Phụ lục Dạ Đài - Bản tuyên ngôn tượng trưng (1946)
Chúng tôi - một đoàn thất thổ - đã đầu thai nhằm lúc sao mờ.
Cho nên buổi chúng tôi xuất hiện, chúng tôi để cho tàn suy giấc mo của những người thuở trước.
Sụp đổ: lâu đài phong nguyệt; và mai một: ý tứ những thi nhân mò ánh trăng mà thác. Chúng tôi không còn khóc, không còn muốn khóc - vì nguôi ta đã khóc mãi ái tình, công danh và thế sự.
Chúng tôi không còn nhìn mây, không còn muốn nhìn mây - vì người ta đã nhìn mãi mây chiều cùng nắng sớm. Chúng tôi đã gào thét nhũng đêm thâu, đã rên la những ngày dài dằng dặc. Chúng tôi đã nhìn lên Tinh Đâù và đã nhìn xuống Thế Nhân. Chúng tôi đã về giữa non sâu để trở lại những bình nguyên hoang lạnh. Chúng tôi đã sống, sống hết cả những hình thức dưong trần, đã đau khổ hết cả nhũng mối sầu vui nhân loại.
Cho nên lúc chúng tôi nhìn lại tâm tư lại là lúc chúng tôi nhìn về muôn trùng biên lạ. Từng thớ tim đã kết hình thạch nhũ và toàn thân đã biến đổi chất mầu.
Đã lâu chúng tôi không còn rung động vói trần tâm; đã lâu chúng tôi chẳng còn biết thương yêu mừng giận.
Vả lại, làm sao người ta cứ lặn lội mãi trong mối thất tình eo hẹp? Làm sao nguôi ta cứ khóc mãi, than mãi, rung động mãi theo những con đường rung động cũ? Làm sao người ta cứ nhìn mãi vũ trụ ở ba chiều, và thu hẹp tâm tư ở bẩy dây tình cảm! Chúng ta còn có nghèo nàn thế nữa đâu? Chúng ta đã mang nặng: những thế hệ tàn vong -những triều đình đổ nát - trăm nghìn lớp phế hưng. Chúng ta đã thâm cảm: những trời sao vằng vặc - nhũng sự vật điêu tàn - sự mòn mỏi của ngày đêm liên tục. Biết bao chuyện tang điền đã xáo động tấm hình hài nhân thế! Biết bao nhiêu thế kỷ đã trầm tư! Biết bao nhiêu núi lở non tàn đã bắt buộc chúng ta phải sầu thương, chúng ta đã phải trở lại chúng ta mà tư tưởng! Chúng ta suy nghĩ nhiều rồi, chúng ta đã suy nghĩ quá nhiều rồi ở một Con-đưòng-tuyệt-vọng.
Bải vậy chúng ta chẳng còn là cái chúng ta quá vãng đơn sơ thuần phác nữa: chúng ta đã góp gom hình ảnh tinh cầu và lòng chúng ta đã đầy lên châu ngọc.
Thế cho nên chúng tôi - thi sĩ tượng trưng - chúng tôi có nói cũng chỉ là nói cái tâm trạng của thòi nhân, của những thòi nhân đã có ngày cô độc.
Chúng tôi sẽ nối lại: nghiệp dĩ của một Baudelaire - tâm sự của một Nguyễn Du - sự nổi loạn và ra đi của một Rimbaud - nỗi cô đơn của những nhà thơ lãng mạn.
Chúng tôi sẽ vén cao bức màn nhân ảnh, viết lên: quỹ đạo của trăng sao - đường về trên cõi chết. Chúng tôi đã sống, lấn cả sang bờ bên u huyền, cho nên buổi chúng tôi quay về thế tục, chúng tôi nhìn hoa lá vói những cặp mắt mờ hoen. Nhõn tiền bỗng thấy đổi thay tất cả những hình sông vóc núi. Chúng tôi lạ: lạ từng đám mây bay, từng bóng người qua lại. Chúng tôi lạ từ sắc nắng bình minh đến mầu chiều vàng vọt. Chúng tôi lạ, lạ tất cả. Và chúng tôi đã thấy nhũng cái người ta chẳng thấy. Chúng tôi đã thấy muôn nghìn thực tại ẩn sau cái thực tại cảm thâu bằng những năng khiếu nông gần. Chúng tôi đã thấy: thế giói bên kia, những thế giói bên kia lâh ngay trong đám bụi dương trần một giây phút có thể bùng lên như Thực Cảnh.
Vả cái sức rung động của một bài thơ chỉ có thể vào sâu và lan rộng nếu đã thâu góp được cái sức rung động của vô biên, nghĩa là của muôn nghìn cõi đất. Chúng ta đã chán ngắt cái thi ca nông hẹp, nhai đi nhắc lại những phong cảnh trần gian, những tâm tình thế tục. Chúng ta đã tự nhiên trở nên khó tính: chúng ta muốn vào sâu ngoại vật, nội tâm và muốn đi xa thiên đuờng, địa ngục. Hãy để cho tiền nhân những cảm giác đơn nghèo. Để cho bọn đề nho cái công việc ẩn giấu nỗi lòng nhạt nhẽo của họ trong nỗi lòng chung thiên hạ hay trong gió nuớc, cỏ cây. Để cho bọn đàn bà con trẻ cái công việc than khóc thảm thuong trên một kỳ hoa tạ, trên một giấc mộng dở dang. Để cho những thế hệ đã nằm yên cái tôi nông cạn ấy.
Chúng ta muốn những cảm giác thâm u mà chúng ta mói chỉ có những thi sĩ của lòng. Đã đến lúc chúng ta đọi những thi sĩ của linh hồn, những thi sĩ của cái tôi thầm kín.
Thế cho nên, chúng tôi - thi sĩ tuọng trung - chúng tôi cố đánh thức cái thế giói im lìm đuong nằm ngủ ở trong lòng nhân loại. Chúng tôi cố thực hiện một cuộc trở về, chúng tôi cố trở lại cái chúng tôi vói tấm lòng khi đất tròi khai lập.
Nguôi ta đã tìm mãi Đạo Lý ở đuờng lên: ghìm giữ bản năng kham khổ - nhục hình. Chúng ta sẽ tìm Đạo Lý ở con đuờng xuống: thả lỏng thiên năng dam mê và khoái lạc. Những triết nhân đã chẳng kêu gọi sự quay lại đó u? Và những phong trào xã hội? Chúng ta chẳng nhận thấy rằng nguời ta đuong gắng sức trả lại con nguời cái trinh bạch đầu tiên, trả lại con nguôi cỏ cây huyền mặc, sông núi hoang sơ? Chúng ta hãy trở về cái bản năng mà thế tình che đậy. Hãy mơ những giâc mơ cầm thú. Hãy gợi lên những cõi sống âm thầm. Hãy đánh thức hư không, nghĩa là cả tấm lòng xưa man rợ.
Vì thế, thơ cũng phải âm u như cảnh giói của cái tôi thầm lặng. Không thể rưng cảm chúng ta nữa cái văn chương cổ tích chỉ có một chiều, chỉ nhắc gợi một cõi đất, một tâm tình. Thơ phải cấu tạo bằng tinh chất của vô biên. Sau cái thế giới hiện trên hàng chữ, phải ẩn giấu muôn nghìn thế giói, cả thế giới đương thành và đương hủy.
Nhưng thi cảm phải gây trong thực tại. Những câu chuyện hoang đường, hãy dành lại cho nhũng đàn em bé nhỏ. Bọn lãng mạn, sau khi chùi xong nước mắt lại lảm nhảm nói đến chuyện những nàng tiên. Chúng ta hãy cứ mặc họ khóc than trên tính tình của họ.
Chúng ta phải nhớ rằng chúng ta đương kê những câu chuyện cổ tích cho những người đúng tuổi nghe. Phải gây nên cả hai không khí hoang đường và hiện thực. Một bài thơ phải chứa đựng những cái gì đã có, nhung phải mang ở trạng thái tiềm tàng những cái gì có thể có và cả những cái gì không có nữa.
Một ánh sao băng: nhưng đấy là muôn nghìn sự vật lìa tan ở những khu tròi xa lạ.
Phải xáo trộn cả thực hư. Đã có: Vạn Lý Trường Thành, A Phòng Cung, Kim Tự Tháp. Có thể và không có: thuyền bến Thanh Tuyền, đèn noi Thiên Cảnh. Hãy nằm dưới một trời sao mà trông về thế tục. Hãy ca lên trong kẽ núi và hát giữa bình sa.
Chúng ta cũng không thể tách lập được hẳn thực hư, và chia đôi địa trâh bằng một bờ sao rõ rệt. Cõi mộng và cõi đòi đã thâm nhập vào nhiều nơi, và ở nhiều noi đã thấm trộn cùng nhau trong một cuộc giao hoà bí mật. Có ở cõi đất chúng ta không: những đường lối cố đô, nhũng vì sao huyền ảo! Nhiệm vụ thi ca là phải khai thông con đường giao cảm ấy. Một đầu phố cô đơn, một con đường thăm thẳm: tất cả những phong cảnh trần gian sẽ phải hư lên vì sự thực.
Làm sao mà giải quyết được sự mâu thuẫn phi thường đó? Chúng ta chỉ có một con đường đi đê thoát khỏi mê đồ. Chúng ta chỉ có thể dung họp được thực và hư bằng hình tượng. Phải lập lại ngôn ngũ’ trần gian, phải gột bỏ cho mỗi chữ cái tâm tình dung tục cũ. Một câu thơ sẽ có một ý nghĩa - cái ý nghĩa rất thường - nhưng sẽ mang nặng biết bao nhiêu ý nghĩa âm u và khác lạ. Mỗi một thế giói sẽ nằm trong một tầng lớp của tượng hình: tất cả trần gian sẽ đổi thay trên bề mặt, nhũng cảnh giói hoang vu sẽ nằm giấu bên trong. Thực tại và u huyền đã gặp nhau và chỉ gặp nhau ở thể hình duy nhất đó. Chúng ta đã cứu vãn được: cõi đất chúng ta, cứu vãn được: nhũng cõi đất ngoài kia, và cứu vãn được bằng sức gọi cảm âm thầm hình tượng.
Vả nhũng hình tượng còn tạo tác được nhũng âm thanh huyền diệu nữa. Âm nhạc trong thơ không phải chỉ kết họp hoàn toàn hỏi những cú điệu số học, những luật lệ trắc bằng. Biết bao nhiêu câu thơ niêm luật rất chỉnh tề mà vân tắt ngâm ở mang tai sau khi chữ cuối cùng vừa đọc hết. Chi một sự nhận thức đó cũng đủ tỏ chứng rằng âm nhạc của một bài thơ phần lớn là do ở sức rung động Tâm Lý của bài thơ ấy. Nói đến âm nhạc trong thơ là phải nói đến sức gọi khêu của chữ. Vì những hình tượng mang nặng những ý tình nên âm nhạc gây nên cũng mang đầy âm sắc. Câu thơ đọc xong sẽ còn đi mãi trong từng ngõ vắng linh hồn và sẽ tắt nghỉ ở tận đáy sâu Tiềm Thức.
Thế cho nên chúng tôi - thi sĩ tượng trưng - chúng tôi sẽ nói lên và chỉ nói lên bằng hình tượng, thứ ngôn ngữ tân kỳ, ngôn ngữ của những thế giói yêu ma, của những thế giói thần nhân mà cũng là của cái thế giói âu sầu đây nữa. Bằng hình tượng, chúng tôi sẽ kể lại những câu chuyện xưa nguôi ta kể cho chúng tôi nghe dưới ngọn đèn. Chúng tôi sẽ tìm hiêù linh hồn của những ca dao, tục ngữ. Chúng tôi sẽ tượng trưng hoá cái sức rung động của trẻ em trước một chuyện cổ tích hoang đường và cái sức rung động của gã nông phu trước những bản đồng dao thuần phác.
Cảm thâu nhũng bài thơ siêu thực, chúng ta không đuợc dùng lý trí, không đuợc dùng cảm tình, nghĩa là không đuợc chỉ dùng có một quan năng tách bạch của chúng ta -dù là quan năng nào đi nữa. Hãy đem tất cả linh hồn, hãy mở tất cả cửa ngách của tâm tu mà lý hội. Trận gió sẽ lên: tức khắc và đột nhiên, vì thơ đã không cần lý luận.
Thói xấu của phần đông những nguời đọc thơ là tìm nghĩa truớc khi tìm cảm giác. Họ đã tự tay đóng cửa lâu đài; đêm có xuống họ lại chạnh than và kêu gọi.
Đến cái hình thức cao nhất, thơ không còn lý luận, và cũng không còn phải tự dinh duỡng bằng nhũng thi đề rõ rệt. Chỉ cần có những phút mà Im Lặng rung lên. Vì trong im lặng có tất cả: những thành quách đang xây, những tinh cầu đang đổ vỡ. Thơ chỉ cần bắt đuợc cái âm điệu khởi hành của một bài ca nào huyền mặc. Rồi cứ theo những định luật dan díu dị kỳ, những hình ảnh sẽ đua nhau đẩy xô trong một bản khiêu vũ mơ hồ cho hết lúc sẽ cùng nhau tắt thở. Và kẻ tiếp nhận thơ sực tỉnh, có nhớ lại cũng chỉ còn nhớ là mình đã tỉnh một cơn mê. Vì hai bến bờ im lặng đã giao nhau và quãng thòi gian xao động không còn di rớt lại một khe hở tâm tu, những giây phút đã vỡ ra không còn một minh xác.
Chúng tôi đã không cần tói thi đề, vì thi đề của chúng tôi là tất cả một vũ trụ muôn chiều, và thi liệu của chúng tôi là tất cả mớ ngôn từ rộng rãi.
Đi giữa bờ bến u Huyền và Hiện Thực, chúng tôi sẽ nói thay cho tiếng nói những loài ma. Chúng tôi sẽ khóc lên cho những nỗi oán hờn chưa giải. Chúng tôi sẽ bắt hiện lên những đường lối u minh. Chúng tôi sẽ kể lại những cuộc viễn du trong những thế giới âm thầm sự vật.
Có thể đem lại cho chúng ta một chút niềm quên? Vì chúng ta muốn quên và cần quên để sống. Thi ca thuở trước, thứ thi ca dựng xây trong cái quan niệm tính cổ truyền đã mất hẳn cái thếlực đó rồi. Chúng ta chỉ còn thấy nghèo nàn, vụn vặt, đắp lên trên cái trật tự đơn thuần, cái lý trí. Biết bao nhiêu thế kỷ nguôi ta đã bắt thi nhân cùng sự vật phải đứng yên ở một điểm không gian bằng phẳng và trong một giây phút đọng ngưng. Nguôi ta đã chẳng biết rằng một hình ảnh tĩnh chỉ làm cho chúng ta nhớ thương và hối tiếc. Một chiếc ảnh của người con gái khi xưa gọi lại một quãng đòi hấp hối. Một người sẽ khóc mãi đợi người đi, khóc mãi cái sự chẳng đổi thay của góc vườn ụ đất. Và ở hình thức cao đẹp nhất của nó, một hình ảnh im lìm chỉ làm cho chúng ta run sợ và run sợ với một cảm giác nông nghèo. Chúng ta hoảng hốt giữa non sâu, những luồng rung động đã hun hút đi qua như đi qua một khe cửa hổng. Trạng thái còn đây chỉ là một trạng thái phẳng bằng, một trạng thái vô cùng đơn sơ và nhạt nhẽo. Vì thế, cái thi ca cổ rích, cái thi ca tĩnh của tiền nhân ngâm vịnh, của bọn lãng mạn khóc bạn chẳng làm chúng ta quên, vì chẳng có thê’ đây đưa chúng ta theo những nhịp điệu bồng bênh của bản thanh âm hoàn vũ.
Thế cho nên chúng tôi - thi sĩ tượng trưng - chúng tôi sẽ đón về đây tất cả những thế giới quay cuồng, chúng tôi sẽ bắt một vầng trăng phải lặn, một ánh sao phải mờ đi, một chế độ phải tàn vong và một bài thơ phải vô cùng linh động.
Chúng ta có thể quên được chăng: cái xã hội âu sầu vói một mớ dây ràng buộc? Chúng ta có thể quên được chăng trong cái sự nối tiếp u huyền của những thanh âm, mầu sắc?
Hãy đưa chúng ta đi. Đưa chúng ta ngược về dĩ vãng, qua bờ tương lai, đưa chúng ta đi cho hết cõi dương trần, đi cho hết những tròi xa đất lạ. Để chúng ta sống muôn ngàn cõi sống. Để chúng ta có hàng triệu năm già và vô vàn ký ức: ký ức của những dân tộc đã tàn vong, ký ức của những cõi đời xa thẳm, ký ức của những thế kỷ đã lùi xa. Để cho muôn ngàn ký ức chất chồng lên ký ức chúng ta, cái ký ức bi thương, cái ký ức đơn nghèo đã lượm thâu bằng những giác quan trần tục.
Trần Dần
Trần Mai Châu
Vũ Hoàng Địch
⚝ ⚝ ⚝
Thông cáo của ban thường vụ Hội Văn nghệ Việt Nam ngày 2/10/1956 v'ê vấn đ'ê phê bình bài thơ Nhất định thắng của Trần Dần
Trong bài thơ Nhất định thắng đăng trong tập Giai phẩm mùa Xuân đầu năm 1956, ban thường vụ nhận thấy có những khuynh hướng tư tưởng sai lầm nghiêm trọng cần phải phê bình. Tháng 2/1956, ban thường vụ tổ chức phê bình bài thơ đó. Vào lúc ấy, anh Trần Dần đang có một số vâh đề trong quân đội chưa được rõ ràng. Trong khi lãnh đạo phê bình, ban thường vụ thiên về coi tác giả như một nguôi có tư tưởng chống lại chế độ. Vì thế cách phê bình không đi sâu về phân tích mà nặng về chụp mũ, đao to búa lớn, trái vói nguyên tắc và tinh thần đấu tranh tư tưởng trong nội bộ của văn nghệ chúng ta. Tiếp theo đó, báo Văn nghệ lại đăng bài tường thuật cuộc phê bình thiếu thận trọng của anh Hoài Thanh nêu tính chất phản động của bài Nhất định thắng. Những sự việc ấy không những đã làm thương tổn đến cá nhân anh Trần Dần, mà còn gây nhiều lo lắng cho những người sáng tác văn nghệ. Mặc dầu liền sau đó, Phủ Thủ tướng có phê bình, nhưng ban thường vụ không tự kiểm điểm kịp thòi mà chỉ đăng lên báo Văn nghệ bài thơ Đời đẹp lắm của Trần Dần, làm cho quần chúng không hiêù.
Ban thường vụ thừa nhận những sai lầm của mình trong cách tổ chức và lãnh đạo cuộc phê bình bài tho Nhất định thắng của Trần Dần. Hiện nay anh Trần Dần vẫn là hội viên Hội Văn nghệ Việt Nam, và đang tiếp tục công việc sáng tác về cải cách ruộng đất do Hội tổ chức.
Tô Hữu Nhìn lại 3 năm phá hoại của nhóm Nhân văn-Giai phẩm... Những hoạt động phản động và phản bội của chúng đã tiến hành từng bước theo kế hoạch "ăn từng miếng" như tiếng chúng quen dùng.
Bước thứ nhất bắt đầu từ mặt trận văn nghệ đả kích Đảng và chế độ ta.
Mọi kẻ thù của dân tộc và của nhân dân lao động trong thòi đại ta ngày nay, thời đại thắng lọi của chủ nghĩa xã hội, đều hiểu rõ Đảng của giai cấp công nhân là kẻ thù nguy hiểm nhất của chúng, vì lẽ dễ hiểu: nhũng người cộng sản là nhũng người được tin yêu nhất của dân tộc, của nhân dân.
Bọn thù địch của Tổ quốc và nhân dân ta cũng thế, thèm muốn đen tối cúa chúng luôn luôn là: đánh đổ sự lãnh đạo cúa Đảng ta đê’ có thể xoá bỏ chế độ dân chủ nhân dân ở miền Bắc. "Tố cộng, chống cộng" là chủ đề chính trong tuyên truyền của Mỹ-Diệm ở miền Nam, cũng nhu của các chủ nghĩa đế quốc khác; "tố cộng ở trong lòng cộng" là nhiệm vụ hàng đầu mà chúng giao cho tay sai của chúng ở miền Bắc.
Bọn cầm đầu nhóm phá hoại Nhân văn-Giai phẩm, những kẻ từ lâu đã nuôi sẵn trong lòng sự hằn thù đối vói chế độ ta và những nguôi cộng sản, tất nhiên cũng hoạt động theo huóng đó. Học kinh nghiệm của bọn phản động quốc tế, bọn phá hoại ở nuớc ta cũng áp dụng cái thuật đánh từ mặt trận văn nghệ, là một miếng đất còn sơ hở của cách mạng, và phối hợp "nội công" vói "ngoại kích". Nhu nhiều nguôi trong bọn họ đã thú nhận, cuộc tâh công vào chế độ ta và Đảng ta đã bắt đầu trên mặt trận văn nghệ từ đầu năm 1955, ngay khi hoà bình vừa lập lại.
Trong khi bọn gián điệp còn giấu mặt chờ đọi thòi cơ, và bọn tơ-rốt-kít Truơng Tửu, Trần Đức Thảo tích cực chuâh bị lực luợng ở truòng đại học, thì bọn Nguyễn Hữu Đang, Lê Đạt, hai tên phản Đảng ẩn nấp trong báo Văn nghệ của Hội Văn nghệ cùng bọn Trần Dần, Tử Phác cũng là những tên phản Đảng trong Phòng Văn nghệ Quân đội, đã kết thành một bè phái chống Đảng trong văn nghệ.
Nhu lòi thú tội của Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm, cuộc phê bình tập thơ Việt Bắc là do cái bè phái ấy sắp đặt, để đánh vào sự lãnh đạo và đuòng lối văn nghệ của Đảng, đường lối phục vụ chính trị cách mạng, phục vụ công nông binh, và để đề xướng cái "điệu tâm hồn" ruỗng nát của chủ nghĩa cá nhân tư sản, mở cửa cho lối sống tự do sa đoạ.
Đưong nhiên cái "điệu tâm hồn" ấy của Lê Đạt xướng lên không thể nào hoà được vói cái điệu lớn của cách mạng, và cũng rất tự nhiên nó chỉ hoà được với "tiếng sáo tiền kiếp" lóc gân của tên mật thám Trần Duy.
Cũng lúc ấy, bọn Trần Dần, Tử Phác - những đứa con hư hỏng của Hà Nội cũ - nay lại trở về với những "cảnh cũ người xưa" bỗng cảm thấy đời sống trong quân đội "nghẹt thở", chỉ vì thiếu cái tự do trở lại đời sống trụy lạc cũ. Đối vói chúng, đòi sống trong quân đội cách mạng chỉ còn là "những sợi dây xích trói buộc phải phá mà ra". Được tiêm thêm ít nhiều chất phản động của Hồ Phong, Trần Dần gióng lên Tiếng trống tương lai, chửi cán bộ chính trị là "nguôi bệnh", "người dòi", "người ụ". Cùng Tử Phác khiêu khích những anh em khác, hắn tổ chức một cuộc đấu tranh "buộc lãnh đạo thực hiện mọi yêu cầu" của họ.
Họ đòi thực hiện những gì? "Trả quyền lãnh đạo văn nghệ về tay văn nghệ sĩ. Thủ tiêu chế độ chính trị viên trong các đoàn văn công quân đội. Thủ tiêu mọi chế độ quân sự hiện hành trong văn nghệ quân đội. Thành lập trong quân đội một Chi hội Văn nghệ trực thuộc Hội Văn nghệ, không qua Cục Tuyên huâh và Tổng cục Chính trị." Tóm lại là thủ tiêu sự lãnh đạo của Đảng và kỷ luật của quân đội đối vói họ. Và đúng nhu Trần Dần đã thú nhận, "cuộc đấu tranh chính sách chỉ là cái cớ đê’ chúng tôi khoét mâu thuẫn giữa quần chúng và lãnh đạo". Phá phách không hiệu quả, họ kéo nhau ra khỏi quân đội, hòng làm cho Phòng VNQĐ vì thiếu họ mà tê liệt. May thay, chính vì "thiếu họ" từ đó mà nhũng tài năng mới trong quân đội càng nảy nở thêm lên.
Những "điệu tâm hồn" và "tiếng trống" của bọn Nguyễn Hũu Đang, Lê Đạt và Trần Dần, Tử Phác, không gọi đuợc sự chú ý của ai, nhung cũng có vài kẻ tri âm huỏng ứng.
Không phải ngẫu nhiên mà báo Nói thật của Hoàng Công Khanh, một kẻ đã bán mình cho địch trong thòi tạm bị chiếm, lúc đó bỗng đăng "vu vơ" một bài của Lỗ Tâh viết ngày xua trong thòi kỳ đấu tranh chống chế độ Tuởng Giới Thạch, dưới đầu đề: Bước chia tay giữa văn nghệ và chính trị. Nhung đọc nó, ai không thấy ác ý của những kẻ đã quen nghề "tác động tinh thần", lên tiếng chào mừng bọn chống chế độ, chống Đảng.
Trong bóng tối, vẫn có nhũng kẻ không phải ta, sục sạo đánh hoi chờ đọi. Thời cơ ra mắt chưa lọi cho chúng, hãy để cho lũ chống Đảng hoạt động, và giúp đỡ họ từ xa. Vói túi tiền của bọn tư sản phản động và nhà xuất bản Minh Đức, Nguyễn Hữu Đang càng tích cực phá hoại, lôi kéo một số văn nghệ sĩ lạc hậu, mở rộng hoạt động phản bội của hắn. Đầu năm 1956, con ngựa Minh Đức hí hửng thồ mấy cái tên ra mặt chửi chế độ, chửi Đảng, trên Giai phẩm mùa Xuân.
Hãy nghe Trần Dần thú nhận về bài thơ Nhất định thắng của hắn: "Làm vói dụng ý xuyên tạc sự thật, bôi đen miền Bắc... Nêu cảnh thất nghiệp, hàng ế, đi Nam, hai năm không thống nhất... luôn luôn lặp lại cái điệp khúc 'mua sa trên mầu cờ đỏ' để nhấn mạnh Đảng là nguyên nhân của cái xã hội thê thảm này..."
Bên cạnh Trần Dần là những tiếng tục tằn khác, chửi bóng gió những cán bộ là "mèo", là "sên" và inh ỏi cái thùng sắt tây Lê Đạt kêu "Mới! Mới!", "Bay cho cao, bay cho xa!". Nguôi ta biết chữ "bay" ấy về sau chi còn có nghĩa "vù" (đi Nam) nhu bọn Lê Đạt đã nói rõ.
Cái gọi là Giai phẩm mùa Xuân ấy lập tức bị chi trích thu hồi. Cơ quan lãnh đạo của Đảng và Hội Văn nghệ một lần nữa cố gắng giáo dục, nghiêm khắc phê bình họ và thật tình vẫn muốn coi họ nhu những nguôi rối trí, lạc đuờng. Họ im đi, nhung lại để rình cơ hội phục thù.
Lọi dụng lúc khó khăn, ra mặt phản cách mạng, đánh thắng vào chế độ và sự lãnh đạo của Đảng, chống lại nền chuyên chính dân chủ nhân dân, âm mưu gây biến động. Đại hội lần thứ 20 của ĐCS Liên Xô vói những luận điểm có giá trị lịch sử và quốc tế lớn lao, đã làm nức lòng những người cộng sản và tiến bộ trên thế giói, tất nhiên làm cho bọn phản động khắp các nước hết sức hoảng sợ. [...] Nhân co hội ĐCS Liên Xô dũng cảm phê phán tệ sùng bái cá nhân và nhũng sai lầm của đồng chí Stalin, chúng lập tức khuấy lên một luồng gió độc tâh công vào các nước XHCN, chửi rủa Liên Xô và các Đảng cộng sản. [...]
Giới văn nghệ, qua một lớp nghiên cún những quan điểm Mác-Lênin về văn nghệ, cũng thẳng thắn phê bình những khuyết điểm lệch lạc trước nay trong phong trào và trong lãnh đạo về mặt văn nghệ. Nhưng bọn phá hoại bấy lâu mài sẵn nanh vuốt, liền nắm ngay cơ hội ấy đê’ làm đục không khí phê bình lành mạnh.
Đến đây, bọn Nguyễn Hữu Đang cùng bọn gián điệp Thụy An kết thành một khối công khai chửi rúa kháng chiến, lợi dụng diễn đàn hội nghị đả kích sự lãnh đạo của Đảng ta, đòi phải bỏ đường lối văn nghệ của Đảng, phải thay đổi chính sách và tổ chức của Đảng trong văn nghệ. Tình hình nước ta lúc đó đang trải qua một cuộc thử thách lớn. Đáng ta phát hiện những sai lầm trong Cải cách Ruộng đất, chỉnh đốn tổ chức. Đòi sống của nhân dân ở thành thị còn khó khăn, lại bị bọn tư sản đầu cơ uy hiếp. Thế giói cũng đang còn sóng gió; từ những vụ lộn xộn ở Ba Lan đến cuộc biến động phản cách mạng ở Hungari; chiến tranh Anh-Pháp xâm lược Ai Cập.
Dư luận xã hội đang nhiều nỗi phân vân, càng thêm xôn xao lo lắng.
Trong lúc các loại phản động trong xã hội, cùng những lưu manh cao bồi ngóc đầu dậy như những con vắt ghê tởm, bọn phá hoại trong văn nghệ càng hoạt động dữ. Tái bản Giai phẩm mùa Xuân và liên tiếp xuất bản các tập Giai phẩm mùa Thu, mùa Đông, Đất MỚI. Vói báo Nhân văn ra đời lúc đó, bọn phá hoại ngày càng tự lột trần chân tướng.
Báo Nhân văn công nhiên là lá cờ phản cách mạng, đánh thẳng vào Đảng và nhà nước, chống lại nền chuyên chính dân chủ nhân dân. Nó là tiếng gọi tập hợp của nhũng phần tử phản động, kích thích những phần tử bất mãn đi vào con đường phản nghịch. Sặc mùi thù địch, nó là một vũ khí tuyên truyền phản động công khai dưói chế độ ta, được mọi thành phần phá hoại tích cực ủng hộ, truyền bá ở các thành thị, trong các trường học, vói cái chất ngông nghênh, phá phách và trụy lạc. Nó trở thành một thứ "món ăn tinh thần" của bọn cao bồi và lưu manh trên các đường phố, của một số thanh niên lạc hậu thèm khát phiêu lưu, hưởng lạc và kích thích họ vào con đường tội lỗi.
Trong cái công ty phản động Nhân văn-Giai phẩm ấy thật đủ mặt các "loại biệt tính": từ bọn Phan Khôi, Trần Duy mật thám cũ của thực dân Pháp đến bọn gián điệp Thụy An, tìr bọn to-rốt-kít Truông Tửu, Trần Đức Thảo đến bọn phản Đảng Nguyễn Hữu Đang, Trần Dần, Lê Đạt. Một đặc điểm chung là hầu hết bọn chúng đều là những phần tử thuộc giai cấp địa chủ và tư sản phản động, và đều ngoan cố giữ lập trường quyền lợi giai cấp cũ của mình, cố tình chống lại cách mạng và chế độ.
Chính vì thế mà bọn đế quốc, nhất là Mỹ-Diệm, nhiệt liệt ủng hộ chúng. [...]
Báo Nhân văn ra từ số 1, lập tức bị báo chí, nhất là báo Nhân dân của Đảng phản đối. Báo Nhẩn văn ra đến số 3, quần chúng và các báo càng kịch liệt lên án. [...] Trong lúc đó đài báo của Mỹ-Diệm ngày ngày gióng giả cổ võ bọn phản động và phản bội mà chúng gọi là "nhũng nhà trí thức văn nghệ dũng cảm", "nhũng chiến sĩ của tự do". Nhũng tiếng khen của quân thù làm cho chúng càng thêm "say mê" như Hoàng Câm nói, trong khi cuộc bạo động phản cách mạng đã nổ ra ở Hungari càng như đổ dầu vào lửa.
Chúng chuâh bị tiên lên bước nữa.
Vói sự thuyết phục của Trần Đức Thảo, báo Nhân văn càng chuyên mạnh sang chính trị, nghĩa là đi đến "hành động quần chúng". [...] Nhân khóa họp Quốc hội thứ 6 sắp đến, bọn phá hoại tưởng thời cơ đến cho chúng, kêu gọi quần chúng hành động, biêù tình phản cách mạng. Đó là nội dung của Nhân văn số 6, số cuối cùng mà công nhân nhà in Xuân Thu mặc dù bị chúng đe doạ, mua chuộc, đã kiên quyết không in và lôi chúng ra ánh sáng. Một bước nữa, không phải chúng sẽ treo cổ những người cộng sản và những người yêu nước khác, mà trái lại. Cũng là phúc cho chúng.
[...] Báo Nhân văn bị câm. Tuy vậy, Đảng và chính quyền ta vẫn muốn kiên trì giáo dục cho bọn chúng trở lại đường ngay lẽ phải, nên không dùng biện pháp khác.
Lọi dụng lòng khoan hồng của Đảng, nhà nước, và cứa số đông anh em văn nghệ, bọn phá hoại Nhân văn-Giai phẩm lại bày mưu khác. Từ đấy, thủ đoạn của chúng phải khôn khéo hon, "võ phải kín" hon, như Trần Dần đã bộc lộ ở lớp học tập vừa qua.
Giấu măt phá hoai, lũng đoan Hôi Nhà văn và các cơ quan nghê thưât, xây "pháo đài" chổng cách mang ờ trường đai hoc.
Trung ương Đảng ta triệu tập hội nghị đảng viên văn nghệ giữa tháng 12/1956 để thống nhất nhận thức tư tưởng trong hàng ngũ Đảng về tình hình văn nghệ, phê phán báo Nhân văn, vạch phương hướng tiến tới. Trong không khí đoàn kết tin tưởng của Quốc hội khoá thứ 6, giới văn nghệ phâh khỏi tiến tói Đại hội Văn nghệ toàn quốc lần thứ hai. [...] Đại hội Văn nghệ họp, dưới ánh sáng của bức thư Trung ương Đảng và bản báo cáo quan trọng của đồng chí Trường Chinh. [...] Và Đại hội nhất trí lên án nghiêm khắc tính chất phá hoại của báo Nhân văn cùng những biểu hiện của chủ nghĩa xét lại trong văn nghệ. [...]
Tuy vậy bộ mặt thật của nhóm phá hoại Nhân văn-Giai phẩm vẫn chua bị lột trần. [...] Thậm chí trong Đảng, có vài đảng viên nhu Văn Cao, do chủ nghĩa cá nhân nghiêm trọng, chịu ảnh huởng nặng nề của tu tuởng chính trị đối địch và đuờng lối văn nghệ tu sản trụy lạc, đã câu kết và tích cực giúp sức cho bọn phá hoại hoạt động. [...] Sự ngây tho về chính trị của số đông - kể cả một số cán bộ phụ trách - nhất là trong Hội Nhà văn, đã đua đến tình trạng mất cảnh giác nghiêm trọng từ đó về sau.
Nhung bọn phá hoại vẫn luôn luôn thức tỉnh. Học mánh khóe cúa quân thù và vận dụng cả phuong pháp hoạt động cúa cách mạng dưới chế độ địch, nhóm phá hoại Nhân văn-Giai phẩm [...] đã rải quân vào các hội văn học nghệ thuật nằm trong các ban chấp hành, chui vào các bộ phận chủ yếu.
Chúng phân công nhau: Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm ở Hội Nhà văn; Sỹ Ngọc ở Hội Mỹ thuật; Chu Ngọc, Hoàng Tích Linh ở Hội Nghệ sĩ Sân khấu; Tử Phác, Đặng Đình Hưng ở Hội Nhạc sĩ... Còn Nguyễn Hữu Đang, hắn vẫn tiếp tục làm vai trò của kẻ tổ chức phá hoại cùng bọn gián điệp Thụy An, bọn to-rốt-kít Trưong Tửu, "quân sư" Trần Đức Thảo và những kẻ khác...
Từ đấy [...] phương pháp "sáng tác" của chúng là phương pháp của bọn phá hoại giấu mặt mà Trần Dần gọi là dùng "biểu tượng hai mặt". [...] Cứ như vậy, Hội Nhà văn và một số cơ quan nghệ thuật dần dần bị lũng đoạn, đi xa dần đường lối chính trị của Đảng. Báo Văn là một cái thước đo rất rõ tình trạng nguy hiểm ấy. Cơ quan lãnh đạo của Đảng - Tiêù ban Văn nghệ Trung ương - đã nhiều lần liên tiếp nhắc nhở, phê bình những người phụ trách, nhưng một số đồng chí ấy vẫn bỏ ngoài tai, dương dưong tự đắc, cho mình "hiểu văn nghệ, có kinh nghiệm nhà văn hơn Đảng". Báo Học tập, cơ quan lý luận của TƯ Đảng lên tiếng phê bình, đặt lại vâh đề biêù hiện cuộc sống mói, con nguôi mới. Không những không tiếp thu, một số người phụ trách báo Văn lại còn công nhiên cự tuyệt phê bình, tuôn lời đả kích báo Đảng, khinh miệt quần chúng.
Được bọn Nhân văn cổ võ, khen ngại, báo Văn lại cho ra cả một loạt bài và tranh của bọn Nhân văn ra mặt chống Đảng, đả kích dư luận phê bình, bôi đen chế độ: Hãy đi mãi của Trần Dần, Lời mẹ dặn của Phùng Quán, Một phương pháp xây dựng nghệ thuật của Trần Duy, Ông Năm Chuột của Phan Khôi, Đống máy của Minh Hoàng, không kể những bài thâm độc khác.
Số đông văn nghệ sĩ, cán bộ và quần chúng nói: Báo Văn đã rõ nét chữ Nhân đằng trước!
Đúng như vậy. Vì nhóm Nhân văn-Giai phẩm đã lũng đoạn nặng nề về tư tưởng và tổ chức, những cơ quan xung yếu của Hội Nhà văn: từ báo Văn đến nhà xuất bản, từ Ban Nghiên cứu Sáng tác, Ban liên lạc vói nước ngoài đến Câu Lạc bộ, Quỹ Sáng tác. [...] Cuộc kiểm tra công tác Hội Nhà văn đã phoi bày tất cả sự thật nguy hiểm ấy. Cuộc kiểm tra tiến hành sang các cơ quan khác, cũng có những hiện tượng như vậy với những mức độ khác nhau. [...]
Cho đến khi, dưới ánh sáng của nghị quyết Bộ Chính trị, mở ra hai lóp học tập cho ngót 500 anh chị em văn nghệ sĩ, qua một cuộc đấu tranh kiên quyết thì mặt nạ của nhóm phá hoại Nhân văn-Giai phẩm mới hoàn toàn bị roi xuống đất. [...] Cùng một lúc, qua cuộc học tập đấu tranh trong các trường đại học, chủ yếu ở Khoa Văn, Khoa Sử, bọn tơ-rốt-kít Trương Tửu, Trần Đức Thảo khoác áo giáo sư cũng mới phoi trần chân tướng. [...]
... Những ngày cuối cùng của cuộc đấu tranh quyết liệt, Trần Dần nói, như một tên "tướng" bại trận: "Nhân văn đến đây mới thật chết".
... Nhưng rồi như mọi người đều biết. Đến lớp học vừa qua, những phần tử ngoan cố nhất, trong bọn họ đã cố thủ từng bước, giở nhiều thủ đoạn phá hoại đến cùng, cho đến khi, trước nhiều chứng cớ không thể chối cãi, tất cả bọn họ phải bước đầu thú nhận tội lỗi.
(Báo cáo tổng kết cuộc đấu tranh chống nhóm phá hoại Nhân văn-Giaỉ phẩm trong hội nghị ban chấp hành Hội Liên hiệp VHNTVN họp lần thứ III ngày 4/6/1958 tại Hà Nội)
⚝ ⚝ ⚝
Nghị quyết của các ban chấp hành các Hội Văn học-Nghệ thuậtSau cuộc hội nghị ban chấp hành Hội Liên hiệp VHNTVN ngày 4/6/1958, trong tuần lễ từ 21/6 đến 3/7/1958, lần lượt các ban chấp hành Hội Nhạc sĩ, Hội Mỹ thuật, Hội Nhà văn đã họp kiểm điểm tình hình công tác trong thời gian vừa qua, thi hành kỷ luật đối vói một số hội viên tích cực hoạt động trong nhóm phá hoại Nhân văn-Giai phẩm, châh chinh lại các ban chấp hành và thảo luận về công tác sắp đến đê’ đẩy mạnh phong trào văn học nghệ thuật tiến lên, phục vụ đắc lực hon công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà.
Qua các bản báo cáo trong các cuộc hội nghị, thì trong hon một năm qua, từ ngày thành lập các Hội Nhạc sĩ, Hội Mỹ thuật, Hội Nhà văn, công tác ở các ngành âm nhạc, mỹ thuật, văn học đều có những bước tiến cụ thể. Nhưng đồng thòi bọn Nhân văn-Giai phẩm cũng đã tiếp tục hoạt động lũng đoạn cơ quan các hội văn học nghệ thuật, nhất là cơ quan Hội Nhà văn, nhằm chống lại chế độ, chống lại Đảng và nhân dân. Các đồng chí phụ trách ở các hội, nhất là Hội Nhà văn, đã nhận ra và kiểm điểm về các sai lầm của mình trước các hội nghị.
Chiếu theo điều lệ của các hội, các ban chấp hành đã nhất trí thi hành kỷ luật đối vói một số người trong nhóm Nhân văn-Giai phẩm đã hoạt động phá hoại nghiêm trọng ở các hội.
Ban chấp hành Hội Nhà văn cảnh cáo và khai trừ Hoàng Cầm ra khỏi ban chấp hành, cảnh cáo và cho Hoàng Tích Linh rút khỏi ban chấp hành. Ban chấp hành Hội Mỹ thuật cảnh cáo Sỹ Ngọc và chấp nhận việc Sỹ Ngọc và Nguyễn Sáng xin rút khỏi ban chấp hành. Ban chấp hành Hội Nhạc sĩ sáng tác chấp nhận việc Văn Cao và Nguyễn Văn Tý xin rút khỏi ban chấp hành.
Các cuộc hội nghị của các ban chấp hành cũng đã nhất trí quyết định khai trừ Phan Khôi, Trưong Tửu, Thụy An ra khỏi Hội Nhà văn, Trần Duy ra khỏi Hội Mỹ thuật; khai trừ trong thòi hạn 3 năm: Trần Dần, Lê Đạt (Hội Nhà văn), Tử Phác, Đặng Đình Hung (Hội Nhạc sĩ sáng tác); và cảnh cáo một số hội viên khác đã tích cực hoạt động trong nhóm Nhân văn-Giai phẩm.
(Tạp chí Văn nghệ, số 14, tháng 7-1958)
⚝ ⚝ ⚝
Huy Vân Một tâm hồn đồi trụy: Trần DầnXưa nay có nhiều người, tuy xuất thân hư hỏng, quá khứ xấu xa, sau nhờ có ánh sáng của Đảng, của cách mạng và nhờ có tinh thần tự nguyện tự giác cố gắng cải tạo, mà ngày nay đã trở thành những người hữu ích, những nguôi cách mạng. Trần Dần không thuộc vào lóp đó.
Nhiều nguôi ở Nam Định đều biết Trần Dần là con một nhà địa chủ và tư sản đã dựa vào thế lực thực dân đê’ bóc lột nhân dân lao động. Sống trong một gia đình "ngồi mát ăn bát vàng" như vậy, Trần Dần đã sớm đi vào con đường trụy lạc, bê tha. Khoảng từ năm 1943, Trần Dần đã là học trò của một bọn văn sĩ to-rốt-kít.
Cách mạng tháng Tám thành công, trong lúc số lớn thanh niên ta đều đem trái tim và tuổi trẻ của mình cùng với cha, anh đón chào thắng lọi của cách mạng, thì "trái tim, khối óc" của Trần Dần vẫn ngập trong khói thuốc phiện. Ở Hà Nội cuối năm 1946, cả dân tộc sắp đi vào kháng chiến toàn quốc, thì Trần Dần cùng vói Trần Mai Châu, Vũ Hoàng Địch đã lập ra nhóm "thi sĩ tượng trưng" viết báo Dạ Đài để cho ra cái tuyên ngôn ngày 16/11/1946 vói những câu: "Chúng tôi, một đoàn vong gia thất thổ, đã đầu thai nhằm lúc sao mờ..." Rồi giữa đêm 19 tháng Chạp, trong lúc bộ đội và nhân dân thủ đô xông vào khói lửa chiến đấu để bảo vệ tổ quốc, thì Trần Dần và những kẻ cùng nhóm vẫn còn chạy chọt để hòng cho ra số 2 của báo Dạ Đài sặc mùi thuốc phiện! Những việc kể trên đây có thể tóm tắt phần nào cái thái độ lạc lõng xa lạ của Trần Dần đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc của toàn dân ta. Trần Dần cũng đi vào kháng chiến, nhung vẫn không chịu từ bỏ những quan điểm nghệ thuật sa đoạ của hắn. Trong "nhóm văn nghệ Son La", hắn đã vẽ toàn lối tối tăm khó hiểu, biến hình ảnh anh dũng và đẹp đẽ của bộ đội ta thành những hình thù rất quái gở, làm thơ cũng vậy. Ở Sơn La, cái lối sống và quan niệm sáng tác đã đua Trần Dần đến nhiều sai lầm, bị thi hành kỷ luật.
Mặc dù tu tuỏng của Trần Dần có nhiều bê bết của cái cũ, Đảng và quân đội ta vẫn hết lòng giáo dục, cải tạo. Chính vì muốn cải tạo Trần Dần có kết quả hơn, mà sau các kỳ chỉnh huâh, tổ chức của ta đã giúp cho hắn đi vào thực tế chiến đấu của bộ đội, tạo điều kiện cho hắn viết đuợc cuốn Người người lóp lớp với ít nhiều tiến bộ về nội dung, song nghệ thuật vẫn còn non kém. Với cuốn sách đó, đáng lẽ Trần Dần phải tự thấy mình còn phải cố gắng nữa, nhung trái lại, hắn đã vội duơng duơng tự đắc, lấy đó làm cái vốn để yêu sách Đảng và quân đội.
... Khi về Hà Nội mói giải phóng, Trần Dần đã bất chấp cả tám chính sách và muòi điều kỷ luật vào thành của chính phủ, bất chấp cả kỷ luật quân đội, tự do bỏ doanh trại ra ngoài sinh hoạt bê tha.
Mỗi ĩân về đơn vị, Trần Dần và bọn theo hắn dùng cách dương đông kích tây, cô lập người tốt, về hùa nhau đòi tự do, đòi bỏ nội quy để chúng được tự do sống theo cái lối trụy lạc của chúng.
Giữa lúc những phần tử lạc hậu trong giai cấp tư sản ầm ĩ đòi đảm bảo cái thứ tự do "bóc lột", đầu cơ buôn lậu của chúng, thì trong bộ đội, Trần Dần lên tiếng đòi tự do tuyệt đối, đòi lối sống đồi trụy và xuất bản những thơ văn chống chế độ. Trần Dần đã dùng lối "bắt rễ xâu chuỗi" tập họp những phần tử xấu trong văn nghệ quân đội như Hoàng Cầm, Tử Phác, Hoàng Tích Linh, Trúc Lâm để kéo bè kéo cánh hoạt động chống đối vói cơ quan lãnh đạo. Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm, Hoàng Yến đã lợi dụng việc phê bình tập thơ Việt Bắc và phong trào phê bình văn học lúc bấy giờ để lôi kéo vây cánh đả vào cán bộ chính trị và đường lối văn nghệ phục vụ chính trị. Lợi dụng thắc mắc của một số anh em văn nghệ quân đội, Trần Dần đã nấp dưới chiêu bài "chống công thức", "đi tìm cái mói", chỉ huy cái bào thai Nhân văn-Giai phẩm trong quân đội, kéo bè kéo cánh đả kích lãnh đạo và tụ tập nhau đề ra cái gọi là "chính sách về văn nghệ trong quân đội", công khai và trắng trợn đòi "văn nghệ phải độc lập vói chính trị", "trả quyền lãnh đạo văn nghệ cho văn nghệ sĩ". Trước thái độ khiêu khích của bọn Trần Dần, tổ chức trong quân đội đã nhiều lần khuyên răn họ trở lại con đường đúng. Nhung bọn Trần Dần vẫn tiếp tục ngoan cố. Bọn Trần Dần đã hoạt động như những phần tử tác động tinh thần.
Đê’ truyền bá những tư tưởng phản động của mình, Trần Dần đã dự định ra khỏi quân đội, mưu viết báo chống lại chế độ. Sau khi cùng với Nguyễn Hữu Đang, Lê Đạt, Văn Cao, Hoàng Cầm mặc cả với nhũng phần tử tư sản phản động về cái chức chủ bút một tờ báo tư vói số lưong tháng 10 vạn đồng, Trần Dần đã viết đơn xin ra khỏi Đảng và quân đội. Những phần tử xấu trong văn nghệ bộ đội cũng hùa theo hắn viết thư "xin ra". Mặc dù Trần Dần đã đi đến chỗ rất xấu như vậy, chi bộ vẫn giữ phưong châm kiên nhẫn giáo dục. Song hắn vẫn ngoan cố, lại dùng nhũng lòi lẽ khiêu khích chi bộ. Toàn thể chi bộ đã nhất trí quyết nghị khai trừ hắn ra khỏi Đảng.
Trong bài Con người Tran Dần đăng ở Nhân văn số 1, đế làm ra bộ Trần Dần là kẻ vô tội, bọn Nhân văn đã đưa ra một thứ Trần Dần vô tư không hề biết chuyện bài mình đăng trong cái tập Giai phẩm mùa Xuân năm 1956. Sự thật thì khác hẳn. Sau khi đã ngoan cố chống lại quân đội, Trần Dần đã ra bàn với Văn Cao, Lê Đạt, Tử Phác, Đặng Đình Hưng, Hoàng Cầm để âm mưu đẻ ra cái Giai phẩm mùa Xuân năm 1956 vói ý định tập họp nhau lại bôi nhọ chế độ ta. Chính từ cái Giai phẩm mùa Xuân này đã bắt đầu thành hình một nhóm chống Đảng, chống nhân dân. Hồi ấy là lúc quân đội đã cho Trần Dần xuống nông thôn để nhìn thấy thực tế mà sửa mình, nhung hắn ta chẳng hề tỉnh ngộ, còn viết chuyên Lão Rông và chuyện Anh Cò Lấm đế ám chí cán bộ Đảng và chửi Cải cách Ruộng đất.
Vừa tích cực tham gia Giai phẩm mùa Xuân, Trần Dần vừa tiếp tục nói những lòi chống Đảng và có nhũng hành động khả nghi bỏ nơi công tác về Hà Nội sinh hoạt trụy lạc. Hắn đã vi phạm nặng kỷ luật bộ đội. Vì mục đích bảo vệ sự nghiêm chỉnh của kỷ luật quân đội, tổ chức bộ đội đã phải cho giữ Trần Dần để kiêm thảo, đi tói cải tạo. Nhung vì quen cái lối đập đầu vu vạ của bọn khách nợ địa chủ, Trần Dần đã lấy một luõi dao cạo râu kéo da cổ ra, cứa ngoài da, rồi lu loa lên dọa tự tử, hòng gây du luận xấu đối với quân đội. Truớc thái độ kiên quyết của tổ chức bộ đội, Trần Dần đành vờ viết một bản kiểm thảo nhận nhũng sai lầm cúa hắn và tự đề ra một kế hoạch sửa chữa. Vì thấy thái độ cúa Trần Dần có biểu hiện chuyển biến, tổ chức đã đua hắn về đơn vị giữ nguyên chức vụ cũ, và về sau lại cho chuyển ngành theo nguyện vọng. Nhung liền sau đó, hắn đã tráo trở ngay. Hắn đã mưu mô vói Nguyễn Hữu Đang, Phan Khôi, Trần Duy, Lê Đạt, Hoàng Cầm, Văn Cao cho viết ra cái hôi ký Con người Trần Dần. Đó là một bài đầy rẫy những chuyện vu cáo. Khi bài Con người Trần Dãn vừa ló ra, nhiều đồng chí trong và ngoài bộ đội biết chuyện đã tùng viết bài muốn vạch sự thật về vụ Trần Dần. Biết cái mưu mô gian tà của mình khó lọt, Trần Dần và Hoàng Cầm đều hứa với các cơ quan có trách nhiệm, xin tự cải chính. Nhung rồi hắn không cải chính, Trần Dần cũng nhu Lê Đạt đã viết rất nhiều bài cho Nhân văn-Gìaì phẩm ký bằng nhiều tên khác nhau. Trần Dần còn móm ý cho kẻ khác viết (Nhu Mai bài Thi sĩ máy, Mai Hanh bài
Xuống tran, v.v...) hoặc tự tay sửa bài của bọn khác. Nếu lấy tất cả những bài Trần Dần đã viết cho Nhân văn-Giai phẩm (đã đăng, hoặc chưa đăng) đem thống kê lại thì ta thấy Trần Dần đã đả kích vào rất nhiều mặt quan trọng cúa chế độ ta: từ các đường lối chính trị trong nước đến quan hệ quốc tế, từ sự lãnh đạo của Đảng trong văn nghệ đến sự lãnh đạo chung của Đảng. Sau khi âm mưu chuyên mạnh sang hành động chính trị cúa nhóm Nhân văn bị bại lộ, Trần Dần đã cùng với Văn Cao tìm cách "cứu" cho bè lũ. Đến khi báo Nhân văn bị cấm và nhóm Nhân văn bị dư luận quần chúng vạch mặt, thì Trần Dần lại ra sức gặp những kẻ cùng nhóm đê’ động viên và giữ vững tinh thần, rồi lại tập họp nhau tiếp tục hoạt động với những âm mưu mới, tinh vi và nham hiểm hon...
(Báo Nhãn dân, ngày 25/4/1958)
⚝ ⚝ ⚝
Hông Cương... Không phải ngẫu nhiên mà chúng chọn tập thơ Việt Bắc của Tố Hũu để phê bình. Chúng ta biết tập thơ Việt Bắc là một trong những tập thơ tiêu biểu cho thơ ca kháng chiến và Tố Hữu là người được Trung ương và chính phủ ta giao cho nhiệm vụ lãnh đạo văn nghệ. Hạ được tập thơ Việt Bắc và hạ được Tố Hũu xuống là hạ được cả giá trị văn nghệ kháng chiến xuống và hạ được sự lãnh đạo văn nghệ của Đảng và chính phủ xuống.
... Chúng vu khống chế độ ta là cộng sản thời trung cổ (communisme du moyen âge), là cộng sản phong kiến (communisme féoãaĩ), chế độ ta là cộng sản suy đồi (dégénérescence du communỉsme), chúng xuyên tạc và nguyền rủa chỉnh huâh của ta là đồi trụy tinh thần (avilisseinent de résprit), là nô dịch hoá tư tướng ịesclavage de la pensée). Chúng chế giễu chính sách đãi ngộ của ta là "bổng lộc" vua ban, huân chương cúa ta là "mề đay" cúa đế quốc. Không khác gì Phan Khôi đã ví chế độ ta với một triều đại phong kiến nào đó.
... Có lần chính Trần Dần đã túm lấy cổ một đồng chí lúc đó làm trưởng Phòng Văn nghệ Quân đội mà chửi và chực đánh. Chính cái hình ảnh côn đồ này đã được Nguyễn Hữu Đang trâng tráo và hèn mạt xoay ngược lại rồi gợi ý cho Sỹ Ngọc vẽ lại thành bức tranh đồng chí Hoài Thanh nắm cổ Trần Dần trên báo Nhân văn.
... Như đối với Tô Hoài thì Trần Dần đã cho Lê Đạt tâng bốc Tô Hoài lên là đương kim vô địch về sáng tác và kích Tô Hoài viết bài trên báo Văn để chống lại báo Học tập. Như đối với Văn Giáo, khi triển lãm xong có yêu cầu Trần Dần viết cảm tưởng về phòng triển lãm của mình, Trần Dần không viết ngay mà hỏi cảm tưởng Văn Giáo thế nào rồi căn cứ vào ý kiến của Văn Giáo mà viết, lại khích thêm vào để xúi Văn Giáo chống lại lãnh đạo. Như đối với Phùng Quán và Phan Vũ thì chủ trương "chẳng cần xúi
giục một việc gì cụ thể, chỉ cần khích một câu" là Phùng Quán và Phan Vũ sẵn sàng làm đủ mọi việc mà Trần Dần muốn, nhu Phùng Quán và Phan Vũ đã tự kiểm thảo là trong thòi kỳ Nhân văn chờ khi có biểu tình nổ ra là sẵn sàng xung phong vác cờ đi đầu và cầm súng bắn vào Đảng và chính phủ.
(Báo Quân đội Nhân dân, số 437, ngày 11/4/1958)
⚝ ⚝ ⚝
Hồng Chương... Trần Dần viết bài Hãy đi mãi có vẻ rất "tả", rất "tiên phong", "cách mạng hơn những người cách mạng", "cộng sản hơn Đảng cộng sản". Trần Dần viết:
Tôi chửa có khi nào quên táo bạo
nào là:
Tôi có thể mắc nhiêu tội lỗi
Chẳng bao giờ quá ngu si mắc tội: nằm ỉ
Tôi có thểmặc thây ngàn tiếng chửi tục tằn
Trừ tiếng chửi: sống không sáng tạo
Chúng ta thấy ở đây cái tinh thần "táo bạo để mà táo bạo", "sáng tạo để mà sáng tạo", cái tinh thần "luôn luôn phản kháng", "luôn luôn phá phách", không cần biết phán kháng cái gì, phá phách cái gì. Chúng ta gặp lại ở đây cái tinh thần của Ăng-đờ-rê Gít-đơ. Ăng-đờ-rê Man-rô đã nói nhiều đến sự nổi loạn, cho sự nổi loạn ấy không cần có mục đích gì cả, tự bản thân cái sự nổi loạn ấy là cái lẽ sống của nghệ thuật. Man-rô cũng xuớng lên thứ triết lý hành động để hành động. Chính thứ triết lý này đã đào tạo ra hàng loạt nguôi máy để đi đánh thuê cho bọn phát xít và Man-rô nghiễm nhiên trở thành một thứ quân su cho đảng Đờ Gôn, một tổ chức phát xít mới ở nuớc Pháp. Chính Trần Dần và nhóm phá hoại Nhân văn-Gìaì phẩm đã tôn thờ cái thứ triết lý "nổi loạn", "hành động" đó. Trần Dần không sợ "mắc nhiều tội lỗi", cả đến tội chống Đảng, chống nhân dân, Trần Dần cũng không từ, miễn là Trần Dần không "mắc tội nằm ì", miễn là Trần Dần có thê’ "đập phá", "nổi loạn" để tỏ ra ta đây "táo bạo", không cần biết "táo bạo" để làm gì. Có nhu thếTrần Dần mới có thểbuông lỏng con "nguời hùng" ở trong "con nguôi Trần Dần" đuợc tự do phá phách. Trần Dần có thê’ "mặc thây ngàn tiếng chửi tục tằn", cả đến những tiếng chửi "phản động", "phản cách mạng", miễn là Trần Dần không phái nghe tiếng chửi "sống không sáng tạo". Trần Dần quyết "làm thất bại mọi thứ giũa quen giũa nguôi tròn trặn quá hòn bi". Thứ giũa đó, theo ý Trần Dần, đó là Đảng ta, chế độ ta. Cho rằng chế độ ta giũa nguời thành ra hòn bi, cũng nhu cho rằng chế độ ta đẻ ra những con nguôi máy, đẻ ra "thi sĩ máy", đó là những lòi vu khống, bôi nhọ chế độ ta. Cũng cần nói rõ rằng chúng ta không bao giờ chủ truong "nằm ì" không sáng tạo. Đòi sống của chúng ta là cả một quá trình sáng tạo vĩ đại. Chúng ta đã lật đổ chế độ thuộc địa nửa phong kiến để sáng tạo ra chế độ dân chủ nhân dân và hiện nay đang hàng ngày sáng tạo ra chủ nghĩa xã hội. Hàng ngày hàng giờ nhân dân ta đang sáng tạo ra những hạt thóc, những thước vải, để nuôi sống hàng chục triệu con người. Hàng loạt nhà máy mới được xây dựng, hàng vạn mẫu ruộng được tưới nước, đó là gì nếu không phải là những sự sáng tạo? Nhưng theo ý Trần Dần thì đó chỉ là "cuộc sống hàng ngày nhí nhách", đó chỉ là "nằm ì". "Sáng tạo", theo Trần Dần là "phá phách", phải "phản kháng hiện trạng", phải chống lại chế độ hiện thòi, còn nếu bảo vệ chế độ hiện thòi của ta là "mắc tội nằm ì". Trước đây, trong Giai phẩm mùa Xuân, Lê Đạt cũng từng gào thét "Mới! Mói! Luôn luôn mới! Bay cho cao! Bay cho xa!" Cũng như Trần Dần ngày nay đấm ngực gào thét "phải sáng tạo", "hãy đi mãi!". Nhưng thử hỏi đi tìm cái mới nhưng là cái mói nào? Hãy sáng tạo nhưng sáng tạo để làm gì? Hãy đi mãi nhưng đi đến đâu? Nếu chỉ mói để mà mói, sáng tạo để mà sáng tạo, đi để mà đi, thì chính là đang đi vào con đường cũ, rất cũ, con đường "nghệ thuật vì nghệ thuật" đã có hàng trăm năm nay, không có một chút gì là sáng tạo cả. Đó là thứ nghệ thuật cũ rích và đồi trụy.
(Báo Văn nghệ, số 10, tháng 3/1958)
⚝ ⚝ ⚝
Các nhà báo, nhà giáo, trí thức và văn nghệ sĩ công khai ký tên và bày tỏ thái độ công phẫn trước khuynh hướng chính trị sai l'âm của nhóm Nhân văn-Giai phẩm:
Ba Du, Bàng Sĩ Nguyên, Bảo Định Giang, Bích Lâm, Bùi Đức Ái, Bùi Hiển, Bùi Huy Phồn, Bím Tiến, Cao Son, Chính Hữu, Đào Vũ, Đắc Nhẫn, Đặng Thai Mai, Đoàn Giỏi, Đoàn Thanh Châu, Đoàn Văn Cừ, Hà Mậu Nhai, Hằng Phương, Hoa Bằng, Hoài Thanh, Hoàn Mai, Hoàng Duong, Hoàng Quân, Hoàng Trung Thông, Hoàng Việt, Học Phi, Hồ Đắc Di, Hồ Văn Lái, Hồng Chương, Hồng Cương, Hồng Vân, Huy Vân, Huỳnh Văn Nghệ, Khương Hữu Dụng, Khương Mễ, Kim Đồng, Lê Mậu Hãn, Lê Văn Thiêm, Lê Vinh, Lưu Cầu, Lưu Chi Lăng, Lưu Quý Kỳ, Lưu Trùng Dương, Lương Xuân Nhị, Mạc Phi, Mạnh Phú Tư, Mịch Quang, Mộng Son, Nam Trân, Ngọc Cung, Ngọc Truyền, Ngô Huỳnh, Ngụy Như Kôn Tum, Nguyên Hồng, Nguyên Ngọc, Nguyễn Anh Tài, Nguyễn Cao Thương, Nguyễn Chương, Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Hiêm, Nguyễn Hoàng Bá, Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Lân, Nguyễn Ngọc Cung, Nguyễn Ngọc Thói, Nguyễn Quang Sáng, Nguyễn Tuân, Nguyễn Văn Bổng, Nguyễn Văn Mưòi, Nguyễn Văn Phỉ, Nguyễn Vĩnh, Như Phong, Phạm Hồng, Phạm Huy Thông, Phạm Hùn Tùng, Phạm Văn Chừng, Phan Huỳnh Điểu, Phan Nhung, Phan Thao, Phùng Bảo Thạch, Phùng Văn Mỹ, Quang Đạm, Sỹ Tiến, Tạ Đình Hồng, Tám Danh, Tâh Thình, Tế Hanh, Thanh Hương, Thanh Nha, Thanh Tịnh, Thanh Tuyền, Thế Lữ, Thiều Quang, Tô Hải, Tô Hoài, Tố Hũu, Trần Du, Trần Hữu Tuớc, Trần Huyền Trân, Trần Kiết Tuòng, Trần Phượng, Trần Văn Chính, Trần Văn Lắm, Triệu An, Trinh Đuờng, Trịnh Xuân An, Trọng Loan, Từ Bích Hoàng, u Đa, Văn An, Vân Đài, Vân Đông, Võ Huy Tâm, Vũ Cao, Vũ Đức Phúc, Vũ Hồng Chuông, Vũ Son, Vũ Tuâh Đức, Xuân Ba, Xuân Dung, Xuân Hoàng, Xuân Mai, Xuân Miên, Xuân Thịnh, Xuân Võ