PHẦN THỨ NHẤT
Từ ngày Thúc đi làm, bà Cang vẫn cố tìm cách dò la manh mối để hỏi cho Thúc - con giai bà - một người vợ. Điều này cũng làm cho bà quan tâm như việc gả chồng cho Vinh, con gái bà.
Khi Thúc còn học ở trường Bưởi, một đôi khi vì buôn bán không đủ tiêu, bà Cang đã phải vay mượn của bà Nhất, một người bạn khá vốn và buôn bán to. Hai bà chơi bời thân mật với nhau ngay từ khi bà Cang còn là con gái ở nhà với mẹ chưa đi lấy chồng. Ngày bà Cang đi lấy chồng ở tỉnh xa, thì bà Nhất cũng đi lấy chồng nhưng lấy người cùng tỉnh. Tình bè bạn lại càng thân mật khi bà Nhất góa chồng và bà Cang bị chồng ruồng bỏ phải về Phúc Yên ở với mẹ. Nghĩ đến cái cảnh có chồng cũng như không của bà Cang, bà Nhất lại đem lòng ái ngại, và tưởng như đó là người cùng cảnh góa bụa như mình. Sự thân mật khiến bà Cang một đôi khi đã thực thà nói rõ hết cảnh túng thiếu trong nhà. Và bà Nhất cũng vui lòng giúp đỡ. Nhất là sự giúp đỡ đó lại cần thiết cho Thúc, bởi lẽ bà giúp vì tình bè bạn cũng có, nhưng vì cái ý muốn cầu lợi cũng có. Bà Nhất có một người con gái kém Thúc ba tuổi. Cũng như bà Cang, bà chỉ mong mỏi kén được rể hiền, biết thương yêu con gái bà. Thấy Thúc là người có tính ngoan ngoãn, chịu khó học hành, đối với mẹ cũng có lòng kính cẩn, có tình quyến luyến nên bà cố giúp đỡ bà Cang để cho chàng ăn học, hy vọng rồi có ngày gả con gái cho Thúc. Bà vẫn luôn luôn thăm hỏi về việc học của Thúc; mỗi lần thấy bà Cang nói chuyện chàng được nhất lớp bà không khỏi nghĩ thầm: “Thế thì rồi làm gì mà chẳng đỗ đạt. Tay ấy rồi phải tham biện là ít”. Cái ý nghĩ đó đã làm bà vui lòng và không hề tiếc những món tiền to bà đã bỏ ra cấp giúp. Vì cái địa vị của Thúc sẽ là địa vị của chính con gái bà.
Thúc ở trường Bưởi ra, thi đỗ thành chung; rồi hai năm tự học lấy, đỗ luôn hai phần tú tài. Đó là hai tin mừng cho bà Nhất. Nhưng cái tin làm bà vui sướng hơn cả là khi được biết Thúc đỗ vào sở Hỏa xa ngạch Tây. Người chàng rể đã gây từ khi còn là học trò đã làm bà vừa lòng được đủ mọi điều. Riêng về phần bà Cang, bà chỉ biết đến tình bè bạn và sự bắt buộc phải vay mượn. Tuy một đôi khi trong óc bà cũng nảy ra cái ý muốn hỏi con gái bạn cho Thúc, nhưng bà còn e ngại sợ bà Nhất không ưng; nên bà không hề có một lời đính ước về cuộc nhân duyên của hai người con. Còn như Thúc, chàng không hề biết gì đến sự vay mượn của mẹ; và cả đến sự quá ư túng thiếu trong nhà, chàng cũng vẫn không để ý tới, bởi lẽ mẹ chàng vẫn không muốn cho chàng phải lo nghĩ về đồng tiền để được yên tâm mà học hành cho chóng đỗ đạt. Tháng tháng Thúc vẫn nhận được tiền của mẹ gửi lên, và chàng vẫn tin là món tiền lãi của mẹ và em gái kiếm được trong việc buôn bán.
Khi Thúc đi làm, bà Nhất đoán rằng bà Cang đã có ý muốn hỏi con gái mình cho Thúc, nhưng còn rụt rè và vì muốn công việc chóng xong để bà được yên tâm về cô con gái nên bà đã đánh bạo nói việc đó ra trước với bà Cang.
Một hôm bà Cang lại chơi. Khi đã mời khách uống cạn mấy chén chè mạn ướp sen và nhai tàn mấy miếng trầu, bà bèn tìm cách gợi câu chuyện. Nhưng bà vẫn chưa nói tới ngay, bà còn hỏi thăm công việc buôn bán của bà Cang, công việc làm ăn của Thúc. Mở đầu câu chuyện, muốn làm vừa lòng bà Cang, bà đã cố tìm hết cách để khen ngợi Thúc. Cái địa vị của Thúc đã khiến nhiều người đem lòng khen chàng và khen bà Cang có công nuôi con nên người. Giá như kẻ khác thì đã kiêu hãnh khoe khoang, nhưng vì bà đã phải nhờ vả vay mượn nhiều, nên bà đành phải giữ ý và tuy trong lòng cũng muốn nói hay cho chính mình và con đôi chút, bà vẫn cố làm ra vẻ nhã nhặn với hầu hết mọi người, thứ nhất đối với người có lòng tốt giúp đỡ bà, bà lại càng cân nhắc từng lời ăn tiếng nói, từng dáng bộ đi đứng. Bà nghĩ thầm: “Ấy, vào những lúc trước mà có nhỡ miệng, thì cũng chẳng ai người ta nói gì đâu. Nhưng bây giờ mà buột mồm một tí, thì người ta đã bảo con làm nên rồi cũng ra dáng ta đây!”. Với một sự xét đoán minh mẫn như vậy, bà đã cố dò la tính nết của từng người để liệu đường cư xử. Trong sự giao thiệp với bạn bè, bà Cang thấy nhiều cái khó khăn hơn trước. Mỗi lần có người ngỏ lời khen ngợi Thúc, bà chỉ biết khoan thai đáp: “Người ta cũng có số cả. Cũng còn nhờ ở sự may rủi, chứ biết thế nào, chán vạn người giỏi giang hơn cháu mà lại thi hỏng”. Thúc đã được nghe mẹ nói câu ấy rất nhiều lần. Đối với mẹ chỉ là câu nói nhún, nhưng đối với chàng, đó là câu nói mà chàng cho là rất đúng. Khi được tin chàng đỗ, hết tất cả các bạn đều ngạc nhiên. Và kẻ ngạc nhiên hơn cả chính là chàng. Vì Thúc thi đỗ Tú tài tháng chín tây, thì đầu tháng một tây, kỳ thi tuyển người vào ngạch Hỏa xa mở. Chàng không có nhiều thì giờ để học. Các môn thi chàng chỉ học qua loa, và chàng đã định bỏ không thi, nhưng có người bạn thúc giục nên chàng “cũng thi chơi”. Các bài thi chàng làm không có gì xuất sắc, và chàng cũng chẳng nhờ ai đỡ đầu hộ. Mỗi lần nghĩ đến kỳ thi đó, nghe những lời tán tụng của mọi người quen biết và xét đến cái địa vị của chàng hiện thời, Thúc thấy bao nhiêu sự khó khăn mà giải quyết một cách dễ dàng mà chỉ dựa vào một sự may rủi. Cái ý nghĩ đó đã một đôi khi làm chàng nghĩ rằng nếu dễ gây dựng được thì cũng dễ mất được lắm. “Ngộ rồi, chàng nghĩ thầm, ngộ rồi lại có một sự không may cỏn con nào xảy tới khiến mình mất cái địa vị hiện tại. Sao lại không có thể như thế được?”. Ý tưởng ấy làm chàng nhiều khi thành suy nghĩ vẩn vơ không được an tâm, và trong lòng chàng bỗng nảy ra một mối lo sợ, không sâu sắc nhưng cũng đủ làm cho chàng rùng rợn. Những lúc đó thì chàng rất rộng lượng với những người làm việc dưới chàng. Vì chàng cho rằng họ đã phải vất vả hơn mình, vâng theo mình, có lẽ chỉ bởi họ không gặp bước may như chàng chứ chưa chắc họ đã là người kém chàng.
Hôm ấy, mở đầu câu chuyện về sự gả con gái cho Thúc, bà Nhất cũng tỏ lòng khen Thúc, và khen cả bà Cang đã nhẫn nại, chịu khó nuôi con. Rồi bà nói nhỏ giọng thân mật:
- Thôi thì thế này, bà ạ. Chẳng qua cũng là cái duyên số xui nên thế, bà với tôi là chỗ bạn bè. Bà có chút giai, thì tôi có mụn gái. Tôi thấy cậu Thúc là người cũng đứng đắn, vậy tôi cũng muốn cho cháu nó được làm dâu bà.
Bà sợ bà Cang tỏ vẻ khinh bỉ cái ý thèm muốn cái địa vị của Thúc, bà vội vàng chống chế ngay: “Tôi ưa nết cậu ấy ngoan ngoãn, mà bà thì hiền lành chứ không phải tham danh tham giá gì. Bà thử nghĩ xem còn gì hơn là chỗ bà và tôi vừa là bạn cũ, lại vừa là dâu gia với nhau”.
Bà Cang lấy vẻ vui mừng điềm đạm đáp lại:
- Ấy thưa bà, tuy thế, nhưng cháu Thúc hãy còn ít tuổi, nên từ khi cháu đi làm, tôi cũng chưa dám nghĩ đến sự vợ con của cháu.
Bà ngưng nói, hút một điếu thuốc lào rồi không để bà Nhất nói lại, bà vội tiếp lời:
- Nhưng chẳng trước thì sau, ai rồi cũng phải lấy vợ chứ tránh sao được. Bà có lòng tốt thương cháu, thì tôi cũng có lời cám ơn. Nhưng tôi chưa dám trả lời chắc chắn với bà. Vì còn phải hỏi ý cháu. Nếu “đôi con trẻ” ưng nhau, thì tôi cũng xin nhận lời.
Bà Nhất nghe bà Cang cũng vui vui trong lòng, bà cầm chiếc ống nhổ nhả bã trầu rồi tươi cười đáp:
- Cái đó thì tất nhiên, dù sao thì cũng phải để chút quyền cho con cái mới được chứ. Thời bây giờ không thể bảo cha mẹ đặt đâu thì con ngồi đấy được.
Bà trừng trừng nhìn bạn ra vẻ thân tín hơn:
- Mấy lại ép dầu, ép mỡ, ai nỡ ép duyên.
Bà Cang cất tiếng cười to. Bà sợ rằng bà Nhất tin lời mình nói đã là câu ước hẹn, vội dựa vào câu đó biện bạch, như để gỡ nốt câu chuyện:
- Vâng! Bà nghĩ thế rất phải. Mỗi thời một khác. Ngày xưa thì có lẽ bà với tôi đi lấy chồng đến ngày cưới mới được biết mặt chồng; nhưng bây giờ thì lại trái hẳn, phải cho các cô các cậu ấy gặp nhau, biết nhau, hiểu nhau, yêu nhau rồi mới xong chuyện.
Bà cất cao giọng và dằn từng tiếng để nói câu “biết nhau, hiểu nhau, yêu nhau”, như để chế giễu cái bọn trẻ đã vẽ vời ra cái việc rắc rối đó để cho sự dựng vợ gả chồng thêm phần khó khăn.
Câu chuyện đến đó, bà Cang không ở lại nữa e sợ lỡ lời rồi công việc hoặc thành hỏng hoặc thành chặt chẽ quá, khó gỡ, vì sự thực bà cũng còn hơi lưỡng lự. Lưỡng lự một phần vì muốn để quyền cho Thúc đôi chút, một phần vì bà còn e sợ người ngoài chê cười vì đã nhờ vả nhiều nên đành phải cho con làm rể. Bà mang câu chuyện trên đây kể cho Thúc biết. Thúc một mực từ chối. Chàng đã được gặp con gái bà Nhất mấy lần và thấy cô thấp và béo, chàng thừa dịp chê trách:
- Thực không khác một quả bóng bơm chưa căng lắm.
Chàng cũng nhận thấy rằng cô ta có hai mắt xinh, có miệng cười tươi, nhưng chàng vẫn không sao quên được cái mũi to của cô. Khi nói với mẹ, chàng đã dùng giọng hài hước:
- Cái mũi trên cái mặt cô ta thực không khác một quả táo to để giữa lòng một cái đĩa bé tí xíu. Nó mới chướng làm sao!
Và khi nói đến hai tai con gái bà Nhất, chàng phì cười:
- Thực là tai voi. Sao mà rộng vành đến thế. Hai cái tai ấy thì chuyện nhỏ chuyện to, chuyện gì cũng lọt qua. Thế mới chết cho cái anh chồng!
Tuy không bằng lòng con về cái lối cợt nhả ấy nhưng bà cũng không thể nhịn được cười. Và câu chuyện đang nghiêm nghị bỗng thành bông đùa giễu cợt. Cách đó ít lâu, bà Cang lại tới thăm bà Nhất; và lần này thì chính bà tìm cách khơi câu chuyện. Bà khôn khéo bắt đầu:
- Tháng trước tôi ở Nam Định với cháu Thúc (vì dạo đó, Thúc mới được bổ về làm ở Nam Định) hôm về Phúc Yên cháu cũng dặn dò gửi lời về hỏi thăm bà.
Đó chỉ là câu khách sáo bà nghĩ ra, sự thực Thúc chẳng hề hỏi thăm gì bà Nhất. Sau câu nói trên đây, bà Cang lại loanh quanh kể những chuyện buôn bán của bà, bà kêu ca về nỗi bận rộn, về việc nhà không thể đi lại với các bạn bè được. Rồi bà kể lể về công việc làm của Thúc. Hết những chuyện vụn vặt ấy, bà còn nói về chuyện lễ bái các đền chùa, sau hết bà vờ như câu chuyện bà mang ra nói dưới đây không phải là đích của cuộc gặp gỡ giữa bà và bà Nhất:
- À, thưa bà, nhân tiện hôm nay được gặp bà đây, tôi có câu chuyện nói để bà rõ. Ấy, cũng định nói với bà từ lâu cơ đấy, nhưng bây giờ già rồi hóa lẩn thẩn, hay lú lấp, quên khuấy ngay đi mất hôm nay mới bỗng lại nhớ ra đấy.
Bà nghiêm nghị nhìn bạn:
- Ấy, ai thì cũng vậy, đến cái tuổi gần hấp hé miệng lỗ thì nó vẫn thế.
Bà ngừng nói như để cố tìm những câu cho thật khéo, rồi tiếp bằng một giọng rất thong thả như để vừa nói, vừa cân nhắc những tiếng bà dùng:
- Thực tôi tiếc quá! Chả còn biết nghĩ ra sao. Cái câu chuyện hôm nọ bà nói với tôi, tôi đã nói lại với cháu.
Bà rụt rè không dám nói ngay là Thúc đã từ chối, bà hạ giọng cố kéo dài câu chuyện để cho lâu la mới tới đoạn kết:
- Tôi cũng bảo cháu thế này này: Thôi thì mợ với bà Nhất cũng là chỗ bạn cũ mà bây giờ bà ấy lại có lòng thương nghĩ đến con thì con cũng nhận lời đi để mợ được yên lòng.
Bà ngừng nói, nhìn nhận bà Nhất để dò la ý rồi lại chậm chạp:
- Thế mà nó cứ một mực không lấy vợ vội. Cố dỗ dành nói khéo với nó, mà cũng chẳng xong; nó cứ một mực rằng hãy còn ít tuổi, không đi đâu mà hấp tấp.
Rồi bà như hơi thẹn thùng nhìn đi nơi khác, cố đánh bạo nói cho hết câu chuyện:
- Thôi thì bà xem có nơi nào mà cô ấy vừa ý thì bà cũng thu xếp cho xong.
Bà Nhất, ngay từ đầu câu chuyện đã tỏ vẻ bực tức và không bằng lòng. Bà hằn học ngồi yên, mặc cho bà Cang nói, và để xem bà “xoay xở chiều nào”. Nhưng đến câu nói đó thì đã thành như uất ức. Cái ước vọng được một chàng rể có địa vị đã bị tiêu tán. Tình bè bạn giữa bà Cang và bà như không còn nữa. Bà như cau có:
- Gớm! Bà lại nói là “cho xong” (bà nói to hai tiếng này); con gái tôi đã lỡ thì, đã già nua, không ai thèm hỏi đến đâu mà bà bảo là cho xong.
Bà không muốn để bà Cang nói len vào, bà cất cao mãi giọng lên và lấn át: “Có điều rằng tôi cũng nghĩ đến bà, tuy không góa cũng như góa và cũng cùng một cảnh ngộ, tôi lại thương đến cậu Thúc chứ có phải là tôi cầu cạnh chức tước gì!”.
Bà Cang cũng thấy khó chịu nhưng biết rằng mình đã hớ hênh, lỡ lời nên cố điềm đạm đáp lại để lấy lòng bạn:
- Vâng, tôi cũng biết vậy. Bà đã thấu rõ tình cảnh tôi, và bà lại thương đến cháu Thúc thì còn gì bằng. Nhưng nào có phải tại bà hay tại gì tôi. Chẳng qua là duyên giời không xe lại, chứ tôi không muốn hay sao.
Bà nói những câu sau đây bằng một giọng ai oán như để cố đổ hết mọi tội lỗi cho cái “duyên giời không xe lại” và để tỏ ra rằng bà và con bà không có điều tiếng gì.
Câu chuyện tới đó, bà Nhất vẫn có vẻ không vui, yên lặng không nói gì. Bà Cang cũng chẳng biết nói thêm ra sao. Bà uống nốt chén nước giở rồi xin về. Bà Nhất cũng mời lại một câu lấy lệ:
- Ấy, bà hãy ngồi chơi tý đã. Lâu nay mới lại được gặp nhau. - Thôi xin phép bà để khi khác, dạo này bận rộn quá.Bà Nhất giọng mỉa mai:
- Gớm từ ngày cậu Thúc làm nên đến giờ bà bận nhiều quá, thành ra quên cả bạn bè - (Bà dằn mạnh tiếng quên).Bà Cang cũng thừa hiểu là bà Nhất nói cạnh nói khóe, cho rằng con thi đỗ đi làm bà không còn thèm chơi bời với ai, nhưng bà đã khôn khéo làm ngơ như không hiểu bà Nhất định nói gì, tươi cười chào bạn rồi ra về.