trẻ con của mình. Thế là tôi chú ý đến một ông già quần áo rách rưới trước mặt. Ông ăn một bát mì nhỏ, rẻ tiền nhất, ông chăm chú theo dõi cử chỉ gắp thịt gà cá nhúng của tôi. Tôi cảm thấy ông đang chờ tôi đi khỏi ngay để ông được ăn thứ ngon trong bát tôi. Tính tàn nhẫn trẻ con của tôi bốc lên, tôi cố tình ngồi lì, gắp đi gắp lại thức ăn trong bát, còn ông hình như cố tình ăn thật chậm. Hai chúng tôi ngấm ngầm đấu tranh với nhau. Chẳng bao lâu tôi chán trò này, nhưng nghĩ ra trò khác. Tôi ném mạnh đũa, đứng dạy, khệnh khạng bỏ đi. Vừa ra ngoài sân, tôi nấp vào cạnh một cửa sổ, nhòm trộm ông. Tôi nhìn thấy ông ngó ra cửa một cái, với sự nhanh nhậy kinh khủng, ông đổ mì của mình vào trong bát còn lại của tôi và mau chóng đổi chỗ hai bát cho nhau, rồi ngồi xuống ăn tỉnh bơ như không xảy ra chuyện gì. Tôi lập tức rời cửa sổ, sấn sổ đi vào quán, đi đến trước mặt ông, giả vờ ngạc nhiên nhìn bát không một lúc. Tôi cảm thấy hình như ông vô cùng lo lắng. Tôi cũng đã thoả mãn, vui vẻ bỏ đi.

Sau khi lên lớp ba tiểu học, tôi càng ngày càng ham chơi. Đi đôi với quen dần và trở nên thân mật với ông Vương Lập Cường và bà Lý Tú Anh, nỗi ngại ngùng sợ hãi ban đầu cũng dần dần biến mất. Tôi thường đi chơi ở bên ngoài, quên cả thời gian, sau đó chợt nhớ phải về nhà, tôi mới chạy thục mạng.Đương nhiên tôi bị quở trách, nhưng sự quở trách ấy không còn khiến tôi sợ sệt. Tôi gắng sức làm việc, cố gắng làm cho mình toát mồ hôi, bố mẹ nuôi tự dưng hết mắng.

Có một dạo tôi rất mê lội xuống bờ ao mò tép. Tôi, Quốc Khánh và Lưu Tiểu Thanh, hầu như buổi chiều nào, sau khi tan học cũng chạy về nông thôn. Một hôm chúng tôi vừa đi đến cánh đồng, thì ngạc nhiên bắt gặp ông Vương Lập Cường. Ông và một người đàn bà trẻ, người trước kẻ sau, đang thong thả đi trên bờ ruộng. Tôi vội chạy quay về. Ông Vương Lập Cường đã nhìn thấy tôi. Nghe thấy tiếng ông gọi, tôi đành phải đứng lại, lo lắng nhìn ông sải bước đi đến, lúc cần phải về nhà, thì tôi bỏ đi chơi. Quốc Khánh và Lưu Tiểu Thanh lập tức nói rõ với ông, chúng tôi về nông thôn là để bắt tép, chứ không phải ăn trộm dưa.

Ông Vương Lập Cường cười với hai bạn tôi. Tôi bất ngờ, không bị ông mắng, ông đặt lòng bàn tay to bè lên đầu tôi, bảo tôi về với ông. Dọc đường, ông thân thiết hỏi tôi chuyện nhà trường, ông không có chút ý tứ nào định trách tôi. Tôi dần dần trở nên vui vẻ.

Sau đó chúng tôi đứng dưới chiếc quạt trần của cửa hàng bách hoá ăn kem. Đây là giờ phút sung sướng của tôi thời còn bé. Hồi ấy trong nhà ông Cường vẫn chưa có quạt điện. Tôi đứng ngây nhìn nó quay, cứ loang loáng như hắt nước mà lại tròn xoe. Tôi đứng cạnh vùng gió thổi, hết đi ra lại đi vào, cảm nhận khi có gió và khi không có gió.

Hôm ấy tôi ăn một lúc ba que kem. Ông Cường hiếm có khi khảng khái như thế. ăn hết ba que kem, ông Cường hỏi tôi có muốn ăn nữa không, tôi lại gật gật đầu. Nhưng ông đã do dự, ông nói làm tôi thất vọng:

ăn nữa có hại đến sức khoẻ của con.

Tôi được bù bằng thứ khác. Ông đã mua kẹo cho tôi. Sau đó chúng tôi mới đi khỏi cửa hàng bách hoá. Khi đi về nhà ông Cường đột nhiên hỏi tôi:

Con có quen dì ấy không?

Dì nào cơ? -Tôi không biết ông hỏi ai.

Dì vừa giờ đi đằng sau bố.

Bây giờ tôi mới nhớ đến người đàn bà trẻ đi trên bờ ruộng lúc nãy. Tôi không hề nhận ra dì đã đi mất từ bao giờ, lúc nãy tôi đang căng thẳng định trốn tránh ông Cường. Tôi lắc lắc đầu, ông Cường nói:

- Bố cũng không quen dì ấy- Ông nói tiếp – Khi bố gọi con đứng lại, quay đầu nhìn thấy đằng sau còn có một người.

Vẻ ngạc nhiên trên mặt ông hết sức thú vị, trêu tôi cười khúc khích.

Lúc sắp đến nhà, ông Cường ngồi xuống khẽ nói với tôi:

- Chúng ta không nên nói về nông thôn, cứ nói hai bố con gặp nhau trong ngõ, không thì mẹ con lại cự nự.

- Lúc ấy tôi vui lắm, tôi cũng không muốn để bà Lý Tú Anh biết, sau khi tan học mình còn bỏ đi chơi.

Nhưng sáu tháng sau, tôi lại nhìn thấy ông Cường và người đàn bà trẻ đi bên nhau. Lần này tôi rất khó nhận xét hai người không quen nhau. Trước khi ông Cường phát hiện ra tôi, tôi đã tránh xa. Sau đó tôi ngồi trên một hòn đá băn khoăn suy nghĩ. Mới mười một tuổi, tôi đã biết lo nghĩ việc đời. Tôi dần dần hiểu mối quan hệ nhập nhằng giữa ông Cường và người đàn bà kia. Tôi bỗng ngạc nhiên cảm thấy ông Cường không tốt. Nhưng sau khi đứng dạy đi về nhà, tôi vẫn giữ im lặng. Tôi rất khó tìm ra toàn bộ nguyên nhân tôi không nói ra lúc ấy. Nhưng có một điểm đến nay tôi vẫn nhớ. Khi tôi nghĩ đến nói với bà Lý Tú Anh việc này, bỗng dưng tôi hoảng sợ phát run. Sau khi thành người lớn, tôi thường hay có ý nghĩ ấu trĩ, nếu ngày ấy tôi nói sự việc với bà Lý Tú Anh, con người xanh xao yêú đuối ấy phát điên lên, có lẽ lại giữ được tính mạng của ông Vương Lập Cường.

Im lặng không nói ra, đã giúp tôi sau đó lợi dụng đầy đủ ưu thế của mình, khi tôi nhận thấy có nguy cơ bị xử phạt, sự đe doạ của tôi đối với ông Cường, đã khiến tôi có thể sống nhởn nhơ ngoài vòng phạt.

Cuối cùng vẫn là tôi đánh vỡ caí chén nhỏ uống rượu đặt trên máy thu thanh. Khi lau nền nhà, tôi quay người một cái, cán chổi gạt chén nhỏ rơi xuống đất vỡ tan. Tiếng rơi vỡ của vật trang sức duy nhất trong một gia đình nghèo, khiến tôi sợ run bắn trong một thời gian dài. Ông Vương Lập Cường sẽ vặn cổ tôi rắc một tiếng, như vặn quả dưa chuột.

Tuy nhiên đây là nỗi sợ hãi lúc mới đến, tôi cũng biết ông sẽ không vặn đứt cổ tôi. Nhưng vẻ thịnh nộ và hình phạt nghiêm khắc của ông đối với tôi, là thực tế tôi sắp phải tiếp nhận.Tôi giải thoát vận rủi này bằng sự dãy dụa trẻ con của mình, tôi cần phải doạ ông Cường trước đã. Lúc bấy giờ đang ở trong gian buồng khác không ai biết chuyện vỡ chén. Tôi len lén thu nhặt những mảnh vỡ, bỏ vào bồ rác. Sau đó, khi ông Cường đi làm về, do xúc động và căng thẳng, tôi đột nhiên phát khóc. Ông Cường ngạc nhiên ngồi xuống hỏi tôi:

Sao vậy?

Tôi run run doạ ông:

Nếu bố đánh con, con sẽ mách mẹ chuyện của bố với dì kia.

Sắc mặt ông Cường lúc đó tái nhợt, lắc lắc thân thể tôi, ông hỏi đi hỏi lại:

Bố sẽ không đánh con, tại sao bố phải đánh con?

Bấy giờ tôi mới nói với ông:

Con đã đánh vỡ cái chén uống rượu.

Đầu tiên ông Cường thừ người, sau đó ông biết rõ nguyên nhân tôi đe doạ. Ông mỉm cười bảo:

- Bố đã không cần cái chén ấy từ lâu.

Tôi nửa tin nửa ngờ hỏi ông:

Bố có đánh con không?

Ông đã trả lời tôi dứt khoát. Tôi hoàn toàn yên tâm. Để báo đáp, tôi ghé vào tai ông nói nhỏ:

Con không nói ra dì kia đâu.

Chiều tối hôm ấy, ăn cơm xong, hai bố con tôi dắt tay đi phố rất lâu. Ông Cường luôn luôn chào hỏi những người quen. Lúc ấy tôi không biết đây là lần cuối cùng tôi đi bộ với ông Cường. Hồi đó tôi rất mê ánh nắng còn sót lại trên mái hiên. Niềm vui của tôi lây sang ông. Ông kể cho tôi nghe rất nhiều chuyện lúc ông còn bé, ấn tượng sâu sắc nhất ông để lại cho tôi là lúc mười lăm tuổi ông nghèo tới mức thường xưyên để lộ mông ra ngoài. Lúc ấy ông thở dài bảo tôi:

Con người không sợ nghèo, chỉ sợ khổ.

Sau đó chúng tôi ngồi bên cầu. Lần ấy ông nhìn tôi rất lâu, sau đó lo lắng nói:

Con là một yêu tinh bé bỏng.

Tiếp theo ông đổi giọng:

Con đúng là một cậu bé thông minh.

Mùa thu năm tôi mười hai tuổi, anh trai Lưu Tiểu Thanh, chàng thiếu niên thổi sáo mà tôi hết sức tôn thờ, mắc phải bệnh viêm gan cấp tính đã bị chết.

Lúc bấy giờ anh ấy đã không còn là một thiếu niên chơi bời lêu lổng, mà là một thanh niên học sinh trí thức lên núi về làng. Nhưng anh ấy vẫn đội mũ lưỡi trai, gài sáo vào túi áo, nghe nói, anh ấy và con gái của hai gia đình đi thuyền cùng về lao động ở một đội sản xuất.Hai cô gái khoẻ mạnh, hầu như cùng một lúc thích anh. Sáo anh thổi rất hay, sao lại không cảm hoá được hai cô gái trong những đêm tôí tĩnh mịch ở nông thôn. Nhưng anh ấy khó lòng chịu nổi đời sống ở đó. Anh thường xuyên trở về thành phố, ngồi trên cửa sổ nhà mình thổi sáo. Khi chúng tôi tan học về nhà, anh liền thổi điệu nhạc bán mứt lê. Anh thích nhìn dáng điệu ngây ngô của chúng tôi chạy đến. Anh không muốn trở về nông thôn, nơi tính mạng anh luôn cảm thấy nghẹt thở, tuy nơi đó có những hai cô gái đan sẵn lưới tình đang đợi anh.

Lần cuối cùng anh về thành phố, thời gian có thể quá lâu. Bố anh đùng đùng nổi giận suốt ngày mắng chửi, định đuổi anh về nông thôn. Mấy lần đi qua trước cửa nhà anh, tôi đều nghe thấy tiếng anh khóc. Anh nói với bố một cách rất đáng thương, anh mệt rã rời, không muốn ăn, càng không thể làm việc.

Lúc ấy anh không biết mình mắc bệnh viêm gan. Bố Lưu Tiểu Thanh cũng không biết. Mẹ anh luộc cho anh hai quả trứng gà, khuyên anh vẫn nên về nông thôn. Về nông thôn được hai hôm, thì anh hôn mê. Hai cô gái khoẻ mạnh đã thay nhau cõng anh về thành phố. Chiều hôm ấy, khi tan học về, tôi nhìn thấy hai cô gái nước da đen sạm, hai chân bám đầy bùn, mặt nhăn nhó, từ nhà Lưu Tiểu Thanh đi ra. Ngay trong đêm ấy anh đã chết.

Đến giờ tôi vẫn nhớ nét mặt buồn bã lúc anh ra khỏi nhà. Anh vác bó chăn nệm, tay phải cầm hai quả trứng gà, bước từng bước chậm chạp ra bến tầu thuỷ. Trên thực tế, lúc ấy anh đã thở hổn hà hổn hển, bước đi loạng choạng như cụ già sắp chết, chỉ có cây sáo đút trong túi áo cứ lắc la lắc lư theo nhịp bước là còn tỏ ra có đôi chút sức sống.

Sắp chết đến nơi, khi thấy tôi đến, anh ấy vẫn còn định trêu tôi một lần nữa. Anh bảo tôi ghé sát mông nhìn xem có bị cào rách không. Tôi đã bị ăn quả lừa một lần, nên bảo anh:

Em không nhìn, anh sẽ bắt em ngửi rắm thối.

Anh ấy cười hì hì, đánh một cái rắm rất khẽ, sau đó từ từ đi đến cái chết vĩnh hằng.

Bệnh viêm gan vàng da thời đó được lan truyền cực kỳ đáng sợ. Khi Lưu Tiểu Thanh đeo dải tang đen đến trường, tất cả học sinh đều bảo nhau tránh xa. Cậu bé vừa mất anh trai, nở nụ cười lấy lòng, đi đến đám bạn học đang đánh bóng rổ, đám người ấy lập tức ùa chạy như ong vỡ tổ, chúng đồng thanh mắng chửi cậu bé, còn cậu bé vẫn nhăn răng cười lấy lòng các bạn. Lúc ấy tôi đang ngồi một mình trên hè ngoài lớp học, còn Lưu Tiểu Thanh đứng lẻ loi dưới giá bóng rổ, hai tay buông thõng, lúng túng không biết làm gì hơn.

Sau đó cậu chầm chậm đi đến chỗ tôi. Đi đến gần tôi, cậu đứng lại, ra vẻ nhìn đi chỗ khác. Một lúc sau, thấy tôi không bỏ đi, cậu ngồi xuống cạnh tôi. Từ sau chuyện viết khẩu hiệu trên tường, chúng tôi không còn nói chuyện với nhau, càng không gần gũi chơi đùa với nhau. Cảnh cô đơn đến đột ngột, đã khiến cậu đến với tôi, cuối cùng cậu đã nói với tôi trước. Cậu ấy hỏi:

Tại sao cậu không bỏ chạy?

Mình không sợ - Tôi đã trả lời thế.

Sau đó, cả hai đứa chúng tôi đều ngượng, gục đầu lên đùi gối cười hì hì. Xét đến cùng, có một thời gian chúng tôi đã “xít” nhau.

Ở tuổi thơ ấu, chỉ trong hai ngày, tôi đã chứng kiến hai cái chết đột ngột, đầu tiên là anh trai Lưu Tiểu Thanh, tiếp theo là bố nuôi Vương Lập Cường, làm cho tuổi thơ của tôi sợ khủng khiếp. Tôi không thể phán đoán, rút cuộc chuyện này có ảnh hưởng đến mức nào đối với tương lai của tôi. Nhưng cái chết của bố nuôi Vương Lập Cường đúng là đã thay đổi số phận của tôi. Tôi và Lưu Tiểu Thanh vừa trở lại tình bạn cũ, vẫn chưa kịp bắt tay cầu hoà với Quốc Khánh, thì đêm hôm ấy bố nuôi Vương Lập Cường đã ra đi không bao giờ trở lại.

Quan hệ giữa ông với người đàn bà trẻ ngay từ đầu đã định trước kết cục như vậy. Họ sống với nhau hai năm tốt đẹp trong nơm nớp lo âu, đêm hôm ấy bị người ta bắt quả tang.

Vợ một đồng sự của ông Vương Lập Cường là vệ sĩ trung thực của đạo đức thời đại đó. Theo lời chị ta kể, từ lâu chị đã hoài nghi hai người. Bà mẹ có hai đứa con này đã đi theo dõi cuộc tình vụng trộm của người khác với sự trinh tiết không thể bắt bẻ vào đâu được. Nhân dịp anh chồng của người đàn bà trẻ đi công tác xa, tối đến ông Vương Lập Cường đã dẫn chị đến phòng làm việc chung của mình và đồng sự, để đồ dùng trên bàn làm việc xuống đất, sau đó lấy bàn thay giường, bắt đầu cuộc tình cay đắng của họ.

Người đàn bà tập kích đột ngột, tay cầm chìa khoá của chồng, nhanh chóng mở cửa phòng và cũng nhanh chóng như thế giật sáng công tắc điện. Đôi người tình trên bàn sợ há mồm trợn mắt. Trong tiếng quát mắng cực kỳlanh lảnh của kẻ tập kích, ông Vương Lập Cường và kẻ đồng loã trên bàn của ông đều không kịp mặc quần áo, quì sụp trước chân chị ta rối rít xin tha. Trong con mắt tôi, ông Vương Lập Cường hiên ngang lẫm liệt là thế, lúc bấy giờ cũng buộc phải vừa khóc vừa van xin.

Người đàn bà rắp tâm theo dõi lâu nay cuối cùng bắt được quả tang, làm sao có thể tha cho họ một cách dễ dãi. Chị ta nói rõ ràng dứt khoát với hai người, có van xin đến mấy cũng vô ích. Chị ta bảo:

Khó khăn lắm tôi mới tóm được hai người.

Sau đó chị ta bước đến trước cửa sổ mở cánh cửa, quang quác gọi ầm lên như con gà mái vừa đẻ trứng.

Ông Vương Lập Cường biết tất cả đều không thể thay đổi. Ông giúp người tình mặc quần áo, dìu chị ngồi xuống ghế. Một lãnh đạo của Bộ chỉ huy quân sự từ trên gác đi xuống. Trông thấy chính uỷ, ông Vương Lập Cường ngượng ngiụ nói:

Báo cáo chính uỷ, tôi đã phạm sai lầm sinh hoạt.

Chính uỷ sai mấy chiến sĩ canh giữ ông Vương Lập Cường, cho người đàn bà trẻ về nhà. Người tình của ông Vương Lập Cường từ lâu đã khóc không thành tiếng, khi đứng dạy đi ra ngoài, chị vẫn lấy tay che mặt. Người đàn bà có công theo dõi bắt quả tang mặt mày hớn hở lúc này mắng chị ấy xơi xơi:

Bỏ tay xuống, khi ngủ với chồng sao nhà chị không đỏ mặt?

Ông Vương Lập Cường từ từ bước đến bên chị ta vung tay tát một cái.

Tôi không thể biết nhiều hơn tình hình lúc đó. Người đàn bà đắc ý vênh váo kia, sau khi bị tát một cái bất ngờ, đã điên tiết lồng lộn lên. Khi dơ ngón tay xỉa xói lao vào ông Vương Lập Cường, chị ta bị vướng ghế ngã lăn ra đất. Phẫn nộ của chị ta lập tức chuyển thành oan ức. Chị ta gào ầm lên. Chính uỷ sai người mau chóng dẫn ông Vương Lập Cường đi. Mấy người còn lại đến khuyên chị ta đang ngồi ăn vạ trên đất, rồi tự về nhà ngủ.

Ông Vương Lập Cường ngồi trong một gian nhà tối om cho đến sau nửa đêm, sau đó đứng lên, nói với người lính gác mình, ông cần đến phòng làm việc lấy đồ đạc. Người lính gác vì ngủ gật mà mơ mơ màng màng, nhìn cấp trên của mình tỏ vẻ lúng túng. Ông Vương Lập Cường nói, sẽ quay về ngay, rồi tự đi ra cửa. Người lính gác không đi theo, mà đứng ở cạnh cửa, nhìn ông Vương Lập Cường đi về phòng làm việc dưới sáng trăng.Bóng ông cao lớn hoà lẫn trong bóng tối khổng lồ của ngôi nhà văn phòng.

Thực tế, ông Vương Lập Cường không vào phòng làm việc, mà mở phòng vũ khi do ông phụ trách, lấy hai quả lựu đạn, rồi đi xuống cầu thang. áp sát tường nhà, trong bóng tối, ông lặng lẽ đi đến trước ngôi nhà gác khu gia đình, sau đó men theo cầu thang lên gác hai, đứng lại trước một cánh cửa sổ phía tây. Ông đã nhiều lần đến gian nhà này, biết chị ta ngủ chỗ nào, Móc dây cháy chậm vào ngón tay út, ông đập vỡ cửa kính, ném lựu đạn vào, rồi vội vàng chạy ra cửa cầu thang. Lúc này lựu đạn đã nổ. Một tiếng nổ lớn làm rung chuyển cả ngôi nhà gác cũ. Bụi đất bay rào rào, trùm lên người ông đang chạy. Ông chạy đến dưới bức tường vây, ngồi xổm trong bóng tối.

Lúc ấy Bộ chỉ huy quân sự nháo nhào lên như xảy ra chiến tranh. Ông Cường nghe thấy chính uỷ bị đánh thức lần thứ hai đang buột mồm mắng chú lính bỏ gác, còn có cả tiếng người gọi băng ca. Trong ánh mắt lờ mờ nhìn không rõ cuả ông Vương Lập Cường, cảnh tượng hỗn loạn giống như bầy cào cào nhao nhao lao đến. Sau đó ông nhìn thấy ba chiếc băng ca từ trong ngôi nhà gác khiêng ra. Ông nghe thấy người bên đó nói:

- Vẫn còn sống, vẫn còn sống….

Ông thừ người. Sau khi băng ca được đưa lên ô tô chở đi, ông lập tức vượt tường vây ra ngoài. Ông biết mình cần phải chạy đến bệnh viện.

Lúc tờ mờ sáng, một người đàn ông nét mặt đằng đằng sát khí, tay cầm quả lựu đạn, xuất hiện trong bệnh viện thị trấn. Khi ông Vương Lập Cường đi vào nhà nhập viện, bác sĩ ngoại khoa trực ban là một người phương bắc râu sồm, vừa nhìn thấy ông Vương Lập Cường, bác sĩ đã hiểu có liên quan đến ba người vừa đưa đến. Bác sĩ sợ tới mức vừa chạy cuống cuồng ngoài hành lang, vừa gào thét:

Bà con ơi, Bộ chỉ huy quân sự đến giết người.

Bác sĩ ngoại khoa râu sồm, giọng líu lại, nói không rõ tiếng. Khoảng ba mươi phút sau, ông mới hơi bình tĩnh trở lại. Lúc ấy ông đang đứng cùng một cô y tá toàn thân run rẩy, nhìn ông Vương Lập Cường tay cầm lựu đạn đang lần lượt lục soát từng gian buồng.

Bác sĩ ngoại khoa đột nhiên tỏ ra dũng cảm. Ông đề nghị cô y tá hai người cùnglao đến ôm chặt kẻ giết người từ sau lưng, đề nghị này đã nhắc nhở cô y tá, trông thấy ông Vương Lập Cường mỗi lúc mỗi gần, cô y tá sợ hãi, rối rít giục bác sĩ ngoại khoa:

Anh mau mau ôm hắn đi.

Bác sĩ ngoại khoa nghĩ một lát nói:

Vẫn nên đi báo cáo lãnh đạo trước đã.

Nói rồi bác sĩ mở cửa sổ nhảy ra, chuồn thẳng.

Ông Vương Lập Cường soát xét từng buồng. Tiếng kêu hoảng sợ ở chung quanh khiến ông sốt ruột. Ông đến phòng trực của y tá, vừa mở cửa, một sức mạnh ở bên trong đã bịt chặt. Cổ tay trái ông bị cửa va mạnh rồi bị kẹt ở trong, đau đớn khiến ông chau mày. Ông hích mạnh người đẩy cửa ra. Bốn cô y tá ở trong vừa khóc, vừa nói với ông không có người đàn bà ông cần tìm. Ông an ủi họ, ông sẽ không giết họ. Nhưng họ chỉ biết khóc, hoàn toàn không để ý ông nói gì. Ông Vương Lập Cường lắc đầu bất lực, lui ra. Tiếp theo ông đến phòng mổ. Bác sĩ y tá trong phòng mổ đã bỏ chạy từ lâu. Ông nhìn thấy hai cậu bé đang nằm trên hai bàn mổ, nhận ra hai đứa con trai của chị ta, máu thịt mờ nhoà, chúng đã chết. Ông nhìn hai cậu bé, vô cùng lo lắng, ông không ngờ cuối cùng người chết lại là chúng. Ông ra khỏi phòng mổ, cái chết của hai cậu bé khiến ông không còn ý định đi tìm mẹ chúng. Ông từ từ đi ra khỏi bệnh viện, đứng một lúc ở cổng, có giây lát ông chợt nghĩ nên về nhà, sau đó ông tự bảo:

Thôi đi.

Một lúc sau, ông phát hiện mình đã bị bao vây. Ông tựa người vào một cột điện gỗ. Ông nghe thấy chính uỷ đang gọi ông:

Vương Lập Cường, bỏ vũ khí xuống, không thì anh chỉ còn một con đường chết.

Ông Vương Lập Cường chua chát trả lời:

Chính uỷ, tôi chỉ còn có con đường chết.

Ông Vương Lập Cường đã cùng tôi chung sống năm năm, đã từng thương yêu, đánh mắng tôi như người bố thực sự, trong giây phút đứng trước cái chết, ông đột nhiên cảm thấy cổ tay vừa bị thương bỗng đau đớn khó chịu, ông rút chiếc khăn mùi xoa trong túi băng bó lại tử tế, băng bó xong, ông mới nhận ra chẳng để làm gì, ông tự hỏi:

Minh băng bó nó làm gì?

Ông cười gượng với cổ tay, sau đó kéo nổ quả lựu đạn. Cột điện gỗ đằng sau ông bị nổ gẫy. Bệnh viện đang sáng choang bỗng chốc tối sầm.

Người đàn bà ông Vương Lập Cường định giết chết, trên thực tế chỉ bị sầy da. Buổi chiều ngay hôm ông Vương Lập Cường tự sát, chị ta đã ra viện. Người đàn bà chưa hoàn hồn khi ra viện khóc khóc mếu mếu. Không bao lâu, chị ta trở lại dáng vẻ tự đắc ngày xưa, nửa năm sau, khi lại ra khỏi bệnh viện lần nữa, đúng là chị ta đã ngênh ngang tự mãn. Kiểm tra của bác sĩ khoa sản cho biết, chị đã có thai, mà lại là thai sinh đôi. Mấy ngày đó, gặp ai chị ta cũng hí hửng báo tin:

Nổ chết hai đứa, tôi lại đẻ hai đứa.

Sau khi ông Vương Lập Cường chết, tai nạn gây nên đã đổ lên đầu bà Lý Tú Anh. Người đàn bà quá ư suy nhược, khi chịu sức ép to lớn, đã tỏ ra bình thản như không. Khi một đồng sự của ông Vương Lập Cường, thay mặt Bộ chỉ huy quân sự đến báo tin với bà Lý Tú Anh, bà đã chống đỡ một cách thành công đòn tấn công sớm nhất này. Bà không hề hốt hoảng lúng túng. Bà nhìn vị đại diện lâu lắm, không nói gì, khiến ông ta trở nên hoảng hốt. Lúc này bà đột nhiên cất giọng lanh lảnh:

Chồng tôi đã bị các người mưu sát.

Câu nói đã làm cho ông ta lúng túng, không kịp trở tay. Khi ông ta lại giải thích một lần nữa, ông Vương Lập cường tự sát, bà Lý Tú Anh vung cánh tay gầy guộc của mình nói càng dữ tợn hơn:

Các người, tất cả các người đã giết chồng tôi, thật ra là để giết tôi.

Suy nghĩ ly kỳ của bà khiến vị đại diện cảm thấy vô cùng đau khổ, không thể đối thoại bình thường với bà. Nhưng có một vấn đề thực tế lại cần phải xin ý kiến bà. Ông ta hỏi bà, khi nào bà đi nhận xác ông Vương Lập Cường.

Bà Lý Tú Anh im lặng hồi lâu, sau đó mới nói:

- Tôi không nhận, ông ấy phạm sai lầm khác tôi nhận, phạm sai lầm quan hệ trai gái, tôi không nhận.

Đây là câu nói duy nhất giống như lời nói của một người bình thường của bà Lý Tú Anh.

Sau khi ông ta ra về, bà Lý Tú Anh bước đến trước mặt tôi đang ngạc nhiên há mồm trợn mắt, nói với tôi bằng giọng căm phẫn:

- Chúng nó đã cướp đi người sống của ta, định lấy một người chết lấp liếm qua loa cho xong chuyện.

Sau đó hơi ngẩng đầu, bà nói một cách kiêu hãnh:

Ta đã từ chối.

Đây là một ngày gian nan biết chừng nào, lại là ngày chủ nhật, ngồi trong nhà, tôi chịu đựng các trận đòn tình cảm hỗn tạp, ngạc nhiên, sợ hãi, buồn đau. Đối với tôi ở tuổi ấu thơ, cái chết đột nhiên của bố nuôi Vương Lập Cường luôn luôn khó trở thành sự thực bền chắc, ở dạng tin tức, nó cứ lởn vởn quanh đi quẩn lại một cách đáng sợ trước mắt tôi.

Suốt một ngày, bà Lý Tú Anh đều ở trong nhà, chăm lo kỹ càng quần lót áo lót của mình, xê dịch những cái ghế nhỏ theo sự xê dịch của ánh nắng. Nhưng bà thường xuyên thét lên một tiếng khiến tôi rợn tóc gáy, toàn thân run bắn. Đây là phương thức duy nhất biểu đạt nỗi đau buồn và tuyệt vọng của bà Lý Tú Anh. Tiếng thét đột nhiên của bà sắc bén biết chừng nào, giống như mảnh kính vỡ lao vun vút, gầm rú trên không trung.

Đối với tôi, ngày hôm ấy cực kỳ khủng khiếp. Trong tiếng gào thét trắng trợn không kiêng nể của bà Lý Tú Anh, tôi luôn luôn thấp thỏm sợ hãi, sau đó không chịu nổi, tôi đã len lén mở cửa buồng bà, nhìn thấy cái bóng sau lưng của bà đang lặng lẽ cúi xuống áo lót cuả mình, một lát sau, bà lại ưỡn thẳng người, ngẩng mặt lên kêu:

Ôi…

Sáng sớm hôm sau, bà Lý Tú Anh về nhà mẹ đẻ. Lúc ấy trời vẫn còn tối, tôi bị một cánh tay lay lay đánh thức. Trong ánh đèn loá mắt, tôi nhìn thấy một người đeo khẩu trang to đùng, toàn thân bọc kín mít, đang cúi xuống với mình. Tôi sợ oà khóc, sau đó nghe thấy tiếng bà Lý Tú Anh:

Đừng khóc, đừng khóc, ta đây.

Bà Lý Tú Anh rất hài lòng đối với kiểu ăn mặc của mình, gần như đắc ý, bà hỏi tôi:

Con không nhận ra ta sao.

Sau năm năm tôi đến Tôn Đãng, lần đầu tiên bà Lý Tú Anh ra khỏi nhà. Vào một buổi sớm mùa đông chưa sáng hẳn, bà Lý Tú Anh mặc quần áo mùa đông đi ra bến tàu thuỷ. Tôi vác một chiếc ghế nhỏ lẽo đẽo đi theo bà.

Đường phố trước khi trời sáng còn vắng vẻ, chỉ có mấy ông già uống trà sớm, ho sù sụ đi qua. Bà Lý Tú Anh suy yếu chỉ có thể đi một mạch một trăm mét. Khi bà đứng lại thở, tôi lập tức đặt chiếc ghế nhỏ cho bà ngồi. Trong gió sớm ẩm ướt chúng tôi lúc đi lúc dừng. Mấy lần tôi vừa há mồm định nói, bà liền “xuỵt” một tiếng ngăn tôi, khe khẽ bảo:

Hễ nói chuyện là người khác sẽ phát hiện ra ta.

Vẻ thần bí của bà khiến toàn thân tôi căng thẳng.

Bà Lý Tú Anh đi khỏi Tôn Đãng trong dáng vẻ thần bí. Quá trình dài dằng dặc đối với tôi ngày ấy, trong hồi tưởng bây giờ, chỉ là mấy lần loé lên ngắn ngủi. Người đàn bà cổ quái mặc quần áo to sù, khi đi qua cửa soát vé, quay đầu lại vẫy chào tôi. Sau đó tôi bám cửa sổ rách nát của nhà chờ, nhìn bà đứng bên bờ lúng túng không biết làm thế nào. Bà phải đi qua một tấm ván dài hẹp để xuống tàu. Lúc ấy chẳng còn sợ lộ thân, bà cứ gọi ơi ới:

Ai dìu tôi xuống với nào.

Sau khi xuống khoang tàu, bà bắt đầu cuộc chia tay có lẽ cả một đời của chúng tôi. Mãi cho đến bây giờ tôi vẫn chưa lần nào gặp lại bà. Tôi luôn luôn bám cửa sổ, chờ con tàu mất hút trong dòng sông xa xa, mới bỏ đi. Lúc này tôi mới nhận ra một thực tế cay đắng – Tôi làm thế nào đây?

Bà Lý Tú Anh đã bỏ quên tôi. Quá nhiều đau thương đã khiến bà quên tất cả trừ bản thân. Khi bình minh đến dần, tôi, cậu bé mười hai tuổi, đột nhiên trở thành trẻ mồ côi.

Trong người tôi không có lấy một xu, ngay đến quần áo và cặp sách của tôi cũng bị khoá chặt ở trong ngôi nhà đã không còn tồn tại. Tôi không có chìa khoá. Của cải duy nhất của tôi là chiếc ghế nhỏ bà Lý Tú Anh bỏ lại. Tôi lại vác chiếc ghế lên vai, sau đó vừa khóc, vừa đi khỏi bến tàu.

Xuất phát từ thói quen, tôi về đến trước cửa ngôi nhà. Sau khi thò tay đẩy cánh cửa khoá im ỉm, tôi đã đẩy mình vào hoàn cảnh thương tâm hơn. Tôi ngồi xuống cạnh cửa, nức nở khóc muốn chết. Sau đó tôi bần thần cả người, đầu óc trống rỗng. Mãi đến lúc Lưu Tiểu Thanh đeo cặp sách chuẩn bị đi học bước đến, tôi lại khóc. Tôi nói với Lưu Tiểu Thanh vừa trở lại tình bạn hôm kia:

Ông Vương Lập Cường đã chết. Bà Lý Tú Anh đã bỏ đi, không có ai nuôi mình.

Lưu Tiểu Thanh đeo dải tang đen, sốt sắng nói với tôi:

Đến ở nhà tớ, cậu ngủ trên giường của anh tớ.

Sau đó cậu ấy chạy như bay về nhà. Nhưng một lát sau, cậu cúi đầu buồn rầu đi đến, Quyết định tự ý của cậu không những bị bố phủ quyết, mà còn ăn no một trận chửi. Cậu ngượng ngiụ cười với tôi. Lúc ấy tôi quyết định trở về Cửa Nam. Tôi phải về chỗ bố mẹ anh em trai của mình. Tôi đã nói với Lưu Tiểu Thanh như thế. Nhưng tôi không có tiền mua vé tàu thuỷ.

Lưu Tiểu Thanh chợt sáng mắt lên, bảo:

- Đi vay Quốc Khánh.

Chúng tôi tìm thấy Quốc Khánh trên bãi tập nhà trường. Khi Lưu Tiểu Thanh gọi Quốc Khánh, cậu ấy nói:

Tớ không đến đâu, cậu bị viêm gan.

Lưu Tiểu Thanh hỏi Quốc Khánh với vẻ rất đáng thương:

Chúng tớ đến đấy, được không?

Quốc Khánh không tỏ ra phản đối. Tôi và Lưu Tiểu Thanh đi đến chỗ phú ông. Nếu không được Quốc Khánh khảng khái giúp đỡ, tôi không biết mình trở về Cửa Nam khó khăn đến mức nào. Hai người bạn thời thơ ấu của tôi tiễn tôi lên tàu thuỷ rời khỏi Tôn Đãng. Khi chúng tôi đi đến bến tàu, Quốc Khánh hết sức hăng hái nói với tôi:

Sau này thiếu tiền tiêu, cứ gửi thư cho tớ.

Còn Lưu Tiểu Thanh đôn hậu, thay tôi vác chiếc ghế đi theo sau. Nhưng sau đó tôi đã bỏ quên chiếc ghế, như bà Lý Tú Anh bỏ quên tôi. Khi tàu thuỷ lao đi, tôi nhìn thấy Quốc Khánh ngồi trên ghế, vắt hai chân chữ ngũ, vẫy tay với mình. Lưu Tiểu Thanh đứng bên cạnh đang nói gì đó với cậu ấy. Bờ đê hai cậu đang ở đó đã nhanh chóng mất hút.

Tôi đặt chân lên mảnh đất quê hương vào lúc chiều tôí cuối thu. Xa nhà năm năm khi trở về, tôi đành phải hỏi thăm Cửa Nam ở đâu bằng giọng nói nơi khác. Khi tôi đi đến một đường phố hẹp và dài, một cậu bé nhỏ tuổi hơn tôi nhiều, bám cửa sổ nhà gác, gọi tôi từng tiếng:

Ê, trẻ con, trẻ con.

Tôi nghe thấy giọng địa phương hoàn toàn xa lạ. May mà tôi còn nhớ thôn Cửa Nam và tên bố mẹ anh em tôi, cả tên ông nội tôi. Ký ức còn lại lúc sáu tuổi, có thể giúp tôi vừa đi vừa hỏi thăm trên dọc đường. Giữa lúc ấy, tôi đã gặp ông nội Tôn Hữu Nguyên, ông già vai đeo túi vải, ôm cái ô vải dầu trong lòng, sau khi sống đủ một tháng ở nhà chú tôi, đang chuẩn bị về Cửa Nam. Ông nội tuổi già như ngọn đèn trước gió đã lạc lối trên con đường lẽ ra ông quen thuộc nhất.Hai ông cháu tôi, sau khi quên dáng nhau, đã gặp lại trên đường về.

Lúc ấy tôi đã ra khỏi huyện lỵ, về đến thôn quê, gặp một ngã ba, tôi không biết trẽ lối nào. Bị cảnh sắc mặt trời sắp lặn lúc bấy giờ cuốn hút, tôi không tỏ ra lo lắng ngay. Cảnh sắc đã rung động tuổi thơ tôi. Tôi nhìn thấy mây đen cuồn cuộn và ráng chiều đỏ ối đang dần dần hoà thành một khối. Một mặt trời đỏ áp sát đường chân trời xa xa, bắt đầu lặn, toả ánh sáng ra bốn phía. Đứng trong ánh rực rỡ còn lại của mặt trời đang lặn, tôi hét to với mặt trời:

Lặn xuống đi, mau mau lặn xuống đi.

Một đám mây đen khổng lồ đang đến gần mặt trời lặn. Tôi không muốn nhìn mặt trời lặn bị đám mây nuốt trửng.

Sau khi mặt trời lặn hẳn như tôi mong muốn, tôi mới nhìn thấy ông nội Tôn Hữu Nguyên. Ông đứng sau lưng tôi, sát cạnh tôi. Ông già nhìn tôi bằng ánh mắt cầu khẩn. Tôi hỏi ông:

Đến Cửa Nam đi lối nào ông ơi?

Ông lắc lắc đầu, ồm ồm trả lời tôi:

Ta quên rồi.

Ông quên rồi sao? Trả lời của ông Tôn Hữu Nguyên khiến tôi cảm thấy vui vui. Tôi nói với ông:

Không biết thì nói không biết, sao lại bảo quên?

Ông cười với tôi một cách khiêm tốn. Lúc ấy sắc trời đã bắt đầu tối. Tôi vội vàng chọn một lối, hấp tấp đi. Đi được một đoạn, tôi phát hiện có ông già đang đi đằng sau mình. Tôi cũng phớt tỉnh ông, tiếp tục đi một lúc.Trông thấy trong ruộng lúa có một người đàn bà đầu chít khăn, tôi cất tiếng hỏi:

Trước mặt là Cửa Nam phải không bà?

Sai đường rồi - Người đàn bà ngẩng lên nói - Phải đi lối đằng kia.

Lúc ấy màn đêm sắp buông xuống. Tôi lập tức quay lại. Ông già cũng quay theo. Ông bám sát khiến tôi chú ý, tôi lập tức co cẳng chạy. Chạy một lúc quay lại nhìn, ông đang chệnh choạng bước gấp bám sát tôi. Tôi cáu tiết, chờ ông đến gần, tôi lên tiếng:

Này, ông đừng bám theo cháu, ông đi lối kia kìa.

Nói xong tôi quay đi. Khi tôi về đến ngã ba, trời đã tối hẳn. Tôi nghe thấy tiếng sấm. Lúc ấy không có một chút ánh trăng. Tôi trẽ lối khác, bước gấp được một lúc, lại thấy ông già bám theo mình. Tôi quay lại bảo ông:

Ông đừng theo cháu, nhà cháu nghèo lắm, không nuôi nổi ông.

Lúc này trời đã lác đác có hạt mưa. Tôi gấp rút chạy lên trước. Tôi nhìn thấy xa xa đột nhiên bùng lên một đám cháy, giọt mưa mỗi lúc một to cứ xoắn lấy ngọn lửa. Đám cháy không những không tắt, trái lại còn to dần, cháy rừng rực, giống như tiếng gào thét không thể ngăn cản trong mưa bụi.

Nhờ có đám cháy, tôi đã nhìn thấy cây cầu gỗ thông đến Cửa Nam. Ký ức còn lại của quá khứ khiến tôi vui mừng, mình đã về đến Cửa Nam. Tôi chạy trong mưa bụi. Một luồng hơi nóng hừng hực ùa đến. Tiếng người ồn ào cũng ập đến theo. Khi tôi đến gần thôn, ánh lửa phủ sáng bừng mặt đất. Mưa bắt đầu nhỏ đi. Tôi đi vào thôn Cửa Nam trong tiếng kêu ầm ĩ.

Hai người anh em của tôi cuốn khăn trải giường, hốt hoảng không yên, đứng tại chỗ. Tôi không biết hai người ấy chính là Tôn Quang Bình và Tôn Quang Minh. Tôi cũng không biết người đàn bà đang quỳ trên đất gào khóc chính là mẹ mình. Bên cạnh ba người là những thứ tranh cướp lại được với ngọn lửa, chất bừa phứa tại chỗ. Tiếp theo, tôi đã nhìn thấy một người đàn ông để trần, gió lạnh đêm thu thốc vào bộ ngực gầy giơ xương của ông. Giọng khản đặc, ông kể với người xung quanh đã có bao nhiêu thứ bị cháy. Tôi nhìn thấy khoé mắt ông rớm lệ. Ông cười buồn thảm nói với họ:

- Mọi người đều đã nhìn thấy đám cháy lớn rồi chứ, hoành tráng thì hoành tráng thật, chỉ có điều trả giá quá đắt.

Lúc ấy tôi đâu có biết, ông chính là bố mình. Nhưng ông đã cuốn hút tôi, tôi liền đến bên ông, giọng lanh lảnh:

Cháu cần tìm ông Tôn Quảng Tài.

Dư Hoa

Ngày 17 tháng 9 năm 1991