PHẦN THỨ HAI
Việc con gái bà Nhất không xong, một phần vì Thúc không ưng ý, nhưng cũng một phần vì chính bà Cang không thuận tình. Bà đã được biết rõ ràng bà Nhất là người tuy có nhã nhặn, không keo bẩn về đồng tiền nhưng nhiều khi có khắc nghiệt. Bà e rồi Thúc đã làm rể bà Nhất mà không chiều chuộng được đủ mọi điều rồi lại có chuyện không hay. Vả lại đã nhiều lần bà ngắm nghía cô con gái bà Nhất. Bà thấy dáng bộ cô có vẻ hấp tấp vất vả quá, bà đã đem lòng chê trách. Sự thực trước kia bà cũng định rằng nếu Thúc chẳng đỗ đạt được cao mà đi làm lương bổng ít ỏi thì cũng cố liều hỏi cho Thúc để vừa giữ được cái tiếng là biết ơn huệ, không bạc tình lại vừa có chỗ nương tựa khi túng thiếu. Cái lợi con con đó đã nhiều lần bà nghĩ tới. Nhưng bây giờ địa vị của Thúc đã làm bà thay đổi ý kiến. Lương bổng của Thúc mỗi tháng hơn hai trăm đồng, tiền nhà không mất, và tiêu dùng cũng chẳng hết là bao. Bằng món tiền dành dụm bà sẽ có thể trang trải được những nợ nần đã phải chịu đựng bà Nhất. Bà nghĩ thầm:
- Còn cái ân huệ thì lấy lời ăn tiếng nói, sự đi lại chơi bời mà đối đãi chứ! Chả nhẽ lại rước một nàng dâu mình không ưng về nhà hay sao!
Bởi thế mà khi thấy Thúc từ chối, bà vui vui trong lòng, không hề khuyên con điều gì. Mà chẳng hạn Thúc có nhận lời, bà cũng sẽ tìm cớ can ngăn chàng. Bao giờ trong việc hỏi vợ cho con bà cũng mang vào sự suy tính, lấy sự gây dựng làm đích. Một đôi khi bà cũng tự biết rằng bà hơi có vẻ giáo giở, song tình cảm không bao giờ lấn át được sự tính toán hơn thiệt của bà.
Sau món con bà Nhất, bà lại cố tìm cách đi manh mối đám khác. Bà An bên hàng xóm mách giúp. Đám này có lẽ rồi xong xuôi. Con gái một ông phán gần về hưu ở sở Dây thép. Ông được quyền đứng đầu trông nom hết cả những người cùng làm chung một sở, nên những người trong tỉnh ai ai cũng gọi ông bằng hai tiếng “ông chủ” và người ta tặng bà vợ hai tiếng “bà chủ”. Ông chủ, bà chủ có hai người con gái. Cô lớn đã lấy một người thư ký tòa sứ ở ngay tỉnh. Cô thứ hai, cô Hà, mới mười bảy tuổi, đã theo học đến lớp nhất, mới nghỉ học ở nhà được ít lâu.
Khi bà An đánh tiếng, ông chủ trả lời công việc đó ông để toàn quyền cho vợ xếp đặt.
- Tôi bận bịu suốt ngày, - ông nói, - còn thì giờ đâu mà trông nom đến việc ấy được.
Sự thực ông chẳng có gì có thể gọi được là bận bịu, ông vẫn còn chán thì giờ để đi đánh tổ tôm hoặc xem truyện Tàu. Song ông đã nói thoái thác thế để tránh tiếng là ghét bỏ con. Đối với hai người con gái trong nhà, ông vẫn không hề tỏ tình mật thiết. Cái định kiến “con gái cái bòn” và “nuôi cho uổng rồi cũng tếch về nhà người ta” đã làm cho ông không hề chăm chút tới hai người con gái. Lần trước gả chồng cho người con gái lớn, ông chẳng hề săn sóc gì. Khi thấy vợ nói là đã nhận lời gả con cho một ông phán tòa sứ, ông chỉ khẽ trả lời:
- Ừ, cũng được.
Đến ngày người ta xin cưới, bà chủ cũng tìm cách bàn tính với ông. Lúc đó ông đã ăn xong bữa cơm trưa, và sắp sửa đi ngủ. Bà theo ông tới bên giường, thì thầm:
- Này ông, công việc định liệu ra sao. Họ nhà giai người ta đến xin cưới đấy.
Ông vẫn điềm nhiên kéo chiếc chăn bông lên che mặt rồi trả lời dưới tầng chăn: “Thì cho người ta cưới, còn để làm gì”.
Bà còn định hỏi han thêm về sự mời mọc, bày biện thì ông đã cất tiếng ngáy đều đều.
Tới nay, đến việc gả chồng cho cô con gái thứ hai, ông vẫn có cái lãnh đạm như thế. Bà An đã biết cái tính đó, nên bà cũng chỉ hỏi qua ông để lấy lệ, và thứ nhất để khỏi mang tiếng là người thiếu lịch sự. Sau câu chuyện lấy lệ đó, bà tìm cách bày tỏ ngay với bà chủ. Bà An không phải là một người mối lái nhà nghề. Vì bà có đứa cháu ngoại, trước kia mỗi lần Thúc nghỉ hè về Phúc Yên lại sang học Thúc và nay đã đi làm ở sở Lục Lộ, tháng tháng cũng giúp bà được ít nhiều. Bà vẫn thường nói lại với bà Cang là nhờ có Thúc mà cháu mình đã “có một hai chữ để làm việc Tây.” Nhân dịp này, bà muốn mối lái như để trả ơn lại. Nếu công việc xong xuôi thì không những bà chỉ trả ơn được một Thúc mà còn trả ơn được cả bà chủ. Vì trước kia, khi người cháu chưa đi làm thỉnh thoảng túng bấn một đôi chục, bà vẫn tạm vay dật của bà chủ. Bởi bà nghĩ con gái bà chủ đã đến tuổi mà lại mối lái được một người chồng có địa vị như Thúc thì hẳn sẽ hởi lòng bà chủ nên bà đã hơi hãnh diện thầm khi mang câu chuyện mối manh nói ra với bà chủ.
Bà có đủ mọi lời để tán tụng bà Cang và Thúc. Bà chẳng dám bịa đặt những cái hay, e rồi về sau có thế nào lại mang tiếng là con người “tràng mười khoát chín”. Song bà vẫn cố khôn khéo lựa chọn để có lợi cho công việc bà làm. Bà thường nghĩ thầm: “Chẳng xưng xưng đặt điều thì cũng thêm bớt gọi là đôi chút chứ!”. Trong câu chuyện giữa bà và bà chủ, không bao giờ bà quên lấy cái câu ấy làm then chốt.
Bà chủ là người khá dễ tính và hay tin. Bà hơn người ở chỗ thực thà và không hay khoe khoang hoặc kênh kiệu cái địa vị của chồng mình ở một tỉnh nhỏ. Bà vẫn cho bà An là người tuy nghèo nhưng rất hiền hậu và nhất là thực thà. Vì thế mà khi thấy bà nói chuyện đó, bà chủ cũng không ngần ngừ, trả lời ngay:
- Ừ thì tôi cũng tin lời bà; bà là chỗ quen biết từ trước tới nay. Nếu nên thì bà bảo nên, mà không thì thôi.
Nói xong câu đó, bà như hối hận đã quá nhẹ dạ, chưa suy nghĩ đã vội làm như nhận lời. Bà sợ rằng bà An sẽ tỏ lòng khinh mình đã nóng kiếm chút chồng cho con mà không kịp “suy trước nghĩ sau”. Bà lại cố lựa lời để tự bào chữa:
- Đối với bà như người nhà thì nói thế cho vui chứ thời bây giờ cũng chưa biết thế nào. Đã bao nhiêu người khổ vì nỗi hám danh, gả con cho tham với phán. Tôi cũng còn liệu xem cái đã. - Thưa bà, cậu ta hiếu hạnh lắm (bà An vội đáp lại ngay). Còn bà mẹ thì hiền lành lắm. Chẳng hề to tiếng với ai bao giờ.
Sau cuộc thù tiếp trên đây, bà An còn đi lại mấy lần nữa. Rồi bà chủ và bà Cang gặp nhau. Mấy lần lại nhà bà chủ chơi, bà Cang chẳng hề chăm chút đến câu chuyện cho lắm. Bà chỉ dò la xem xét mặt mũi, dáng điệu đứng ngồi của Hà. Vì bà vẫn tin rằng người ta xấu tốt thế nào đều phát tiết ra ngoài, trên nét mặt, trong con mắt, trong cử chỉ đi đứng, trong vẻ ăn nói. Bà chê cái cổ hơi ngắn và con mắt hơi xếch. Nhưng bà thầm khen cái trán phúc hậu, hai tai đeo hoa không sệ. Bà thích nhất cái dáng đi, ra vẻ người cao quý, an nhàn. “Chứ không có cái dáng hấp tấp vất vả như con gái bà Nhất”, bà nghĩ thầm. Những cái tốt bà tìm ra được cũng tạm đủ bù đậy lại được những cái dở. Và vì thế bà ưng ý. Bà bèn gửi thư đi Nam Định cho Thúc về xem mặt. Bà cũng làm thế để lấy lệ. Nếu Thúc chẳng bằng lòng bà cũng cố khuyên răn cho xong công việc.
Thúc và Hà đã ưng ý nhau, sau một cuộc gặp gỡ ở nhà bà chủ. Và công việc có thể gọi tạm là gần xong. Thế là cái tin con gái bà chủ lấy Thúc đã lan ra khắp tỉnh. Ở một tỉnh nhỏ như Phúc Yên, một câu chuyện cỏn con không can hệ cũng chỉ trong chốc lát là mọi người đã biết rõ ràng; câu chuyện từ cửa miệng người này sang cửa miệng người khác cứ theo tính nết từng người mà thay đổi. Có khi rất dở nhưng mỗi người tán tụng một tý, rồi cũng thành hay, nhưng trái lại, nhiều câu chuyện rất thường thường, bỗng thành can hệ mà chất chứa đủ mọi cái xấu xa dơ rếch. Một câu chuyện kể trong một gia đình với mấy bà khách chỉ qua hai, ba ngày sẽ là đầu đề câu chuyện của hết mọi gia đình rỗi rãi. Một số đông là gia đình công chức. Khi các ông chồng đã đi làm, các bà không cờ bạc thì lại rủ rê tụ họp uống nước, ăn trầu. Miếng trước chưa hết đã kế tiếp miếng sau. Và len giữa những miếng trầu là những câu chuyện nhạt nhẽo hàng ngày. Rồi dần dần, các bà xói móc, bới chuyện riêng bạn bè, các người quen biết. Người thân mật, các bà tâng bốc, nịnh hót, khen ngợi đến cả cái xấu. Kẻ thù hằn thì dù tốt các bà cũng tìm đủ mọi cách để chỉ trích chê bai. Nếu phải một người béo tốt, các bà bĩu môi nói xấu bằng câu:
- Cái con mẹ trục tròn ấy mà...
Nếu phải một người gầy còm, các bà nhăn mặt:
- Cái con chão chàng ấy ai còn lạ gì...
Rồi các bà mới kể đầu cua tai nheo, bới móc từng ly từng tý. Việc nhà cửa các bà thì có lẽ các bà không biết gạo còn hay hết, thằng bếp nấu nướng ra sao. Nhưng đối với những kẻ các bà ghét bỏ thì các bà chẳng còn bỏ sót một tý gì: nào kiết cú, ngày ngày chỉ hai bữa cơm rau với muối vừng; nào quỵt tiền công thằng ở; nào người ta chỉ tìm cách vay mượn các bà rồi không giả. Bà nào cũng biết rằng một đôi khi mình bịa đặt hẳn chuyện để chế giễu người ta, nhưng bà nào cũng cứ làm ra vẻ tin lẫn nhau để được dịp “bôi tro trát trấu”. Hết ngày ấy sang ngày khác, các bà chỉ lẩn quẩn như vậy. Cũng bởi cái trường hợp đó mà cái tin Thúc lấy con bà chủ đã đến tai hết thảy mọi người. Thứ nhất là các bà có con gái đã lớn tuổi lại càng cố tìm cách lân la dò chuyện. Cái địa vị của Thúc đã làm cho các bà như ghen tuông hộ con gái mình. Bà nào cũng khủng khỉnh như để che lòng tự ái bằng cách dối trá. Bà này vênh váo: “Ối chà! Đi nhẵn ngõ nhà tôi rồi đấy. Con tôi không ưng rồi mới đến phần cô ta đấy chứ”. Bà kia hoa tay: Cũng ròm rỏ nhà tôi từ ngày xửa ngày xưa cơ đấy! Tôi đã phải bắn tin là không nhận nhời đừng theo đuổi rồi lại uổng công nên bây giờ mới quay ra món ấy vậy".
Trong bọn các bà, bà Nhất là người tức tối hơn cả. Lòng sốt sắng ra công giúp đỡ bà Cang để gây người chàng rể đã bị phá tan một cách đau đớn và bất ngờ. Bà quyết tâm tìm cách chia rẽ. “Không được ăn thì đạp đổ chứ!”, bà nghĩ vậy. Và bà cố tìm dịp thi hành cái ý định của bà. Bà không phải là người tai ác nhưng bà đã bị lòng ghen tức xui đẩy. Mà người ta dù đã hiền lành đến đâu chăng nữa, khi đã ghen tức thì có thể tàn ác đến tột bực. Dịp may đó là hôm bà được gặp bà chủ ở nhà bà hàn Trung, một người bạn thân của bà.
Bà Nhất tới nhà bà hàn trước. Bà định đến bàn việc gọi họ tháng sau. Vì ngày gọi trúng vào ngày bà phải đi vắng, nên bà muốn tới để xin hoãn. Bà vừa tới nơi, chưa ăn xong miếng trầu và chưa bắt đầu câu chuyện thì bà chủ đến. Vừa thấy bà chủ, bà đã quên ngay câu chuyện chính của mình và sửa soạn để bắt đầu thế trận, trong sự đánh bại bà Cang. Bà không tỏ vẻ ghen tức. Trái lại, bà cố niềm nở với bà chủ để dễ lấy lòng tin. Tuy bà chỉ quen biết qua loa bà chủ, nhưng hôm đó, bà hoan hỉ vui mừng như được gặp một người bạn thân từ lâu xa cách:
- Kìa bà chủ, gớm đã từ bao giở bao giờ, bây giờ mới được gặp bà chị. Dễ thường bà chị quên tôi rồi đấy chắc!
Bà mỉm cười bằng một giọng thân mật hơn và nhún nhường:
- Bà chị có quên tôi thì quên, chứ tôi thì chả sao quên được bà chị.
Câu nói đó đánh mạnh vào trí bà chủ, và gây ngay được tình cảm trong lòng bà. Lúc đó bà chủ mới tươi cười, khiêm tốn đáp lại:
- Bà chị cứ nghĩ vậy chứ đã là chỗ quen biết như chị em thì em đâu dám quên bà chị.
Sau câu nói đó, bà cũng hỏi thăm một câu lấy lòng:
- Dạo này bà chị tôi buôn bán phát tài lắm chứ?
Biết rằng khởi sự, câu chuyện đã có phần lợi về bà, nên bà Nhất lại bằng một giọng thân mật hơn nữa (nhưng lần này bà bỏ tiếng chị để xoay sang câu chuyện đứng đắn cho dễ):
- Xin cám ơn bà, nhờ trời hàng họ cũng dễ chịu lắm ạ.
Bà nói tiếng “ạ” một cách rất nhẹ nhõm khiến câu nói tuy có bề thân thiết mà vẫn giữ được vẻ lễ phép, không suồng sã.
Bà hàn Trung ở giữa lấy địa vị một người chủ nói lấy lòng cả hai người:
- Thực là quý giá quá. Tôi lại được tiếp hai bà cũng cùng là chỗ quen biết cả.
Rồi bà sai người pha nước. Trong khi bà bận rộn về lấy chè, súc ấm, bà Nhất khôn khéo khơi đầu:
- À, thưa bà, tôi hỏi thế này khí không phải. Tôi thấy “văn kỳ thanh” rằng bà với bà Cang sắp là dâu gia với nhau thì phải.
Câu hỏi bất ngờ làm bà chủ hơi rối trí, khó trả lời. Bà chủ với tay lấy miếng trầu trên đĩa và vừa thong thả bóc vỏ cau vừa đủng đỉnh tiếng một tìm cách giấu câu chuyện:
- Ấy thưa bà, bà Cang cũng chỉ mới đánh tiếng thế thôi chứ thực ra thì cũng chưa có gì cả. Tôi cũng chưa hỏi ý cháu xem công việc ra sao.
Bà Nhất thừa dịp dựa vào câu đó nói luôn, cố sức không để bà chủ ngắt lời:
- Thưa, thực là may bà ạ. Tôi tưởng công việc đã đâu vào đấy cả rồi thì đáng tiếc (bà hạ giọng ghé gần tai bà chủ). Chỗ quen biết, tôi nói thực bà đừng giận (bà liếc mắt như để dò xem có ai nghe ngóng không). Ai chứ cái bà Cang ấy là ghê gớm lắm. Khốn nạn! Bà tính một người mà đến nỗi chồng đã phải bỏ thì còn ra gì nữa, hở bà (bà nói thầm sát tai). Điêu ác đáo để đấy. Quịt không của tôi mấy trăm bạc đấy!
Đến đây, bà ngừng nói và tìm xem còn câu gì xấu xa hơn nữa để mang ra bôi nhọ bà Cang. Bà cũng tự biết rằng vu khống đặt điều như thế là nhỏ mọn, song lòng ghét tức đã khiến bà cứ đi sâu mãi vào con đường xấu đó. Bà chủ thấy bà Nhất có những câu nói đột ngột quá, muốn nói lại để phân giải và tìm cách bênh vực cho bà Cang. Nhưng thấy bà Nhất có giọng nói có vẻ thực thà nên bà cũng lưỡng lự. Sau hết bà chủ cũng nói được một câu, một câu mà bà rụt rè mãi và bà cho là “vô thưởng vô phạt”:
- Tôi thấy nhiều bà bảo bà ta theo đạo Phật tu hành nhân đức lắm kia mà.
Bà Nhất vội ngắt lời ngay bằng một câu hết sức sỗ sàng:
- Tu gì! Tu hú ấy à! Chỉ giả danh tu hành để lừa người cho dễ (bà lại ghé sát tai). Một bồ dao găm đấy!
Giữa lúc đó bà Trung ở nhà trong ra thấy hai bà thì thầm bèn hỏi:
- Hai bà rủ rỉ gì thế?
Rồi bà mỉm cười nói thêm:
- Tôi nghe thấy dao găm, dao gung gì, hay hai bà định thịt chủ nhân đấy?
Bà chủ và bà Nhất đều cất tiếng cười. Bà Nhất cũng đùa đáp lại:
- Ấy, hai chị em chúng tôi, bây giờ túng thiếu, chỉ định lại thịt bà để kiếm một món tiêu.
Bà Trung vẻ bông đùa, vén tay áo, giơ ra hai cổ tay nhỏ bé phủ lần da nhăn nheo.
- Hai bà tính chỉ độc những xương với xẩu thế này thì còn xơ múi gì mà định thịt.
Bà chủ cãi lại:
- Ấy, hai cổ tay bà bé nhưng két bạc bà to.
Cả ba người lại cất tiếng cười một cách vô tư lự. Bà Nhất đã định giấu giếm không cho bà Trung biết câu chuyện. Nhưng bà lại nghĩ rằng bà Trung là người bạn thân của mình mà chẳng có liên lạc với bà Cang thì chỉ có một cách là nói cho tỏ rõ cả, chắc hẳn rồi bà Trung cũng theo lời bà mà vào hùa với bà để làm cho bà chủ dễ nản lòng hơn. Có thêm một người cùng phe tức là có thêm một tên lính trong thế trận. Phần thắng ắt hẳn sẽ về bà. Nghĩ vậy nên bà nói với bà Trung:
- Có gì đâu! Chuyện cái bà Cang ấy mà. Chả bà chủ tôi đây (bà trỏ và dằn hai tiếng “tôi đây” để lấy lòng bà chủ) sắp sửa dâu gia với bà Cang. Mà tôi đã biết bà Cang là người ghê gớm lắm, nên tôi cũng nói để bà chủ biết, để liệu mà đề phòng kẻo lại bị mìn (bà nhìn bà Trung). Bà không biết cái bà Cang ấy chứ, bà mà biết bà ta thì bà cũng đến “thất đảm” mất! Chả được như tôi với bà hay với bà chủ đây đâu (bà lại lấy tay trỏ bà chủ rồi bà lại trừng trừng nhìn bà Trung). Chả lẽ chỗ quen biết mà lại không bảo nhau rồi sau này lại có lời oán trách mình, có phải không bà?
Bà liếc mắt nhìn trộm bà chủ, để dò la nét mặt, rồi như bà có ý định giúp người bạn cũ lánh một tai nạn hơn là vì lòng ghen ghét, bà nói:
- Tôi được cái thực thà, nghĩ sao nói vậy, không dám bịa đặt mà cũng chẳng muốn nịnh hót ai, cứ thẳng là hơn.
Muốn như có người chứng nhận cho câu nói đó, bà lại nhìn bà Trung và hỏi ý kiến bà bằng câu bà thường dùng:
- Có phải không bà?
Bà Trung chẳng biết ngả bên nào, lưỡng lự, không nói gì! Bà Nhất ngoảnh sang phía bà chủ, phá tan cái yên lặng khó chịu đó:
- Còn ý kiến của bà ra sao thì bà liệu. Ai thì cũng nối duyên chứ ai lại nghĩ chia duyên!
Câu đó vừa nói ra bà lại tìm cách xóa mờ đi ngay, e bà chủ sẽ biết cái lòng ghen tức của mình:
- Nhưng ai chứ cái bà Cang ấy thì ghê gớm lắm đấy!
Bà hàn Trung đã từ lâu không nói gì, vì thấy câu chuyện hơi khó nghĩ, chẳng biết nên nâng đỡ bà nào, để bà nào phải lùi bước. Lần này bà cũng cố đánh bạo nói một câu “lưu đôi”:
- Tôi tưởng chả cứ gì việc này, việc nào thì cũng phải cân nhắc cho cẩn thận.
Câu chuyện đến đó thì mấy ấm trà đã liên tiếp cạn và bã trầu đã đầy ngập cả một góc nhà. Hai bà cùng xin về. Thế là bà Nhất quên hẳn ngay cái việc gọi họ. Còn bà chủ đến cốt nhờ bà hàn mách mối hộ một nơi bán đất để bà tậu mấy sào làm trại ở khi ông chủ đã về hưu cũng quên hẳn cái chuyện đó, tưởng như mình rỗi rãi thì lại thăm bà bạn vậy.
Ra đến ngoài phố, bà Nhất còn lăm le theo bà chủ đến tận đầu phố như để nói nốt câu chuyện còn dở dang. Mà thực ra bà chỉ nhắc đi nhắc lại có mấy câu: “Cái con người thế mà nham hiểm - Ấy, bà cũng nên cẩn thận - Không khéo lại bị mìn rồi lại khổ mình, khổ cả con...”.
Khi hai bà chia rẽ nhau, mỗi bà đều băn khoăn về một ý nghĩ riêng. Bà Nhất thì hơi đắc trí đã gieo được vào óc bà chủ những câu chê trách đầy xấu xa về bà Cang, nhưng còn lo lắng rằng thế vẫn còn chưa đủ. Bà chủ thì thấy lòng tin của mình đã lung lay. Hôm thấy bà An mách mối, bà đã suy tính mãi. Bà cũng quen biết nhiều bạn bè của bà Cang. Đã có hai bà nói đến bà Cang và khen ngợi cái đức tính nhẫn nại điềm đạm của bà. Cũng có nhiều bà chê trách nhưng toàn là những điều nho nhỏ không đáng quan tâm. Bà đã yên trí là công việc không có gì cản trở. Câu chuyện bất ngờ giữa bà và bà Nhất đã làm bà thành phân vân. Trong lòng bà đã bắt đầu có những cảm tưởng không hay về bà Cang và sự mến phục của bà đối với bà Cang đã bị giảm bớt. Và bắt đầu từ đó giữa bà Cang và bà chủ đã kém phần thân mật. Mỗi lần nghĩ đến việc gả chồng cho con bà lại thấy buồn buồn trong lòng. Nghĩ đến chồng, thấy chồng thờ ơ với con cái quá, và việc gì cũng để mặc một mình bà lo liệu, đã có lần bà chủ thốt ra câu:
- Chồng với con, rõ đến chán. Chẳng còn hòng nhờ vả gì được!