← Quay lại trang sách

GIỚI THIỆU Con đường Tơ lụa ngày xưa

Ta hãy bắt đầu bằng một thí nghiệm tưởng tượng.1*

Thời gian là vào năm 2050. Châu Âu, từng là nền văn minh thịnh vượng và tân tiến nhất trái đất, giờ đây đang biểu lộ một số dấu hiệu sút kém. Hàng triệu du khách đổ về các viện bảo tàng ở Paris và Rome, nhưng thế giới hiện đại đang bỏ qua châu Âu. Công nghệ của châu Âu đã lạc hậu, rõ ràng thua những sáng chế cách tân đến từ Trung Quốc. Nền kinh tế một thời hùng cường của Liên minh Châu Âu nay đang sa sút, cư dân Âu châu nghiện mạng truyền thông xã hội và những khoản tiền cứu tế của nhà nước. Những kẻ nổi loạn theo đạo Islam (đạo Hồi) đã thiết lập một khu vực caliphate[3] bạo tàn ở London, và các nhà đương cục đang ra sức trấn áp khu vực này. Hai mươi triệu người mất mạng trong vụ thảm sát tiếp theo đó.

Tất cả bản đồ trong sách này được lấy từ bản gốc tiếng Anh China's Asian Dream: Empire Building along the New Silk Road của Tom Miller, Zed Books, London 2017 – BT.

Qua nhanh một trăm năm sau. Châu Âu đang tả tơi, bị thiêu rụi sau gần hai thập niên chiến tranh và chịu sự chiếm đóng của Hoa Kỳ, một đồng minh cũ của họ. Thêm hai mươi triệu người Âu châu thiệt mạng. Trung Quốc đặt dấu chấm hết cho cuộc chiến tranh bằng cách bắn các quả tên lửa hạt nhân vào nước Hoa Kỳ và ngự ở vị thế tối cao. Châu Âu lúc này chỉ là một tay chơi nhỏ mọn trong một trật tự toàn cầu mà dẫn đầu là các quốc gia châu Á – Thái Bình Dương, với thủ phủ thực sự nằm ở Bắc Kinh. Chính quyền mới của châu Âu đã nguyện thề tái xây dựng lục địa đang âm ỉ cháy này thành một chốn không tưởng theo lối sinh hoạt cộng đồng, tuy vậy siêu cường quốc toàn cầu – Trung Quốc – lại là một nước hung hãn. Liên minh Châu Âu của Nhân dân (The People’s European Union) vẫn kiên quyết theo ý mình, bế quan tỏa cảng trước thế giới…

Cái tương lai đậm chất dystopia[4] này nghe như một bộ phim kinh dị, nhưng nó cho ta một cảnh huống tương tự như những gì đã xảy đến với Trung Quốc từ lúc bắt đầu cuộc Chiến tranh nha phiến thứ nhất năm 1839 cho đến lúc Ðảng Cộng sản Trung Quốc (CCP) củng cố quyền lực vào thập niên 1950. Việc Trung Quốc bị coi thường là điều cực kì trái mong đợi và gây hoang mang.

Năm 1800, Trung Quốc tự xem mình như được trời phù hộ, như một cường quốc vĩ đại nhất và là nền văn minh đi đầu thế giới – tựa như các quốc gia lớn Âu châu tự nhìn nhận mình hồi năm 1900 sau này. Trong vũ trụ quan Trung Hoa cổ điển, Trung Quốc nằm ở trung tâm thế giới: Từ chính cái tên của nước này, Trung Quốc (中国), nghĩa đen là “đất nước nằm ở giữa”. Còn có tên gọi nên thơ là “天朝 (Thiên triều/ Celestial Empire)”, Trung Quốc lấp đầy phạm vi trung tâm bên trong ba hình tròn đồng tâm. Hình tròn thứ nhì chứa các chư hầu và triều cống, chẳng hạn như Nhật Bản, Triều Tiên và Việt Nam, tất thảy đều là một phần của thế giới Nho giáo Trung Hoa. Hình tròn thứ ba thuộc dạng mông muội, dành riêng cho người ngoại quốc – được biết với tên gọi “barbarian (man di)” trong một số bản dịch tiếng Anh – những người chưa được nền văn minh Trung Hoa giáo hóa.2*

Sức mạnh của Trung Quốc đạt đến đỉnh điểm trong nhiều thập niên trước năm 1800. Triều Thanh trước đó đã nghiền nát các vương quốc nhỏ hơn ở phía Bắc và phía Tây, gom các vương quốc đó vào một đế quốc được mở rộng bội phần. Ðế quốc này bao gồm Tây Tạng, Mông Cổ và một vùng khá lớn ở vùng trung tâm châu Á, mà Trung Quốc đã đổi tên thành Tân Cương (nghĩa đen là “cương vực mới”). Trung Quốc đã kiểm soát các mối bang giao với Ðế quốc Nga, các vương quốc vùng Ðông Nam Á, và vương quốc Nepal nằm cạnh Himalaya. Các nhà nước tiếp giáp, từ Miến Ðiện đến Triều Tiên, đều công nhận sự vượt trội của Trung Quốc, và thường dâng cống phẩm cho Thanh triều. Ðây không chỉ đơn giản là chuyện khấu đầu trước vị hoàng đế vĩ đại ở Bắc Kinh, mối quan hệ này còn đem lại những mối lợi chung, đáng chú ý là ở địa hạt giao thương.

Nhà nước Trung Hoa, vẫn vẹn toàn sau 2.000 năm kể từ lần đầu thống nhất, lúc bấy giờ không có địch thủ. Với dân số 328 triệu dân, Ðế quốc nhà Thanh có dân số đông hơn Ðế quốc Anh, Ðế quốc Maratha Ấn Ðộ, Cộng hòa Pháp, Ðế quốc Nga, và Ðế quốc Ottoman cộng lại.3* Nền kinh tế của Trung Quốc thời ấy lớn hơn tất thảy các nước khác, như đã từng suốt hai thiên niên kỉ trước đó, chiếm hơn một phần tư sản lượng thế giới.4* Kinh tế Trung Quốc lớn gấp mười kinh tế Nhật và hùng cường hơn hẳn các nền kinh tế Âu châu gộp lại – những nơi chốn xa xôi mà Trung Quốc xuất khẩu những món hàng như lụa, đồ sứ và trà, nhưng họ lại gần như không có chút lưu tâm nào đến những vùng đất ấy. Trung Quốc rõ ràng là thế lực đi đầu ở châu Á, và chi phối cả trật tự văn hóa. Khi ấy Trung Quốc là một nền văn minh đạt đến quy mô mà thế giới chưa từng chứng kiến trước đây.

Tuy vậy, trong vòng vài thập niên, vị thế tưởng chừng không cần tranh cãi của Trung Quốc đã tan rã sau một chuỗi các sự kiện thảm họa. Chuỗi sự kiện này bắt đầu từ năm 1839, khi pháo hạm Anh quốc thực hiện đòn báo thù cho việc Trung Quốc tiêu hủy 20.000 rương nha phiến Ấn Ðộ ở cảng Quảng Châu, sau khi Hoàng đế Ðạo Quang mưu toan bãi bỏ việc giao thương mặt hàng gây phương hại này. Công ty Ðông Ấn Anh quốc (British East India Company) xoay pháo hạm của họ vào Quảng Châu, và có được chiến thắng quyết định. Năm 1842, tuân theo Ðiều ước Nam Kinh, Anh quốc buộc chính quyền nhà Thanh trả phí bồi thường và yêu cầu mở năm cảng thông thương (treaty port) mới, tại đó các công dân có được quyền tự do miễn truy đối với quyền tài phán theo pháp lí của hoàng đế Trung Quốc. Anh quốc cũng lấy được đảo Hong Kong như một phần thưởng thêm lúc bấy giờ.

Giữa thập niên 1850, Anh quốc và các cường quốc Tây phương khác yêu cầu Trung Quốc mở cửa thêm nữa để thông thương với nước ngoài, cho phép buôn bán nha phiến và bãi bỏ các thuế nhập khẩu. Khi Hoàng đế Hàm Phong hủy bỏ lời hứa đối với thỏa thuận mới, quân đội Anh và Pháp đã dong tàu theo hướng Bắc đến cảng Thiên Tân. Sau khi ban đầu bị từ khước, họ đã triệt phá quân đội triều đình và hành quân tới Bắc Kinh. Với việc hoàng đế tháo chạy khỏi kinh thành, quân lính cướp bóc và thiêu trụi tài sản giá trị nhất của hoàng đế – vườn Viên Minh, trong tiếng Anh còn được biết với cái tên “Old Summer Palace”. Những ngày tiếp theo, các cường quốc Tây phương buộc Trung Quốc mở cửa Thiên Tân làm cảng thông thương, nhượng lại khu Cửu Long của Hong Kong cho Anh quốc, hợp pháp hóa việc buôn bán nha phiến, và trả phí bồi thường cho Anh và Pháp. Ngoài ra, Nga còn bỏ túi một triệu km2 lãnh thổ quê hương tổ tiên của các vua nhà Thanh.

Thời điểm xảy ra cuộc Chiến tranh nha phiến thứ nhì hẳn là giai đoạn tồi tệ nhất đối với triều đình Trung Quốc, vốn đang phải đối phó với cuộc nổi dậy lớn nhất nước trong lịch sử Trung Quốc. Trong khi binh lính ngoại quốc xông vào cung điện ở phương Bắc, quân đội phiến loạn của Thái Bình Thiên Quốc hành quân khắp phương Nam. Những người Trung Quốc Hán tộc thường dân đã đổ theo phe nổi loạn – lãnh đạo là Hồng Tú Toàn, một người tự nhận mình là em trai của Giêsu Kitô (Jesus Christ) – và họ có niềm tin chính đáng rằng chính quyền nhà Thanh là một chính quyền hủ bại và vô tích sự. Năm 1853, quân đội của Thái Bình Thiên Quốc chiếm được thành phố Nam Kinh ở phía Ðông, và tuyên bố đây là Thiên kinh của Thái Bình Thiên Quốc. Phe phiến loạn chiếm đóng những dải đất rộng lớn của Trung Quốc, thiết lập luật lệ tàn khốc và theo thần quyền. Năm 1864, thời điểm mà Nam Kinh cuối cùng cũng bị quân đội nhà Thanh lật đổ, hơn 20 triệu người chết, từ đó khởi nghĩa Thái Bình Thiên Quốc được xếp vào hàng những cuộc nội chiến đẫm máu nhất trong lịch sử.

Hai cuộc Chiến tranh nha phiến và cuộc chiến mất mát quá nhiều sinh mạng của Thái Bình Thiên Quốc rõ ràng chứng tỏ quyền lực triều đình bấy giờ đã suy yếu. Tình trạng bạc nhược này đã dọn đường cho một chương u ám nhất trong lịch sử Trung Quốc hiện đại, bắt đầu mở ra vào năm 1895 với việc Trung Quốc thất bại trong cuộc Chiến tranh Trung – Nhật. Trung Quốc trước đây xem Nhật, một vương quốc triều cống năm xưa, như một cậu em nhỏ trong thế giới Nho giáo rộng lớn bao trùm. Năm 1911, triều Thanh sụp đổ và đất nước Trung Quốc chìm vào vũng lầy của chế độ quân phiệt. Chính quyền quốc gia chủ nghĩa của thập niên 1920 sớm tái thống nhất đất nước nhưng nhanh chóng sa lầy vào cuộc chiến tranh với Ðảng Cộng sản Trung Quốc. Năm 1931, Nhật xâm lược vùng Ðông Bắc lạnh giá của Trung Quốc, thiết lập một nhà nước bù nhìn. Cuộc chiến tranh toàn diện nổ ra năm 1937, khi Lục quân Ðế quốc Ðại Nhật Bản hoành hành khắp Trung Quốc, tàn sát đến 300.000 người dân chỉ ở riêng Nam Kinh trong suốt sáu tuần giết chóc đẫm máu. Khoảng 20 triệu người Trung Quốc thiệt mạng ở một sự kiện mà Trung Quốc gọi là cuộc Chiến tranh chống Nhật, tầm một phần tư tổng số thương vong ở cuộc Thế chiến II. Trung Quốc ước tính trong thế chiến này có gần 35 triệu người Trung Quốc thiệt mạng.5*

Khi lực lượng Cộng sản giành được chiến thắng trước Tưởng Giới Thạch vào năm 1949, thiết lập nên nhà nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (PRC), họ tiếp quản một đất nước bần cùng và suy kiệt: Trung Quốc lúc này đang tả tơi và nát tan. Sau một thế kỉ tàn sát và hủy hoại, họ bắt đầu tái xây dựng đất nước. Họ lấy câu khẩu hiệu vốn được lần đầu dùng đến bởi giới trí thức vào năm 1915 và phổ biến khẩu hiệu này suốt từ bấy đến nay: “vật vong quốc sỉ”[5]6*, khi nhớ lại những nạn ngược đãi và những nỗi ô nhục vốn chất chồng lên Trung Quốc cùng người dân nước này, ngày nay cụm từ bốn chữ chất chứa đầy nỗi lòng này đang được truyền dạy trong trường học. Trung Quốc không được phép quên điều ấy, vì họ không bao giờ có thể lâm vào cảnh nhục nhã thêm lần nào nữa. Trung Quốc không được phép quên điều ấy, vì nỗi đau của thời kì nhục nhã phải thúc đẩy được sự phục hưng của quốc gia.

Mục đích của việc phục hưng quốc gia đã được khơi lên bởi bao thế hệ lãnh đạo Trung Quốc hiện đại kể từ Tôn Dật Tiên, cha đẻ của nền Cộng hòa Trung Hoa. Bản quốc ca của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa khá tường minh ở việc này:

Ðứng lên!Những người không muốn làmnôlệ!

Với máu thịt chúng ta, hãy cùng nhau xây dựng Trường Thành mới!

Dân tộc Trung Hoa đã đến lúc hiểm nguy,

Mỗi người hãy cất lên tiếng thét.

Ðứng lên!Ðứng lên!Ðứng lên!7*

Cốt lõi ở đây là Trung Quốc phải đứng lên lần nữa. Giới lãnh đạo nước này nói đến chuyện phục hưng (复兴/ fuxing) – khôi phục lại những gì đã mất. Trung Quốc từng một thời là nền văn minh lớn nhất và quốc gia lớn nhất thế giới. Họ phải trở lại vị thế đó.

Nếu không biết đến “bách niên quốc sỉ”[6], ta sẽ không thể hiểu được tiếng vang vọng của “Giấc mộng Trung Quốc (中国梦/Chinese Dream)” mà ông Tập Cận Bình đã nêu ra8*. Giống như tất cả các vị lãnh đạo Trung Quốc thời hiện đại trước đó, ông Tập hứa sẽ hiện thực hóa công cuộc “phục hưng vĩ đại cho dân tộc Trung Hoa”[7]. Nhưng dưới sự lãnh đạo của ông, việc theo đuổi “Giấc mộng Trung Quốc” đã trở thành một triết lí dẫn đường. Ðây trước tiên là một tầm nhìn trong nước – sau rốt Trung Quốc không thể trở nên vĩ đại nếu họ không vững mạnh ở quê nhà – nhưng điều này còn có mối nối kết mật thiết với vị trí của Trung Quốc trên thế giới. Sau nhiều năm chuẩn bị nền tảng, Trung Quốc nhất quyết giành lấy vị trí của mình ở cương vị một cường quốc của thế giới hiện đại.

Ðây là chuyện đáng sợ đối với những nước lân cận của Trung Quốc, vì “Giấc mộng Trung Quốc” có mối liên kết sít sao với uy lực quân sự.9* Ngay sau khi trở thành Tổng Bí thư Ðảng Cộng sản, ông Tập đã tuyên bố: “Ðể thực hiện công cuộc phục hưng vĩ đại của dân tộc Trung Hoa, chúng ta nhất định phải giữ vững sự hòa hợp giữa phú quốc và quân sự cường liệt vốn giao kết hỗ tương thành một khối thống nhất”[8]10*. Kể từ thế kỉ 19, nhiều nhà lãnh đạo chính trị và giới trí thức thường lặp lại điệp khúc về cuộc truy tầm sự “phú cường (富强: giàu mạnh)”. Cụm từ đó là lối nói ngắn gọn cho cụm “phú quốc cường quân”[9], một cụm từ vốn tồn tại hơn 2.000 năm nay từ tận thời đại Chiến Quốc, giúp dọn đường dẫn đến một đế quốc Trung Hoa thống nhất. Theo từ ngữ ngày nay, sự phát triển kinh tế là điều cần thiết nhằm tạo nên một phú quốc sẽ giúp dân tộc Trung Hoa và nền văn minh cổ đại của họ được phồn thịnh. Một nền kinh tế mạnh mẽ sẽ lo được các chi phí cho một nền quân sự mạnh mẽ vốn cần thiết cho sự tự vệ, sao cho Trung Quốc sẽ không bao giờ bị xâm lăng và bị chiếm đóng.

Sức mạnh quân sự cũng là điều cần có để Ðảng Cộng sản có được tính chính danh ở cương vị một “thái úy”[10] của Trung Quốc. Hệ thống tuyên truyền của đảng đã nêu lại vết thương lịch sử về nỗi quốc sỉ với mục tiêu củng cố căn cước dân tộc xung quanh vai trò của đảng trong công cuộc xây dựng “phú quốc cường quân”. Thông điệp mà đảng tìm cách phóng chiếu ra là chỉ đảng mới có thể dẫn dắt Trung Quốc đạt đến tầm mức vĩ đại. Ðó là cái logic nằm sau cuộc duyệt binh quy mô lớn diễn ra ở Bắc Kinh vào tháng Chín năm 2015, như để kỉ niệm 70 năm chiến thắng quân Nhật. Ðội hình binh lính diễu hành và nhiều hàng xe tăng rầm rập – được phát qua màn ảnh truyền hình khắp thế giới – thực sự là dấu hiệu của tình trạng lo ngại an ninh: Những quốc gia thực sự vững tin sẽ không cần phải phô trương uy lực quân sự của mình. Thế nhưng giới lãnh đạo Trung Quốc lại cần phóng chiếu ra hình ảnh của sức mạnh, vừa để gia cố quyền lãnh đạo của họ ở quê nhà vừa để đe dọa những kẻ thù tiềm tàng ở hải ngoại, đặc biệt là Hoa Kỳ và Nhật.11*

Việc mưu cầu quang vinh cho quốc gia, vốn được tiếp nhiệt bằng cái hố sâu chứa sự bất an toàn này, đang đẩy Trung Quốc hướng đến một chính sách đối ngoại mãnh liệt hơn. Ba mươi năm trước, CCP (Ðảng Cộng sản Trung Quốc) vẫn có thể viện đến ý thức hệ để hậu thuẫn cho uy quyền của mình ở vai trò đảng cầm quyền. Ngược lại, tính logic theo quốc gia chủ nghĩa của “Giấc mộng Trung Quốc” lại cần Trung Quốc thể hiện sức mạnh ra hải ngoại. Buổi diễu binh mừng chiến thắng kia được một quốc gia ái quốc đón lấy, dẫu cho nó truyền những nỗi run sợ đi khắp châu Á. “Sự thiếu tự tin trong chuyện quốc vụ có nghĩa là anh phải tỏ ra kiên định ở nước ngoài để thống nhất đất nước này xung quanh chủ nghĩa quốc gia – nhưng tôi không thể công khai nói thế”, theo lời của một trong những nhà tư tưởng hàng đầu ở Trung Quốc khi bàn về những mối bang giao quốc tế.12*

Ðiều này đánh dấu một bước chuyển dời nền tảng trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc. Ðặng Tiểu Bình, vị lãnh đạo tối cao của Trung Quốc từ 1978 đến 1992, đã khuyên răn rằng Trung Quốc phải biết “giấu mình[11]” ở phương diện đối ngoại và cần chú trọng vào chuyện sắp đặt nhà cửa của chính mình cho ổn thỏa. Tập Chủ tịch đã bãi bỏ lối tiếp cận khiêm tốn đó. Các dấu hiệu cho thấy việc bãi bỏ đó đã tồn tại thậm chí trước khi ông Tập tiếp nhận chính quyền, vào thời điểm trong chuyến đi đến Washington ở cương vị Phó Chủ tịch, ông đã kêu gọi một “quan hệ nước lớn kiểu mới”.[12]13* Ngay sau khi kế nhiệm Hồ Cẩm Ðào, Tập tuyên bố rằng Trung Quốc sẽ đóng vai trò “chủ động tích cực” ở châu Á. Cụm từ nghe chừng vô hại này thực sự là tín hiệu cho thấy châm ngôn của Ðặng đã bị bãi bỏ. Từ đó, Trung Quốc đã ưu tiên đường lối “ngoại giao với các nước láng giềng”[13] và bắt đầu lập công thức cho những chính sách cụ thể nhằm chuyển dịch sức nặng kinh tế thành vị thế lãnh đạo trong khu vực.14*

Dần dần – và một cách thất thường – cơ lực địa chính trị của Trung Quốc tăng lên nhằm tương xứng với uy lực kinh tế của họ. Theo nhà khoa học chính trị lỗi lạc David Shambaugh, Trung Quốc từ lâu đã là một “cường quốc cô độc”, thiếu bằng hữu thân thuộc và không có đồng minh.15* Theo lời khuyên của Ðặng, Bắc Kinh đã không xen vào các sự vụ của những nước khác, theo đuổi một chính sách ngoại giao với nguyên tắc chỉ đạo là không can thiệp và không liên kết. Tuy nhiên chính sách ngoại giao theo lối “chủ động tích cực” của Tập Chủ tịch đã đòi hỏi Trung Quốc phải hợp tác chặt chẽ với những nước khác. Bắc Kinh không tìm cách tạo lập một cơ cấu liên minh chính thức, mà Tập Cận Bình tuyên bố ý định của ông trong việc “kết giao thêm nhiều bằng hữu” và tạo lập một “cộng đồng chung vận mệnh”[14] ở châu Á.16* Mục tiêu của Tập là để tạo nên một mạng lưới các liên minh phi chính thức được bôi trơn bằng tiền Trung Quốc. Khi các nước láng giềng càng lúc càng trở nên phụ thuộc vào Trung Quốc về mặt kinh tế, Trung Quốc tin rằng khi đó tác động địa chính trị của họ sẽ càng mạnh thêm.

Sứ mệnh của Tập Chủ tịch là trả Trung Quốc về lại vai trò cường quốc vĩ đại nhất châu Á mà ông cho là vị thế tự nhiên, hợp lẽ và mang tính lịch sử. Ðiều đó không có nghĩa là Trung Quốc phải thế chỗ Hoa Kỳ ở vai trò siêu cường duy nhất của thế giới, mà có nghĩa rằng châu Á phải chiếm ưu trội ngay ở sân sau nhà mình. Sau “bách niên quốc sỉ”, duy chỉ “Giấc mộng châu Á” mới có thể mang lại tự tôn và tự trọng cho quốc gia này.17* Ðối với Trung Quốc, đó là một viễn kiến vinh quang – và một viễn kiến có những ngụ ý to lớn đối với tương lai của châu Á.

Chính sách “chủ động tích cực” của Trung Quốc sẽ vận hành ra sao? Trước tiên, nó cần tra dầu vào các bánh xe thương mại và đầu tư. Sự trỗi dậy của Trung Quốc ở châu Á có cơ sở dựa trên một thực tế giản đơn: Nền kinh tế khổng lồ tại nước này, ước tính 10,9 nghìn tỉ đô-la Mỹ vào năm 2015, lớn hơn các nền kinh tế khác ở Ðông Bắc Á và Ðông Nam Á gộp lại.18* Cỗ máy đầy uy lực này đã thúc đẩy sự phát triển khu vực trong ít nhất một phần tư thế kỉ. Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất của đa số các nước ở châu Á, bao gồm hầu hết các nước ở khu vực lân cận. Ðiều này giúp Trung Quốc có được tác động lớn lao về kinh tế.

Mục tiêu tiếp theo của Trung Quốc là gia tăng đầu tư trong khu vực, một điều mà Trung Quốc vẫn chưa thống lĩnh. Ví dụ ở Ðông Nam Á, cả EU và Nhật đều có phần đầu tư nhiều hơn. Ðây là một thất bại mà sau đó sẽ được điều chỉnh bằng “Sáng kiến Vành đai và Con đường”, còn được biết với tên “Nhất đới nhất lộ”, hay “Con đường Tơ lụa mới”. Sáng kiến này miêu tả hai dự án cực kì tham vọng nhằm cải thiện tính nối kết ở châu Á và xa hơn nữa. Ở đất liền, “Vành đai Kinh tế Con đường Tơ lụa” cho thấy viễn cảnh về một cơ sở hạ tầng mới cho đường vận tải và việc xây dựng các hành lang công nghiệp trải khắp vùng Trung Á cho đến Trung Ðông và châu Âu. Trên mặt biển, “Con đường Tơ lụa trên biển thế kỉ 21” sẽ khích lệ việc đầu tư ở các cảng và các tuyến đường mậu dịch mới xuyên qua Biển Ðông (South China Sea) và Ấn Ðộ Dương. Sáng kiến này sẽ được hậu thuẫn bằng thế lực tài chính: Hai ngân hàng chính sách của Trung Quốc – Ngân hàng Phát triển Quốc gia và Ngân hàng Xuất nhập khẩu Trung Quốc – đã cho vay tiền ở châu Á nhiều hơn Ngân hàng Thế giới và Ngân hàng Phát triển Châu Á gộp lại. Bằng cách tài trợ cho đường bộ, đường sắt, cảng khẩu và các tuyến điện năng ở những khu vực chậm phát triển ở châu Á, Sáng kiến Vành đai và Con đường nhắm tới việc thu hút các nước lân cận của Trung Quốc ngày càng tiến sát hơn vào vòng tay kinh tế của Bắc Kinh.

Sáng kiến này là chính sách mang dấu ấn của Tập Cận Bình, được thiết kế nhằm bảo đảm cho di sản của ông. Bắc Kinh hỗ trợ chính sách này bằng những tổ chức tài chính mới, đáng chú ý là Ngân hàng Ðầu tư Cơ sở hạ tầng Châu Á (AIIB) và Quỹ Con đường Tơ lụa. Ðiều này không có nghĩa là Trung Quốc khước từ kiến trúc toàn cầu, như một số người đã có ý.19* Trái lại, nó có nghĩa là Trung Quốc muốn bổ sung và tái định hình kiến trúc này. Trung Quốc sẽ dùng các tổ chức đa phương như AIIB, Tổ chức Hợp tác Thượng Hải và Asean+1, trong đó Hoa Kỳ gần như không có vai trò nào, nhằm thúc đẩy chương trình nghị sự trong khu vực của chính Trung Quốc. Thực tế ở đây là Trung Quốc đã thách thức trật tự hậu Thế chiến II vốn được thiết lập ở châu Á dưới sự canh chừng cảnh giác của Washington. (Xem Chương 1)

Lối ngoại giao bằng cơ sở hạ tầng của Trung Quốc nhắm tới việc cải thiện tính nối kết với các nước láng giềng. Giáp biên với Kazakhstan, thị trấn nhỏ Khorgos (Hoắc Nhĩ Quả Tư) ở Tân Cương đang được chuyển hóa thành một trung tâm phân phối cho khu vực Trung Á, với những tuyến liên kết bằng đường sắt và đường bộ từ thủ phủ khu vực ở Ürümqi cho đến Almaty, thành phố lớn nhất Kazakhstan, và tiếp tục đến Iran. Các tuyến liên kết bằng đường sắt xuất phát từ các thành phố khắp Trung Quốc đến châu Âu ngang qua Kazakhstan. Về phía Nam, những thị trường mới và rộng lớn được thiết kế để tái thiết lập Kashgar – một trong những khu chợ Trung Ðông (bazaar) sầm uất nhất trên Con đường Tơ lụa cũ – thành một cửa ngõ khu vực. Các tập đoàn Trung Quốc đã xây dựng nhiều đường bộ đến Kyrgyzstan và Tajikistan ở lân cận, và có nhiều kế hoạch đặt các tuyến đường sắt xuyên qua các rặng núi Karakoram và Pamir đến Pakistan, Uzbekistan và xa hơn nữa. Những dòng chảy mậu dịch và hoạt động kinh tế vẫn chưa tương xứng với cơn phong cuồng trong xây dựng như thế này, nhưng không ai có thể hoài nghi ý định đó của Trung Quốc.

Các quốc gia Trung Á chào mừng sự đầu tư giúp cải thiện các tuyến liên kết vận tải và giúp khai mở nguồn khoáng sản khổng lồ ở đó, đặc biệt nếu điều này làm giảm sự lệ thuộc vào kẻ bảo trợ truyền thống của họ: nước Nga. Trung Quốc đã thế chỗ Nga để trở thành nền kinh tế dẫn đầu có mặt ở Trung Á suốt thập niên qua, cho dù Nga vẫn duy trì những nguồn cội sâu xa hơn về mặt chính trị và văn hóa. Cũng giống Tập Cận Bình, Vladimir Putin muốn tái thiết lập khu vực ảnh hưởng về mặt lịch sử cho đất nước mình, và đang bận thúc đẩy một tầm nhìn khác về kinh tế có cơ sở dựa trên sự thống nhất văn hóa của các quốc gia Xô Viết. Trung Quốc và Nga đều khẳng quyết họ là đối tác chiến lược của nhau; nhưng khi tác động của Trung Quốc ở Trung Á tăng lên, mối kình địch truyền thống giữa hai quốc gia này có thể sẽ được tái kích khởi. (Xem Chương 2)

Ở những nền kinh tế dọc sông Mekong của vùng đất liền Ðông Nam Á, địch thủ lớn nhất của Trung Quốc là Nhật, vốn từ lâu đã tài trợ và xây dựng cơ sở hạ tầng khắp vùng. Tới thời điểm này, những dự án tham vọng nhất là của người Trung Quốc: bao gồm một đường cao tốc hoàn chỉnh trị giá 4 tỉ đô-la dài 1.800km từ thành phố Côn Minh ở tỉnh Vân Nam đến Bangkok, và một tuyến đường sắt 3.900km được đề xuất chạy từ Côn Minh đến Singapore, trải xuống băng qua Lào, Thái Lan và Malaysia. Tính hiệu dụng của tuyến đường sắt như thế vẫn còn là điều nhiều người hồ nghi, nhưng những tuyến nối kết giao thông giữa Vân Nam và Lào hiện đang thuận lợi để đất nước này ngập tràn giới đầu tư Trung Quốc. Trong khi đó, Campuchia vẫn còn lệ thuộc vào tiền của Bắc Kinh đến mức người ta cáo buộc nước này bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi Trung Quốc. Cả hai nước đó đều gặp nguy cơ trở thành phần chắp vá thêm cho nước láng giềng khổng lồ của họ. (Xem Chương 3)

Trở lại năm 2010, tình hình tương tự có thể nói đến Myanmar. Sau hơn hai thập niên vun bồi mối ràng buộc với chính quyền quân phiệt đang cai trị ở Myanmar, Bắc Kinh đã xem quốc gia khép kín nhất Ðông Nam Á này như một cầu nối đến Ấn Ðộ Dương – “California của Trung Quốc” – sẽ mang đến tiềm năng quý giá trong việc tiếp cận trực tiếp đến các vùng ven biển phía Tây.20* Trung Quốc đã xây dựng hai đường ống dầu khí từ vịnh Bengal đến thị trấn biên thùy Thụy Lệ, vốn cũng là một trạm dừng trong quy hoạch dọc theo con đường cao tốc được đề xuất chạy từ Côn Minh xuyên qua Myanmar đến Kolkata, nằm ở bờ biển phía Ðông Ấn Ðộ. Tuy nhiên vị thế của Trung Quốc đã sút giảm đáng kể từ khi quá trình chuyển tiếp dân chủ ở Myanmar dẫn đến sự khôi phục hữu hảo với phương Tây. Việc tự do hóa chính trị đã trao cho thường dân tiếng nói phản kháng chống lại sự hiện diện của Trung Quốc, buộc chính quyền nước này hoãn lại con đập khổng lồ và tuyến đường sắt. Quả là điều lí thú khi xem làm thế nào chính quyền của Aung San Suu Kyi tiếp cận vấn đề tối quan trọng về Trung Quốc. (Xem Chương 4)

Tác họa của chủ nghĩa dân túy vẫn sẽ là một mối nguy hại cho các công ty Trung Quốc đang hoạt động ở nước ngoài, đặc biệt ở những quốc gia bạc nhược dưới sự lãnh đạo của những chế độ chuyên chế, tại đó việc thay đổi chính quyền có thể dẫn tới những chuyển đổi kịch tính trong làn gió chính trị chủ đạo. Sau Myanmar, minh họa rõ nhất là Sri Lanka. Hòn đảo có vị trí chiến lược này được Trung Quốc cho vay những khoản tiền dư dật, đến khi cựu tổng thống hủ bại của nước này bị phế truất năm 2015. Chính quyền mới hứa xem xét lại nhiều dự án thiếu minh bạch của Trung Quốc, hứa hẹn tái đàm phán lãi suất của các khoản vay vốn là khoản hối lộ cho những phe phái thân chính phủ lúc bấy giờ. Nhưng Sri Lanka quá lệ thuộc Trung Quốc đến mức nước này sẽ lâm vào cảnh chật vật tìm cách thoát li khỏi sự kiểm soát kinh tế của Trung Quốc.

Bên kia Ấn Ðộ Dương, Trung Quốc đang dùng các nguồn kinh tế để đảm bảo các mục đích chiến lược. Những công ty kĩ thuật của họ đã xây nhiều cảng ở Myanmar, Sri Lanka và Pakistan để có thể cung ứng sự hỗ trợ thiết yếu cho tàu chiến và tàu ngầm Trung Quốc. Họ đã hứa hẹn 46 tỉ đô-la để tài trợ cho “hành lang kinh tế” xuyên qua Pakistan, nối cảng Gwadar ở Biển Ả Rập đến các sa mạc phía Tây Bắc Trung Quốc. Và họ sẽ sớm mở căn cứ quân sự hải ngoại đầu tiên ở Djibouti, thuộc vùng Sừng châu Phi (Ðông Bắc Phi), tại đó họ dự tính bố trí mấy nghìn quân lính. Giới phân tích quân sự Ấn Ðộ lập luận rằng Trung Quốc cố tình xâu một “chuỗi trân châu” xuyên qua Ấn Ðộ Dương – mặc dù một số nỗi sợ kiểu này đã được cường điệu lên. (Xem Chương 5)

Sự hiện diện của Trung Quốc ở Ấn Ðộ Dương làm dấy lên những mối lo ngại ở Ấn Ðộ về việc sức mạnh kinh tế của họ đã chuyển dịch thành uy lực quân sự nhanh đến cỡ nào. Giới lãnh đạo Trung Quốc kiên quyết cho rằng họ không phải, và chưa bao giờ, là một thế lực bành trướng. Ðây là cách đọc lịch sử có chọn lọc kĩ càng: Vương triều Trung Quốc đã phát triển nhờ sự bành trướng của nhà nước Trung Hoa vượt ra ngoài khu đất trọng yếu của người Hán dọc sông Hoàng Hà. Hơn nữa, từ khi thành lập năm 1949, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã chiếm Tây Tạng và thuộc địa hóa Tân Cương. Nhưng quả thật rằng nhìn chung từ bấy đến nay Trung Quốc đã dính vào những biên cương đó, mặc dù cũng có những cuộc đột kích nhỏ vào Việt Nam và lãnh thổ do Ấn Ðộ cai quản.

Lời cảnh báo quan trọng là hành vi gần đây của Trung Quốc ở vùng Biển Hoa Ðông và Biển Ðông, tại đó họ táo tợn tuyên bố quyền sở hữu những khu vực rộng lớn thuộc vùng lãnh thổ nằm ngoài vùng biên cương của họ. Tuyên bố đó gặp phải sự phản đối, giận dữ và cả sợ hãi, đặc biệt ở Nhật, Việt Nam và Philippines. Trung Quốc đã phủ nhận những nỗ lực đường dài của mình nhằm tạo dựng một hình ảnh tích cực ở Ðông Nam Á, đưa ra những điều hư ngụy trong lối ngoại giao “đôi bên cùng có lợi (win – win)” được họ liên tục chào mời. Những nỗ lực của Trung Quốc trong việc hiện diện ở Biển Ðông, chứng tỏ giờ đây Trung Quốc đã đủ tự tin để vươn cơ bắp của mình qua bên kia biên giới. Khi Trung Quốc kiên quyết tạo dựng quân lực mạnh mẽ, họ đang quân sự hóa khu vực, kéo Hoa Kỳ vào cuộc tranh đụng này. Chiến tranh vẫn là điều không khả dĩ, nhưng hành vi của Trung Quốc đang làm tăng lên những nỗi oán hận từ xưa, thậm chí sẽ đẩy Việt Nam đến gần hơn với Hoa Kỳ. (Xem Chương 6)

Khẳng định kiên quyết của Trung Quốc về quyền sở hữu lãnh thổ là chuyện xoay quanh hai điều: tự vệ và vinh hiển quốc gia. Khả năng tự vệ và định hình số phận của riêng mình là điều trọng tâm trong “Giấc mộng Trung Quốc”. Dù yêu dù ghét ông ta đi nữa, Tập Cận Bình vẫn kiên quyết rằng Trung Quốc không còn là quốc gia có thể bị đưa đẩy. Ông đã lập thời điểm đích đến vào năm 2049 – một trăm năm thành lập Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa – để hiện thực hóa giấc mộng phục hưng quốc gia. Tới giữa thế kỉ này, Tập cho rằng Trung Quốc phải “phú cường”, cả ở trong nước lẫn nước ngoài.21* Và ở cương vị đại cường quốc, họ phải tham gia tích cực vào chính sự toàn cầu, giúp sức làm nên những luật lệ quốc tế.

Bắc Kinh cam quyết không có những cao vọng đế quốc. “Trung Quốc sẽ không bao giờ áp quá khứ bi thảm của họ lên các quốc gia khác”, Tập đã tuyên bố như thế trong buổi duyệt binh chiến thắng ở Bắc Kinh năm 2015. “Nhân dân Trung Quốc kiên trì theo đuổi các mối giao thiệp hữu hảo với toàn bộ các quốc gia khác”.22* Tuy vậy, “Giấc mộng Trung Quốc”, theo cách riêng của mình, lại là mộng tạo dựng một đế quốc Á châu. Tôi không có ý bảo rằng Trung Quốc có cao vọng chinh phục các vùng đất ngoại quốc. Ngoài những tranh chấp ở Biển Ðông, gần như không có chứng cứ cho thấy Trung Quốc có ý định quân sự cho mục đích bành trướng lãnh thổ. Ý tôi là mộng phục hưng quốc gia yêu cầu Trung Quốc khôi phục những gì đã mất, tức phục hồi địa vị lịch sử của họ ở vai trò một thế lực thống trị châu Á. “Ðế quốc” mới của Trung Quốc sẽ là một thế lực phi chính thức và phần lớn dựa vào kinh tế, được ấn định bằng tiền và cố kết nhau bằng cơ sở hạ tầng cứng.

Tái thiết lập một trật tự lấy Trung Quốc làm trung tâm (Sino-centric) là giấc mộng của nhiều nhà quốc gia chủ nghĩa Trung Quốc. Trong cuốn sách The China Dream, Lưu Minh Phúc, đại tá Quân đội Giải phóng Nhân dân nay đã nghỉ hưu, đã miêu tả bằng sự nhiệt thành quốc gia chủ nghĩa về cách thức vận hành của hệ thống triều cống truyền thống:

“Trong hệ thống triều cống Ðông Á, Trung Quốc là quốc gia thượng đẳng, và nhiều quốc gia lân cận là chư hầu, họ duy trì mối quan hệ triều cống và lễ vật. Ðây là hệ thống đặc biệt trong khu vực mà qua đó họ duy trì được mối bang giao hữu hảo và tương trợ nhau. Sức hút và sự ảnh hưởng đến từ những lợi thế về chính trị, kinh tế và văn hóa của Trung Quốc cổ đại đạt đến tầm mức mà những vương quốc lân cận tự nhiên rơi vào quỹ đạo xoay quanh Trung Quốc.”23*

Các sử gia ở những vương quốc chư hầu cũ đã chỉ ra rằng Ðế quốc Trung Hoa không ôn hòa như phát biểu của Lưu và của giới ủng hộ chủ nghĩa tân đế quốc Trung Hoa. Nhưng quan điểm phủ hồng quá khứ này đã cáo tri về lối ngoại giao “đôi bên cùng có lợi” của chính quyền Trung Quốc ngày nay. Bản chất, mục tiêu của lối ngoại giao về kinh tế của Trung Quốc là nhằm tạo nên một hệ thống triều cống hiện đại, với tất cả các con đường đều dẫn tới Bắc Kinh theo đúng nghĩa đen của nó.

Những nước láng giềng của Trung Quốc cần phải lo lắng thế nào? Thách thức đối với các quốc gia ở ngoại vi Trung Quốc là làm sao tranh thủ được thật nhiều lợi ích kinh tế, xét về thương mại và đầu tư, mà không mất đi chủ quyền chính trị và kinh tế. Hành động dung hòa này có tính chất nguy hiểm. Tất cả các quốc gia trong khu vực đều triển khai các chiến lược phòng vệ để đảm bảo họ không trở thành chư hầu của Trung Quốc. Ví dụ, Myanmar và Việt Nam đã di chuyển đến gần Hoa Kỳ hơn trong những năm gần đây. Hơn nữa, tất cả đều được hưởng lợi từ một hệ thống quốc tế bảo vệ chủ quyền và trân trọng sự tôn nghiêm của biên cương. Tuy thế, những quốc gia yếu nhất ở ngoại vi Trung Quốc sẽ phải đấu tranh để duy trì chủ quyền thực sự.

Lối ngoại giao về kinh tế của Trung Quốc hiệu quả nhất ở những nước nhỏ, tại đó họ tạo được tác động lớn. Những quốc gia yếu và chậm phát triển là điểm tập trung của cuốn sách này. Trái lại, những nền kinh tế đã phát triển có ít điều để sợ hơn: Nhật và Hàn Quốc tự bản thân họ là những nước mạnh. Những quốc gia này không cần đến Trung Quốc để xây dựng và tài trợ cơ sở hạ tầng, họ là những đối thủ cạnh tranh trong cuộc chơi ngoại giao về cơ sở hạ tầng. Thực tế, cả hai nước này đều là thành viên cốt cán trong hệ thống liên minh Hoa Kỳ, và như vậy cho thấy vị thế của Trung Quốc thực sự yếu như thế nào: trong khi Bắc Kinh thết đãi các nhà độc tài kém mọn, Washington ngụ ở đỉnh của hệ thống triều cống hùng cường nhất từng được thiết lập xưa nay.

Trung Quốc là nước lớn và họ đáng sợ, đặc biệt đối với các nước láng giềng, nhưng sự hiện diện liên tục của Hoa Kỳ là lí do duy nhất và lớn nhất tại sao Trung Quốc sẽ phải chật vật tự khẳng định mình ở vai trò một bá cường trong khu vực. Bắc Kinh phủ nhận việc theo đuổi vị trí bá quyền, điều được họ xem như thuộc về sự nghiệp thực dân mà chỉ những ngoại bang gian ác mới theo đuổi. Không phải là người duy thực cực độ cũng hiểu vì sao Trung Quốc cần phải khao khát thống trị trong khu vực của họ, tựa như hồi thế kỉ 19 Hoa Kỳ tìm cách thống trị ở Tây bán cầu.[15]24* Bởi vì Trung Quốc cứ nói đến chuyện tạo lập một “cộng đồng với vận mệnh chung”, nên họ sẽ phải đấu tranh nhằm thuyết phục các đối tác của họ rằng điều nên làm là từ bỏ trật tự do Hoa Kỳ dẫn đầu để chọn trật tự của Trung Quốc. Chừng nào mà sức tàn phá kinh tế của Trung Quốc vẫn tiếp diễn – và điều đó không còn chắc chắn như trước đây nữa – lúc ấy tầm quan trọng trong khu vực của Trung Quốc sẽ càng đậm thêm. Nhưng tầm nhìn của Tập Cận Bình về một đế quốc Á châu có lẽ vẫn là một giấc mộng quá đỗi xa vời.

[3] “Caliphate” là một vùng thuộc Islam, đứng đầu là caliph, vốn được xem là người kế tục thiên sứ Muhammad – ND.

[4] “Dystopia” là một chốn tưởng tượng trong đó mọi sự đều tồi tệ đến cực độ; đối lập với utopia, một chốn không tưởng trong đó mọi sự đều hoàn mĩ – ND.

[5] Nguyên gốc 勿忘国耻: chớ quên nỗi nhục của đất nước – ND.

[6] Nguyên gốc 百年国耻: nỗi nhục trăm năm của đất nước – ND.

[7] Nguyên gốc: 中华民族的伟大复兴 (Trung Hoa dân tộc đích vĩ đại phục hưng) – ND.

[8] Nguyên gốc: 实现中华民族伟大复兴,必须坚持富国和强军相统一 (thực hiện Trung Hoa dân tộc vĩ đại phục hưng, tất tu kiên trì phú quốc hòa cường quân tương thống nhất) – ND.

[9] Nguyên gốc: 富国強军 – ND.

[10] Thái úy (太尉/defender-in-chief): chức võ quan cao nhất trong quân đội Trung Quốc thời xưa; ở đây có mối liên hệ giữa thời hiện đại với thời xưa, nhằm ngụ ý rằng cái tính chính danh (được nêu ra ngay trước đó) mà Ðảng Cộng sản Trung Quốc có được là một thứ xuyên suốt từ xưa đến nay – ND.

[11] Nguyên gốc bắt nguồn từ cụm “韬光养晦” (thao quang dưỡng hối), nghĩa là giữ kín đáo tài năng không cho người ta biết đến – ND.

[12] Nguyên gốc: 新型大国关系 (tân hình đại quốc quan hệ) – ND.

[13] Nguyên gốc: 周边外交 (chu biên ngoại giao) – ND.

[14] Nguyên gốc: 命运共同体 (mệnh vận cộng đồng thể/ community of shared destiny) – ND.

[15] Tây bán cầu (western hemisphere): một thuật ngữ địa chính trị, thường được xem có ranh giới từ kinh độ 200 Tây đến kinh độ 1600 Ðông – ND.