← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 4 MƠ VỀ CALIFORNIA[40]-LÀM THẾ NÀO TRUNG QUỐC “ÐÁNH MẤT” MYANMAR

Vào cuối năm 2012, một tin nhắn văn bản nặc danh lan rộng khắp Myanmar, trước đó có tên là Miến Ðiện (Burma).1* “Trung Quốc cút đi”, tin nhắn ghi như thế. “Chúng tôi không sợ mấy người”.2* Cuộc phản kháng tầm thấp này tiếp theo sau một chuỗi những cuộc biểu tình chống Trung Quốc nổ ra sau khi chính phủ quân phiệt ở Myanmar, vốn đã cai trị gần năm thập niên, tự giải tán vào năm 2011. Các mục tiêu trọng yếu là những đầu tư của các công ty nhà nước Trung Quốc ở một con đập khổng lồ, một mỏ đồng, và hai đường ống dẫn dầu và khí đốt. Những công ty đó bị cáo buộc không đền bù thỏa đáng cho nông dân vì làm họ mất đất, hủy hoại môi trường, và cướp đoạt tài nguyên thiên nhiên ở nước này. Mối quan hệ pauk-paw[41]từng được chào đón nhiệt liệt của Trung Quốc đối với Myanmar, dựa trên tình cảm “anh em” giữa hai nhà nước, lúc này đang bắt đầu vỡ vụn.3*

Cửa ngõ vào vịnh Bengal

Trong hai thập niên, Trung Quốc là bạn duy nhất của quốc gia bên lề này. Bắc Kinh đã cung cấp phần lớn lượng đầu tư ngoại quốc và lượng vũ khí nhập khẩu, đứng sau chính phủ quân phiệt ở Myanmar trong khi phương Tây trừng phạt nước này bằng những lệnh chế tài kinh tế và tài chính. Bắc Kinh liên tục bảo vệ quốc gia phụ thuộc của họ trước những chỉ trích quốc tế ở Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, y như họ đã từng bảo vệ chế độ của Mahinda Rajapaksa ở Sri Lanka. Tuy vậy sau cuộc tổng tuyển cử năm 2010, khi chế độ quân phiệt bắt đầu thực hiện một loạt những cải tổ theo hướng tự do hơn, mối quan hệ kia nhanh chóng trở nên “chua cay”. Việc Myanmar có sự chuyển tiếp bất thần và đáng kể sang dân chủ đã mang lại cho người dân nhiều quyền tự do biểu đạt hơn, phóng thích một làn sóng chủ nghĩa quốc gia và cảm thức chống Trung Quốc trong dân chúng ở khắp vùng đất này. Háo hức nới lỏng sự phụ thuộc vào Trung Quốc, chính phủ mới theo đường lối giống dân sự của Myanmar đã quay lưng lại Bắc Kinh để tìm kiếm những mối bang giao tốt đẹp hơn với Hoa Kỳ và phương Tây. Khi Tổng thống mới treo lại công trình xây đập Myitsone trị giá 3,6 tỉ đô-la ở phía Bắc nước này, giới phân tích Trung Quốc bắt đầu bàn công khai về việc “đánh mất Myanmar”.4*

Lúc ấy, Trung Quốc sợ rằng đồng minh cũ của họ sẽ rơi vào vòng tay của Hoa Kỳ. Ðối với giới phân tích ở Bắc Kinh, những chuyến công du của ngoại trưởng Hillary Clinton năm 2011 và Tổng thống Obama năm 2012 đã xác nhận việc Hoa Kỳ “xoay trục” về phía châu Á, một sáng kiến mới mẻ dưới thời chính quyền mới của Ðảng Dân chủ Hoa Kỳ, và sáng kiến này được thiết kế nhằm khắc chế Trung Quốc lại trong khu vực sân sau của chính họ.5*Một số người còn lập luận rằng sự chuyển tiếp của Myanmar từ chế độ độc tài quân phiệt sang chế độ dân chủ mới chớm thực ra là một mưu kế nhằm giảm bớt tầm ảnh hưởng quá cỡ của Trung Quốc. Chuyện này có chút sự thật trong đó: Giới tướng lĩnh của Myanmar không còn muốn bị trói buộc vào Bắc Kinh. Nhưng lí do hệ trọng hơn cả của họ trong việc khởi xướng quá trình cải tổ là để cứu lấy chính bản thân ở quê nhà, chứ không phải tỏ ra thân thiện với Washington. Dù lí do nào đi nữa, Trung Quốc cũng đã mất đi vị thế đặc quyền của mình ngay khi họ đang thận trọng tiến gần hơn đến việc xây dựng một tuyến chuyển tiếp mới đầy hệ trọng chạy từ phía Tây Nam Trung Quốc đến vịnh Bengal – một tham vọng ấp ủ từ lâu nhằm tạo ra một bờ biển đại lí ở phía Tây và biến Myanmar thành một “California của Trung Quốc”.6*

Ngày nay, mối quan hệ giữa Bắc Kinh với chính phủ Myanmar ở Naypidaw vẫn còn đầy lạnh nhạt – tuy thế tầm quan trọng địa chiến lược của Myanmar đối với Trung Quốc vẫn chưa suy giảm.7* Ðiều đó đặt Bắc Kinh trước một vấn đề to lớn, tiếp theo sau thắng lợi bầu cử áp đảo của đảng Liên minh Quốc gia vì Dân chủ (National League for Democracy – NLD), vốn mang lại quyền thế cho chính quyền dân sự hoàn chỉnh đầu tiên của nước này trong 15 năm. Nếu những mối bang giao lạnh lùng có thể hình thành dưới một chính phủ có các lãnh đạo là các cựu sĩ quan quân đội mà Bắc Kinh trước đây đã cộng tác khắng khít suốt hai thập niên, thì làm sao Bắc Kinh có thể trông mong chuyện lấy lại được tầm ảnh hưởng với một chính quyền do Aung San Suu Kyi lãnh đạo, một nhà hoạt động dân chủ trứ danh thế giới?

Trước ngày bầu cử, tờ Hoàn cầu Thời báo của Trung Quốc đã phát đi lời cảnh báo: “Không nhà quan sát nào xét đến việc Myanmar sẽ hoàn toàn ngả về phía Hoa Kỳ, do một động thái thiếu suy nghĩ như thế sẽ làm hủy hoại vùng không gian chiến lược và nguồn tài nguyên mà họ có thể thu được từ các chính sách đầy hòa khí của Trung Quốc”, tờ này đã viết như thế trong một bài xã luận thẳng thừng. Những ràng buộc của Myanmar với Trung Quốc, bài viết nói thêm, trước đó đã chuyển từ “đặc biệt sang bình thường”.8* Tờ Hoàn cầu Thời báo là tờ báo “chị em” với tờ Nhân dân Nhật báo, cơ quan ngôn luận của Ðảng Cộng sản Trung Quốc. Tờ này đậm tính quốc gia chủ nghĩa và thích rước lấy những thứ gây tranh cãi, nhưng họ không đại diện cho quan điểm chính thức. Dẫu vậy, Bắc Kinh cho phép họ thủ vai “cảnh sát bất lương” trong thế giới ngoại giao nhạt nhẽo của Trung Quốc, nói những điều mà viên chức ngoại giao kiệm lời không thể nói. Trong cuộc phỏng vấn với Tân Hoa xã sau chiến thắng của mình, Aung San Suu Kyi đáp lại bằng những lời thẳng thắn. Bà bảo với thông tấn xã chính thức của Trung Quốc, chính phủ của bà sẽ tiếp dụng một chính sách ngoại giao thân thiện với tất cả các nước, kể cả Trung Quốc. Tán dương Sáng kiến Vành đai và Con đường của Tập Cận Bình, bà nói thêm rằng Myanmar sẽ chào đón các khoản đầu tư của Trung Quốc.9*

Ðiều đó thực tế vận hành ra sao sẽ tùy thuộc vào nhiều yếu tố, đặc biệt là sự sẵn lòng của dân chúng Myanmar trong việc chấp nhận sự hiện diện của Trung Quốc và các công ty kĩ thuật của nước này. Vì khi ngôi sao Trung Quốc đang lên cao ở khu vực Ðông Nam Á, cảm thức đề kháng Trung Quốc lại càng sâu sắc hơn. Chính phủ nước này lo rằng Myanmar sẽ trở thành một “vệ tinh” bên trong “thái dương hệ Trung Quốc”, như Lào và Campuchia, do Trung Quốc đang theo đuổi mộng Châu Á về một vị thế vượt trội trong khu vực. Thường dân ưu tư ít về chuyện địa chính trị mà ưu tư nhiều về chuyện mất đất và kế sinh nhai của mình vào tay giới thương gia Trung Quốc thực dụng. Cần phải mất nhiều thế hệ thì người dân nước này mới “thứ tha” cho Trung Quốc trách nhiệm cộng tác khắng khít với những tướng lĩnh bị cả nước oán ghét. Ðối với Bắc Kinh, việc đánh mất Myanmar là câu chuyện cảnh giác rằng việc đánh mất cả tâm lẫn trí là việc dễ xảy ra đến dường nào.10*

Cảm thức chống Trung Quốc ở Myanmar không phải là điều mới có: Mối quan hệ giữa Trung Quốc và Myanmar là mối quan hệ xưa cũ và phức tạp, đặc trưng bởi một cảm giác lúc tốt lúc xấu về tình trạng cừu địch giữa hai người anh em. Trong nhiều thế kỉ, triều đình Miến Ðiện ở Mandalay đã triều cống hoàng đế Trung Quốc, và từ lâu Myanmar đã xem Trung Quốc vừa là đồng minh thân cận nhất vừa là mối đe dọa lớn nhất.

Ðặc biệt người dân có cái lí của mình để sợ hãi. Sau khi giới lãnh đạo nước này thay đổi chủ nghĩa xã hội để chịu ảnh hưởng chủ nghĩa tư bản thân hữu vào năm 1988, Trung Quốc cộng tác khắng khít với bộ phận quân phiệt, những người đã biến đời họ thành một nỗi đau thương. Các tướng lĩnh của Myanmar để những nhà kinh doanh của Trung Quốc được quyền soát hết những kho báu thiên nhiên nước này, xây đập ngăn sông, đốn hạ rừng và khai thác đá quý. Cộng tác với những tập đoàn quân sự vốn bấy giờ đang chi phối việc kinh doanh ở Myanmar, các công ty Trung Quốc đẩy nông dân ra khỏi đất của họ và lấy đi nguồn tài nguyên địa phương. Sau khi Hoa Kỳ và Liên minh châu Âu áp đặt các lệnh cấm vận vào lĩnh vực đầu tư vào cuối thập niên 1990, giới thương gia Trung Quốc gần như không gặp phải sự cạnh tranh nào – nhưng họ cũng gây thù. Nhiều người Miến Ðiện đổ tội Trung Quốc chuyện giúp dựng lên chính phủ quân phiệt.

Các nhà đầu tư Trung Quốc, bao gồm những ông lớn của nhà nước trực tiếp chịu sự kiểm soát của Bắc Kinh, đã rót số của cải khổng lồ vào tay những kẻ trấn áp người dân Myanmar. Ví dụ tồi tệ nhất là đập Myitsone cự đại, con đập lớn nhất trong chuỗi bảy con đập được xây dựng bởi nhà đầu tư thuộc nhà nước Trung Quốc, Tập đoàn Ðầu tư Ðiện lực Quốc gia[42], ở ngã ba sông Mali và N’mai gần biên giới Vân Nam. Người ta đồn rằng một số tướng lĩnh, những người đã trở thành người của quốc hội mới dưới quyền chính phủ dân sự của Tổng thống Thein Sein, đã nhận tiền lót tay trị giá 20-30 triệu đô-la Mỹ cho mỗi người để gật đầu cho việc tiến hành công trình cao 140 mét. Sau khi khởi công năm 2007, con đập này trở thành tâm điểm cho nhiều cuộc biểu tình địa phương. Không chỉ 90% điện năng tạo được sẽ đem cung ứng cho Trung Quốc – nó còn gây ngập lụt cho khu vực sông Irrawaddy vốn được người Bamar, sắc tộc đa số của người Miến Ðiện, xem là cái nôi văn minh của họ.11* Những nhà hoạt động còn bảo con đập này sẽ nhấn chìm các ngôi chùa và nhà thờ mang tính lịch sử của người Kachin ở địa phương, ngoài việc khiến gần 12.000 người ra khỏi quê nhà.12*

Ðến năm 2011, ban quản trị của Ðiện lực Quốc gia Trung Quốc chỉ đơn giản bỏ ngoài tai những ưu tư này – y như các viên chức Trung Quốc làm lơ trước làn sóng ngầm bày tỏ sự tức giận chống Trung Quốc vốn đang trỗi lên khắp Myanmar. Ðối với người Trung Quốc, họ không thể hoãn lại một dự án vốn được thiết kế nhằm sản xuất 100 tỉ kWh điện năng mỗi năm, ngang với con đập Tam Hiệp (Three Gorges/ 三峡). Nhưng khi chính quyền dân sự thả lỏng kiểm duyệt, sự bất mãn của dân chúng kết tinh lại quanh con đập Myitsone. Với sự hỗ trợ của truyền thông địa phương, những người biểu tình viện đến cảm thức quốc gia chủ nghĩa, biến những con đập thành biểu tượng của phản kháng dân sự. Ở tận Yangon, tên cũ là Rangoon, mấy miếng nhãn dính xe hơi ghi rõ, “Chúng tôi yêu Irrawaddy”. Ngày 30 tháng Mười Một năm 2011, Tổng thống Thein Sein treo lại công trình xây dựng con đập chính. Ðây là điểm chuyển hướng thực sự: Nó cho thấy chính phủ dân sự sẽ không làm lơ nỗi oán thán của công chúng cũng như không dung thứ những phi vụ tham nhũng với các doanh nghiệp Trung Quốc. Ngày nay công trường của con đập đang trống vắng và hoang lương, được canh gác bởi một nhóm bảo vệ trông chán chường.13*

Ðối với Trung Quốc, họ cảm thấy sốc khi chứng kiến truyền thông tự do có thể hạ bệ một dự án khổng lồ nhanh đến dường nào. Cho đến thời điểm ấy, các công ty Trung Quốc ở Myanmar vẫn được che chở trước công luận. Tuy vậy nỗi oán phẫn của dân chúng ở nước ngoài không phải là một trải nghiệm mới đối với những công ty nhà nước Trung Quốc. Từ Gabon đến Papua New Guinea, những lối làm ăn thiếu trách nhiệm đã kích khởi nhiều phản ứng chống Trung Quốc. Dẫu thế, bước đi lầm lạc ở Myanmar, một nước láng giềng mà ở đó Trung Quốc có những lợi ích vững chắc hơn về địa chính trị, lại là điều nghiêm trọng hơn nhiều. Cho đến năm 2011, Trung Quốc xem Myanmar là hành lang chiến lược của họ để đến Ấn Ðộ Dương và là “tay trong” của họ trong tổ chức Hiệp hội các Quốc gia Ðông Nam Á (ASEAN). Mộng biến Myanmar thành một vùng lệ thuộc của Trung Quốc hòng có được lối tiếp cận thuận lợi đến vùng ven biển phía Tây giờ đây trông như một câu chuyện huyễn tưởng. Những thường dân Miến Ðiện, vốn can đảm hơn nhờ quyền tự do ngôn luận và được khích lệ nhờ truyền thông không kiểm duyệt, sẽ không để chuyện đó xảy ra.

Trung Quốc đã thấy rằng mối đe dọa lớn nhất cho vị thế đặc quyền đặc lợi một thời tại Myanmar không phải là Hoa Kỳ mà là sức mạnh của công luận. Ðập Myitsone không phải là ví dụ duy nhất. Năm 2012, những người phản kháng đã nhắm vào mỏ đồng Letpadaung trị giá 1,1 tỉ đô-la Hoa Kỳ thuộc công ty con của Norinco[43], một cơ sở sản xuất vũ khí của nhà nước Trung Quốc. Các nhà hoạt động và các nhà sư đã chiếm mỏ này trong nhiều tháng trước khi cảnh sát xua họ đi bằng hơi cay và vòi rồng bắn nước. Những cuộc biểu tình đầy nộ khí đã buộc có một cuộc thẩm vấn quốc gia do Aung San Suu Kyi làm chủ tọa. “Có một sự biến chuyển trong cảm thức dân chúng”, theo lời cư dân Wong Yit Fan ở Yangon, một cựu trưởng ban kinh tế ở ngân hàng Standard Chartered. “Nỗi tức giận trước giới quân sự đã dịu lại và nhắm lại vào Trung Quốc”. Gần như không có kinh nghiệm gì về xã hội dân sự ở quê nhà, các công ty Trung Quốc phản ứng một cách vụng về. Ðiện lực Quốc gia Trung Quốc làm mối căng thẳng ở Myitsone trầm trọng hơn khi họ lập một trang web đầy rẫy những lời tuyên truyền làm lợi cho bản thân.14*

Cơn tức giận của thường dân lan rộng khắp chốn. “Hầu hết người Miến Ðiện đều kì thị người Trung Quốc”, theo lời Khin Tun, một cố vấn đầu tư được các công ty Trung Quốc thuê để giao tiếp với dân địa phương đang giận dữ. Xúc cảm này không cùng suy nghĩ của hầu hết các viên chức chính phủ, những người hiểu rằng Myanmar không còn lựa chọn nào khác ngoài việc duy trì mối bang giao hữu hảo với nước siêu cường này ở ngay ngưỡng cửa, chưa kể đến đó là nhà đầu tư và đối tác giao thương lớn nhất của Myanmar. Nhưng có một người bất đồng chính kiến thuở trước, nay đã trở về để tư vấn cho Tổng thống Thein Sein sau nhiều năm lưu đày ở khu rừng nhiệt đới ở Thái Lan, và ông ta bảo với tôi rằng Trung Quốc phải ứng phó nỗi oán phẫn này vốn được tạo nên từ sự hợp tác của Trung Quốc với giới quân sự Myanmar. Và ông ta cảnh báo rằng Myanmar sẽ không cho phép Trung Quốc lũng đoạn chính sách ngoại giao của Myanmar nữa:

“Trung Quốc cần hiểu rằng hệ thống địa chính trị đã đổi thay. Chúng tôi vẫn muốn quan hệ hữu hảo với Trung Quốc, nhưng chúng tôi cũng muốn quan hệ hữu hảo với những nước khác, bao gồm Hoa Kỳ và Nga. Không có lí do gì để chúng tôi phải lựa chọn giữa các nước.”15*

Giới phân tích Trung Quốc ban đầu xem “việc đánh mất Myanmar” là mưu đồ của Hoa Kỳ. “Tình hình cải thiện trong mối quan hệ Hoa Kỳ – Myanmar, tiến trình cải cách ở Myanmar, và những vấn đề đối với các dự án Trung Quốc ở đó được nhiều chuyên gia chính sách Trung Quốc xem là một phần trong mưu toan do Hoa Kỳ chỉ đạo nhằm khắc chế Trung Quốc”, theo lời Josh Gordon, chuyên gia về mối bang giao Trung Quốc – Myanmar ở trường Ðại học Yale.16* Tuy vậy, suốt nhiều năm qua, Trung Quốc đã biết được rằng họ không phải mặt trời mà Myanmar đang xoay quanh. “Cái ý cho rằng sự chuyển biến dân chủ có liên hệ đến Trung Quốc là điều vô nghĩa”, theo lời viên cố vấn Tổng thống. Ông cho biết, sự thật là giới quân sự hồi ấy lúc nào cũng tính trao trả quyền lực lại cho người dân, nhưng họ cần thiết kế một thể chế chính trị mà ở đó họ vẫn giữ được phần lớn quyền lực. Cuộc nổi dậy bất thành của các nhà sư năm 2007, có tên gọi cuộc Cách mạng Áo cà sa (Saffron Revolution), đã chứng tỏ cho giới tướng lĩnh thấy rằng họ không còn nhiều thời gian nữa; họ khẩn trương thông qua một Hiến pháp mới cho một chính phủ dân sự có sự hiện diện đáng kể của giới quân sự. Tóm lại, các tướng lĩnh tin rằng chế độ này sẽ sụp đổ nếu không cải cách triệt để – nên họ sắp đặt những thay đổi mà họ hi vọng sẽ đảm bảo cho con đường sống của họ. Trung Quốc, theo quan điểm của ông ấy, không phải là yếu tố đáng kể.

Trong những năm tháng chuyển tiếp, Bắc Kinh đã bắt đầu hiểu được làm thế nào nền kinh tế uy quyền và những tham vọng địa chính trị của họ lại được xem như là mối đe dọa ở phần lớn khu vực Ðông Nam Á. Myanmar hoàn toàn không phải nước duy nhất tìm cách kéo mình ra khỏi lực hấp dẫn khổng lồ của Trung Quốc. Một mục tiêu của Sáng kiến Vành đai và Con đường, được triển khai hai năm sau vụ đình hoãn con đập Myitsone, chính là nhằm thuyết phục các nước láng giềng của Trung Quốc tin về những lợi ích chung khi cộng tác với Trung Quốc. Bắc Kinh còn nhận ra rằng các công ty Trung Quốc phải bị buộc tuân phục theo. Những công ty này đã bắt đầu hiểu rằng việc đầu tư những khoản tiền lớn không cho phép họ cư xử sai trái mà thoát tội, và hiểu rằng họ cần phải nỗ lực hơn trong việc hợp tác cùng những cộng đồng địa phương. Những doanh nghiệp nhà nước lớn đã tăng cường các chương trình trách nhiệm xã hội của công ty và đang tiến hành công tác hòa đồng với công luận. Một cựu viên chức ngoại giao cấp cao Anh quốc ở Myanmar cho biết Ðiện lực Quốc gia Trung Quốc giờ đang vận hành một trong những hoạt động phức tạp nhất do một công ty Trung Quốc đảm trách ở Myanmar.17*

Ðáng kể là Trung Quốc cũng đang nỗ lực đóng vai trò ngoại giao tích cực hơn. Trên chuyến bay đến Yangon vào tháng Một năm 2013, ngồi cách tôi vài hàng ghế là Phó Oánh, Phó Bộ trưởng Ngoại giao của Trung Quốc và cựu Ðại sứ Trung Quốc ở Anh quốc. Quý bà thanh lịch này với mái tóc xám quăn và bộ nữ trang đắt tiền, ngồi ở ghế 1A, trông quen quen mà lạ lạ. Tôi xác nhận được danh tính của bà bằng cách lén nhìn qua vai vị đại biểu ngồi trước mặt tôi, người đang đọc những bản văn chuẩn bị cho chuyến công du. Tiếp đón bà Phó ở Yangon là những vị tướng mặc quân phục đeo huy chương lúc lắc trước ngực. Bà được đưa đi nhanh chóng để hội kiến Tổng thống Thein Sein nhằm bàn thảo những mối quan hệ song phương, đứng đầu là xung đột giữa chính phủ và nhóm sắc tộc nổi loạn ở Nhà nước Kachin phía Ðông Bắc. Hai tháng sau cuộc hội kiến đó, Trung Quốc bổ cựu Phó Bộ trưởng Ngoại giao Vương Anh Phàm làm đặc sứ về những sự vụ châu Á, với tiêu điểm nằm ở Myanmar – bằng chứng rõ ràng cho thấy Bắc Kinh đang suy xét nghiêm túc công việc ngoại giao của mình ở Myanmar.

Chuyến công du của Bà Phó xảy ra ngay sau khi Trung Quốc điều phối những cuộc hòa đàm giữa chính phủ Myanmar và Quân đội Ðộc lập Kachin (KIA), và chủ động hòa giải đôi bên. “Trung Quốc trước đây chưa từng đóng vai trò công khai đến thế trong một vụ xung đột nội bộ giữa chính quyền trung ương và một nhóm nổi loạn địa phương thuộc một quốc gia độc lập khác”, theo lời Tôn Vận, một nghiên cứu sinh không thường trú ở Viện Brookings.18* Mặc dù người ta không rõ bản chất chính xác của việc Trung Quốc can dự vào nhiều cuộc tranh chấp biên cương khác nhau, nhưng dường như Bắc Kinh đã kiềm mình lại không tìm kiếm sức ảnh hưởng chống lại chính phủ Myanmar bằng cách ủng hộ KIA – chống lại lời khuyên của giới phân tích Trung Quốc vốn còn đậm mùi diều hâu hơn. Và khi cuộc bạo loạn sắc tộc Kokang nổ ra năm 2015, khiến tầm 40.000–50.000 dân tị nạn vượt biên sang Trung Quốc, Bắc Kinh đã làm lơ lời kêu gọi của chính công dân nước mình để trợ giúp cho một dân tộc vốn xem như là người Hoa về mặt sắc tộc. Họ thậm chí không phản ứng mạnh mẽ khi máy bay quân sự Miến Ðiện lượn lờ ở biên giới, thả một quả bom làm bốn người dân Trung Quốc thiệt mạng.19*

Ðiều quan trọng là không phóng đại hồi cáo chung của Trung Quốc ở Myanmar. Ngôi sao Trung Quốc có lẽ suy yếu đi trong những năm gần đây, nhưng họ vẫn là nhà đầu tư lớn nhất và đối tác song phương quan trọng nhất của Myanmar. Những công ty Trung Quốc vẫn còn hiện diện đáng kể ở lĩnh vực thủy điện, khai khoáng, dầu khí, và thường đi đầu trong lĩnh vực thiết bị viễn thông và bất động sản. Thực tế là Trung Quốc có gốc rễ ăn sâu vào Myanmar hơn bất kì nước nào khác và họ có thể cung ứng phần lớn nhu cầu của Myanmar: vốn, cơ sở hạ tầng và hàng hóa giá rẻ. Trung Quốc còn mang đến một thị trường xuất khẩu lớn và thuận tiện. Việc dỡ bỏ hầu hết các lệnh cấm vận Tây phương đã cho phép nước ngoài tiếp cận phần lớn nền kinh tế Myanmar, nhưng chuyên môn của Trung Quốc vẫn còn được cần đến trong lĩnh vực sản xuất điện năng, các dự án dầu khí, cũng như trong lĩnh vực sản xuất và viễn thông ở những năm sắp tới.

Khi tôi ghé Yangon đầu năm 2013, thành phố nóng bức của Myanmar ban đầu tạo cảm giác xa cách Trung Quốc. Ðây là thành phố quyến dụ lòng người với những nụ cười, những nhà sư trong chiếc áo choàng đỏ tía, những người đàn ông quấn quanh mình những bộ xà-rông (mà ở đó gọi là longyi) đang nhấm nháp trà bên vệ đường, và những người đàn bà có khuôn mặt được bôi lên bột thanaka, một thứ bột trắng xóa làm từ vỏ cây.20* Nhưng những cộng đồng người Hoa đã an cư ở Myanmar nhiều thế kỉ nay và Yangon là một nơi quần tụ văn hóa: các ngôi chùa Trung Quốc hòa lẫn cùng những ngôi chùa bằng vàng lấp lánh, những điện thờ của đạo Hindu, những thánh đường Islam và những dinh thự đổ nát từ thời Raj[44]. Dưới thời cai trị của Anh vào đầu thế kỉ 20, thành phố này khi ấy có tên Rangoon là điểm đến nhập cư hàng đầu thế giới – náo nhiệt hơn New York hoặc Thượng Hải. Ngoài hàng triệu người Ấn Ðộ, nhiều tàu thuyền chứa đầy người Trung Quốc đi từ các tỉnh Quảng Ðông và Phúc Kiến ở miền duyên hải tới Rangoon lập nên nhà mới.

Khi ấy ảnh hưởng của Trung Quốc có một lịch sử lâu đời – nhưng lúc nào cũng có những mối căng thẳng. Vào thập niên 1960, vị lãnh đạo quân phiệt bạo tàn Ne Win đã cấm những người ngoại quốc – bao gồm nhiều cư dân người Hoa – không được sở hữu đất đai và nắm giữ giấy phép kinh doanh, và cố tình kích khởi thêm lòng oán hận chủng tộc. Khi những cuộc nổi loạn chống Trung Quốc nổ ra ở Rangoon năm 1967, những cửa hàng người Hoa bị cướp phá và bị phóng hỏa. Sau khi đổ vỡ nhiều mối quan hệ song phương, Trung Quốc công khai can thiệp vào cuộc nội chiến Myanmar. Nạn kì thị và những cuộc nổi loạn chống Trung Quốc tiếp tục bùng nổ vào thập niên 1970, với sự ủng hộ ngầm của chính phủ Miến Ðiện. Và khi bộ luật mới năm 1982 kiềm tỏa hơn nữa quyền công dân Myanmar đối với người Hoa, nó đã đẩy nhanh quá trình di tản đang diễn ra của người Miến gốc Hoa ra khỏi nước này.

Khi chế độ quân phiệt đầu tiên bị các tướng lĩnh phiến loạn lật đổ trong vụ đảo chính năm 1988, tình hình được cải thiện đáng kể. Hội đồng Khôi phục Luật pháp và Trật tự Quốc gia (State Law and Order Restoration Council), như chính quyền quân phiệt mới tự đặt tên cho họ, đã nới lỏng việc khống chế nền kinh tế, khuyến khích việc phát triển các khu vực kinh tế tư nhân và việc đầu tư của nước ngoài. Các doanh nghiệp người Hoa nở rộ: hãy nhìn quanh Yangon hoặc Mandalay ngày nay và phần lớn những gì bạn thấy đều sẽ có chủ sở hữu là những thương nhân có nối kết với Trung Quốc. Dân địa phương càu nhàu rằng các doanh nghiệp người Miến Ðiện gốc Hoa đang kiềm kẹp ngày càng chặt. “Khu phố người Hoa đang lan vượt ra hẳn những đường biên truyền thống”, theo lời Judy Ko, người quản lí một công ty thương mại trụ sở ở Yangon. “Các thương nhân người Hoa đang chiếm lĩnh các sạp ở chợ, các quầy thức ăn và các tiệm thuốc khắp thành phố”. Cô ấy bảo tôi, những thân nhân của người Miến Ðiện gốc Hoa thế hệ thứ hai hoặc thứ ba đổ xô từ Trung Quốc và Ðài Loan tới đây. “Họ hối lộ các viên chức phụ trách nhập cảnh hoặc kết hôn với dân địa phương, nên họ có thể mua bất động sản một cách hợp pháp. Dòng chảy tràn vào các nhà đầu tư Trung Quốc đang đẩy giá cả lên mức điên rồ và đẩy dân địa phương ra khỏi khu chợ”, cô phàn nàn. Cho dù miêu tả này có phóng đại lên, ai ai cũng thấy được người Trung Quốc và tiền của họ đang tràn vào.

Quả thực, giới phê bình cho rằng đầu tư chính thức của Trung Quốc – đạt giá trị cộng dồn lên tới 15 tỉ đô-la vào năm 2015, dù giá trị đầu tư từng năm đã giảm mạnh kể từ năm 2011 – chỉ là phần nổi của tảng băng trôi.21* Nhiều công ty “Miến Ðiện” trên danh nghĩa thực sự được cấp vốn thông qua các công ty vỏ bọc của Trung Quốc đại lục, đôi khi đại diện cho lợi ích của những kẻ buôn lậu ma túy người Wa. Những công ty khác thuộc về những di dân Trung Quốc ở dài hạn – khét tiếng nhất là Asia World, tập đoàn lớn nhất Myanmar, được sáng lập bởi La Tinh Hán, một tay buôn heroin bị kết án. Asia World có mối liên kết thân cận với Liên hợp quân bang Wa, vốn đang độc lập kiểm soát vùng lãnh thổ gần biên giới Trung Quốc. Nó còn là một trong những đối tác liên doanh địa phương của Ðiện lực Quốc gia Trung Quốc cho dự án con đập Myitsone.

Hầu hết người Miến Ðiện gốc Hoa đều sinh ra ở Myanmar và đều là “người Hoa” giống như bao dân nhập cư đồng tộc ở những khu vực khác của Ðông Nam Á. Các mối ràng buộc sắc tộc giúp cho bánh xe thương mại của Myanmar chạy trơn tru, giống như ở khắp Ðông Nam Á; nhưng có một cách khoảng văn hóa giữa người Miến Ðiện gốc Hoa ở địa phương và những nhà đầu tư của Trung Quốc đại lục, vốn có lẽ bị những người Miến Ðiện khác đánh giá thấp. Ở Yangon, nhiều người Hoa ở địa phương thuộc về Phòng Thương mại Myanmar của người Hoa (Chinese Myanmar Chamber of Commerce). “Chúng tôi đã ở đây cả trăm năm nay”, viên quản lí Phòng cho tôi biết. “Chúng tôi không có liên hệ nào với những người bên ngoài đến từ Trung Quốc. Chúng tôi giữ phong tục của người Hoa, nhưng chúng tôi nói tiếng Miến Ðiện và là người Miến Ðiện.”

Về mặt văn hóa, những cư dân Miến Ðiện gốc Hoa ở Yangon gần với những người anh chị em của họ ở Ðông Nam Á hơn là những người ở Trung Quốc đại lục – và không chắc được họ sẽ có thái độ chào đón ra sao đối với làn sóng di dân mới của người Trung Quốc. Nhưng chính bên trong cộng đồng người Miến Ðiện gốc Hoa, các mối ràng buộc sắc tộc đã ăn sâu vào tinh thần họ. Trong Phòng Thương mại của người Hoa – ngụ trong một tòa nhà lớn bụi bặm nhìn sang những cầu tàu dọc theo sông Yangon – có một bức tường dùng để trưng ra những nhà quyên trợ cho tổ chức. Nổi bật trong danh sách này là Asia World, trao 5 triệu nhân dân tệ (khi ấy trị giá khoảng 750.000 đô-la) cho phòng này vào năm 2010. Sự giận dữ của người dân Myanmar về vai trò do những công ty Trung Quốc đảm nhận, bất kể nguồn gốc ở đâu, là điều không khó hiểu.

Những mối căng thẳng bắt đầu trỗi lên khi giao thương bằng đường bộ với Trung Quốc được tái triển khai năm 1988. Miền Bắc, đặc biệt những khu vực giáp Trung Quốc, là nơi người ta cảm thấy lo âu tột cùng trước tình trạng tiền Trung Quốc được đổ vào nước này. Theo một nguồn ước tính cho biết, chỉ nội thập niên 1990 đã có 300.000 dân nhập cư từ Vân Nam đến Mandalay, và người Hoa chiếm khoảng một phần ba dân số thành phố này. Tuy vậy các hội đoàn người Hoa ở thành phố bảo rằng dân số người Hoa ở mức ổn định chỉ khoảng 5.000 gia đình – gần 50.000 người. Việc xác minh bao nhiêu người Hoa thực sự sống ở Mandalay là một công việc bất khả, đặc biệt khi những cuộc hôn nhân giữa người Hoa và người bản địa đã khiến người ta thật khó xác định chính xác thế nào là “người Hoa”. Những con số ước tính phổ biến gần như chắc chắn bị phóng đại, theo lời Roman Cailaud, một cố vấn đầu tư, người nghiên cứu việc giao thương ở biên giới và việc nhập cư ở miền Bắc Myanmar.

Dân địa phương than phiền rằng Mandalay – quê hương về văn hóa của người Bamar, sắc tộc chiếm hai phần ba dân số Myanmar – đã tràn ngập dân nhập cư Trung Quốc. Họ nói về việc những thương nhân đổ xô tới làm khu chợ ngập tràn những món hàng thứ phẩm, và lên án các nhà đầu tư Trung Quốc lấy đi đất của họ. Họ bảo, Mandalay đã trở thành một “thành phố Trung Quốc”. Ca sĩ dân ca địa phương Lin Lin đối chất vấn đề này trong bài hát nổi tiếng của anh ta, “Cái chết của Mandalay (Death of Mandalay)”, vốn có 100.000 lượt xem trên Youtube. “Họ là ai trong thành phố này? / Những kẻ láng giềng đến từ phía Ðông Bắc”, anh oán thán, tay gảy đàn guitar. “Tôi bít cả hai tai mình trong nỗi ô nhục tận cùng / Tâm trạng rối bời trước người lạ / Cái chết của Mandalay thân thương của chúng ta.”22*

Ba mươi năm trước, Mandalay trứ danh vì những tòa nhà truyền thống bằng gỗ, những con phố nhỏ ngoằn ngoèo và những tòa tháp bằng vàng lấp lánh. Ngày nay, sau khi Trung Quốc đầu tư vào đây được hai mươi năm, nơi đây trông như một thành phố Trung Quốc điển hình: đường sá rộng cùng những căn nhà bê-tông xấu xí được sắp trên một mạng lưới đơn điệu. Những con đường một thời đậm chất văn hóa giờ đây ngập tràn xe tải bấm còi luôn luôn và ngột ngạt khí thải. Nhưng đối với một thành phố ở đất nước nghèo nhất Ðông Nam Á, Mandalay phồn vinh đến mức gây ngạc nhiên: một khảo sát năm 2012 nhận thấy một hộ gia đình trung bình sở hữu ba chiếc xe máy loại nhỏ hoặc loại thường. Hồi trước hiếm ai uống rượu bia, còn giờ ở mỗi góc đường lại có một “quán bia”. Vào lúc tối muộn, cánh đàn ông ngồi sụp xuống trên bàn đầy bia Myanmar và whisky Grand Royal.

Với dân số tầm một triệu người, Madalay chỉ có quy mô bằng một phần Yangon – nhưng khi tôi tới Mandalay, nơi đây tạo cảm giác giàu có hơn đáng kể. Hầu hết xe cộ trên đường đều là xe mới và đường phố luôn nhộn nhịp các hoạt động buôn bán. Sở dĩ Mandalay được thịnh vượng là vì một lí do đơn giản: giao thương với Trung Quốc. Phải mất mười giờ lái xe dọc theo Công lộ Miến Ðiện (Burma Road)[45] để tới thành phố này từ những thị trấn biên giới Muse và Thụy Lệ, trung tâm phân phối hàng hóa chảy qua đường biên giới. Cuộc giao thương song phương này đã vượt qua con số 9 tỉ đô-la cho 10 tháng đầu tiên của năm tài chính 2015 – 2016, gần như toàn bộ đều qua đường bộ, theo con số thống kê của Trung Quốc.23* Nhưng con số tổng thực cao hơn nhiều, do nhiều mặt hàng – bao gồm hàng xuất khẩu phi pháp như ngọc bích, gỗ, thuốc phiện và methamphetamine – được buôn lậu qua đường biên giới.

Chứng nhân Toàn cầu (Global Witness), một tổ chức giám sát môi trường có trụ sở ở London, đã ước tính giao thương ngọc bích của Myanmar có trị giá đạt tới con số khó tin 31 tỉ đô-la chỉ trong năm 2014, gần bằng một nửa GDP nước này. “Việc kinh doanh ngọc bích là yếu tố đáng kể làm dấy khởi xung đột vũ trang trầm trọng nhất Myanmar, giữa chính quyền trung ương và Quân đội Ðộc lập Kachin/Tổ chức Ðộc lập Kachin (Kachin Independence Army/Kachin Independence Organization)”, theo kết luận trong một bản báo cáo của Global Witness.24* Gần như toàn bộ thu nhập từ việc kinh doanh này không làm lợi cho nhà nước, thay vào đó lại tìm đường chui vào túi của giới đầu não quân sự và các tay trùm ma túy. Chết người trong khai khoáng là điều thường gặp, ma túy và mại dâm được nuôi dưỡng lớn mạnh nhờ cuộc giao thương này. Những ai đứng chắn đường giới khai khoáng sẽ bị tước đất và bị đe dọa trước họng súng.

Người dân Miến Ðiện quả được lợi từ việc buôn bán với Trung Quốc, nhưng họ phẫn nộ vì bị lệ thuộc về kinh tế vào chuyện này. Một trong những lời than phiền lớn nhất, từ Mandalay đến Yangon, là Trung Quốc “xuất khẩu” toàn rác: ma túy giả, thực phẩm nhiễm độc, sản phẩm nát vụn. Cho đến khi các lệnh chế tài giao thương của phương Tây bị bãi bỏ, gần như người ta không còn lựa chọn nào khác; nhưng các cửa tiệm và các khu chợ ở Mandalay vẫn còn chất đống những mặt hàng Trung Quốc rẻ tiền. Nhiều tên nhãn hiệu trên đường phố Mandalay là của Trung Quốc: Thiết bị xây dựng Zoomlion, Xe máy Zonghen (Tông Thân/ 宗申), Xe hơi Haima (Hải Mã/ 海马), Hàng điện tử gia dụng Midea (Mỹ Ðích/ 美的), Ðiện thoại Huawei (Hoa Vi/ 华为), Tủ lạnh Haier (Hải Nhĩ/ 海尔). Một tấm biển quảng cáo khổng lồ đặt tại giao lộ tấp nập còn quảng cáo các dịch vụ của một bác sĩ tên Vân (Yun), một bác sĩ phẫu thuật thẩm mỹ ở bên kia biên giới tại thị trấn Thụy Lệ.

Sự giận dữ với những xâm phạm của Trung Quốc đang dâng lên dữ dội. Tin Soe, viên quản lí của một khách sạn ở khu phố thương mại, bảo tôi rằng hầu hết khách hàng của anh ta là dân đại lục. Một số là giám sát viên cho dự án đường ống dẫn dầu khí của Tập đoàn Dầu khí Trung Quốc (China National Petroleum Corporation), chạy xuyên qua khu vực Mandalay tới đường biên giới Trung Quốc. Những người khác trong lĩnh vực khai thác ngọc bích: Mandalay nổi tiếng về những thị trường đá quý, và khách sạn này làm nên một cơ sở hữu dụng cho việc thăm dò những cơ hội đầu tư. “Người Miến Ðiện chúng tôi không thích người Trung Quốc”, anh cho biết. Dân nhập cư Trung Quốc, anh rầu rĩ nói thêm, đang chiếm thành phố này: “Giới thương nhân Trung Quốc ở Thụy Lệ đã hối lộ các viên chức phụ trách nhập cảnh để họ có thể lập cư bên kia biên giới tại thị trấn Muse. Một khi họ có quốc tịch Myanmar, họ sẽ đi theo Công lộ Miến Ðiện và mua hết bất động sản ở Mandalay.”

Người Hoa theo ước tính chiếm không quá 4% dân số Myanmar – tối đa hai triệu người trong tổng số khoảng 52 triệu dân. Tình hình này càng phức tạp thêm trước việc dân địa phương không phân biệt đâu là dân Miến Ðiện gốc Hoa lập cư lâu năm và những người mới tới gần đây – thậm chí cả những người không hẳn là người Trung Quốc. Vào thập niên 1990, những tay đầu nậu ma túy và ngọc bích thuộc sắc tộc Wa và Kokang đã đầu tư những món tiền bất chính của họ ở Mandalay, xây dựng nhiều biệt thự xa hoa và nhiều trung tâm mua sắm. Người Kokang (khác người Wa) về sắc tộc là người Trung Quốc Hán tộc, nhưng đã sống ở Myanmar nhiều thế kỉ nay. Tuy thế những sắc tộc thiểu số ở khu vực biên giới thường được người Miến Ðiện xem như là “người Trung Quốc”.

Dân nhập cư Trung Quốc từ Vân Nam ban đầu lập cư ở miền Bắc Myanmar hồi cuối thế kỉ 19. Làn sóng tiếp theo đến vào thập niên 1930, do quân đội Nhật hành quân qua Vân Nam, và vào thập niên 1940, khi quân lính của Quốc dân đảng theo quốc gia chủ nghĩa rời khỏi lực lượng Cộng sản chiến thắng. Số dân nhập cư lâu năm này vẫn còn bảo lưu nhiều phong tục Trung Quốc, và có khuynh hướng gắn bó nhau. Ở khu phố người Hoa của Mandalay, những gia đình Miến Ðiện gốc Hoa ở địa phương thường tụ tập tại các Hội quán Vân Nam[46], được xây dựng vào năm 1953. Cánh cổng truyền thống dạng chìa ra, trên cùng là mấy con rồng uốn lượn bằng vàng, đã được tân trang bằng tiền của chính quyền tỉnh Vân Nam – cho nên những mối nối kết cũ vẫn còn nguyên vẹn. Nhưng những người Miến Ðiện gốc Hoa này nhìn chung đã hòa nhập vào cộng đồng địa phương và nói tiếng địa phương.

Tuy vậy, sự hiện diện của họ đã có sức ảnh hưởng lớn hơn nhiều kể từ khi việc giao thương biên giới qua đường bộ với Trung Quốc được tái khởi động. Nỗi oán phẫn lại được dấy lên trước sự giàu có hiển nhiên của nhiều gia đình Trung Quốc ở Mandalay. “Ðúng là nhiều người trong số chúng tôi giàu hơn người Myanmar bản địa” theo lời thừa nhận của một cô gái người Miến gốc Hoa đang làm việc cho cửa tiệm ngọc trai của gia đình tại khu phố buôn bán của Mandalay. “Nhưng chúng tôi đã làm việc chăm chỉ để có được thành công như thế. Ông bà tôi đã tới đây hồi 70 năm trước mà không một xu dính túi”, cô ấy bảo tôi bằng giọng Quan thoại pha giọng miền Nam. Người Miến gốc Hoa không e ngại việc phô bày sự giàu có của mình: họ lái xe SUV của Nhật đến những nhà hàng Vân Nam đắt tiền và tổ chức tiệc cưới hào nhoáng với hàng trăm, thậm chí hàng nghìn khách. Hai tuần trước Tết Trung Quốc, nhiều ngôi nhà đẹp nhất phố đã dán lên những câu chúc tụng năm mới trên cửa trước – một dấu hiệu chắc chắn cho biết chủ căn nhà là người Hoa.

Phần nhiều của cải này đến từ việc giúp đỡ dân đại lục đàm phán hoàn cảnh đầu tư ở Myanmar. Những rào cản ngôn ngữ cần phải được vượt qua và các quy định đầu tư đều thuộc loại nghiêm ngặt – cho dù người ta có thể đi vòng qua chúng bằng cách dùng tiền bôi trơn. Người Miến Ðiện gốc Hoa làm việc ở vai trò người đút lót, dàn xếp các cuộc gặp và trông nom dòng vốn ngoài luồng chảy vào. Ông Long, trưởng công nhân mỏ đến từ tỉnh Hồ Nam của Trung Quốc, bảo tôi rằng không thể nào làm ăn ở Myanmar được nếu thiếu những tay môi giới người Miến Ðiện gốc Hoa. “Nếu muốn đầu tư, anh phải thông qua họ”, anh giải thích. “Họ có tất cả các mối nối kết địa phương và có thể làm thông dịch”. Một thợ mỏ ngọc bích đến từ Vân Nam đồng ý thế. “Ở đây muốn làm gì thì cũng phải làm việc với dân địa phương. Và để làm việc với dân địa phương, anh cần làm việc với dân Miến gốc Hoa.”

Giao thương chịu sự chi phối của các gia đình gốc Hoa ở địa phương, chứ không phải của dân đại lục. Những chiếc xe tải từ tận Quảng Ðông và Phúc Kiến tới Thụy Lệ, nhưng tất cả hàng hóa cần phải được chất lại lên những chiếc xe tải đăng kí ở Myanmar để băng qua biên giới. Giới thương nhân thuộc những nhóm sắc tộc thiểu số mà ta có thể tìm thấy ở cả hai phía của biên giới, chẳng hạn như người Kachin (ở Trung Quốc có tên là Cảnh Pha) và Shan (còn được biết là người Thái), là những người có thể băng qua biên giới dễ dàng. Nhưng các hạn chế đối với giới thương nhân Trung Quốc bình thường lại chặt hơn. Ông Thiệu (Shao), một thương nhân ở Thụy Lệ chuyên nhập khẩu máy móc, ngọc bích và vải dệt, đã bảo tôi visa của ông cho phép ông đi qua biên giới nhưng không được quay về lại. Thay vào đó, ông phải bay từ Mandalay đến Côn Minh, rồi quay về lại Thụy Lệ – một tuyến đường dài, đắt đỏ và vòng vo. “Tôi làm bất kì điều gì cần phải làm để có được bữa ăn trên bàn”, ông bảo, mắt ánh lên tia sáng.

Myanmar có đầy những câu chuyện về dân nhập cư Trung Quốc mua tất cả giấy căn cước giả mạo của người Miến Ðiện quá cố để có thể thành công dân có quốc tịch Myanmar. Rõ ràng cách làm này vẫn còn tiếp diễn. Nhưng một số thương nhân đại lục đã mua thẻ công dân của Myanmar ở thị trường chợ đen chỉ để bôi trơn chuyện làm ăn và để qua biên giới dễ dàng hơn, chứ không có ý lập cư ở Myanmar. Giới đầu tư về gỗ, khai khoáng và nông nghiệp thường bay tới bay lui giữa Mandalay và Côn Minh, theo những chuyến bay hàng ngày được phục vụ cho tuyến này. Khi tôi lên chuyến bay rời khỏi Mandalay mười ngày trước Tết Trung Quốc, chuyến này đầy ắp thương gia Trung Quốc đang trở về nhà ăn Tết.

Nếu phải tới một nơi để tìm bằng chứng về sự “xâm nhập của Trung Quốc” tại miền Bắc Myanmar, nơi đó sẽ là Lashio. Thị trấn lớn nhất nằm giữa Mandalay và Thụy Lệ, Lashio là điểm bắt đầu của Công lộ Miến Ðiện danh tiếng. Ðược công nhân Miến Ðiện và Trung Quốc xây dựng dưới sự chỉ đạo của người Anh, con đường này giúp chính quyền Trung Quốc duy trì được nguồn cung ứng hàng hóa, vũ khí và thực phẩm trong suốt những năm đầu của cuộc chiến chống Nhật ở khoảng thời gian 1937-1945. Hiện nay, hầu hết các phi vụ giao thương đều diễn ra ở chiều ngược lại: chỉ cách Thụy Lệ 100km bên kia biên giới, Lashio là trạm dừng trọng yếu đầu tiên để hàng hóa chảy vào từ Trung Quốc. Nơi đây rõ ràng là cơ sở cho các thương nhân ở biên giới vận chuyển hàng theo hướng lên xuống dọc theo công lộ Miến Ðiện thời hiện đại.

Với dân số khoảng 130.000 người, quy mô tương tự Exeter ở Anh, Lashio là nơi rất nhiều sắc tộc cùng sống. Khoảng một phần ba cư dân ở đây có gốc Hoa, gần như tất cả đều đến từ tỉnh Vân Nam lân cận. Nhưng thị trấn này còn là quê hương của người Bamar bản địa và một cộng đồng lớn người Tai (ở Myanmar còn có tên là Shan, và tên là Thái ở Vân Nam). Người Sikh Ấn Ðộ, người Muslim và người Hindu hình thành những nhóm người thiểu số rõ rệt, và một thánh đường Islam lớn hiện lờ mờ ở trung tâm thị trấn. Nhiều bộ lạc ở vùng đồi – nằm trong khoảng 135 nhóm sắc tộc thiểu số được chính phủ Myanmar công nhận – hàng ngày vào thị trấn Lashio để bán đậu và cà chua bên vệ đường.

Chiếm vị thế nổi trội ở Lashio là một khu chợ lớn bằng bê-tông lan ra các con đường và con hẻm xung quanh, tại đó các chủ sạp ngồi dưới tấm bạt ni-lông giăng ra trên các cọc tre. Họ bán đủ loại rau quả, cá khô, ớt, các loại bột bí hiểm, thuốc và vật dụng nhà tắm, quần áo, giày dép và túi xách – cũng như bán cả vàng, ngọc bích và kim cương. Trong quãng thời gian gần Tết Trung Quốc, các sạp hàng dựng lên những đồ trang trí màu đỏ vàng lấp lánh – lồng đèn có viết chữ “phát tài/ 发财” bằng chữ Trung Quốc, các miếng dán cửa mang may mắn cho khách, pháo bông để báo hiệu năm mới và xua đi những hồn ma vất vưởng.

Ngoài tiếng địa phương của mình, một biến thể của tiếng Vân Nam, cư dân Trung Quốc ở Lashio thường nói tiếng Myanmar và tiếng phổ thông. Hầu hết còn biết tiếng Shan, ngôn ngữ địa phương ở đây. Một số chủ sạp bảo tôi rằng gia đình họ đến từ Ðằng Xung, một chặng ngày trước trên Con đường Tơ lụa phương Nam nằm bên phía Trung Quốc ở vùng biên giới Myanmar – Vân Nam, một nơi có lịch sử hỗn tạp sắc tộc. Số người Trung Quốc ở Lashio thuộc về một truyền thống lâu đời của việc giao thương biên giới vốn tạo nên những căn cước phức hợp và đa dạng.

Nhiều người đến Lashio do là nạn nhân của lịch sử. Ông Chung (Zhong), một cụ ông 70 tuổi bán thuốc Trung Quốc truyền thống như thằn lằn khô và gạc nai, đã rời Ðại Lí ở tỉnh Vân Nam vào năm 1949 khi mới lên hai. Bố ông, người trước đó đã chiến đấu cùng quân đội Quốc dân đảng theo chủ nghĩa quốc gia, đã tháo chạy cùng gia đình mình khi lực lượng Cộng sản tiến vào kiểm soát. Bà Ðoàn, bán lồng đèn Trung Quốc có in hình cặp cá vàng tỏ dấu hiệu may mắn, đã tới đây 20 năm sau đó khi còn là trẻ sơ sinh, lúc bố mẹ bà tháo chạy khỏi cuộc Cách mạng Văn hóa. Những người khác thì không rõ. “Chúng tôi đã ở đây từ lâu”, một chủ sạp giải thích bằng tiếng Quan thoại đủ hiểu. “Chí ít cũng 100 năm rồi – có lẽ 300. Ai mà biết?”

Tôi thấy thật khó tìm ra những người mới tới, mặc cho người ta phát cuồng lên ở Yangon và Mandalay vì dòng người lập cư Trung Quốc tràn ngập miền Bắc Myanmar. Thực tế gần như không có ảnh hưởng hiển hiện nào của Trung Quốc hiện đại ở Lashio, ngoài chính những mặt hàng được giao thương. Các biển báo và nhãn bằng tiếng Trung Quốc được nhất loạt viết bằng chữ phồn thể vốn được dùng trước khi những người Cộng sản đưa vào hệ chữ viết giản thể vào thập niên 1950 và 1960. Nếu có một lượng lớn dân lập cư từ đại lục tràn về kể từ lúc công lộ Miến Ðiện mở lại vào cuối thập niên 1980, những người này chắc hẳn sẽ mang hệ chữ viết mới theo cùng. Cũng không có nhiều dấu hiệu của thức ăn người Hoa. Thay vào đó có những món cơ bản của người Miến Ðiện: thịt nướng và rau, cùng mớ thịt hầm sơ chế béo ngậy không rõ món gì, đang bơi trong vũng dầu, đi kèm rau sống và dưa chua kiểu Ấn Ðộ. Nếu người Trung Quốc thực sự chiếm lĩnh vùng này, các nhà hàng và quầy thức ăn ở thị trấn này hẳn sẽ bán mì. Rõ ràng phần lớn đầu tư ở Lashio là của người gốc Hoa – nhưng thật quá ít bằng chứng trong dân chúng để cho thấy người Trung Quốc đã “xâm lăng”.

Nỗi oán phẫn về sự xâm lăng kinh tế của Trung Quốc ở Mandalay và ở miền Bắc Myanmar đã lầm lẫn việc thương gia đổ xô vào khi thấy các công dân người Miến Ðiện gốc Hoa giàu lên nhờ phục vụ cho các thương gia đó. Người ta đã phóng đại nỗi sợ rằng dòng chảy nhà đầu tư Trung Quốc tràn vào từ bên kia biên giới sẽ “tiếp quản” Mandalay và biến những thị trấn dọc theo Công lộ Miến Ðiện thành tiền đồn của Trung Quốc. Mandalay vẫn còn mang lại cảm giác về tinh thần Miến Ðiện: các biển hiệu trên đường bằng tiếng Miến Ðiện hoặc tiếng Anh, các nhà hàng và các quầy thức ăn phục vụ món Miến Ðiện, và hầu hết người dân đều là người Bamar. Mandalay ít mang chất “ngoại quốc” hơn nhiều thành phố phát triển trên thế giới có số dân nhập cư lớn.

Sự thật là Myanmar không cần sợ bị người Trung Quốc tràn qua, nhưng họ phải lo về tiền của Trung Quốc. Vấn đề của Myanmar không phải chuyện người ngoài tới nơi đây tiếp quản mọi thứ, mà là chuyện người ngoài lấy đi những thứ họ cần và rời khỏi đây. Ða số dân đại lục đến Myanmar để làm ăn, không phải lập cư ở một đất nước lạ lẫm. Khi Myanmar dân chủ hóa và công luận trở thành thế lực đang lên trong nền chính trị trong nước, nỗi tức giận không nên nhắm vào số dân nhập cư đã ở đây từ lâu. Thay vào đó nỗi tức giận ấy nên được nhắm vào giới đầu não tham nhũng người Miến Ðiện, những kẻ cho phép các nhà đầu tư Trung Quốc cướp đi nguồn tài nguyên thiên nhiên của đất nước và để lại thiệt hại cho người dân địa phương.

CỬA NGÕ VÀO VỊNH BENGAL

Vài năm trước, trọng điểm của nỗi oán phẫn như thế chính là việc xây dựng hai đường ống dẫn dầu khí của Trung Quốc chạy từ cảng Kyaukphyu ở bờ biển phía Tây Myanmar, đi qua Mandalay và Lashio, đến thị trấn Thụy Lệ ở biên giới Vân Nam. CNPC đã bồi thường cho những người nông dân mất đất, nhưng một số người than phiền họ không còn miếng đất nào để trồng trọt, còn số khác cáo buộc CPNC phá hoại môi trường. Những nhóm sắc tộc có vũ trang lại giao tranh với quân đội chính phủ vốn được điều tới để bảo vệ đường ống dẫn này, buộc nhiều người tháo chạy khỏi quê nhà mình.

Những cuộc phản kháng dần suy yếu đi sau khi hai đường ống dẫn hoàn thành năm 2013. Năm đó, khi đang tìm kiếm đường ống dẫn này dọc theo công lộ Miến Ðiện, tôi bắt gặp những dải hẹp vừa mới đào thuộc khu đất nông nghiệp, lác đác đây đó có những cột làm dấu. Nằm bên dưới lớp đất đỏ thẫm là hai đường ống thép sáng bóng, mỗi ống có đường kính tầm một mét. Phần bên Myanmar của dự án trị giá 2,5 tỉ đô-la này kéo dài gần 800km, và sau đó thêm 1600km đi qua tỉnh Vân Nam. Từ Côn Minh, thủ phủ tỉnh Vân Nam, một đường ống dẫn nối thêm sẽ đẩy khí đốt đi theo hướng Ðông đến tỉnh Quý Châu và Quảng Tây. Ðường ống kia sẽ dẫn dầu theo phía Bắc đến Trùng Khánh, quê hương của 30 triệu người, tại đó Trung Quốc đang xây nhà máy lọc dầu thứ nhì.

Năm 2013, CNPC bắt đầu bơm khí tự nhiên từ vùng mỏ khí đốt Shwe ngoài khơi Myanmar, theo một thỏa thuận thu hoạch ba mươi năm vốn sẽ mang lại hàng chục tỉ đô-la cho chính phủ Myanmar. Công suất thường niên của đường ống dẫn này là 12 tỉ mét khối mỗi năm, mặc dù lưu lượng thực sự theo báo cáo năm 2014 và 2015 ít hơn con số đó nhiều. Ðợt dầu đầu tiên được bơm thử nghiệm vào năm 2015, khi tàu chở dầu cự đại 300.000 tấn dỡ hàng ở cảng nước sâu mới mở tại đảo Maday ở Kyaukphyu. Khi đường ống dẫn này vận hành hoàn chỉnh, có thể bơm 22 triệu tấn dầu thô mỗi năm – tương đương khoảng 4% tổng số nhu cầu của Trung Quốc năm 2015.25* Các đường ống dẫn Trung Quốc – Myanmar sẽ gia nhập các đường ống chạy từ Kazakhstan và Turkmenistan trong việc mang đến các nguồn cung ứng năng lượng bằng đường bộ, điều mà Bắc Kinh cho là cần yếu cho an ninh năng lượng của Trung Quốc.

Ðối với giới chiến lược gia của Bắc Kinh, phần thưởng cho việc “thâu” được vùng ven biển phía Tây là điều mơ tưởng. Các đường ống dẫn dầu khí giúp Trung Quốc nhập khẩu các nguồn cung ứng năng lượng mà không cần các tàu chở dầu từ châu Phi và Trung Ðông để vượt qua được vùng biển hẹp và đầy bọn hải tặc, nằm giữa Indonesia và Malaysia – eo biển Melaka khét tiếng – nơi mà Bắc Kinh sợ rằng sẽ bị Hải quân Hoa Kỳ phong tỏa nếu có chiến tranh. Số lượng dầu đi qua eo biển Melaka nhiều gấp ba so với đi qua kênh đào Suez, trong đó có khoảng 80% lượng nhập khẩu dầu của chính Trung Quốc. Mặc dù công suất hiện tại của các đường ống dẫn ở Myanmar khá nhỏ so với nhu cầu năng lượng khổng lồ của Trung Quốc, nhưng Bắc Kinh tin họ sẽ có cách giải quyết cái gọi là “tình thế lưỡng nan Malacca (Malacca dilemma)”[47].

Cảng Trung Quốc ở đảo Maday là một phần trong kế hoạch lớn hơn nhằm kiến thiết các tuyến liên kết vận tải từ vịnh Bengal đến Trung Quốc. Các tuyến vận tải hiệu dụng từ Kyaukphy sẽ giúp Trung Quốc nhập khẩu trực tiếp các loại vật tư thô khác, rút ngắn được đoạn đường dài hàng nghìn km. Ngoài ra, việc thiết lập một trung tâm giao thương ở đó sẽ cho phép các công ty từ miền Tây Bắc Trung Quốc có thể xuất khẩu hàng nhanh chóng và ít tốn phí sang Ấn Ðộ, Bangladesh và xa hơn nữa. Trung Quốc gọi hoạch định này là “Hành lang Kinh tế Bangladesh – Trung Quốc – Ấn Ðộ – Myanmar” (BCIM). Hoạch định này được hình thành trước Sáng kiến Vành đai và Con đường, nhưng giờ đây gần như chắc chắn được xem như là một phần của dự án này. Trên hết, hành lang kinh tế này đem lại một phần thưởng chiến lược to lớn cho Bắc Kinh: Cơ hội mở rộng phạm vi ảnh hưởng sang Ấn Ðộ Dương.26*

Hoạch định BCIM sẽ chứng kiến các tuyến liên kết vận tải mới từ tỉnh Vân Nam phía Tây Nam. Bắt đầu ở Côn Minh và kết thúc ở Kolkata, hành lang đề xuất này phỏng theo đường đi của Trà Mã Cổ Ðạo (Ancient Tea Horse Road) đi qua Myanmar và Bangladesh, tuyến đường giao thương ngày xưa từng một thời có tên Con đường Tơ lụa phương Nam. Bắc Kinh có một kế hoạch to lớn nhằm xây dựng tuyến cao tốc và tuyến đường sắt song song nhau từ Thụy Lệ đến Kyaukphyu, với một con đường bộ riêng rẽ chạy qua miền Bắc Myanmar, các Bang Ðông Bắc Ấn Ðộ, và Bangladesh. Những người ủng hộ hoạch định này bảo rằng nó sẽ làm tăng giao thương và đầu tư ở một trong những vùng chậm tiến nhất châu Á, vốn từ lâu bị ảnh hưởng bởi cuộc nổi loạn của các bộ lạc.

Kể từ năm 2013, Côn Minh đã đăng cai Triển lãm Trung Quốc – Nam Á nhằm phát huy giao thương dọc hành lang này. Khi tôi ghé đó năm 2014, bữa tiệc đang rình rang với nhiều người mua sắm đang mặc cả về những tấm thảm Afghanistan, đồ thủ công Pakistan, lụa và vải dệt từ Ấn Ðộ và Bangladesh, và đá quý Sri Lanka. Sự kiện này được tổ chức bên cạnh Hội chợ Côn Minh lâu đời hơn, một sự kiện nổi tiếng và đầy màu sắc đã được tổ chức suốt hai thập niên nay. Các gian hàng trong các gian phòng triển lãm đều chất đầy sản vật địa phương, bán mọi thứ từ ngọc bích Miến Ðiện và trà Phổ Nhị cho đến trang sức hạt yak-bone và da báo Tây Tạng. Những người đẹp uyển chuyển đến từ nhiều sắc tộc thiểu số ở Vân Nam đã ép các vị khách mua đùi lợn muối bảo quản khô và mấy túi nấm ăn bí ẩn.

Việc nâng cấp Hội chợ Côn Minh cũ kĩ là một phần thuộc dự án của Bắc Kinh nhằm tăng cường phát triển dọc biên giới Trung Quốc. Những vùng “tự trị” Tân Cương và Quảng Tây, vốn giống Vân Nam, là quê hương của rất nhiều nhóm ngư?