← Quay lại trang sách

Chương 2

Kusanagi Shunpei ngậm điếu thuốc trong miệng, châm lửa bằng diêm. Vừa toan quẳng tàn diêm vào trong gạt tàn, trông thấy một điếu thuốc mới sém khoảng một phân gác trên đó, anh liền khựng tay lại. Anh sực nhớ ra mình vừa đặt nó ở đó độ một phút trước thôi. Ngồi bên cạnh, Makita cười khúc khích.

“Anh Kusanagi, trông anh mệt mỏi quá.”

Kusanagi dụi điếu thuốc dở vào gạt tàn.

“Người ngợm thì không mệt mỏi lắm. Nhưng mà, biết nói sao nhỉ, tôi chẳng thiết làm gì cả. Lòng tôi chỉ thấy băn khoăn, rốt cuộc tôi đang làm gì, những việc tôi làm có chút ý nghĩa gì hay không?”

“Nếu là chuyện đó thì em cũng giống anh thôi.” Makita nghiêng nghiêng cốc cà phê. “Nhưng dù sao đó cũng là một phần của công việc.”

“Hay lắm. Cậu tốt bụng thật. Tôi thì không thốt ra được câu đó.”

“Thế ạ?”

“Tôi bảo chuyện này hay lắm.” Kusanagi ghé sát mặt Makita. “Cậu có lòng tốt là bởi làm cảnh sát chưa được bao lâu. Theo đuổi cái nghề này lâu, con người ta sẽ càng lúc càng vỡ vụn. Cứ nhìn đội trưởng của chúng ta thì biết.”

Makita bật cười. “Vậy anh Kusanagi cũng vỡ vụn kha khá rồi ạ?”

“Ờ, vỡ nát rồi đấy. Nếu không sớm được điều chuyển đến nơi khác, tôi sẽ không thể hòa nhập cộng đồng nữa đâu.”

Vừa hay nhân viên phục vụ đi qua, Kusanagi gọi thêm cốc nước nữa. Nét mặt cô ta thấp thoáng vẻ hoài nghi. Có lẽ vì thấy anh toàn gọi nước mà không động đến giọt cà phê nào.

Chừng nào cà phê còn trong cốc, thì dù nấn ná bao lâu cũng sẽ không bị tống cổ khỏi quán, anh tính toán như vậy. Tùy vào người lát nữa sẽ đến đây, tính toán đó có thể sẽ cần thiết.

“Ơ, phải người đó không ạ?” Makita chỉ tay ra cửa quán cà phê và nói.

Một người đàn ông mặc áo polo vừa bước vào bên trong quán. Anh ta kẹp chiếc cặp dưới nách. Mới hai mươi bảy cái xuân xanh mà trông anh ta đã toát lên vẻ chững chạc, phải chăng vì kiểu tóc rẽ ngôi lệch bảy ba đó?

Người đàn ông ngó quanh một lượt bên trong quán cà phê, rồi dừng mắt ở bàn của Kusanagi. Bởi ngoài họ ra, chẳng có vị khách nào nom giống một bộ đôi cảnh sát cả. Khách khứa tại đây không dẫn theo gia đình thì cũng là đôi lứa hẹn hò hoặc đám học sinh phổ thông túm năm tụm ba.

“Anh Nakamoto phải không?” Kusanagi cất tiếng hỏi người đàn ông đang bước lại gần chỗ họ.

“Vâng,” người đàn ông gật đầu. Chắc biết đối phương là cảnh sát nên anh ta mới tỏ ra căng thẳng đến vậy.

“Tôi là Kusanagi, người đã gọi điện cho anh. Vị này là đồng nghiệp của tôi, cảnh sát Makita. Thành thật xin lỗi vì làm phiền anh vào ngày nghỉ.” Kusanagi đứng lên, vừa cúi đầu vừa cáo lỗi. Hôm nay là thứ Bảy.

“Không sao, tiện tôi cũng có công chuyện cần ra ngoài.” Nakamoto nói vậy rồi ngồi xuống ghế. Thấy nhân viên phục vụ đến, anh ta gọi cà phê.

“Anh có tập tành chơi golf không?”

Gương mặt Nakamoto lộ vẻ sửng sốt trước câu hỏi của Kusanagi.

“Sao anh biết?”

“Nhìn tay trái của anh. Tay phải sạm lại vì cháy nắng, mà tay trái hầu như không cháy tẹo nào. Nên tôi đoán anh chơi ra trò đây.”

“Do cái tay này à? Đến cô em gái còn chê cười tôi là thật mất mặt.” Nakamoto giấu tay trái xuống dưới bàn, nặn ra nụ cười ngượng nghịu. Có lẽ cảm giác căng thẳng trong anh ta đã vơi đi đáng kể.

“Anh có kể với người thân chuyện gặp chúng tôi không?”

“Không đâu. Hơi đâu đi kể chuyện đứa bạn cùng lớp từ đời thuở nào phạm tội, và mình vì vụ đó mà đi gặp cảnh sát để cho họ lo nghĩ không đâu.”

“Nói cũng đúng,” Kusanagi gật đầu. “Như đã trao đổi qua điện thoại, chúng tôi đảm bảo không có việc gì gây phiền toái cho anh cả. Chỉ cần anh cho chúng tôi xem thứ đó là đủ rồi.”

“Vâng, tôi hiểu mà, nên đã cẩn thận đem tới đây.” Nakamoto đặt cặp lên đầu gối, đoạn lấy một cuốn sổ lưu bút từ trong cặp ra, để lên trên bàn. “Mời anh xem. Chỗ tôi dán giấy nhớ đó.”

“Cảm ơn anh. Tôi xin phép.” Kusanagi cầm cuốn sổ lên.

Đó là một cuốn sổ cũ kỹ, với bìa cứng họa tiết kẻ ca rô. Tuy có chút hứng thú với những trang khác, nhưng Kusanagi vẫn lật trang dán giấy nhớ màu vàng ra xem trước tiên.

“Ồ,” anh bất giác buông lời cảm thán. “Bức tranh đẹp quá.”

“Cậu ta vẽ đẹp lắm.” Nakamoto nói.

Trên trang giấy họa con búp bê bằng bút chì màu.

Là búp bê bé gái, mái tóc màu hạt dẻ, đôi mắt xanh biêng biếc, trông như người ngoại quốc. Trên người búp bê diện bộ váy liền thân màu đỏ, gấu váy màu trắng bay bay. Chân xỏ giày cũng màu đỏ, tất màu trắng.

Bên cạnh con búp bê ghi dòng chữ Lên cấp hai cũng mong cậu giúp đỡ tớ nhé! Sakamoto Nobuhiko bằng bút dạ. Nhưng điều thu hút sự chú ý của Kusanagi hơn cả là hình vẽ ô tình yêu nhỏ xinh ở góc trang giấy. Bên dưới chiếc ô, hai cái tên Sakamoto Nobuhiko và Morisaki Remi viết cạnh nhau.

“Có đây này, không chệch đi đâu được.” Kusanagi mở hẳn cuốn sổ lưu bút ra, đặt lên bàn, rồi chỉ tay vào hình vẽ chiếc ô đó. “Chỗ này này.”

“Đúng thật.” Nakamoto đáp lại bằng một điệu cười phức tạp.

“Anh Nakamoto cũng không hỏi được chủ nhân cái tên này là ai nhỉ.”

“Cậu ta bảo đó là người yêu tương lai. Dù ai gặng hỏi thế nào, Sakamoto cũng chỉ trả lời có thế. Xung quanh chẳng có đứa con gái nào tên như vậy cả, với lại vốn dĩ chưa ai từng nghe nói đến cái họ Morisaki đó bao giờ. Thế nên, tôi suy diễn rằng cậu ta tự nghĩ ra cái tên đó.”

“Anh chắc chắn hình này được vẽ lúc anh học lớp sáu chứ?”

“Vâng. Cả lớp viết tặng tôi lưu bút kỷ niệm hồi sắp sửa tốt nghiệp mà.”

“Số phận cuốn sổ này sau đó thế nào?”

“Thì nằm phủ bụi trong thùng carton ở tủ âm tường. Lúc tìm nó, tôi tiện tay dọn dẹp lại cái tủ luôn.”

Người phục vụ đã bưng cà phê tới. Nakamoto nhấp từng ngụm cà phê đen thật ngon lành.

“Anh Nakamoto chỉ chơi thân với nghi phạm Sakamoto mỗi dạo đó thôi à?”

“Làm gì đến mức thân thiết. Chỉ học cùng nhau hồi hai năm cuối tiểu học thôi. Đến cấp hai thì chưa một lần chung lớp. Lên cấp ba lại mỗi đứa một trường, từ sau khi tốt nghiệp cấp hai chúng tôi còn chưa gặp lại nhau lần nào.”

“Vậy trong ký ức hai năm học chung, anh thấy anh ta là đứa trẻ thế nào?”

“Tôi không nhớ lắm đâu. Lạ một điều là tôi chỉ nhớ như in chuyện người yêu tương lai của cậu ta thôi. Nói đơn giản thì cậu ta khác người. Chẳng mấy khi chơi với bạn bè, tôi có gặp cậu ta ở nơi nào khác ngoài trường học đâu.”

“Kiểu như bị bắt nạt hay tự kỷ à?”

“Ai mà biết.” Nakamoto cười khổ. “Có lẽ thời nay người ta gọi như vậy, nhưng hồi ấy chúng tôi nào biết đến khái niệm đó.”

Nói có lý, anh chỉ biết nhận xét thế.

Kusanagi quay sang nhìn Makita, đánh mắt ra hiệu xem cậu còn câu hỏi gì nữa không. Cậu đàn em lắc đầu, dùng ánh mắt để đáp lại: Em biết hỏi gì trong tình huống này đây.

“Xin hỏi.” Nakamoto cất lời. “Tôi có đọc trên báo, chuyện đó là thật à? Sakamoto đã đột nhập vào tư gia của gia đình Morisaki, và cô con gái của gia đình đó tên là…”

“Gượm đã!” Kusanagi giơ bàn tay lên, ngăn anh ta nói tiếp. “Tôi biết anh có nhiều thắc mắc. Nhưng về nguyên tắc, chúng tôi không được phép tiết lộ việc điều tra cho đến khi vụ án kết thúc.”

“À, có nguyên tắc đó à?” Nakamoto gãi đầu.

“Chúng tôi giữ thứ này được chứ?” Gấp cuốn sổ lưu bút lại, Kusanagi hỏi.

“Vâng, anh cứ tự nhiên.”

“Mong anh thứ lỗi. Sau khi kiểm tra xong xuôi, chúng tôi sẽ gửi lại anh ngay.”

“Không sao. Các anh cứ giữ đi. Đó cũng không phải món đồ gì quan trọng.” Nakamoto nói, rồi lại nhấm nháp cà phê.

Ra khỏi quán, Kusanagi đưa cho Makita cuốn sổ.

“Cậu cầm cái này, quay lại phòng điều tra trước. Từ nhà bố mẹ Sakamoto, chúng ta cũng thu được sách vở và ghi chép của hắn hồi nhỏ đúng không? Hãy đối chiếu bút tích trong đó với cuốn sổ này. Chậc, mà chẳng cần tôi dặn thì ai đó cũng hạ lệnh cho cậu thôi.”

“Anh Kusanagi đi đâu bây giờ à?”

“Tôi tạt qua chỗ này một chút.”

“Tạt đi đâu ạ? Đội trưởng lại cằn nhằn cho mà xem.” Makita cười toe toét.

“Cứ bảo là tôi đến chỗ Galileo. Nói thế thì ông ta không cằn nhằn đâu.”

“À, chỗ thầy Yukawa.” Makita gật đầu với vẻ đồng tình. “Em hiểu rồi.”

“Thế nào tôi chẳng bị cười vào mặt vì mù tịt khoa học. Ngán đến tận cổ rồi.”

“Chuyển lời giúp rằng em gửi gắm hy vọng vào thầy ấy nhé!” Makita nói rồi cuốc bộ về phía nhà ga.