← Quay lại trang sách

đường xuống núi

13

Khi tôi lên đến đỉnh ghềnh, mặt trời đang chìm dần vào mặt biển vạch ngang chân trời. Mây thành một vệt xám mỏng mảnh tan dần như khói, và vừa lúc bóng tối phủ xuống thì mặt trăng ló dạng, vàng khè, to như một cái nia khổng lồ nhích khỏi mặt nước đầy sương chiều bốc lên hờ hững. Trăng lên. Nhẹ đi, sáng dần, cao vòi vọi. Tôi men đến bờ ghềnh, nhìn xuống. Dưới ánh trăng hư ảo, vực như sâu xuống. Sức hút của vực sâu khiến tôi bất giác lui lại, người hững đi như bước hụt. A, cái sức hút. Tôi đã từng cảm thấy sức hút này khi lên những ngôi nhà cao tầng nhìn xuống mặt đất, thèm giải thoát bằng cách buông mình vào khoảng không dưới chân. Giải thoát? Nhưng khỏi cái gì? Thật khó hiểu. Có lẽ nào giải thoát đơn giản chỉ là vùng vẫy khỏi vòng trói buộc của ảo giác tạo ra từ những tế bào não bộ bấn loạn trước một chiều cao khiến con người nhỏ bé đi đến độ có cũng như không?

Nhưng bây giờ, không phải mặt đất. Dưới kia là biển đẫm khói sương. Ánh trăng hắt xuống, khúc xạ, và dần dần, sương nhạt, mặt biển như dát vàng, loại vàng 24 carats, vàng xỉn, nửa khêu gợi kéo đến gần, nửa hững hờ lạnh nhạt đẩy ra xa. Bất chợt, gió lên. Gió dịu dàng, có mặt như một người tình nhỏ bé ngồi bên không nói. Mây trôi, sương trên biển cũng tan biến. Biển dát vàng nay long lanh dưới tầm mắt, sóng sánh, gọi mời. Tôi giơ tay vỗ nhè nhẹ vào mặt. Có phải cái Đẹp là đây, tự tại, linh hiển, hiện diện không biện bạch. Cái Đẹp hút tôi như nam châm, nhả ra tôi sẽ rơi xuống để thoát khỏi mọi ràng buộc, tự do như cánh chim tìm lại trời cao. Có phải, cứu rỗi là trạng thái tâm hồn mở ra hoà nhập vào bản chất nhất thể của thiên nhiên, vừa hiện thực vừa huyền nhiệm, đong đưa giữa có và không, giữa mất và còn, giữa những tương phản bề ngoài tưởng là đối nghịch?

Tôi đến sát bờ ghềnh, nhìn xuống. Bây giờ, rất dễ mất thăng bằng, lắm khi chỉ vì tiếng côn trùng đang cất lên như bắt đầu một bản giao hưởng thiêng liêng. Bây giờ, cũng rất dễ lấy lại thăng bằng, nếu ai đó cất lời một con người, nhắn nhủ ngày mai có tiềm năng khác hôm nay và tất cả những ngày qua. Nhìn xuống, biển dát vàng chóa sáng. Nhìn lên, dăm cánh vạc lượn vòng quét những vệt trắng nguyên sơ trong đám mây sắc bạc lung linh. Biển quyến rũ như một người đàn bà có cái nốt ruồi khóe miệng mang chất định mệnh. Une femme fatale. Một định mệnh ngoài mọi ý thức. Ngoài nỗi kiêu sa huyễn hão con người nuôi trong tâm thức như nuôi mầm một nhành hoa gở.

Tôi vẫn ở tư thế chưa biết phải lảm gì trong cái giằng co giữa hư vô với thực thể. Thình lình, tôi nghe một tiếng chuông vẳng lên bờ ghềnh.

14

Tiếng chuông kéo tôi ngược con dốc quay về am. Biết tiếng chuông đánh lên đón khách, tôi gắng tránh gây động tĩnh, trườn mình trong đám cỏ ướt đẫm sương đêm như một con thằn lằn. Trong am, có ánh đèn dầu. Nhìn qua cánh cửa khép hờ, bóng người trên vách đong đưa. Mùi hoa nhài ở đâu thoảng lại. Một người đàn bà y phục trắng toát, đầu chít khăn, tóc xổ xuống chạy dài sống lưng. Ông ta, vẫn ở tư thế ngồi trước mặt như với tôi, tay lần tràng, mắt nhắm. Người đàn bà kể lể, âm thanh gãy khúc, giọng lẫn những cơn nấc nghẹn chặn thanh quản nghe ấm ức như tiếng saxo vỡ vụn. Mùi hoa nhài giữ chân. Và nỗi sợ gây tiếng động phá không khí thiêng liêng bao phủ lên am lúc này khiến tôi nằm im, thật im, không nhúc nhích.

Người đàn bà phục xuống lạy, nức nở:

`` Nếu được cứu rỗi, dẫu chỉ một thoáng, con sẽ gặp mẹ con trên Niết Bàn một lần, tạ cái tội giết mẹ…Đây là ý nguyện của con, Thày giúp cho. Nếu không, con đời đời là con ma vất vưởng không bao giờ siêu thoát, tội nghiệp cho con lắm, Thày ơi!``

Ông ta im lặng. Lát sau, ông lẩm bẩm như chỉ để mình nghe:`` Niết Bàn là khi ngộ ra tánh Không, hiểu thế gian vạn vật vô thường vô ngã, thoát khỏi cõi vô minh gây Khổ Ải, đặt chân tới giới hạn cuối cùng của tiến hóa luân hồi …``

Người đàn bà phủ phục, tóc xõa xuống đất, nức nở rồi thút thít, tiếng khóc ủ ê hòa vào tiếng côn trùng rỉ rả. Ngửa người, tôi nhìn trời đầy sao. Nghe trộm, tôi đã biết cuộc đời oái oăm kia đang đi tìm cứu rỗi với niềm hy vọng gặp mẹ ở một chốn nào đó để tạ lỗi. Chốn đó, có hay không? Sau thế gian này, nếu cát bụi lại trở về như cát bụi thôi, nghĩa là không hóa không sinh không diệt thì chẳng có chi gọi được là cứu rỗi, và niềm mong mỏi tạ lỗi của người đàn bà kia khó có một ý nghĩa gì.

Ông ta vẫn im lặng, bất động như một pho tượng cổ. Tiếng cú rúc ngoài rặng cây nghe rợn gai ốc. Thình lình, ông chậm rãi rút một nén hương châm vào ngọn đèn dầu rồi đứng dậy đến bên người đàn bà.

`` Lạy Cao Xanh, đây là để tưởng tới hồn bà ở nơi an lạc``

Tay chìa nén hương, ông thủng thẳng tiếp:

`` Niết Bàn là thanh tịnh, không ân, không oán, và chắc hẳn chẳng còn có chi gọi là lỗi lầm được!``

Kìm tiếng khóc nức lên, người đàn bàn chậm rãi đứng lên đi cắm nén hương vào chiếc lư trên bệ. Ông ta nhếch mép, tiếng nhẹ như làn khói bay vòng, nói:

`` Cho già này hỏi thí chủ một câu...Khi bà thân sinh còn sống, bà mong ước gì ở thí chủ?``

`` Mẹ con mong con học lên cao, có một cái nghề, rồi lấy chồng, sinh con như mọi người đàn bà bình thường...Mẹ con bảo, được thế thì mẹ con là một người đàn bà hạnh phúc! ``

``Thí chủ có tin rằng sau cái chết, những linh hồn siêu thoát sẽ tái sinh vào một kiếp khác không?``

Nhìn người đàn bà gật đầu, ông tiếp:

`` Linh hồn bà có siêu thoát được không khi những điều bà mong ước ở thí chủ cuối cùng là một lời xin lỗi ở cõi Chết? Trong tâm thí chủ đã xin tạ lỗi, lỗi ấy hẳn bà đã cảm nhận, và nay thí chủ phải làm sao giúp cho bà siêu thoát để tiếp tục tiến hóa trong vòng sinh - tử.``

Người đàn bà lại hực lên khóc, đầu lắc, tay giơ lên đấm ngực. Ông Thày thở dài. Lát sau, ông nói, giọng như than:

`` Phải đợi trăng viên mãn! Lúc ấy nếu cứu rỗi được thì chuyện mới có cơ thành…``

Người đàn bà dần dần lấy lại bình tĩnh. Nhìn thật lâu vào khuôn mặt tiều tụy đang ngước lên, ông nói nhỏ, giọng thân ái:

`` Thí chủ trèo lên đây trặc chân, còn đau lắm không?``

Người đàn bà nhăn mặt, gật đầu.

`` Thôi, hãy về quán trọ đi, mai mốt lại lên…Tôi đưa cho cây gậy này, chống đi khéo kẻo lại ngã!``

Cúi đầu lạy tạ, người đàn bà chống gậy chuệnh choạnh đi xuống. Ông ta nhìn theo, đăm chiêu.

15

Người đàn bà xuống dốc, tay chống gậy, bước xiêu vẹo. Trăng khi đó xế ngọn cây, đắp mặt núi rừng một mầu vàng yêu ma dọa nạt. Ông Thày đi kèm một thôi đường, và khi đến hòn đá tảng dựng lên chắn ngang dốc, ông đứng lại, giọng có chúttrìu mến:

`` Thôi, về đi…``

Người đàn bàn lí nhí cám ơn, tiếp tục bước, tiếng gậy đập vào mặt con đường lổn nhổn đất đá tạo những thanh âm khô khốc. Ông ta nhìn theo. Nép mình vào bóng cây, tôi nín thở, mông lung có cảm tưởng ông ta biết tôi có mặt ngay từ lúc còn ở trong am.

Sương núi buông xuống, lạnh và ẩm. Tiếng vạc ăn đêm thoắt gần thoắt xa vọng lại, mơ hồ, xa vắng. Trước mặt tôi, người đàn bà đi mỗi lúc một chậm, thỉnh thoảng lại dừng chân, tay níu vào những bụi cây cao ngang thân người. Lẳng lặng theo, tôi giữ một khoảng cách, một khoảng vừa đủ để nếu có sự cố bất ngờ tôi có thời giờ cứu ứng. Cọp, chết hết rồi. Nhưng còn rắn. Còn những con chó hoang. Và biết đâu, còn những con người hóa dại trong cơn thiếu đói nay không còn lạ gì trong thời buổi gạo châu củi quế.

Bỗng nhiên, người đàn bà ngã chúi xuống. Tôi khựng lại, mắt mở to, chờ. Bà ta bất động, lát sau quơ tay lên. Tôi đến gần. Bà đong đưa, chống tay, nhưng không ngồi lên nổi. Tôi đợi. Thêm mười, mười lăm phút. Bà thở giốc, rên rỉ. Chẳng lẽ cứ ngồi chờ mãi, tôi quyết định đến bên bà ta. Nghe bước chân tôi, bà rú lên. Tôi nói nhỏ:

`` Đừng sợ! không sao đâu! ``

Thều thào, bà xin tôi dìu bà về quán trọ. Bà lí nhí:

`` Chắc quán cũng còn chẳng xa...``

Đỡ lên, đưa cây gậy vào tay rồi xốc nách bà, tôi vừa chuyển bước thì bà kêu:

`` Ối trời, đau, đau....``

Tôi cúi xuống, tay nhè nhẹ nắm lấy cổ chân bà. Nó sưng vù, nóng rát. Ngẫm nghĩ không còn cách khác, tôi nói:

‘’ Để tôi cõng, nhớ ôm lấy cổ tôi...Coi chừng, chớ ngã!``

Bà nằm trên lưng tôi, cắn răng kìm tiếng rên rỉ, tay ôm cứng. Tôi lại bảo, giọng hài hước cốt bà quên cái đau:

`` Đừng xiết, tôi nghẹt thở, cả hai cùng chết đấy...``

Bà ta bật cười. Như quen biết đã từ lâu, bà hóm hỉnh nói như trêu chọc:

`` Sợ nhỉ! Nhưng cùng chết thì lãng mạn lắm! ``

Vào lúc đấy, mùi hoa nhài sực lên mũi. Tôi hít, như thưở thiếu thời nghe lời bà ngoại, hít thật nhẹ. Cây nhài là con người tôi cõng trên lưng, tóc tai, áo quần đều ngát lên mùi hương từ cái thuở thật xa xôi tôi cứ tưởng chẳng bao giờ còn thấy lại.