CHƯƠNG 1 “NHẤT ÐỚI, NHẤT LỘ”-Con đường Tơ lụa mới (“Vành đai và con đường”)-TÀI TRỢ CHO CON ÐƯỜNG TƠ LỤA MỚI
Tháng Mười Một năm 2014, bầu trời khói bụi thường thấy ở Bắc Kinh chuyển sang sắc lam rực rỡ. Không khí sạch được thiết kế để đáp ứng cuộc họp chính thức đầu tiên của Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương (APEC) ở Trung Quốc kể từ năm 2001. Với việc 20 lãnh đạo hàng đầu bay tới thủ đô Bắc Kinh, bao gồm Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama và Thủ tướng Nhật Abe Shinzō, chính quyền Trung Quốc kiên quyết chứng tỏ hết khả năng của mình. Các nhà máy ngừng hoạt động; các cửa hàng, trường học và các hãng đóng cửa; xe hơi được lệnh tránh các con đường; và cư dân được báo phải rời khỏi thành phố. Nông dân được dặn không nên dùng giường sưởi ấm bằng ống lò[16] – không theo sẽ bị xử lí theo pháp luật.1* Sau khi các phái đoàn rời đi và các nhà máy thép mở cửa trở lại, bầu trời quay về sắc xám quen thuộc. Nhưng cư dân Bắc Kinh yếm thế đã nặn ra một cách nói để miêu tả hiện tượng nhất thời này: “APEC lam” nhắc đến một thứ gì đó quá tốt đẹp đến mức không thể là thật.
Cuộc họp APEC năm 2014 là sự kiện quốc tế quan trọng nhất ở Bắc Kinh kể từ Thế vận hội 2008, và là cuộc họp lớn đầu tiên với giới lãnh đạo ngoại quốc mà Chủ tịch Tập Cận Bình làm chủ tọa. Nếu kì Thế vận hội Bắc Kinh là cơ hội để Trung Quốc chứng tỏ cho thế giới thấy họ đã đạt mức cường quốc toàn cầu thời hiện đại, thì diễn đàn APEC lại là cơ hội của Chủ tịch Tập Cận Bình để chứng tỏ rằng Trung Quốc cuối cùng cũng sẽ bắt đầu cư xử như một cường quốc. Ông đã không làm thất vọng, dễ dàng thể hiện được thần thái của một chính khách quốc tế và tự tin thương thảo với Tổng thống Obama. Ðáng chú ý là ông đã dùng diễn đàn này để ám chỉ những tham vọng to lớn về địa lí chiến lược (geostrategic) dành cho Trung Quốc, tuyên bố nhiều kế hoạch tăng cường đầu tư hải ngoại lên đến 1.250 tỉ đô-la cho thập niên sắp tới. Khi đặt Trung Quốc ở trọng tâm đường lối ngoại giao châu Á, ông đề xuất nhiều sáng kiến hòa hợp được với chính sách đối ngoại đặc trưng của chính quyền ông: Xây dựng một Con đường Tơ lụa mới.
Ðược sáng lập năm 1989, APEC được kì vọng sẽ bảo hộ mậu dịch và hội nhập kinh tế khu vực, nhưng họ có vẻ như không khác gì một nghị trường trên giấy tờ. Chủ tịch Tập Cận Bình nỗ lực đưa vào sinh khí cần thiết cho diễn đàn này bằng cách đề xuất ý tưởng tham vọng về một Khu vực Mậu dịch Tự do (Free Trade Area) cho Châu Á–Thái Bình Dương – về căn bản là phiên bản bao quát hơn của Hiệp định Ðối tác xuyên Thái Bình Dương (Trans-Pacific Partnership – TPP) do Hoa Kỳ bảo trợ, mà Trung Quốc rõ ràng không phải là một thành viên trong đấy. Ông còn thuyết phục các vị lãnh đạo đối ứng chấp thuận một kế hoạch mới, “Kế hoạch tổng thể kết nối APEC 2015 – 2025 (APEC Connectivity Blueprint 2015 – 2025)”, bao hàm việc xây dựng các con đường mới, các tuyến đường sắt, đường tàu biển băng qua châu Á và các quốc gia giáp Thái Bình Dương (Pacific Rim). Tập trình bày những ý tưởng này như một phần trong tầm nhìn lớn hơn dành cho tương lai. “Viễn cảnh phát triển của khu vực châu Á chúng ta dựa vào quyết định và hành động ta thực hiện hôm nay”, ông nói trước 1.500 doanh nhân tham dự diễn đàn. “Chúng ta có trách nhiệm đối với người dân khu vực này để tạo nên và thực hiện giấc mộng Châu Á – Thái Bình Dương.”2*
Trước Tập, không lãnh đạo Trung Quốc nào có dũng khí nói đến “giấc mộng châu Á – Thái Bình Dương” với ngụ ý dưới trướng quyền lãnh đạo của Trung Quốc. Theo truyền thống, Trung Quốc là tay chơi thụ động trong thế giới ngoại giao cấp cao, thường chuộng cách ẩn mình đằng sau câu thần chú “không can thiệp” vào sự vụ nước khác, thay vì muốn định hướng các sự kiện toàn cầu. Nhưng dưới thời Tập, Trung Quốc đang sẵn sàng đóng vai trò chủ động hơn về vấn đề biên giới, và sẵn sàng dùng các khoản tài trợ kinh tế khổng lồ để củng cố đường lối ngoại giao của họ. Chỉ hai tuần trước cuộc hội nghị APEC, Bắc Kinh đã tổ chức lễ khánh thành Ngân hàng Ðầu tư Cơ sở hạ tầng Châu Á (AIIB), ở đó 21 quốc gia đồng ý trở thành những thành viên sáng lập của tổ chức cho vay phát triển đa phương đầu tiên do Trung Quốc bảo trợ. Và ở chính hội nghị APEC, Tập Chủ tịch đã tuyên bố thiết lập Quỹ Con đường Tơ lụa trị giá 40 tỉ đô-la dành riêng cho việc tài trợ các dự án dọc theo Con đường Tơ lụa mới.
Việc sáng lập AIIB và Quỹ Con đường Tơ lụa là bằng chứng cho thấy Trung Quốc đang đẩy mạnh các tham vọng chiến lược ở châu Á. Chuyện này lần đầu tiên xuất hiện thật rõ ràng vào năm 2013, khi tân Bộ trưởng Ngoại giao Vương Nghị tuyên bố chính sách đối ngoại sẽ chuyển sự tập trung sang sân sau của Trung Quốc. Trong các nước láng giềng, Trung Quốc sẽ tìm cách tạo dựng một “cộng đồng chung vận mệnh” – một tầm nhìn không chỉ bao gồm việc hội nhập kinh tế ở quy mô lớn hơn được hậu thuẫn bằng việc bỏ ra/ đầu tư khoản tiền khổng lồ vào cơ sở hạ tầng, mà còn bao gồm việc bảo vệ lẫn nhau đối với các lợi ích quốc gia.3* Mục tiêu của Trung Quốc là dùng những khích lệ kinh tế để tạo dựng những mối giao hảo thân cận với các nước láng giềng, kéo họ vào gần hơn vòng tay của Trung Quốc. Ðể đổi lại việc cấp các tuyến đường và các tuyến điện năng, Trung Quốc kì vọng đối tác của họ tôn trọng những “lợi ích cốt lõi” của Trung Quốc, bao gồm yêu sách chủ quyền ở Biển Ðông. Ðây là điều Bắc Kinh muốn nói khi thực hiện lối ngoại giao “đôi bên cùng có lợi”.
Việc chuyển sang chính sách đối ngoại độc đoán hơn đã đánh dấu sự tuyệt giao về mặt căn bản với quá khứ. Kể từ chính sách “Cải cách và mở cửa” bắt đầu vào năm 1978, chính sách đối ngoại của Trung Quốc đã được củng cố bằng “lí luận Ðặng Tiểu Bình (Deng Xiaoping Theory)”, cho rằng ngoại giao phải phụng sự cho mục tiêu lớn hơn về phát triển trong nước. Về bản chất, điểm căn bản của điều này chính là hỗ trợ mô hình tăng trưởng xuất khẩu của Trung Quốc bằng cách thu hút đầu tư nước ngoài và quảng bá môi trường mậu dịch ngoại quốc ổn định. Ðặng đã đề ra châm ngôn nổi tiếng vào đầu thập niên 1990, khi ông thúc giục giới lãnh đạo Trung Quốc “bình tĩnh quan sát; vững yên trận địa; trầm tĩnh ứng phó, giấu mình chờ thời, biết giữ điều kém, quyết không đương đầu”.[17]4* Chiến lược này được nói tắt thành “thao quang dưỡng hối”, thường được dịch thành “giấu mình chờ thời”, nhưng nghĩa đen của nó là “ẩn sáng, dưỡng tối”.
Trước khi Tập tái khởi động chính sách đối ngoại, Trung Quốc nhìn chung hài lòng đứng ở rìa quốc tế. Các nhà lãnh đạo nước này đòi hỏi những bày tỏ tôn trọng từ phía quốc tế và nhanh chóng cáo buộc nhiều nước về việc “làm tổn thương xúc cảm của dân tộc Trung Hoa” khi họ cảm thấy không được đáp ứng đòi hỏi đó; nhưng họ hiếm khi tìm cách đương đầu.5* Thay vào đó họ tập trung vào ngoại giao kinh tế, thúc bách các thỏa thuận mậu dịch và ủng hộ những nỗ lực hải ngoại của các doanh nghiệp nhà nước ở lĩnh vực kĩ thuật và tài nguyên. Họ làm việc tích cực nhất với Hiệp hội các Quốc gia Ðông Nam Á (ASEAN), hi vọng làm giảm nỗi sợ hãi cho rằng Trung Quốc là mối đe dọa cạnh tranh đối với các nước láng giềng. Họ cố hết sức để trình hiện Trung Quốc như một cường quốc kinh tế có trách nhiệm: Quyết định không hạ giá đồng nhân dân tệ trong suốt thời kì khủng hoảng tài chính châu Á vào năm 1997 là điều giúp ổn định khu vực này, và Trung Quốc cung cấp hàng tỉ đô-la tín dụng cho các quốc gia Ðông Nam Á ngay sau giai đoạn suy thoái tài chính năm 2008.
Tuy vậy, với sức mạnh kinh tế đi kèm quyền thế địa chính trị, các chiến lược gia của chính sách đối ngoại Trung Quốc từ lâu đã tranh luận về việc một Trung Quốc đang dần hùng cường phải khẳng định chính mình ra sao trên vũ đài thế giới.6* Năm 2004, giới lãnh đạo Trung Quốc nhanh chóng bắt đầu bàn về sự “trỗi dậy hòa bình”, tìm cách biểu thị thực tế rằng Trung Quốc đang hưng khởi đồng thời trấn an thế giới rằng họ vẫn là một thế lực ôn hòa. Khi ý này được cho là quá khiêu khích đối với tai người nước ngoài, Trung Quốc đã thông qua một thuật ngữ nghe vô hại hơn “phát triển hòa bình”. Sau kì khủng hoảng kinh tế toàn cầu, người Trung Quốc càng kêu gọi thêm về một chính sách đối ngoại độc đoán hơn, khi sự yếu đuối của các nền kinh tế Hoa Kỳ và châu Âu được phơi bày. Tuy thế, sau một số dao động, chính quyền của Hồ Cẩm Ðào chính thức tiếp tục đi theo châm ngôn “ẩn mình chờ thời” của Ðặng. Tháng Chín năm 2011, chính phủ ban hành Sách trắng về Phát triển Hòa bình, nhắc lại rằng “nhiệm vụ trung tâm của công tác đối ngoại Trung Quốc là tạo hoàn cảnh quốc tế hòa bình và ổn định để phát triển quốc gia [Trung Quốc]”.7*
Những nguyên lí xưa cũ của chính sách đối ngoại bắt đầu tan rã sau quá trình chuyển tiếp lãnh đạo giai đoạn 2012 – 2013. Ở một hội nghị công tác đảng vào tháng Mười năm 2013 bàn riêng về ngoại giao khu vực, Tập Cận Bình đã có bài diễn thuyết với tiêu đề “Hãyýthức vềcộngđồng với vận mệnh chung bắt rễsâuxaởcácquốc gia láng giềng”.[18]8* Tiếp theo câu của Ðặng, ông phát biểu rằng việc bang giao ngoại quốc phải làm yên vững “những điều kiện tốt bên ngoài vì mục đích cải cách, phát triển và đạt ổn định của Trung Quốc”, nhưng thêm vào đó Trung Quốc cũng phải xúc tiến ý thức về “vận mệnh chung” ở châu Á. Ngầm bác bỏ lời khuyên của Ðặng cho việc ẩn mình, ông tuyên bố đường lối ngoại giao khu vực của Trung Quốc thay vào đó cần phải “phấn phát hữu vi”[19] – một thành ngữ thường được dịch sang tiếng Anh là “enthusiastic (nhiệt thành)” nhưng có thể được chuyển dịch tốt hơn thành “proactive (tích cực chủ động)”. Bộ trưởng Ngoại giao Vương Nghị đã dùng cụm từ tương tự để miêu tả hướng đi tổng quát của chính sách đối ngoại ở buổi họp báo đầu phiên Ðại hội Ðại biểu Nhân dân lần thứ 12 diễn ra vào tháng Ba năm 2014.9*
Vào tháng Mười Một năm đó, hai tuần sau hội nghị APEC, Tập chủ tọa một Hội nghị Công tác Trung ương hiếm hoi bàn về vấn đề Quan hệ Ðối ngoại. Ðây là kì hội nghị cấp cao đầu tiên kể từ năm 2006, giai đoạn mà một chủ tịch tiết chế là Hồ Cẩm Ðào đã kêu gọi Trung Quốc hãy chiếm lấy vị trí của mình trong một “thế giới hài hòa”. Tập trình ra một tầm nhìn cường ngạnh hơn: Trung Quốc phải tiến hành công tác “ngoại giao như một đại quốc”[20], theo lời của Tập, và củng cố vị thế lãnh đạo ở châu Á. Lặp lại lời của các lãnh đạo trước đó, ông nói rằng một môi trường an ninh ngoại quốc ôn hòa sẽ trao cho Trung Quốc “một thời kì cơ hội chiến lược”[21] để tập trung vào việc phát triển trong nước cho đến năm 2020. Nhưng lần đầu tiên ông ngụ ý rằng việc duy trì môi trường thuận lợi ít phụ thuộc vào vận may hơn mà phụ thuộc nhiều vào những nỗ lực ngoại giao của chính Trung Quốc. Cuối cùng, ông tạo mối liên kết tường minh giữa việc hưng khởi ở vai trò đại quốc với “Giấc mộng Trung Quốc” về cuộc phục hưng quốc gia.10*
Giải mã đường lối ngoại giao đang tiến triển nhanh của Trung Quốc dưới thời Tập Cận Bình là việc làm gay go: những nụ cười thường xuyên biến thành cơn hầm hè, đặc biệt ở Ðông Nam Á. Nhưng hai bài diễn thuyết của ông ở hội nghị công tác đã cho ta biết đường ranh giới để bắt đầu. Dưới biểu ngữ “Giấc mộng Trung Quốc”, Tập Cận Bình đang theo đuổi một chính sách đối ngoại mới mẻ độc đoán vốn sẽ ưu tiên vị thế lãnh đạo kinh tế của Trung Quốc ở châu Á. Ðồng thời, ông tìm kiếm một “loại hình mới cho mối quan hệ đại quốc”[22] với Hoa Kỳ, đòi hỏi Trung Quốc nên được đối xử bình đẳng. Những tham vọng này có ngụ ý đối với các định chế toàn cầu: Ở một phiên nghiên cứu của Cục Chính trị Trung Quốc về việc phát triển Khu vực Mậu dịch Tự do cho châu Á – Thái Bình Dương vào tháng Mười Hai năm 2014, Tập nói rằng Bắc Kinh phải “tham dự và dẫn dắt, làm cho tiếng nói Trung Quốc được nghe đến, và truyền thêm các yếu tố Trung Hoa vào luật lệ quốc tế”11*. Trung Quốc từ lâu đã thúc bách tiến hành một thế giới “đa cực”, nhưng Tập Chủ tịch là lãnh đạo Trung Quốc đầu tiên trong ít nhất hai thế hệ nay tìm cách khiến điều ấy xảy ra.
Tham vọng này được củng cố bằng uy lực kinh tế ngày càng tăng trưởng. Nền kinh tế của Trung Quốc có thể sẽ chậm lại, nhưng thậm chí mức tăng trưởng 5% thường niên cũng thêm được một lượng tương đương nền kinh tế tầm trung như Argentina vào tổng sản phẩm nội địa hàng năm. Trung Quốc đã chiếm gần nửa GDP châu Á, hiện nay đang là đối tác thương mại lớn nhất khu vực, và đang thách thức Nhật trong việc trở thành nhà đầu tư lớn nhất trong khu vực này. Bắc Kinh tin rằng các nguồn lực tài chính và năng lực kĩ thuật của họ sẽ chứng tỏ sức hút khôn cưỡng, đặc biệt ở những quốc gia thiếu khả năng tài chính và xây dựng cơ sở hạ tầng ở chính nước đó. Với Sáng kiến Vành đai và Con đường, Trung Quốc đang đung đưa một cách hiệu quả củ cà rốt kinh tế khổng lồ trước những nước láng giềng. Giới lãnh đạo Trung Quốc đánh giá rằng rất hiếm nước nào ở vị thế không cắn củ cà rốt này, đặc biệt những nhà nước yếu kém vốn không thể cung cấp các dịch vụ căn bản cho công dân nước đó.
Tuy vậy Trung Quốc sẽ chật vật để thuyết phục các nước láng giềng tiếp nhận trật tự khu vực mới với trung tâm ở Bắc Kinh, chính là vì những nước này sợ sức mạnh kinh tế khổng lồ của Trung Quốc. Không ai muốn trở thành chư hầu của Trung Quốc. Việc Bắc Kinh theo đuổi một “cộng đồng với vận mệnh chung” được toàn khu vực vừa xem như một mối đe dọa vừa xem như một cơ hội – đặc biệt ở vùng Biển Ðông. Ở đây gần như không ai hồ nghi rằng lối ngoại giao “đôi bên cùng có lợi” của Trung Quốc, một công thức được giới ngoại giao Trung Quốc lặp lại đến phát ngán, là lối ngoại giao được thiết kế để phục vụ trước tiên cho lợi ích của Trung Quốc. Thậm chí ở những nước có mối quan hệ hữu hảo với Trung Quốc, nỗi sợ quá lệ thuộc kinh tế là điều phổ biến. Tựa như bầu trời xanh mà các phái đoàn tận hưởng được trong suốt hội nghị APEC ở Bắc Kinh, những lời lẽ cao quý của Trung Quốc về sự thịnh vượng chung dường như quá tốt đẹp, đến mức chúng khó có thể là sự thật.
SÁNG KIẾN VÀNH ÐAI VÀ CON ÐƯỜNG
Trọng tâm của chính sách đối ngoại “tích cực chủ động” của Tập Cận Bình là Sáng kiến Vành đai và Con đường. Trải từ Biển Ðông băng qua vùng đại lục Á – Âu, đây là kế hoạch phát triển tham vọng nhất từng được hình thành. Lấy cảm hứng từ Con đường Tơ lụa cổ đại chạy từ Trung Quốc qua trung tâm châu Á đến châu Âu, kế hoạch này hình dung nên việc xây đường bộ, đường sắt và các hành lang công nghiệp băng qua những địa hình hoang vu nhất trên trái đất, và nối những vị trí này đến những cảng đã được nâng cấp ở châu Á, châu Phi, Trung Ðông và châu Âu. Bắc Kinh phát biểu rằng sáng kiến này sẽ tháo dỡ các hàng rào đầu tư, tạo nên nhiều con đường mới cho thương mại, cải tiến lĩnh vực hậu cần quốc tế, và gia trọng sự hội nhập tài chính ở khu vực. Kế hoạch này còn hùng hồn khẳng quyết rằng nó sẽ chấn hưng “hòa bình thế giới”.12*
Sáng kiến này tiến hành ở tình trạng lộn xộn do dùng nhiều tên gọi. Ông Tập Cận Bình ban đầu đề xuất xây dựng một “Vành đai Kinh tế Con đường Tơ lụa” – một tuyến đường bộ xuyên qua vùng trung tâm châu Á và Trung Ðông đến châu Âu – khi diễn thuyết ở Kazakhstan vào tháng Chín năm 2013.13* Một tháng sau, trong bài diễn thuyết trước Quốc hội Indonesia, ông đề xuất tạo nên một “Con đường Tơ lụa trên biển thế kỉ 21” – một mạng lưới đường biển xuyên qua Biển Ðông và Ấn Ðộ Dương.14* Ban đầu có tên Con đường Tơ lụa mới, kế hoạch này sau đó được gọi là “Nhất đới nhất lộ” (一带一路), nghe có vẻ bớt thô vụng ở tiếng Trung Quốc hơn ở tiếng Anh. Sau nhiều tranh luận nội bộ, giờ đây kế hoạch được chính thức dịch [sang tiếng Anh] thành “Belt and Road Initiative (Sáng kiến Vành đai và Con đường)”. Bắc Kinh cương quyết rằng đây không được gọi là “kế hoạch” hoặc “chiến lược”, hòng ngăn người khác diễn giải sáng kiến này như một quỷ kế nhằm xây dựng một đế quốc kinh tế khổng lồ. Trung Quốc cam quyết không sở hữu sáng kiến này, mà Trung Quốc cho là nó xoay quanh “lòng tin cậy lẫn nhau, bình đẳng, tính chất bao hàm và việc học hỏi lẫn nhau, hợp tác đôi bên cùng có lợi” – mặc dù về thực tế, dự án này phần nhiều thuộc về Trung Quốc.15*
Bắc Kinh khẳng định sáng kiến này sẽ chạy xuyên qua 67 nước, và truyền thông Trung Quốc đã công bố nhiều bản đồ với dụng ý biểu thị đường đi của sáng kiến. Thực tế, không có Vành đai hoặc Con đường nào được định ra rõ ràng: các công ty Trung Quốc sẽ giúp đặt nhiều đường bộ và đường sắt mới, liên kết chúng với các cảng mới, ở bất kì chỗ nào họ có thể tìm được đối tác sẵn lòng. Một số lộ trình, chẳng hạn các tuyến đường sắt chạy từ Trung Quốc ngang qua Kazakhstan và Nga đến châu Âu, đã tồn tại; những lộ trình khác đang trên bản vẽ và có thể không bao giờ rời khỏi được bản vẽ. Ví dụ, lộ trình tiềm năng ở phía Nam Vành đai Kinh tế Con đường Tơ lụa xuyên qua Iran và Thổ Nhĩ Kì có thể hoặc không thể băng qua Kyrgyzstan, và có thể hoặc không thể có các đường nhánh xuyên qua các quốc gia Iraq và Syria đang rối loạn. Tựa hồ như Con đường Tơ lụa cổ đại, Vành đai và Con đường sẽ hình thành một mạng lưới các lộ trình mậu dịch vốn chịu ảnh hưởng từ các nhu cầu cạnh tranh về địa lí, thương nghiệp và địa chính trị.
Sáng kiến này có động lực từ nhiều mục tiêu chung. Thoạt đầu, nó nhắm tới việc bảo vệ an ninh quốc gia. Trung Quốc muốn tạo mạng lưới về sự phụ thuộc kinh tế vốn sẽ củng cố vị thế lãnh đạo của họ trong khu vực, cho phép họ phòng vệ trước cơ cấu liên minh của Hoa Kỳ ở châu Á, và đa dạng hóa các nguồn cung ứng năng lượng. Bắc Kinh gần như không có bạn ở châu Á, nhưng họ lại nghiêm túc muốn giúp các nước láng giềng nếu những nước này cũng đáp lễ. Ðây là hành động rời bỏ quá khứ, lúc mà Bắc Kinh không tìm cách vun đắp những mối quan hệ ngoại giao thân cận, ngoại trừ với Bắc Triều Tiên và Myanmar.
Những động lực kinh tế cũng là điều quan trọng không kém. Bắc Kinh có hi vọng lớn lao rằng những nhà sản xuất thương phẩm của nhà nước, những công ty kĩ thuật và những nhà chế tạo hàng hóa sản xuất sẽ tìm được nguồn tăng trưởng mới và sinh lợi. Vành đai và Con đường sẽ cần đến hàng tỉ tấn thép và xi-măng, hàng trăm nghìn công nhân, hàng nghìn cần trục và máy đào, hàng tá con đập mới, các nhà máy điện cũng như các mạng lưới đường dây điện mới. Bắc Kinh xem sáng kiến này như là phao cứu sinh cho những công ty mắc nợ đang khốn đốn vì nhu cầu thấp ở quê nhà và đang hướng đến việc xuất khẩu năng suất dư thừa. Kế hoạch này là cú hích đầu tư hải ngoại lớn thứ nhì, tiếp theo sau chính sách “hướng ra bên ngoài (Going Out)” do Giang Trạch Dân phát động năm 1999. Khi đó mục tiêu này là để cho các doanh nghiệp nhà nước Trung Quốc có thể mua được năng lượng và các tài sản khai mỏ. Chính sách được cập nhật hiện nay có tầm rộng hơn và tham vọng hơn, bao gồm một yếu tố trong nước quan trọng: Bắc Kinh tính toán rằng việc kết nối tốt hơn sẽ giúp các khu vực giáp biên kém phát triển trở thành những vùng mậu dịch khả dĩ.
Ngoài ra, còn có những suy xét về tài chính. Tháng Ba năm 2015, Bắc Kinh phát hành một bản văn kiện chính sách có tiêu đề “Tầm nhìn và hành động về việc hợp tác xây dựng Vành đai Kinh tế Con đường Tơ lụa và Con đường Tơ lụa trên biển thế kỉ 21”.16* Ngoài việc thảo ra những kế hoạch cải tiến khả năng nối kết và tạo nhiều lộ trình mậu dịch mới trên đất liền và trên biển, họ còn kêu gọi hợp tác tài chính lớn hơn và kết hợp các thị trường xuyên biên giới, đề xuất dùng nhiều hơn đồng nhân dân tệ cho thỏa thuận mua bán. Ðiều này sẽ phục vụ cho tham vọng lâu dài muốn biến đồng nhân dân tệ thành đồng tiền quốc tế, chiếm được vị trí bên cạnh đồng đô-la Mỹ và euro. Ngoài ra, Bắc Kinh muốn tìm kiếm một kênh đầu tư có lợi hơn để tối đa hóa lợi ích của khoản dự trữ ngoại tệ khổng lồ, vốn sẽ trụ ở mức hơn 3.000 tỉ đô-la Mỹ năm 2016 ngay cả khi có đợt tháo chạy vốn quy mô lớn vào năm 2015. Thay vì đầu tư những khoản này vào phiếu nợ ngân khố Hoa Kỳ, sẽ hiệu quả hơn khi tài trợ cho các dự án cơ sở hạ tầng ngoại quốc với mức lãi suất 5-6% – đặc biệt nếu điều này cho thấy được lợi thế đối với các nhà xuất khẩu và các công ty xây dựng của Trung Quốc.
Mặc dù quá rộng và quá mơ hồ để đưa vào bản đồ lộ trình hoạt động, nhưng văn kiện chính sách Vành đai và Con đường là minh giải toàn diện nhất của Bắc Kinh về sáng kiến này. Về bản chất, nó trình bày tầm nhìn chiến lược nhằm biến Trung Quốc thành đầu tàu phát triển kinh tế chính yếu trên toàn cầu, bắt nguồn từ nhận thức rằng các lợi ích an ninh của Trung Quốc sẽ được phục vụ tốt nhất bằng cách ràng buộc các quốc gia khác vào mối quan hệ mậu dịch và đầu tư sít sao hơn nữa. “Trung Quốc sẵn lòng đảm nhận nhiều trách nhiệm và nghĩa vụ hơn trong khả năng và phạm vi tài chính của mình”, văn kiện này tuyên bố bằng ngôn ngữ ngoại giao cẩn trọng, tái đảm bảo rằng mục tiêu chính của họ là mang đến “phát triển cộng đồng” và “thịnh vượng chung”.17* Vào ngày phát hành văn kiện đó, Dương Khiết Trì, nhà ngoại giao cao cấp nhất Trung Quốc, đã nói với các quốc gia Ðông Nam Á rằng sáng kiến này “không hề là công cụ địa chính trị cho bất kì quốc gia nào”18*. Sau nhiều trở ngại về ngoại giao khắp thế giới, đặc biệt là với châu Phi, Bắc Kinh ý thức trong đau khổ rằng họ không được thế giới tin cậy.
Tuy vậy, ở quê nhà, đại tự sự ấy lại khác. Giới lãnh đạo tiếp tục lặp lại câu chuyện rằng Trung Quốc phải đóng vai trò lớn hơn trên thế giới nhằm tương xứng với uy lực kinh tế của họ, và rằng Trung Quốc sẽ không bị đưa đẩy vào chuyện này chuyện kia nữa. Gần như không ai hồ nghi rằng Tập Chủ tịch xem Vành đai và Con đường là bước đi thực tiễn hướng đến việc hiện thực hóa mục tiêu chiến lược về sự phục hưng quốc gia – “Giấc mộng Trung Quốc” – và do đó làm cho di sản chính trị của chính ông được yên vững. Ông được cho là đã chia quy trình cải cách Trung Quốc thành ba thời kì, mỗi thời kì kéo dài khoảng 30 năm. Trong thời kì đầu tiên, khởi sự bằng việc thành lập Cộng hòa Nhân dân vào năm 1949, Mao Trạch Ðông đã củng cố quyền lực của Ðảng Cộng sản và gia cường Trung Quốc sau nhiều năm chịu nhục nhã ở ngoại quốc. Trong thời kì thứ nhì, từ việc khởi sự “Cải cách và Khai phóng” năm 1978, Ðặng Tiểu Bình đã đưa Trung Quốc vào con đường trở thành đại cường quốc kinh tế. Và ở thời kì thứ ba, khởi sự bằng việc đăng quang của Tập ở cương vị đứng đầu đảng năm 2012, Trung Quốc cuối cùng sẽ chiếm được vị trí chính đáng của mình ở vai trò một cường quốc thế giới. Hồ Cẩm Ðào và Giang Trạch Dân chỉ là những cước chú lịch sử.19*
Tập khẳng định quyền sở hữu Sáng kiến Vành đai và Con đường, cho dù nhiều phần tư tưởng đằng sau nó không phải nguyên gốc của Trung Quốc. “Khác với miêu tả trong thần thoại Hi Lạp về Athena xuất hiện với hình hài đầy đủ từ đầu của Zeus, không nên xem đây như là sản phẩm trí óc của Tập Chủ tịch và những cố vấn thân cận của ông”, theo lời Christopher Johnson, Freeman Chair chuyên Nghiên cứu Trung Quốc thuộc Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS) ở Washington, DC.20* Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) đã tài trợ để tạo đường nối kết tốt hơn băng qua châu Á trong nhiều thập niên nay. Chẳng hạn, công tác về “chiếc cầu đất liền Á – Âu” từ Trung Quốc đến châu Âu đã khởi sự từ lâu trước khi Tập nhậm chức. Nhưng Tập Chủ tịch đã khôn khéo đưa nhiều phương án đã tồn tại hoặc đã hoạch định được trộn vào trong đại tự sự về “Giấc mộng Trung Quốc”, và làm cho Vành đai và Con đường trở thành những thành tố trọng yếu trên phương diện địa chính trị để ông có thể thúc đẩy việc gầy dựng một trật tự lấy Trung Quốc làm trung tâm ở châu Á.
NGÂN HÀNG ÐẦU TƯ CƠ SỞ HẠ TẦNG
CHÂU Á (AIIB)
Những tham vọng của Trung Quốc dựa trên sức mạnh kinh tế. Biểu tượng cường đại nhất của điều này là AIIB, vốn có mối liên kết khăng khít với Sáng kiến Vành đai và Con đường. Thực tế, Tập Cận Bình ban đầu đề xuất Trung Quốc nên thiết lập ngân hàng phát triển đa phương của riêng mình trong cùng bài diễn thuyết mà ông đã trình bày để tuyên bố các kế hoạch xây dựng Con đường Tơ lụa trên biển, ở Jakarta vào tháng Mười năm 2013. Sự thành công nhanh chóng của dự án mạo hiểm này đã làm mọi người ngạc nhiên, đặc biệt Bắc Kinh: chỉ trong 18 tháng, 57 quốc gia đã đồng thuận trở thành những thành viên sáng lập nên ngân hàng mới này. Những nước này bao gồm hầu hết các nước Á châu và nhiều nước Âu châu; thậm chí trong số đó có những nhà nước đang có mối quan hệ căng thẳng với Trung Quốc, như Philippines và Việt Nam. Khi các điều khoản thỏa thuận của AIIB có hiệu lực vào ngày 31 tháng Mười Hai năm 2015, hai nước vắng mặt đáng chú ý duy nhất khi đó là Hoa Kỳ và Nhật Bản.21*
“Ngân hàng Trung Quốc”, như cách gọi ban đầu từ các viên chức hay lo âu của ADB, có lẽ đã kiếm được nhiều tít báo hơn mọi tổ chức cho vay phát triển đa phương trong khu vực suốt bấy lâu nay.22* Ðối với chuyện này, Bắc Kinh gần như phải cảm ơn Washington: cả thế giới hẳn sẽ không chú ý đến nếu Hoa Kỳ không dại dột tìm cách thuyết phục những đồng minh của họ đừng gia nhập. Các viên chức Hoa Kỳ ngày nay khẳng định rằng họ không bao giờ thực sự vận động hành lang chống lại ngân hàng này, nhưng lời khẳng định ấy không thành thật. Hoa Kỳ đã đảm nhận một vị trí rõ ràng, và những nước như Úc, Hàn Quốc và Indonesia miễn cưỡng từ chối ngân hàng này. Nhưng khi Vương quốc Anh bất ngờ tuyên bố họ sẽ gia nhập, nhiều nước khác làm theo, bao gồm ba nền kinh tế lớn khác của châu Âu, cộng thêm Úc, Hàn Quốc và Indonesia. Thậm chí những đối thủ địa chính trị của Trung Quốc, như Ấn Ðộ, cũng quyết định rằng thật dại khi từ chối của dâng tận miệng thế này.
Nền tảng của AIIB phản ánh sự chuyển dời chiến thuật của Trung Quốc. Hơn ba thập niên qua, họ đã gia nhập hầu hết các tổ chức quốc tế lớn, và đôi khi còn thấy những tổ chức này thật hữu dụng – nhưng nhìn chung họ thích vận dụng sức mạnh kinh tế của mình trong những đàm phán song phương tại đó họ có sức ảnh hưởng hơn. Ở khắp châu Á, việc Trung Quốc sẵn lòng xây dựng và tài trợ cơ sở hạ tầng chính là để thu phục nhân tâm. Nhưng những nỗ lực này thường có tác động ngược lại, khi dân địa phương tức giận trước sự hiện diện của công nhân Trung Quốc hoặc lo sợ cho đường sinh nhai về kinh tế của họ. Thể thức song phương có những hạn chế của nó, vì những quốc gia nhỏ không muốn tự co mình lại thành nước phụ thuộc Trung Quốc. Do vậy, Bắc Kinh hiểu ra rằng họ chi tiền để đóng một vai trò ít phiền hà hơn trong phạm vi những tổ chức đa phương, như Ngân hàng Thế giới hoặc ADB.23*
Vấn đề lớn đối với Trung Quốc là họ phải chật vật để có được đủ ảnh hưởng trong những cơ quan do Hoa Kỳ bảo trợ, nhằm đáp ứng đầy đủ các mục đích của họ. Trung Quốc có 5% cho phần tỉ lệ về các quyền biểu quyết (voting right) bên trong Ngân hàng Quốc tế về Tái thiết và Phát triển (IBRD), một nhánh của Ngân hàng Thế giới chịu trách nhiệm về những khoản vay không ưu đãi (non-concessional loan). Phần của Hoa Kỳ là 15%, và toàn bộ 45% các phiếu bầu đều nằm trong tầm kiểm soát của Hoa Kỳ, Nhật và các nước châu Âu. Cho đến tháng 12 năm 2015, tỉ lệ biểu quyết của Trung Quốc ở Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) thậm chí còn nhỏ hơn với 3,8%; IMF đồng ý nâng phần này lên 6% năm 2010, nhưng việc thi hành này đã bị Ðảng Cộng hòa trong Quốc hội Hoa Kỳ đình lại. Thậm chí dưới hệ thống mới, Hoa Kỳ vẫn duy trì phần tỉ lệ ở mức 16,5%, phản ánh vị thế ưu trội của họ trong hệ thống kinh tế toàn cầu. Cuối cùng, ở ADB, Nhật và Hoa Kỳ đóng góp 31% tổng số cổ phiếu và kiểm soát 26% phiếu biểu quyết. Trong nhiều năm, Trung Quốc đã thúc đẩy để có được phần đại diện lớn hơn ở hội đồng quản trị của ADB và nhằm tăng mức nắm cổ phần lên 5%, nhưng họ đã bị Hoa Kỳ và Nhật ngăn chặn.
Năm 2013, Bắc Kinh cuối cùng đã hết kiên nhẫn. Thay vì bỏ công vô ích để tìm cách tăng mức đại diện trong những cơ quan hiện có, Trung Quốc lập một tổ chức cho riêng mình. Bằng cách đó, họ bắt chước được đối thủ của mình: Nhật sáng lập ADB năm 1966 để xúc tiến các lợi ích của chính mình trong khu vực, ban đầu bằng cách tài trợ cơ sở hạ tầng cho các đối tác thương mại. Ngày nay ADB nhấn mạnh việc giảm nghèo, nhưng họ vẫn duy trì một đường dẫn hữu dụng để truyền tư bản Nhật vào châu Á – đặc biệt khi Thủ tướng Abe khuyến khích các công ty Nhật giảm mức rủi ro ở Trung Quốc bằng cách đầu tư nơi khác. Chủ tịch người Nhật của ADB Takehiko Nakao đã công khai chào mừng AIIB, một cơ quan mà Trung Quốc bảo sẽ không can thiệp vào công việc của ADB24*. Sau rốt, ở châu Á có rất nhiều nhu cầu về cơ sở hạ tầng đến mức vẫn còn nhiều chỗ cho các nhà tài trợ khác. Nhưng, xét riêng, các viên chức ADB lo rằng chỉ cần nhờ vào những tiêu chuẩn thấp hơn, AIIB sẽ cạnh tranh để giành lấy cùng những dự án của ADB, và sẽ đe dọa vai trò của ADB ở cương vị “ngân hàng của châu Á”.
Washington thấy được một mối đe dọa còn lớn hơn. Họ sợ rằng Trung Quốc tìm cách cung cấp một giải pháp khác cho hệ thống tài chính phát triển toàn cầu mà Hoa Kỳ đang thống trị, một hệ thống vốn được thiết định ở Bretton Woods, và điều này có thể tái định hình kiến trúc kinh tế của châu Á. Ðây còn hơn cả chứng hoang tưởng: AIIB được hình thành chuyên biệt ở vai trò là một nhánh của đường lối ngoại giao về kinh tế của Trung Quốc. Bản văn sáng lập của Sáng kiến Vành đai và Con đường đã phát biểu rõ ràng rằng AIIB sẽ được dùng làm kênh hỗ trợ chính phủ.25* Dễ hiểu là Washington xem AIIB như đối thủ cạnh tranh tiềm năng đối với ADB và Ngân hàng Thế giới, và họ thực sự lo ngại về cam kết của AIIB trong việc theo sát các quy định về hoạt động cai quản ngân hàng, cho vay có trách nhiệm và về việc bảo vệ môi trường. Nhưng những toan tính nhằm hạ thấp giá trị một cơ quan vốn có thể cải thiện đời sống nhiều người khắp châu Á lại là toan tính nhỏ mọn và thiển cận. Thay vì cố gắng thuyết phục đồng minh không gia nhập một cơ quan mà họ không tin cậy, một đường lối ngoại giao sắc sảo hơn hẳn sẽ mở đường cho họ có thể gây được ảnh hưởng từ bên trong.26*
Tuy thế Washington đúng ở một điều, AIIB là một phần trong tính toán của Bắc Kinh nhằm sửa lại sự thiếu công bằng trong hệ thống Bretton Woods. Tại buổi lễ kí kết vào tháng Sáu năm 2015, Bộ trưởng Tài chính Trung Quốc khi đó là Lâu Kế Vĩ cho biết AIIB đại diện “một bước quan trọng về phía Trung Quốc nhằm thực hiện các trách nhiệm quốc tế ngày càng tăng của họ, và nhằm cải thiện và bổ sung trật tự quốc tế hiện hành”.27* Tháng tiếp theo chứng kiến sự thành lập của Ngân hàng Phát triển Mới (NDB), một ngân hàng phát triển toàn cầu được khối BRICS gồm năm quốc gia thiết lập – Brazil, Nga (Russia), Ấn Ðộ (India), Trung Quốc (China) và Nam Phi (South Africa) – nhằm “huy động các nguồn lực cho cơ sở hạ tầng và các dự án phát triển bền vững” khắp các nền kinh tế mới nổi.28* Ðặt trụ sở ở Thượng Hải, NDB được gọi là cơ quan chị em với AIIB. Cả hai ngân hàng này đều hoạt động trong cùng không gian với ADB và Ngân hàng Thế giới.
Do vậy không ngạc nhiên khi các bộ phận trong chính phủ Hoa Kỳ tin rằng Trung Quốc đang tìm cách thay thế kiến trúc kinh tế toàn cầu hiện có. Tuy thế quan điểm này đã ước tính thái quá tác động của việc Trung Quốc xây dựng cơ quan kinh tế: thay vì tìm cách xây dựng một hệ thống thay thế cho hệ thống tài chính phát triển do Hoa Kỳ bảo trợ, Trung Quốc lại nỗ lực cải biến và gia tăng hệ thống đó. Kim Lập Quần, vị chủ tịch tao nhã của AIIB và là người nói tiếng Anh thông thạo, cũng là cựu phó chủ tịch của ADB. Ông đã làm việc cật lực để trấn an những mối hoài nghi rằng AIIB sẽ không tìm cách lật đổ các nguyên lí của tài chính phát triển đa phương. Theo lời ông, ngân hàng sẽ “tinh giản, tinh khiết và xanh”: hiệu quả về mặt quản lí, không dung thứ tham nhũng và thân thiện với môi trường.29* Trang web của AIIB hứa hẹn ngân hàng sẽ thiết đặt “các chính sách mạnh mẽ về quản lí, trách nhiệm giải trình, thu mua tài chính và các khuôn khổ môi trường và xã hội”.30* Họ đang bận rộn tuyển mộ các tư vấn viên quốc tế nhằm giúp họ đạt được các mục tiêu này, trong đó có các viên chức ngoại giao cấp cao của phương Tây và các nhân viên thâm niên từ Ngân hàng Thế giới.
AIIB thành công trong việc thu hút nhiều cổ đông tức là quyền kiểm soát của Trung Quốc đối với ngân hàng này sẽ ở mức hạn chế. Trung Quốc dễ dàng dùng quyền lãnh đạo đáng kể của mình và là cổ đông lớn nhất AIIB, dựa trên số tiền góp 29,8 tỉ đô-la Mỹ. Ngoài ra, tỉ lệ về quyền biểu quyết của họ ở mức 26% cho phép họ có quyền phủ quyết hiệu quả, vì mức “đại đa số” 75% là mức cần thiết để đưa ra các quyết định quan trọng. Nhưng tỉ lệ này gần như chắc chắn sẽ giảm xuống khi thêm 30 nền kinh tế chuẩn bị gia nhập, với Hong Kong là nền kinh tế đi đầu danh sách. Với quá nhiều nước góp phần vào kết quả lập ngân hàng, AIIB phải tôn trọng các chuẩn mực cho vay quốc tế.
Ðảm bảo AIIB hoạt động tốt cũng là mối lợi lâu dài của Bắc Kinh. Họ biết rằng để xúc tiến mức ảnh hưởng của Trung Quốc cần họ phải đưa ra một khuôn mặt thân thiện hơn và đa phương hơn. Những bước đầu tiên của AIIB được xem là những cử chỉ hợp tác: ở ba trong số bốn dự án đầu, họ sẽ đóng góp thêm tiền cho các dự án đã được trù hoạch bởi Ngân hàng Thế giới, ADB và Ngân hàng Tái thiết và Phát triển Châu Âu. AIIB “sẽ bù vào và bổ sung cho những nỗ lực của các đối tác ngân hàng phát triển đa phương của chúng tôi”, Bộ trưởng Tài chính Lâu Kế Vĩ nói với những người tham gia kì họp thường niên đầu tiên của họ vào tháng Sáu năm 2016.31* Thay vì tối đa hóa giá trị đô-la của những hợp đồng dành cho các công ty của chính họ, Bắc Kinh chọn cách tối đa hóa thanh thế toàn cầu của Trung Quốc bằng cách biến AIIB thành một tổ chứ đa phương đích thực.32*
Dù trong trường hợp nào, AIIB cũng chỉ là vũ khí thứ yếu trong kho quân giới tài chính của Trung Quốc.33* Ngân hàng này sẽ giúp hỗ trợ các dự án dọc theo Vành đai và Con đường, cùng với những dự án khác; nhưng họ còn hoạch tính việc cho vay không quá 2 tỉ đô-la Mỹ mỗi năm trong năm năm đầu hoạt động – ít hơn nhiều so với các ngân hàng phát triển đa phương khác, và là con số nhỏ nhoi so với những khoản cho vay khổng lồ được thực hiện theo định kì bởi các ngân hàng lớn về chính sách của Trung Quốc. AIIB đã ủy quyền số vốn 100 tỉ đô-la Mỹ, nhưng số vốn góp luân chuyển của họ nhỏ hơn nhiều. Vốn điều lệ gần như lúc nào cũng vượt quá số vốn luân chuyển ở các ngân hàng phát triển đa phương, chủ yếu nhằm trấn an các cơ quan xếp hạng tín dụng (ratings agency) và những người mua trái phiếu rằng đang sẵn có số tiền mặt dự phòng. Ðiều này cho phép các ngân hàng phát triển vay được những khoản tiền lớn ở mức lãi suất rất thấp, mặc dù mức tỉ lệ kí quỹ của họ cũng rất thấp.
Tới năm 2020, AIIB sẽ có khoảng 20 tỉ đô-la Mỹ vốn dùng được, tương tự số vốn của ADB. Các ngân hàng phát triển đã thành danh – Ngân hàng Thế giới, ADB, Ngân hàng Phát triển Liên châu Hoa Kỳ (Inter-American Development Bank) và Ngân hàng Phát triển Châu Phi – đã chi những khoản tiền tương đương 40 – 50% vốn sở hữu của họ vào năm 2014. Ngân hàng Phát triển Mỹ Latinh (CAF), một ngân hàng mới lập có cùng một số đặc điểm giống AIIB, đã chi khoản tiền ấn tượng lên đến 70%. Nếu AIIB và NDB chi số tiền hợp lí ở mức 45 – 70% vốn sở hữu, hai ngân hàng này sẽ cùng nhau cho vay được tới 15 – 20 tỉ đô-la Mỹ mỗi năm cho đến đầu thập niên 2020 – ở tầm mức cho vay của chi nhánh không ưu đãi thuộc Ngân hàng Thế giới năm 2014, và nhiều gấp hai đến ba lần so với ADB. Giả định rằng các khoản chi thường niên ở tất cả các ngân hàng phát triển đa phương khác tăng 10% từ lúc này đến thời điểm 2020, hai ngân hàng mới do Trung Quốc hậu thuẫn có thể chiếm tới một phần tư số cho vay phát triển không ưu đãi của các bên đa phương thực hiện. Ðây là con số đáng kể, nhưng khó lòng gây rung chuyển được.
Một nguồn vốn khác sẽ đến từ Quỹ Con đường Tơ lụa, phần lớn được tài trợ từ nguồn dự trữ ngoại hối của Trung Quốc. Ðây là quỹ vốn riêng được thiết lập chuyên biệt nhằm cung cấp phần tài trợ ổn định cho các dự án Vành đai và Con đường. Nhưng giống như AIIB, có cách biệt đáng kể giữa vốn điều lệ 40 tỉ đô-la và vốn góp 10 tỉ đô-la. Cho dù tới năm 2020 Quỹ Con đường Tơ lụa đầu tư tất cả số tiền sẵn có, họ cũng sẽ chỉ tích được số tiền 2 tỉ đô-la mỗi năm. Một nguồn tài trợ có tiềm năng lớn hơn nhiều là các ngân hàng thương mại của Trung Quốc. Ngân hàng Trung Quốc (Bank of China) cho biết họ sẽ cho vay 100 tỉ đô-la trong khoảng thời gian 2016 – 2018 cho các dự án Vành đai và Con đường, còn Ngân hàng CITIC cam kết số tiền cho vay tổng cộng 113 tỉ đô-la trong một thời hạn chưa xác định. Nhưng những hứa hẹn này nên được suy xét kĩ càng, do bất kì khoản cho vay nào được thực hiện đối với các công ty có lợi ích hải ngoại đều có thể bị dán nhãn “Vành đai và Con đường” do các cơ quan hành pháp có hiểu biết thực hiện nhằm gây ấn tượng đối với các ông bà chủ của họ trong chính trường.
Thay vào đó, nguồn tiền thực tế để hỗ trợ cho các tham vọng của Trung Quốc ở hải ngoại sẽ đến từ các ngân hàng chính sách (policy bank) lớn, Ngân hàng Phát triển Quốc gia Trung Quốc (CDB) và Ngân hàng Xuất nhập khẩu Trung Quốc. Nhiệm vụ ban đầu của CDB là hỗ trợ cơ sở hạ tầng nội địa, nhưng kể từ năm 2008 họ còn tài trợ cho những phi vụ thu mua nguồn tài nguyên ngoại quốc của các công ty quốc doanh. Ngoài việc tài trợ cho Trung Quốc tiến công vào khắp châu Phi, CDB còn giúp bôi trơn các giao dịch lớn cấp nhà nước về dầu với Venezuela, Nga và Brazil. Danh mục các khoản cho vay quốc tế của họ tăng từ gần con số không năm 2007 lên đến 187 tỉ đô-la năm 2013, mặc dù việc cho vay ròng (net lending) của họ đã giảm xuống một chút vào năm 2014.34* Các bài tường thuật báo chí Trung Quốc đưa ra ý rằng CDB đã được chỉ đạo tập trung nhiều hơn vào việc phát triển nội địa, và thật khó để biết họ sẽ có bao nhiêu tiền cho mục đích hỗ trợ những phi vụ phiêu lưu ở ngoại quốc. Nhưng mức cho vay ròng quốc tế bình quân hàng năm của họ đã vượt qua bất kì ngân hàng phát triển đa phương nào trong giai đoạn 2008 – 2014.
Ðiều đó đã nhường chỗ cho một “quái thú” thực sự lớn của đường lối ngoại giao về kinh tế: Ngân hàng Xuất nhập khẩu Trung Quốc (Ngân hàng XNK). Theo truyền thống họ là nhà cung ứng tín dụng thương mại để xúc tiến việc xuất nhập khẩu, kể từ năm 2010 Ngân hàng XNK đã trở thành nhà tài trợ trọng yếu ở hải ngoại. Năm 2014, họ chi khoản tiền 151 tỉ đô-la, tương đương toàn bộ GDP của Bangladesh. Sổ sách kế toán của họ khá mờ mịt, nhưng vào năm 2014 tổng các khoản chi tiêu phi thương mại của họ lên đến 80 tỉ đô-la – nhiều hơn mức cho vay gộp lại của tất cả bảy ngân hàng phát triển đa phương lớn. Một phần trong khoản này được tiêu ở Trung Quốc theo hình thức các khoản cho vay đối với các hãng kĩ thuật và các công ty vật liệu chuyên bán hàng hóa và dịch vụ ra nước ngoài, nhưng Ngân hàng XNK có lẽ được xếp vào hàng ngũ nhà tài trợ đơn lẻ lớn nhất thế giới cho các dự án phát triển hải ngoại. Ðóng góp của Ngân hàng XNK đối với những kế hoạch phát triển quốc tế của Trung Quốc, bao gồm dự án Vành đai và Con đường, có lẽ đã vượt qua phần đóng góp mà AIIB và NDB có thể sẽ thực hiện được thậm chí vào một thập niên sau kể từ bây giờ.
Tóm lại, sức mạnh tài chính của Trung Quốc thực sự ngự ở các ngân hàng chính sách của họ, vốn không hoạt động trên cơ sở đa phương. Họ sẵn lòng hỗ trợ các dự án, như các trạm điện năng đốt than, vốn là những dự án mà các ngân hàng phát triển đa phương sẽ không đụng tới. Nhưng quy mô tương đối khiêm nhường của AIIB và NDB do Trung Quốc dẫn dắt đã phủ nhận nỗi sợ của Hoa Kỳ rằng Trung Quốc đang xây dựng một phương án khả tín thay thế cho các đoàn thể thuộc hệ thống Bretton Woods. Ðiểm nổi bật chính là việc Trung Quốc có nhiều tiền để hỗ trợ cho đường lối ngoại giao cơ sở hạ tầng của họ, cho dù AIIB chỉ là nguồn thứ yếu.
CUỘC CHẠY ÐUA VŨ TRANG VỀ CƠ SỞ HẠ TẦNG CỦA CHÂU Á
Mặc dù e ngại phải chịu lệ thuộc kinh tế và sợ phạm vi ảnh hưởng đang tăng lên của Trung Quốc, nhưng các quốc gia Á châu nhìn chung đã chào đón lời hứa hẹn đầu tư vào cơ sở hạ tầng vốn đang rất cần thiết. Phần châu Á phát triển đã có những cơ sở hạ tầng thuộc hàng tốt nhất thế giới, nhưng những nước nghèo ở châu lục này lại có những cơ sở hạ tầng thuộc hàng tệ nhất. Lào, Campuchia, Mông Cổ, Kyrgyzstan, Pakistan, Tajikisan, Bangladesh, Nepal, Ðông Timor và Myanmar đều xếp vào hàng bốn mươi quốc gia chót bảng về chất lượng cơ sở hạ tầng, nằm cùng hạng với những nước ở khu vực châu Phi hạ Sahara, căn cứ theo đánh giá của Diễn đàn Kinh tế Thế giới. Tất cả những nước đó đều ở dưới mức Ấn Ðộ, một nước vốn có những khiếm khuyết rất lớn về cơ sở hạ tầng. Ở những khu vực nghèo túng này của châu Á, những con đường đổ nát bị những cơn mưa mùa hè cuốn trôi, điện năng chắp vá, và tín hiệu điện thoại di động thường không có.35*
Logic của Sáng kiến Vành đai và Con đường dựa trên chính trải nghiệm của Trung Quốc rằng việc đầu tư vào cơ sở hạ tầng sẽ giúp xúc tiến tăng trưởng kinh tế và giảm cảnh bần cùng. Thách thức lớn nhất nằm ở những vùng trong đất liền cách xa các cảng khẩu, như khu Trung Á tứ bề đất liền bao bọc. Thậm chí ở những vùng duyên hải, sự tăng trưởng nhanh về kinh tế và dân số đã tạo áp lực khổng lồ lên cơ sở hạ tầng hiện có, đặc biệt về vận tải và năng lượng. Một nghiên cứu được trích dẫn thường xuyên của ADB đã ước tính rằng 8 nghìn tỉ đô-la đầu tư vào cơ sở hạ tầng mới trong một thập niên đến năm 2020 sẽ tạo ra nguồn thu nhập thực khoảng 13 nghìn tỉ đô-la.36* Với mức độ hào phóng của Trung Quốc, quy mô đầu tư này chỉ là chuyện viển vông. Nhưng ADB đang có cơ sở vững chãi khi họ kết luận rằng “việc xây đường bộ, đường sắt, cầu, trạm điện và các đường ống khắp khu vực nên được ưu tiên cho các nhà lập chính sách của khu vực”.
Không nơi đâu mà thực tế này hiện rõ ra hơn Campuchia, nước nghèo nhất Ðông Nam Á xét trên cơ sở mỗi đầu người (per capita). Ở đây Trung Quốc và Nhật đều dấn vào cuộc chiến tài trợ cơ sở hạ tầng, được vũ trang bằng sổ chi phiếu (chequebook) và thiết bị xây dựng.37* Ở thủ đô Phnom Penh, hai cây cầu sóng đôi cao vút nằm trên con sông nhánh của dòng Mekong hùng vĩ. Cây cầu đầu tiên xây năm 1966 như một món quà của người Nhật. Năm 2014, một kết cấu song song được khai trương, đây là thành quả của Tập đoàn Cầu đường Trung Quốc (China Bridge and Road Corporation)[23] với khoản vay mềm từ Ngân hàng XNK. Khi Trung Quốc dựng nên Sáng kiến Vành đai và Con đường, Nhật và những đồng minh đa phương của họ phản ứng bằng cách bơm thêm nguồn tài trợ phát triển của chính họ. Vào tháng Tư năm 2015, một cây cầu mới ngoạn mục đã mở ra 60km xuôi dòng từ Phnom Penh – do Nhật xây dựng và tài trợ, với sự hỗ trợ của ADB.
Trung Quốc chắc chắn sẽ phản ứng sớm. Nhật đã đầu tư 56 tỉ đô-la ở các nước ASEAN trong giai đoạn 2012 – 2013, hơn gấp đôi con số 22 tỉ đô-la của Trung Quốc. Các thành viên EU còn đầu tư nhiều hơn, với mức 75 tỉ đô-la. Nhưng ở một số nước Á châu nhất định, bao gồm Campuchia, Trung Quốc tới nay đã là nhà đầu tư ngoại quốc lớn nhất. Trong tầm hơn một thập niên tới, khi Sáng kiến Vành đai và Con đường có được đà chạy, Bắc Kinh hi vọng tầm ảnh hưởng của họ sẽ lan rộng. Ðể đạt mục đích này, họ cũng tăng cường viện trợ – các khoản trợ cấp và cho vay được thực hiện ở mức lãi suất tối thiểu. Ở Ðông Nam Á, Nhật là nhà quyên trợ phóng khoáng nhất, xem viện trợ như là một phương tiện trọng yếu nhằm duy trì phạm vi ảnh hưởng trong khu vực. Trung Quốc vẫn còn tụt sau một khoảng, nhưng họ đang nhanh chóng tăng cường mức đóng góp của mình. Năm 2013, họ chi tiêu 7 tỉ đô-la cho công tác viện trợ toàn cầu, xếp thứ sáu, theo số liệu của OECD (Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế).38*
Lo lắng trước động thái phô trương uy quyền về tài chính của Trung Quốc, Tokyo đã tăng tốc cho các hoạt động tương tự. “Kế hoạch Hợp tác Phát triển (Development Cooperation Charter)”, công bố vào tháng Hai năm 2015, tuyên bố rằng viện trợ phải được nhắm đến việc bảo vệ quốc lợi của Nhật. Lần đầu tiên họ cũng phải tìm cách thiết lập nên nền “pháp trị (rule of law)” và “dân chủ hóa (democratization)”.39* Tiếp theo bản kế hoạch này là bản tường trình về viện trợ ngoại quốc, trong đó tuyên bố rõ rằng Nhật cần phải tạo dựng những mối ràng buộc mạnh mẽ hơn với ASEAN để bảo đảm an ninh quốc gia khi đối diện với mức ảnh hưởng ngày càng tăng trong khu vực của Trung Quốc.40* Cuối cùng, vào tháng Năm năm 2015, Thủ tướng Abe Shinzō thông cáo rằng Nhật sẽ cung ứng số tiền khổng lồ 110 tỉ đô-la trong hơn năm năm cho các dự án cơ sở hạ tầng “chất lượng cao” ở châu Á – một phản hồi mang tính phê bình trực diện đối với việc thiết lập AIIB, một tổ chức mà giới phê bình sợ rằng sẽ tài trợ cho việc xây dựng bất minh của Trung Quốc.41* Một nửa nguồn quỹ của Nhật sẽ được chi tiêu theo thể thức song phương, và một nửa để cộng tác với ADB.
Hứa hẹn của Nhật cho việc cung cấp cơ sở hạ tầng “chất lượng cao” không phải là lời huênh hoang vu vơ. Cách Phnom Penh một giờ về phía Ðông, tọa lạc trên con đường cao tốc tấp nập đến Thành phố Hồ Chí Minh, cây cầu Neak Loeung tráng lệ đã cho thấy cuộc chiến tài chính giữa Trung Quốc và Nhật có thể làm lợi cho khu vực Á châu kém phát triển. Lướt bên trên dòng Mekong, công trình dài 2km này được mở ra chỉ sáu tháng sau khi Trung Quốc xây dựng cây cầu khiêm nhường hơn ở thủ đô Campuchia. Ðược xây dựng bằng khoản tài trợ 130 triệu đô-la Mỹ từ Nhật, cây cầu đã loại bỏ tuyến chuyên chở bằng phà mà trước đó đã tạo nên thế thắt cổ chai cho dòng xe cộ lưu chuyển giữa hai thành phố. Vào những ngày tấp nập, các loại xe phải xếp hàng đến tận bảy hoặc tám giờ, hơn gấp đôi thời giờ di chuyển trên đường. ADB xem cây cầu này là đường liên kết cần yếu trong việc tạo lập một “Hành lang kinh tế phía Nam” nằm giữa Thái Lan và Việt Nam – một khu vực then chốt trong chương trình phát triển của Tiểu vùng Mekong mở rộng (Greater Mekong Subregion).42*
Cuộc cạnh tranh giữa Trung Quốc và Nhật đang lan khắp Ðông Nam Á. Ở Hà Nội, cách Phnom Penh 1.500km về phía Bắc, Công ty Ðường sắt Trung Quốc (China Railway Group)[24] đang xây dựng một phần hệ thống đường sắt nội ô của thành phố. Cả Trung Quốc và Nhật đang giúp tài trợ cho dự án này. Thủ đô của Việt Nam là nơi đã có một nhà ga sân bay trị giá gần 1 tỉ đô-la Mỹ mới xây bóng loáng, được nối kết với khu đô thị nhờ đường cao tốc mượt mà sáu làn xe và cây cầu dài 9 km bắc qua sông Hồng – toàn bộ được xây dựng nhờ một phần viện trợ của Nhật. Ðối với một đất nước ở mức phát triển hãy còn thấp như Việt Nam, chất lượng cơ sở hạ tầng ở Hà Nội là điều làm người ta choáng váng.
Ở Việt Nam, Campuchia và các nước khác, giới lãnh đạo trong khu vực đều mong muốn vay tiền với lãi suất thấp. Vào tháng Năm năm 2015, khi nói chuyện tại hội nghị “Tương lai ở châu Á” diễn ra ở Tokyo, Bộ trưởng Thương mại của Campuchia đã khẩn khoản Ngân hàng Thế giới và ADB không “trừng phạt” 43*nước của ông vì đã gia nhập AIIB. “Tiền đến từ đâu nào có quan trọng gì”, Bộ trưởng Sun Chanthol giải thích: “Chúng tôi cần tiền để cấp chi phí cho cơ sở hạ tầng nhằm cải thiện tính nối kết”. Trở lại Phnom Penh, một trong những cố vấn của ông đã nói thẳng thừng hơn: “Chúng tôi cần trạm điện năng và quốc lộ”, theo lời tôi nghe được từ Tiến sĩ Sok Siphana, người dẫn đầu những cuộc thương thảo để Campuchia tham gia Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO): “Việc này phần lớn đến từ hai nơi: Trung Quốc và Nhật. Những nơi còn lại – Liên hợp quốc, Ngân hàng Thế giới, ADB – đều chỉ là trò cười.”44*
Tuy vậy, có nhiều dấu hiệu cho thấy tham vọng của Trung Quốc sẽ kích động những nhà cho vay đa phương truyền thống. Năm 2015, sau khi AIIB được thiết lập, Ngân hàng Thế giới chào mời Indonesia những khoản cho vay mới trị giá 11 tỉ đô-la để đầu tư vào các dự án cơ sở hạ tầng. Trong khi đó, ADB mở rộng thêm 50% quy mô cho vay (lending capacity). “AIIB là phi vụ lớn đối với Campuchia”, theo lời Tiến sĩ Sok cho biết. “Cạnh tranh là điều tốt, vì giờ chúng tôi có thể đi dò giá”. Ông nói thêm rằng Campuchia chuộng việc vay từ tổ chức đa phương như AIIB hơn là theo một nền tảng song phương: “Ðiều đó tốt hơn vì chúng tôi sẽ không nợ một quốc gia đơn lẻ nào”.
Chuyện AIIB là địch thủ hay đối tác đối với Ngân hàng Thế giới và ADB vẫn là chuyện chưa biết được. Nhưng họ đã thành công trong việc mang hũ tiền mới đến đặt lên bàn và kích khởi phản ứng tích cực từ Nhật và các tổ chức cho vay đa phương khác. Cộng thêm những khoản quỹ lớn hơn được hứa hẹn từ các ngân hàng chính sách của Trung Quốc nhằm hỗ trợ Sáng kiến Vành đai và Con đường, có vẻ như châu Á đang sắp sửa trải qua một đợt bùng nổ cơ sở hạ tầng vốn chưa từng có tiền lệ.
Ðiều bất định hệ trọng duy nhất là liệu tất cả những nhà tài trợ này có tìm được các dự án sinh lợi không. Các chuyên gia trong lĩnh vực tài chính phát triển c