← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 6 VÙNG BIỂN SÔI SỤC

Sáng sớm ngày 23 tháng Năm năm 2014, Lê Thị Tuyết Mai lên taxi đến cổng trước Dinh Ðộc Lập ở Thành phố Hồ Chí Minh. Ở nơi kết thúc cuộc Chiến tranh Việt Nam ngày 30 tháng Tư năm 1975, bà rưới xăng lên người và tự thiêu. Bảo vệ của dinh dập tắt lửa trong vòng vài phút, nhưng người đàn bà 67 tuổi đã chết. Bên cạnh cái xác tự thiêu của bà, lực lượng chức năng tìm thấy những tấm biểu ngữ với các câu khẩu hiệu viết tay có nội dung lên án những hành động của Trung Quốc ở Biển Ðông.1*

Những tuyên bố chủ quyền đơn phương không được công nhận của Trung Quốc ở vùng Biển đông

Sự việc trên xảy đến một tuần sau khi những cuộc phản đối Trung Quốc và những vụ phản đối mãnh liệt xuất hiện nhiều nơi ở Việt Nam. Nhiều nhà máy có chữ Trung Quốc trên tấm biển ghi tên đều bị phản đối, bao gồm nhiều nhà máy thuộc sở hữu của các công ty Ðài Loan. Hàng trăm người Trung Quốc và Ðài Loan rời khỏi Việt Nam, do lo ngại về an toàn cá nhân.2* Những cuộc phản kháng này được kích khởi từ quyết định của Tổng công ty Dầu khí Hải dương Trung Quốc (CNOOC) trong việc đặt một giàn khoan cách bờ biển Việt Nam 120 hải lí ở vùng biển đang được cả Trung Quốc và Việt Nam tuyên bố chủ quyền[55]. CNOOC đã thiết lập một khu vực phong tỏa quanh giàn khoan trị giá 1 tỉ đô-la của họ, Hải dương 981 (HD981), và bắt đầu khoan thăm dò dầu khí vào ngày 2 tháng Năm. Khi Việt Nam điều tàu thuyền đến ngăn trở công việc hoạt động, những tàu thuyền đó đều bị tàu Trung Quốc đâm vào. Ðó là biến cố nghiêm trọng nhất trong vụ tranh chấp lãnh hải trường kì giữa Trung Quốc và Việt Nam kể từ vụ Hải chiến Rạn san hô Gạc Ma (Johnson South Reef Skirmish) năm 1988, lúc đó 70 lính Việt Nam bị sát hại. Ngoài đường phố Việt Nam, biến cố đó trở thành kích nổ cho những cảm thức căng thẳng đối với Trung Quốc đang tích tụ chuẩn bị sôi sục lên.

Giàn khoan của Trung Quốc được đặt cách 17 hải lí so với rìa Tây Nam quần đảo Hoàng Sa, một nhóm gồm 130 đảo san hô, rạn đá san hô và bờ cát nằm cách bờ biển Trung Quốc và Việt Nam một khoảng gần bằng nhau. Nằm rải rác một khu vực biển có kích cỡ bằng Bắc Ireland hoặc Connecticut, quần đảo Hoàng Sa được Trung Quốc, Ðài Loan và Việt Nam tuyên bố chủ quyền, nhưng đã bị Trung Quốc kiểm soát kể từ khi họ đánh hạ quân lực miền Nam Việt Nam trong trận hải chiến năm 1974. Kể từ thập niên 1980, Bắc Kinh đã rót tiền vào việc gia cố vị thế của họ ở quần đảo này, nằm cách khoảng 350km về phía Ðông Nam so với đảo Hải Nam, nơi đặt căn cứ quân sự trọng yếu của Trung Quốc. Trên đảo Phú Lâm (Woody Island), hòn đảo lớn nhất, họ đã xây dựng một cầu tàu nhân tạo khá lớn và một đường băng có thể đón các máy bay chiến đấu lẫn máy bay dân dụng. Kể từ tháng Bảy năm 2012, hòn đảo này đã chính thức phục vụ ở vai trò trung tâm hành chính của Tam Sa[56], một “thành phố” cấp địa khu[57]của tỉnh Hải Nam vốn lo việc trông nom các tuyên xưng chủ quyền lãnh hải của Trung Quốc ở khắp vùng Biển Ðông. Hàng nghìn cư dân ở đây được phục vụ bởi các cửa tiệm, các văn phòng, các nhà nghỉ, các nhà ăn, một bưu điện, một ngân hàng, một trường học và một bệnh viện. Bắc Kinh đang làm mọi thứ có thể nhằm biến một hòn đảo từng hoang vắng trở thành một miếng đất không thể tranh chấp được.3*

Bên cạnh tuyên xưng chủ quyền một cách trái phép về quần đảo Hoàng Sa, cách mấy trăm km về phía Nam, sự xác định chủ quyền của Trung Quốc đối với quần đảo Trường Sa là thứ vô cùng đáng ngờ khác. Trường Sa là một quần đảo có hơn 750 đảo lớn, đảo nhỏ, rạn đá san hô và rạn san hô vòng nằm ngoài khơi miền Nam Việt Nam, Malaysia và Philippines. Một số hoặc tất thảy những địa mạo này đều được tuyên xưng chủ quyền bởi sáu quốc gia. Bãi cạn James (James Shoal), nơi mà Bắc Kinh tìm cách chứng minh là “địa phương cực Nam của lãnh thổ Trung Quốc”, là ví dụ cho thấy những tuyên xưng chủ quyền của họ đã trở nên hoạt kê tới dường nào. Khác hẳn một địa mạo thực thụ, bãi cạn James thực ra là một bờ cát với điểm cao nhất nằm dưới mực biển tới 22m. Nó còn nằm cách 1500km so với đảo Hải Nam, khu vực phía Nam nhất của lãnh thổ Trung Quốc vốn không ai tranh giành. Bờ biển Malaysia, ngược lại, chỉ cách đó 80km. Thế nhưng Bắc Kinh lại bảo những tuyên xưng chủ quyền về lịch sử của họ đã vượt qua phương diện địa lí.

Trung Quốc đã xây dựng hơn 3000 mẫu đất đảo nhân tạo ở Biển Ðông kể từ năm 2014, theo số liệu của Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ.4* Họ đã tập trung hầu hết các nỗ lực cải tạo đất cường độ cao ở quần đảo Trường Sa, xây bảy đảo nhỏ mới ở đó chỉ nội trong quãng 2014-2015. Nhiều nước trong khu vực đều bắt đầu cải tạo đất trước đó, nhưng Trung Quốc đã làm thế ở quy mô lớn hơn nhiều. Những bức ảnh vệ tinh được công bố bởi Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (Center for Strategic and International Studies) ở Washington năm 2015 cho thấy các máy nạo vét Trung Quốc hút trầm tích khỏi đáy biển và đổ lên những bờ cát trước đây chìm dưới biển.5* Ở rạn san hô Chữ thập (Fiery Cross Reef), hòn đảo có ý nghĩa về mặt chiến lược nhất đối với Trung Quốc ở quần đảo Trường Sa, họ đã xây các cơ sở cảng khẩu, lắp đặt nhiều radar và làm một đường băng đủ dài để đáp những chiếc phi cơ vận tải lớn. Mặc dù Bắc Kinh xác quyết hầu hết công trình này đều dùng cho mục đích dân sự, nhưng họ rõ ràng có ý tăng cường lực lượng hải quân và không quân. Họ còn thừa nhận rằng họ cần có thế phòng thủ mạnh hơn tại quần đảo Trường Sa chính vì quần đảo này nằm quá xa Trung Quốc đại lục.6*

Ðối với các nước láng giềng của Trung Quốc ở Ðông Nam Á, hành vi của Trung Quốc ở Biển Ðông chung quy là chính sách hiển hiện về chủ nghĩa bành trướng. Tại đây, “Giấc mộng Trung Quốc” vốn được Tập Cận Bình ca tụng nhiều lần trông gần giống như một cơn ác mộng. Vào tháng Hai năm 2016, Lầu Năm Góc của Hoa Kỳ xác nhận rằng Trung Quốc trước đó đã triển khai nhiều tên lửa đất-đối-không ở đảo Phú Lâm, và rất hiếm quan sát viên nào ngạc nhiên nếu Trung Quốc cũng đặt tên lửa ở quần đảo Trường Sa.7* Lo sợ trước tình hình quân sự hóa gia tăng ở Biển Ðông, Washington đã theo phía các nước tuyên xưng chủ quyền còn lại trong vụ tranh chấp này. Họ thường xuyên cảnh báo Bắc Kinh về những hành động “gây hấn”, và đã giong nhiều chiến hạm đến gần các đảo đang tranh chấp. Cựu Tổng thống Philippines Benigno Aquino liên tục so sánh việc Trung Quốc bành trướng trong khu vực với việc bành trướng của Ðức hồi thập niên 1930.8* “Y như đất đai nước Ðức làm nên tiền tuyến quân sự của Chiến tranh Lạnh”, theo lời cảnh báo của Robert Kaplan, một tác giả và phân tích gia an ninh từng cố vấn cho Lầu Năm Góc, “vùng Biển Ðông có thể làm nên một tiền tuyến quân sự của nhiều thập niên sắp tới đây”.9*

Năm 1975, Ðặng Tiểu Bình đơn phương cho rằng các hòn đảo ở vùng Biển Ðông đã “thuộc về Trung Quốc từ thời thượng cổ”. Kể từ lúc ấy, những lời này đã xuất hiện trong vô vàn những bản văn chính thức để ủng hộ cho tuyên xưng chủ quyền của Trung Quốc đối với vùng biển trải dài đến tận lãnh hải tự nhiên của các quốc gia Ðông Nam Á.10* Bắc Kinh gia cố thêm cho tuyên xưng này bằng tấm bản đồ cho thấy đường hình chữ U được cấu thành từ chín hoặc mười đường đứt đoạn, đôi lúc còn được ví như “lưỡi bò”, chạy dọc bờ biển Việt Nam, dọc theo bờ biển của đất liền Malaysia và Borneo, và vòng lên lại qua các hòn đảo của Philippines tới Ðài Loan. Bắc Kinh bảo rằng tấm bản đồ này cho thấy quyền sở hữu theo lịch sử đối với hầu hết toàn bộ Biển Ðông, nhưng chưa bao giờ giải thích cơ sở lịch sử của nó một cách đường hoàng. Sự thật là những tuyên xưng của Trung Quốc về chủ quyền cổ đại ở Biển Ðông đều là những lời vô nghĩa về mặt lịch sử.

Trong gần 2000 năm, Biển Ðông và các cộng đồng duyên hải Ðông Nam Á đều là một chốn đa ngôn ngữ của các hoạt động giao thương và trao đổi hàng hóa. Các vùng biên giới đều bất định và các ranh giới trên biển từng là thứ không tồn tại. Không có chứng cứ khảo cổ nào cho thấy tàu Trung Quốc đã có những chuyến hải trình giao thương khắp Biển Ðông cho đến thế kỉ 10, khi ấy các thương nhân của vương quốc Mân Nam lên đường từ cảng Tuyền Châu nằm ở tỉnh Phúc Kiến thời hiện đại. Tới cuối thế kỉ 16, các hạm đội giao thương Trung Quốc mới bắt đầu đông hơn tàu của thương nhân Ðông Nam Á – nhưng không có lí nào các hòn đảo mà họ giong thuyền đi qua lại “thuộc về” Trung Quốc. Ðầu thế kỉ 15, triều Minh đã phái thống sứ thái giám Trịnh Hòa chỉ huy các đội viễn dương đi băng qua vùng Biển Ðông, nhưng thời kì hướng ngoại này chỉ kéo dài 30 năm. Khi Hoàng đế nhà Minh chuyển hướng vào trong lại, các tấm bản đồ của Trịnh bị đốt và tàu của ông bị để cho mục nát. “Thời ấy Trung Quốc không sở hữu được con tàu hải quân nào đủ sức tới những hòn đảo ở Biển Ðông cho đến mãi 500 năm sau họ mới được Hoa Kỳ trao cho một chiếc”, Bill Hayton viết thế trong cuốn sử trác tuyệt về khu vực này.11*

Vào thế kỉ 18, khi giới thương gia và giới lao động Trung Quốc bắt đầu tìm kiếm thời vận của mình ở khắp Ðông Nam Á, một “đế quốc phi chính thức” bắt đầu hình thành quanh mép vùng Biển Ðông. Hàng nghìn di dân người Hoa đã lập nhiều đồn điền hoặc làm việc ở các mỏ, hình thành nhiều cộng đồng khắp khu vực này. Nhưng những di dân này cũng như các nhà đương cục triều Thanh đều không chú ý nhiều đến khu vực biển xanh rộng lớn ở phía bên kia bờ biển. Giới thương gia người Hoa nhìn chung giong tàu thuyền đi gần đất liền, sợ rằng quần đảo thần thoại ngoài khơi Ðông Dương đã chắn lối vào những vùng biển ở phía bên kia. Ðiều này cuối cùng bị bác bỏ bởi một chuyên gia thủy văn học làm việc với Công ty Ðông Ấn thuộc Anh hồi năm 1821, người công bố hải đồ đầu tiên của Biển Ðông có chứa nhiều tấm bản đồ chính xác một cách hợp lí về quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Tuy vậy nhà nước Trung Quốc vẫn còn trong cảnh tăm tối không biết gì về địa lí: “Có nhiều bãi đá lớn, nhưng chúng tôi không biết gì về chúng”, soạn giả Uông Văn Ðài đã viết thế về quần đảo Trường Sa vào năm 1843.12*

Cơ sở cho những ranh giới hiện tại của Biển Ðông lúc ấy được thiết định bởi các cường quốc ở châu Âu, những nước thâu nạp phần lớn Ðông Nam Á làm thuộc địa hồi thế kỉ 19, tạo nên những nhà nước cố định và đánh dấu biên giới dọc theo các đường ranh theo tinh thần Hòa ước Westphalia. Tuy vậy đây là một khái niệm hoàn toàn xa lạ đối với những chính thể trong khu vực này. Uy quyền của các bậc cai trị truyền thống thường tỏa ra từ trung tâm vương quốc của họ, càng ra xa càng giảm dần. Các ranh giới quốc gia trước đó luôn mập mờ, và các ranh giới trên biển lại càng mập mờ hơn. Các ranh giới chính trị hiện đại chỉ được thiết lập khi các quốc gia Tây phương chia phần lãnh thổ, mở rộng những ranh giới này sang vùng biển. Ở Trung Quốc những quan niệm hiện đại về chủ quyền phải mất nhiều năm mới trở thành điều phổ biến: không hề có biên giới nào trong tấm bản đồ đầu tiên do chính quyền Cộng hòa mới của Trung Quốc làm ra sau vụ truất phế Hoàng đế nhà Thanh.

Năm 1914, giới vẽ bản đồ Trung Quốc công bố một tấm bản đồ có ý cho thấy phạm vi lãnh thổ lịch sử thuộc Trung Quốc vào thời điểm Hoàng đế Càn Long lên ngôi năm 1735. Nó cho thấy một đường được vẽ băng qua vùng Biển Ðông, đi về phía Nam một quãng không xa hơn 15 độ Bắc, đi nửa đường xuống bờ biển Việt Nam. Những hòn đảo duy nhất nằm trong đường này là quần đảo Ðông Sa (Pratas), phía Tây Nam Ðài Loan, và quần đảo Hoàng Sa (Việt Nam)[58]. Nhưng vào năm 1933, khi chính quyền Pháp tuyên báo họ trước đó đã làm chủ quần đảo Trường Sa cách tầm 1000km về phía Nam, chính quyền Trung Quốc đã phản ứng. “Tất cả những nhà địa lí chuyên nghiệp của chúng tôi đều bảo rằng đảo Tri Tôn (Triton) (ở quần đảo Hoàng Sa) là đảo cực Nam của lãnh thổ chúng tôi”, theo lời ghi của Ủy ban Quân sự trong một báo cáo mật. “Nhưng có lẽ chúng tôi có thể tìm ra chứng cứ nào đó cho thấy chín hòn đảo (ở quần đảo Trường Sa) là một phần lãnh thổ của chúng tôi trong quá khứ”.13* Năm đó, họ thiết lập Ủy ban Thẩm tra Ðịa chất đất liền và Biển. Năm 1935, ủy ban đó công bố một danh sách các hòn đảo mà Trung Quốc cho rằng có quyền sở hữu – bao gồm 96 đảo ở quần đảo Trường Sa.

Một năm sau, một trong những sáng lập viên của Hội Ðịa lí Trung Quốc đi thêm một bước. Bạch Mi Sơ là một nhà quốc gia chủ nghĩa nhiệt thành, người trước đây từng công bố tấm bản đồ “Trung Quốc quốc sỉ” cho thấy phạm vi lãnh thổ Trung Quốc bị mất vào tay đế quốc châu Âu và Nhật. Khi phân ranh giới cho vùng lãnh thổ “chính đáng” của Trung Quốc, cuốn Trung Hoa Kiến thiết Tân đồ (New China Construction Atlas/ 中華建設新圖) đã bao gồm đường chữ U vòng quanh gần như toàn bộ Biển Ðông, đi tận về phía Nam đến bãi cạn James. Một bản đồ tương tự, cho thấy một đường chữ U gồm 11 đường đứt đoạn, được chính quyền Quốc dân đảng của Trung Quốc công bố năm 1947.14* Sau khi thành lập Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa năm 1949, chính phủ mới đã tiếp dụng tấm bản đồ đó, khi ấy được vẽ lại thành chín đường đứt đoạn.

Từ lúc ấy, tấm bản đồ đó trở thành cơ sở cho tuyên xưng của Trung Quốc về “chủ quyền” đối với khoảng 85% Biển Ðông. Vào tháng Năm năm 2009, khi Trung Quốc nộp một tấm bản đồ cho Ủy ban Liên hợp quốc về Ranh giới thềm lục địa (Limits of the Continental Shelf), họ đã đưa vào “đường chín đoạn”.15* Ðây là lần đầu tiên “đường chín đoạn” được dùng trong văn cảnh quốc tế, tuy vậy giờ đường này đã được đánh dấu trên mọi bản đồ chính thức của Trung Quốc.

Khá dễ hiểu là các nước láng giềng của Trung Quốc ở Ðông Nam Á lại phản ứng đầy phẫn nộ. Việc công bố tấm bản đồ đó đã dẫn phát việc suy hoại những mối bang giao trong khu vực, vốn đã cải thiện rất nhiều suốt 20 năm trước đó. Mặc dù đã tuyên bố về những hòn đảo của Biển Ðông thuộc về Trung Quốc kể từ “thời thượng cổ”, nhưng Ðặng Tiểu Bình đã cẩn trọng không đốc thúc những lời tuyên xưng chủ quyền lãnh hải của Trung Quốc ở những phạm vi xa hơn trong Biển Ðông, và muốn nhấn mạnh tiềm năng cho sự hợp tác kinh tế. Thực vậy, Ðặng từng hay bảo rằng điều đột phá của chính sách ngoại giao mà ông tự hào nhất không phải là việc bình thường hóa hoàn toàn các mối bang giao của Trung Quốc với Hoa Kỳ – mà chính là việc cải biến mối quan hệ của Trung Quốc với các nước Ðông Nam Á. Từng một thời là đối thủ, Trung Quốc đã trở thành đối tác tiềm năng của những nước này.16*

Nhưng vào năm 2009, những năm tháng ngoại giao sắc sảo đã bắt đầu tan rã. Sau khi trình tấm bản đồ cho Liên hợp quốc, Trung Quốc bắt đầu đốc thúc những tuyên xưng chủ quyền lãnh hải ở Biển Ðông bằng những động thái mạnh mẽ hơn. Họ yêu cầu Exxon Mobil và BP dừng khai thác ở vùng biển ngoài khơi Việt Nam và bắt đầu sách nhiễu các tàu cá của những nước khác. Lần đầu tiên, họ bắt đầu nói đến chuyện 3,5 triệu km2 biển là “lợi ích cốt lõi”, ngang hàng với Tây Tạng và Ðài Loan. Ðiều này khiến Washington nhập cuộc. Ngoại trưởng Hillary Clinton khẳng định rằng tự do đi lại ở vùng Biển Ðông, nơi có một nửa tàu chở hàng thương mại của thế giới đi qua, chính là “lợi ích quốc gia” của Hoa Kỳ. Ðiều này kích khởi phản ứng giận dữ của Bộ trưởng Ngoại giao đương nhiệm của Trung Quốc là Dương Khiết Trì ở cuộc gặp thường niên của ASEAN vào tháng Bảy năm 2010. 17*

Mục tiêu của Trung Quốc là đặt khuôn khổ trong vùng Biển Ðông, thúc bách các nước láng giềng nhỏ hơn phải tuân theo. Indonesia, quốc gia lớn nhất trong tổ chức, phản ứng bằng cách đôn thúc việc cố kết nhiều hơn nữa bên trong ASEAN. Tờ Hoàn cầu Thời báo theo chủ nghĩa quốc gia của Trung Quốc cảnh báo rằng các quốc gia ASEAN sẽ nghe “tiếng súng thần công” nếu họ không rút lại ý mình.18* Nhưng thái độ địch thù của Bắc Kinh bị phản pháo: sau khi họ gây áp lực bắt Myanmar và Campuchia đồng thuận họ trong khối ASEAN, Bangkok và Singapore hiệp lực cùng Jakarka và Hà Nội, trong một ví dụ hiếm hoi về tinh thần kiên quyết tập thể. Tệ hơn nữa, điều đó còn khiến các quốc gia Ðông Nam Á tin rằng họ cần tiến gần hơn về phía Hoa Kỳ một lần nữa – ngay đúng cái điều làm Bắc Kinh lo ngại ngay từ đầu. Năm 2012, trong một phần chiến lược “xoay trục sang châu Á”, Hoa Kỳ tuyên bố những kế hoạch để cải tiến việc triển khai hải quân ở khắp các đại dương trên thế giới, với 60% được tập trung ở Thái Bình Dương vào năm 2020.19* Những mối bang giao giữa Trung Quốc với ASEAN đúng lúc lại suy hoại thêm nữa, do họ dùng tàu hải quân để thực thi việc cấm đánh bắt cá ở vùng biển ngoài khơi bãi cạn Scarborough gần Philippines, và nước này đã phản ứng vào tháng Một năm 2013 bằng cách yêu cầu tòa án Liên hợp quốc làm trọng tài phân xử.20*

Ðây là tình huống nhiều biến động được để lại cho Chủ tịch Tập Cận Bình và Thủ tướng Lý Khắc Cường khi họ nhậm chức ở cương vị lãnh đạo Trung Quốc vào tháng Ba năm 2013. Ban đầu, họ tỏ vẻ có ý đưa những mối bang giao về lại thế tích cực hơn. Quét qua Ðông Nam Á trong một cơn bão các phi vụ giao thương và đầu tư, Thủ tướng Lý Khắc Cường đã đề xuất một “đồng thuận chính trị”[59] mới dựa trên mối lợi chung đang mở rộng, và kí một điều ước về “láng giềng hòa thuận và hữu hảo”.21* Chủ tịch Tập Cận Bình làm theo đó bằng cách kí kết những mối quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với Indonesia và Malaysia để tăng cường hợp tác an ninh và cải thiện các mối ràng buộc kinh tế. Lối ngoại giao mới này kết lại bằng lời kêu gọi của Tập, lần đầu ở Jakarta vào tháng Mười năm 2013, nhằm xây dựng một Con đường Tơ lụa trên biển thế kỉ 21.

Nhưng những nụ cười thân thiện nhanh chóng tan đi khi lối ngoại giao mới theo kiểu “tích cực chủ động” của Bắc Kinh đã “nhe răng” gầm gừ khắp nơi. Dấu hiệu đầu tiên cho một đường hướng tiếp cận trực diện hơn xuất hiện vào tháng Mười Một năm đó, khi Trung Quốc thiết lập Khu Nhận dạng Phòng không (AIDZ)[60] ở vùng Biển Hoa Ðông (East China Sea). Khu nhận dạng này bao gồm quần đảo Senkaku đang bị tranh chấp, hay còn gọi là quần đảo Ðiếu Ngư từ phía Trung Quốc, quần đảo mà Bắc Kinh khẳng định là Nhật đã chiếm của họ vào năm 1895. Bất kì máy bay nào bay qua biển Hoa Ðông phải báo cáo lộ trình bay và hồi đáp những câu hỏi của quân đội Trung Quốc. Lập luận của Trung Quốc với Nhật được chống đỡ bằng một cảm thức tích tụ bấy lâu về những hành vi sai trái (của Nhật) trong lịch sử, vốn là thứ không ứng nghiệm ở Ðông Nam Á; tuy vậy nhiều nhà phân tích quân sự lại chờ Trung Quốc quyết định tuyên bố một ADIZ thứ nhì ở Biển Ðông.

Vào đầu năm 2014, Trung Quốc chuyển sự chú ý sang phía Nam. Họ đơn phương tái xác quyết quyền của mình trong việc điều tiết việc đánh bắt cá khắp toàn bộ vùng biển được bao gồm trong “đường chín đoạn”, và họ ồ ạt tăng cường các hoạt động trong chương trình cải tạo đất trái phép. Khi ấy, mặc cho đã nói thật nhiều về sự phát triển và hợp tác chung, họ lại điều giàn khoan Hải dương 981 đến khoan thăm dò dầu ở ngoài khơi Việt Nam, làm dấy khởi nhiều cuộc phản kháng Trung Quốc. Sau đường lối gây cảm tình (charm offensive) ngắn ngủi, chính sách ngoại giao của Trung Quốc ở vùng biển khu vực Ðông Nam Á đã quay sang hành vi, gieo mối âu lo và hoang mang khắp cả khu vực.

Kể từ năm 2014, chính sách của Trung Quốc ở Biển Ðông đã công khai thiên lệch chủ nghĩa bành trướng. Mặc cho liên tục hứa hẹn không quân sự hóa khu vực này, họ lại làm đúng công việc đó. Nếu việc đặt những tên lửa đất-đối-không ở những hòn đảo được cải tạo đất không phải hành vi quân sự hóa, như Trung Quốc khẳng quyết, thì thật khó biết đó là hành vi gì.22* Có lẽ thái độ ương ngạnh của Trung Quốc trông như một sai lầm lớn về chiến thuật: Tại sao lại tháo bỏ đi nhiều năm thực hiện lối ngoại giao tích cực để thu về cái lợi rõ ràng là quá sức ít ỏi này?

Rõ ràng chuyện này chủ yếu không phải xoay quanh việc có được nguồn dầu khí mới. Các chuyên gia tin rằng Biển Ðông chứa khá ít dầu khí, và những nguồn ít ỏi ở đó khó lòng trích xuất được: phần địa chất gây phiền hà và khu vực này chịu nhiều trận bão dữ dội vào mùa hè. Trong một báo cáo công bố vào tháng Hai năm 2013, Cục Thông tin Năng lượng Hoa Kỳ (US Energy Information Administration) ước tính Biển Ðông chứa 11 tỉ thùng dầu từ nguồn dự trữ dùng được cho thương mại – chắc chắn đáng để khai thác, nhưng không đủ để kích thích các hãng dầu lớn.23* Thử phép so sánh, Venezuela có nguồn dự trữ dầu gần 300 tỉ thùng. Hơn nữa, hầu hết dầu ở Biển Ðông đều được tìm thấy bên trong các vùng đặc quyền kinh tế (EEZ – Exclusive Economic Zone) của từng nước, nằm gần các bờ biển; chỉ một phần nhỏ nằm bên trong vùng lãnh hải hình chữ U đang tranh chấp. Trung Quốc nhập 336 triệu tấn dầu thô vào năm 2015, tương đương tầm 2,5 tỉ thùng.24* Nên cho dù họ có lấy được toàn bộ dầu nằm dưới Biển Ðông, số đó chỉ đủ để thỏa mãn nhu cầu về dầu trong vài năm. Biển Ðông ở vai trò tuyến vận tải dầu có tầm quan trọng hơn nhiều so với số dầu nằm bên dưới biển.

Ðộng lực thực sự của Trung Quốc ở Biển Ðông là có được kiểm soát chiến lược đối với các tuyến đường vận tải. Biển Ðông dẫn đưa một phần ba lượng giao thông hàng hải toàn cầu, bao gồm hầu hết hàng Trung Quốc xuất khẩu, và hơn 80% dầu nhập khẩu vào Trung Quốc. Theo lẽ khá hợp lí khi Bắc Kinh đang thiết lập một lực lượng quân sự nhằm bảo vệ các tuyến cung ứng năng lượng của họ – một công việc hiện đang được Hoa Kỳ, đối thủ địa chính trị của họ, thực hiện. Dễ hiểu khi họ còn kiên quyết đảm bảo được an ninh ở sân sau của chính mình. Một số nhà phân tích lập luận rằng Trung Quốc chỉ đang lặp lại những gì Hoa Kỳ từng làm hồi thế kỉ 19, khi họ xua các quốc gia châu Âu ra khỏi Biển Caribê.25* “Từ góc nhìn Trung Quốc, tôi tin rằng nếu Trung Quốc biến Biển Ðông thành một cái hồ khổng lồ cho họ, điều đó quá sức hợp lí”, theo lời John Mearsheimer, một nhà khoa học chính trị trứ danh. “Trung Quốc phải muốn kiểm soát toàn bộ Biển Ðông, y như cách Hoa Kỳ kiểm soát toàn bộ vùng Caribê”.26* Theo quan điểm của ông, thật có lí khi Trung Quốc “muốn thống trị châu Á theo cách Hoa Kỳ thống trị Tây bán cầu” – bắt đầu bằng vùng biển phụ cận vốn có đông đảo những thế lực nhỏ hơn và yếu hơn nhiều.

Ðây là chính sách thực dụng đến thẳng thắn. Tuy vậy Bắc Kinh tìm cách làm cho vị thế của mình thật vững vàng bằng cách viện dẫn có chọn lọc một số nguyên tắc pháp lí theo ý mình hòng biện minh cho hành động của họ. Họ đã kí kết Công ước Liên hợp quốc về Luật biển (UNCLOS), vốn nhằm vào việc cung cấp một cơ sở pháp lí hiện đại cho những tuyên xưng chủ quyền trên biển. Theo công ước này, những hòn đảo có người ở sẽ được quyền trở thành một EEZ ở ngoài khơi cách bờ 200 hải lí. Quần đảo Hoàng Sa nằm trong EEZ chồng lấn nhau của Việt Nam và Trung Quốc, nhưng Trung Quốc không có chủ quyền pháp lí hợp lệ. Dẫu vậy, bản đồ chính thức gần đây của Trung Quốc đánh dấu rõ ràng phạm vi lãnh hải của mình đối với quần đảo Trường Sa và bãi cạn Scarborough, một chuỗi rạn san hô và bãi đá nằm cách 120 hải lí so với bờ biển của Philippines. Họ ngụy biện cho tuyên xưng này bằng cách viện dẫn đến tiền lệ lịch sử.

Bắc Kinh từ chối chấp thuận phân xử trọng tài của Liên hợp quốc về những tranh chấp trên biển. Họ tự miễn trừ mình ra khỏi thủ tục dàn hòa bắt buộc của UNCLOS đối với một số hạng mục tranh chấp, bao gồm những tranh chấp liên quan đến việc phân định lãnh hải. Sau vụ yêu cầu phân xử trọng tài của Philippines trước Tòa án Quốc tế được tổ chức ở Tòa Trọng tài Thường trực (Permanent Court of Arbitration) ở The Hague, Trung Quốc từ chối tham gia các vụ kiện này. Thay vào đó, họ triển khai một chiến dịch tuyên truyền lên án “tòa án lạm dụng luật” và xem đó là không chính đáng.27* Dẫu vậy, tòa án xác định họ có pháp quyền để xem xét bảy trong số mười đệ trình của Manila. Lời phán quyết nhất trí của tòa án, tuyên bố vào tháng Bảy năm 2016, đã đi xa hơn kì vọng của mọi người. Họ quyết định Trung Quốc không có cơ sở pháp lí để tuyên xưng quyền lịch sử bên trong “đường chín đoạn”, phán định rằng bãi cạn Scarborough là bãi đá chỉ được quyền trong vòng 12 hải lí lãnh hải, và quyết định rằng không địa mạo nào ở quần đảo Trường Sa là những hòn đảo thuộc quyền của EEZ. Họ không phân định bất kì ranh giới, cũng không phán định chủ quyền của bản thân các đảo nhỏ, nhưng họ đã vô hiệu hóa các tuyên xưng chủ quyền của Trung Quốc bên ngoài các lãnh hải quanh nước này. Do vậy họ có thể tuyên bố rằng các vùng biển nhất định do Trung Quốc tuyên xưng chủ quyền thực ra đều nằm trong EEZ hiện có của Philippines, và việc Trung Quốc chiếm đóng bãi cạn Scarborough đã phạm vào tuyên bố chủ quyền của Manila.28* Bắc Kinh tuyên bố phán quyết đó “vô hiệu”, nhưng ở vai trò nước kí kết UNCLOS, về mặt pháp lí Trung Quốc bị ràng buộc theo phán quyết này.

Bắc Kinh cố chứng minh tòa án không có pháp quyền theo UNCLOS để đưa ra tuyên án của mình. Ðiều quan trọng là Bắc Kinh phải nói kiểu nước đôi trước Công ước này, vì họ sẵn lòng viện dẫn Công ước khi nó phù hợp với chính mục đích của họ. Chẳng hạn trong một tuyên bố gửi cho Liên hợp quốc vào tháng Sáu năm 2014, Bộ Ngoại giao Trung Quốc khẳng định Việt Nam đang toan tính ngăn trở giàn khoan Hải dương 981, và là “những vi phạm nghiêm trọng đối với luật pháp quốc tế liên quan, bao gồm… UNCLOS”. Họ tự cho rằng sự quản trị thực tế của Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa gần đó đã vô hiệu hóa bất kì tranh chấp lãnh thổ nào: “Vì nó gần lãnh thổ Trung Quốc hơn, giàn khoan ở trong vùng biển của Trung Quốc”.29* Tuy vậy đó chính xác là cơ sở trong tuyên xưng chủ quyền của Philippines đối với bãi cạn Scarborough, vốn nằm gần bờ biển của họ hơn lãnh thổ Trung Quốc. Trung Quốc còn sử dụng quyền kiểm soát trái phép đối với quần đảo Hoàng Sa nhằm phủ nhận sự tồn tại của bất kì tranh chấp hợp lệ nào với Việt Nam – chính xác là cách tiếp cận của Nhật đối với quần đảo Senkaku, vốn được Tokyo quản lí trong 130 năm nay. Không ngạc nhiên khi Bắc Kinh muốn Tokyo thừa nhận rằng quần đảo Senkaku thực sự đang bị tranh chấp. Về những lập luận của Bắc Kinh, điều có thể nói duy nhất chính là việc họ bất nhất một cách nhất quán.

Việc Trung Quốc từ chối tuân theo các quy định đã làm suy yếu vị thế chính trị của họ. Năm 2002, Trung Quốc và các quốc gia thành viên ASEAN kí kết bản “Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Ðông” (Declaration on Conduct of the Parties in the South China Sea)”, thỏa thuận việc không làm trầm trọng thêm các mối căng thẳng trên biển, để giải quyết những tranh chấp lãnh thổ bằng phương pháp hòa bình, và để tuân theo các nguyên tắc của luật pháp quốc tế, bao gồm UNCLOS.30* Họ còn đạt thỏa thuận với Việt Nam năm 2011 để giải quyết các tranh chấp liên quan đến biển “thông qua những cuộc đàm phán và hiệp nghị thân thiện” và thỏa thuận với Philippines năm 2012 để rút tàu của Trung Quốc khỏi bãi cạn Scarborough. Có thái độ hoàn toàn không tôn trọng các thỏa thuận này, Trung Quốc chỉ đơn giản thực hiện bất kì hành động đơn phương nào mà theo họ đánh giá sẽ tăng cường được vị thế lãnh thổ của mình. Việc từ chối chấp thuận phán quyết của tòa án ở The Hague chỉ đơn giản là một ví dụ tồi tệ hơn nữa của một kiểu mẫu hành động thường xuyên tái diễn. Khi đụng đến những vấn đề an ninh và chủ quyền, Trung Quốc sẵn lòng miệt thị các luật lệ đặt ra ở phương Tây.

Tóm lại, Bắc Kinh lựa chọn các lập luận nhằm giúp hậu thuẫn cho những tuyên bố của mình, nhưng lại từ chối không chịu bị ràng buộc theo các lập luận ấy. Họ khơi gợi các nguyên tắc huyễn diệu, nhưng lại trơ tráo theo đuổi bất kì chính sách nào mà theo họ sẽ tăng cường mức ảnh hưởng của mình. Họ khăng khăng đòi giải quyết các tranh chấp theo lối song phương, nhưng lại với tay tìm đến Liên hợp quốc hoặc hành động độc lập khi thấy phù hợp. Họ lên tiếng đầy trách nhiệm về chuyện giải quyết các tranh chấp thông qua các phương pháp hòa bình, nhưng lại hành động đơn phương một cách thiếu kiểm soát – một chiến lược mà người Việt Nam gọi là “miệng nói và tay làm (talk and take)”.31* Ở một buổi họp báo cho kì Ðại hội Nhân dân Toàn quốc năm 2014, Vương Nghị, Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc, bày tỏ những xung động mâu thuẫn vốn đang định hình chính sách ngoại giao của Trung Quốc. “Chúng tôi sẵn lòng lắng nghe những tiếng nói từ các nước láng giềng và hồi đáp lại những nghi ngờ của họ về chính sách láng giềng hòa thuận của Trung Quốc”, ông nói, một cách khá hợp lí. “Nhưng”, ông nói tiếp, chuyển sang giọng có chút đanh thép, “chúng tôi sẽ bảo vệ từng tấc đất vốn thuộc về chúng tôi”.32*

Chủ nghĩa bành trướng từng phần một của Trung Quốc ở Biển Ðông được ví như động tác cắt lát salami. Họ cẩn thận để bảo đảm rằng từng miếng lãnh hải mới mà họ cắt ra đều đủ nhỏ để không gây ra một cuộc chiến tranh, nhưng cuối cùng, sự tổn thất tích tụ lại sẽ làm thay đổi triệt để cán cân quyền lực.33* Ðến nay, chính sách này thành công ở mức hợp lí. Vị thế của Trung Quốc ở Biển Ðông mạnh hơn nhiều so với cách đây một thập niên. Nhưng hành vi của họ đang gây nguy hiểm cho một nguyên tắc trường tồn của công tác ngoại giao họ đang dùng – rằng chính sách đối ngoại phải hỗ trợ cho các mục đích trong nước. Bộ Ngoại giao Trung Quốc xác nhận quan điểm này trong Sách trắng năm 2011: “Ðể quốc gia phát triển, nhiệm vụ trung tâm của đường công tác đối ngoại của Trung Quốc là tạo nên hoàn cảnh quốc tế ổn định”.34* Chính Tập Cận Bình phát biểu rằng chính sách đối ngoại chủ động tích cực của Trung Quốc phải gắng sức “hòng bảo vệ hòa bình và tính ổn định” trong khu vực láng giềng của họ.35* Tuy thế Biển Ðông hiếm khi đem lại cảm giác kém ổn định hơn.

Chiến thuật cắt lát salami không ngừng nghỉ của Trung Quốc có thể phản tác dụng. Khi họ tiếp tục làm các nước láng giềng hết kiên nhẫn, Trung Quốc đang kiên quyết hơn bao giờ hết trong việc đẩy những nước này vào vòng tay của đối thủ duy nhất thực sự có thể cạnh tranh chiến lược với họ – Hoa Kỳ. Tháng Hai năm 2016, Tổng thống Obama chủ trì cuộc gặp thượng đỉnh đặc biệt với các lãnh đạo ASEAN ở trang viên Sunnylands ở California. Theo tuyên bố chung chính thức, “cuộc gặp này đánh dấu một năm chuyển hướng cho ASEAN lẫn mối quan hệ đối tác chiến lược ngày càng thân cận giữa Hoa Kỳ và ASEAN”. Những người tham gia tái xác nhận sự tôn trọng lẫn nhau đối với “chủ quyền, tính toàn vẹn lãnh thổ, công bằng và sự độc lập chính trị của tất cả các quốc gia” và bổn phận chung cho việc “duy trì hòa bình, an ninh và tính ổn định trong khu vực”, bao gồm “bảo đảm an ninh và an toàn trên biển”.36* Washington khi đó thông báo một sáng kiến trị giá 250 triệu đô-la nhằm cải thiện khí tài của hải quân và tuần dương ở Biển Ðông, và Quốc hội Hoa Kỳ ủy quyền cho Hoa Kỳ giúp đỡ Brunei, Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore, Ðài Loan và Việt Nam trong việc tăng cường an ninh trên biển ở những nước này.

Bắc Kinh tin rằng, toàn bộ việc này là chứng cứ rõ ràng cho thấy Hoa Kỳ đang tạo lập liên minh với ASEAN cũng như với Nhật, Úc và Ấn Ðộ, hòng đối phó Trung Quốc. Giới lãnh đạo Hoa Kỳ liên tục kêu gọi dừng “cải tạo đất, xây dựng và quân sự hóa” ở Biển Ðông, và hậu thuẫn cho những yêu cầu đó bằng việc thi thoảng phô bày quân lực. Ðiều này dẫn đến một phản ứng gây hấn từ tờ Hoàn cầu Thời báo mang tính quốc gia chủ nghĩa của Bắc Kinh, khi tờ này tuyên bố rằng “cuộc chiến Hoa Kỳ – Trung Quốc là điều không tránh khỏi ở Biển Ðông” trừ khi Washington rút về.37* Tháng Mười năm 2015, Hoa Kỳ điều một tàu khu trục đến gần những hòn đảo đã được cải tạo của Trung Quốc ở quần đảo Trường Sa, và nhận được lời tán thưởng công khai từ Úc, Nhật và Philippines. Và vào tháng Hai năm 2016, họ điều thêm một chiếc khu trục khác đi tuần trong vòng 12 hải lí của đảo Tri Tôn (Triton) ở quần đảo Hoàng Sa, sau khi họ được tường trình rằng Trung Quốc đã triển khai các tên lửa đất-đối-không tân tiến ở đảo Phú Lâm (Woody).

Tại sao Hoa Kỳ lại lo lắng đến vậy về sự bành trướng của Trung Quốc ở Biển Ðông? Ðài Loan là một vấn đề vốn không thể làm lơ. Trong số nhiều lí do để Trung Quốc tăng cường vị thế của mình ở Biển Ðông là để gây sức ép quân sự lên “tỉnh phần bội phản”[61] của họ, hoặc thậm chí để xúc tiến việc phong tỏa hoặc xâm chiếm trong tương lai. Từ góc nhìn chiến lược của Hoa Kỳ, Ðài Loan chí ít cũng quan trọng ngang Philippines. Và từ góc nhìn chính trị, Ðài Loan còn quan trọng hơn nhiều: “nhóm nghị sĩ liên kết với Ðài Loan (Taiwan caucus)” ở Quốc hội Hoa Kỳ gồm 205 thành viên vào năm 2016, biến đây thành nhóm nghị sĩ lớn nhất liên kết với một quốc gia ở đồi Capitol.38* Ðây còn là một trong những nhóm đặc lợi tích cực nhất trong giới lập pháp. Bảo vệ Ðài Loan là điều được ấn định sâu thẳm trong chiến lược đối với Trung Quốc của Hoa Kỳ: ngay sau khi Tổng thống Jimmy Carter bình thường hóa bang giao với Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa vào năm 1978, quốc hội đã thông qua Ðạo luật Bang giao Ðài Loan (Taiwan Relations Act) như một đối trọng. Ðạo luật này yêu cầu Hoa Kỳ can thiệp về mặt quân sự nếu Trung Quốc tấn công hoặc xâm chiếm Ðài Loan. Những người duy thực cực độ trong giới đương quản chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ, bắt đầu từ Henry Kissinger hồi thập niên 1970, sẽ sẵn lòng hi sinh Ðài Loan để đạt được thỏa hiệp đúng ý họ đối với Bắc Kinh. Nhưng một giải pháp như thế là điều bất khả về chính trị chừng nào Ðài Loan vẫn có được sự ủng hộ ở Quốc hội Hoa Kỳ.39*

Tuy thế vẫn còn một nỗi sợ lớn hơn nữa: rằng chủ nghĩa bành trướng của Trung Quốc ở Biển Ðông là một phần trong đại chiến lược của Bắc Kinh nhằm thế chỗ Hoa Kỳ làm thế lực thống trị ở châu Á. Hoa Kỳ đã tận hưởng 70 năm giữ thế kiểm soát không địch thủ của châu Á – Thái Bình Dương, nơi đó lực lượng quân sự mạnh mẽ của Hoa Kỳ đã giúp mang lại hòa bình và ổn định – một điểm được Thủ tướng Lí Hiển Long của Singapore nhấn mạnh trong bài diễn từ khai mạc Ðối thoại Shangri-La (Shagri-La Dialogue), một cuộc gặp thượng đỉnh thường niên về vấn đề an ninh châu Á, vào năm 2015.40* Khó lòng có việc Hoa Kỳ sẽ sẵn sàng trao lại vị thế lãnh đạo châu Á. Xét thuần về kinh tế, quá nhiều phi vụ giao thương của Hoa Kỳ đi qua vùng Biển Ðông đến mức họ có quốc lợi thực sự trong việc kiểm soát vùng này. Một phần vì lí do này mà Washington đã cẩn thận tạo lập một cấu trúc liên minh để bảo vệ những lợi ích của mình, và họ kiên quyết bảo vệ “trật tự dựa trên luật lệ” vốn là thứ củng cố cho quyền lực của họ. Ở Ðối thoại Shangri-La 2016, Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Ashton Carter yêu cầu “mọi người (phải chơi) theo cùng một hệ thống luật lệ”. Ðể làm rõ luận điểm này, ông cảnh báo Trung Quốc rằng họ “có thể đi đến kết cuộc dựng lên một Vạn lí Trường thành tự cô lập bản thân” nếu họ không chơi theo cùng luật lệ.41*

Về phần mình, Trung Quốc thấy “trật tự dựa trên luật lệ” là một hệ thống bị thao túng vốn được thiết kế để hạn chế sự trỗi dậy chính đáng của Trung Quốc và để dựng lên imperium[62] của Hoa Kỳ. Trong việc “xoay trục sang châu Á” của Hoa Kỳ, Bắc Kinh thấy chứng cứ về chuyện Hoa Kỳ gắng sức cản trở những nỗ lực của Bắc Kinh trong việc tạo lập phạm vi ảnh hưởng trong khu vực. Chứng cứ thêm nữa là việc chính quyền Obama bảo trợ cho Hiệp định mậu dịch Ðối tác Xuyên Thái Bình Dương[63], cái mà Bắc Kinh ban đầu cho là một mưu kế chiến lược nhằm tăng cường ảnh hưởng của Hoa Kỳ ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương hòng làm tổn hại Trung Quốc. Mặc dù Trung Quốc không đáp ứng các tiêu chí theo thỏa thuận dành cho thành viên, chướng ngại đó không ngăn Việt Nam gia nhập. Bộ trưởng Quốc phòng Carter dường như xác nhận sự chính xác của lời diễn giải này vào tháng Tư năm 2015, khi ông bảo rằng “thông qua TPP là điều quan trọng đối với tôi ngang với một chiếc tàu sân bay”.42* Tổng thống Obama hành động tiếp theo vào tháng Mười Một năm đó, tuyên bố rằng “nếu chúng tôi không thông qua hiệp định này – nếu Hoa Kỳ không viết nên những quy tắc này – thì những nước như Trung Quốc sẽ làm như vậy”.43*

Chuyện này đưa ta đến đâu? Sách trắng Quốc phòng của Trung Quốc công bố vào tháng Bảy năm 2015 đã làm rõ rằng quân đội Trung Quốc sẽ chống trả nếu bị tấn công.44* Do vậy bất kì hành động quân sự nào của Hoa Kỳ ở khu vực này đều có nguy cơ sẽ bị Bắc Kinh nhìn nhận như một hành vi gây chiến. Khi cảm xúc quốc gia chủ nghĩa dâng trào, chỉ kẻ ngốc mới loại trừ ngay khả năng xảy ra chiến tranh – tuy vậy cơn “đại hỏa thiêu” ở Biển Ðông hãy còn là thứ không chắc. Trung Quốc cần khu vực ổn định để đem lại tăng trưởng và phồn thịnh cho chính nước họ: xung đột với Hoa Kỳ hẳn sẽ là sai lầm chiến thuật to lớn, vì điều đó sẽ gây tổn hại đến sự trỗi dậy kinh tế của Trung Quốc. Hoa Kỳ có 365.000 quân nhân đang phụng sự ở châu Á – Thái Bình Dương, có một liên minh hùng mạnh về an ninh trong khu vực, và tới nay họ có quân đội mạnh nhất thế giới. Bắc Kinh tin rằng những mục tiêu dài hạn của họ ở châu Á sẽ được lợi nhất bằng cách duy trì nền hòa bình khó chịu này và kiên nhẫn thiết lập “các bằng chứng ở vùng biển này”. Do vậy Trung Quốc sẽ tiếp tục sát hạch quyết tâm của Washington, nhưng họ không muốn khiêu khích Hoa Kỳ đi đến chỗ hành động quân sự. Chẳng hạn, Bắc Kinh cẩn thận bảo đảm rằng những nỗ lực cải tạo đất của họ không gây đe dọa cho công tác vận tải đường biển quốc tế.

Ðó là lí do tại sao nỗi khiếp sợ rằng Biển Ðông là một vạc dầu sắp sửa sôi sùng sục có lẽ là một suy nghĩ thái quá. Trung Quốc kiên quyết lấy lại vị thế lịch sử của mình ở vai trò một thế lực trọng tâm ở phía Ðông châu Á, nhưng họ lại không muốn buộc Hoa Kỳ ra tay. Bây giờ điều này đặc biệt đúng khi đối thủ cạnh tranh lớn nhất trong khu vực của Trung Quốc – Nhật – đang chuẩn bị thủ lấy vai trò an ninh lớn hơn. Thủ tướng Shinzō Abe nắm quyền năm 2012 nhờ hứa hẹn bãi bỏ một số hạn chế được áp đặt lên quân đội Nhật trong bản Hiến pháp hòa hiếu thời hậu thế chiến. Ở vai trò một đồng minh trung thành của Hoa Kỳ, Nhật tất nhiên sẽ hành động phối hợp với Hoa Kỳ trong trường hợp có xung đột. Những mưu đồ hiện tại ở Biển Ðông do vậy giống y như việc đánh vào không khí: Trung Quốc không đủ mạnh về quân sự để thâu lấy khu vực này bằng vũ lực, và họ không có lựa chọn nào khác ngoài việc dấn vào cuộc chơi trường kì.

Câu hỏi hệ trọng hơn cả thảy bây giờ là làm sao chính phủ của Donald Trump phản ứng trước những khiêu khích của Trung Quốc. Bắc Kinh xem chính quyền Obama là nhút nhát và xem các chính sách của họ ở Ðông Nam Á là thứ gây cáu nhưng phần lớn thiếu hiệu quả. Ðội ngũ châu Á của Tổng thống Obama bị nhiều người ở Washington chỉ trích là yếu nhất kể từ Thế chiến II, hầu như không lưu tâm gì đến việc phát triển một chiến lược mạch lạc về Trung Quốc. Những quan sát viên mang thiên hướng diều hâu lập luận rằng Washington cần lập ra một chính sách mạch lạc nhằm hạn chế Trung Quốc và gia tăng lực lượng quân sự Hoa Kỳ ở Biển Ðông. Nhưng một nỗ lực có phối hợp nhằm ngăn chặn Trung Quốc trỗi dậy sẽ dễ có nguy cơ làm tăng thêm những mối căng thẳng đến những mức độ nguy hiểm thực sự. Sau rốt, Hoa Kỳ sẽ chắc chắn phải chấp nhận mong muốn của Trung Quốc trong việc thủ một vai trò to lớn hơn ở sân sau của họ, và phải tìm cách định hình một trật tự mới vốn sẽ phục vụ cho lợi ích của mọi người.

VIỆT NAM45*

Bảo tàng Lịch sử Quốc gia của Việt Nam, tọa lạc ngay giữa khu phố Tây ở Hà Nội, từng một thời có cái tên ngoại lai École Française d’Extrême-Orient (Viện Viễn Ðông Bác cổ).46* Ðược xây dựng trong quãng 1925-1932 bởi kiến trúc sư Pháp Ernest Hebrad, nó có một tháp bát giác với những bức tường màu vàng mù-tạt và một mái ngói đất nung – một nỗ lực táo bạo, và phần lớn thành công, trong việc hòa trộn chất Việt Nam truyền thống với kiến trúc Pháp. Khi du khách đến khu vườn cảnh, được trang trí bằng nhiều tượng Phật và nhiều tấm bia đá cổ, họ có thể tìm thấy chốn trú lánh khỏi cái nắng hoang dại của Hà Nội ở bóng mát một cây lớn mọc đầy cây leo vùng nhiệt đới.

Viện bảo tàng này giữ một bộ các công cụ thời Ðồ đá mới, bình lọ và trang sức, đồ gốm tráng men, trống đồng và các món đồ liên quan lễ tang. Trong số những của quý huy hoàng nhất là một loạt các bức tượng khêu gợi có từ thời Vương quốc Champa, một nền văn minh theo Hindu từng hưng thịnh một nghìn năm trước ở bờ biển miền Trung Việt Nam. Nhưng Bảo tàng Lịch sử Quốc gia thực sự là nơi ca tụng một thứ: 2000 năm đấu tranh giành độc lập của Việt Nam chống lại quân Trung Quốc xâm lăng. Từ năm 40 đến năm 938 thời Công nguyên – từ triều Hán đến triều Ðường – những tủ kính trưng bày chứa đựng từ miêu tả này đến miêu tả khác về những anh hùng Việt Nam nổi dậy chống lại quân xâm chiếm áp bức. “Trong suốt thời kì nhà Hán thống trị Nam Việt”, một tủ kính ghi như thế, “dân chúng đã kháng cự mọi nỗ lực đồng hóa văn hóa của người Trung Quốc trong suốt thời kì một nghìn năm”. Sau khi cái ách Trung Quốc cuối cùng đã trút bỏ, những tủ kính khác giải thích, Việt Nam trải qua thêm một nghìn năm nữa đẩy lùi hết cuộc xâm lăng này đến cuộc xâm lăng khác từ phương Bắc.

Một chiến thắng trứ danh, trong thời nhà Tống xâm chiếm vào quãng 1076-1077, cho thấy tướng Lí Thường Kiệt đập tan đội quân Trung Quốc được cho là có 100 vạn lính bộ, 10 vạn ngựa và 200 vạn dân phu. Theo lịch sử chính thống, quân Trung Quốc rút binh với chỉ 23,4 nghìn quân và 3.174 ngựa. “Nhà Tống tiêu 5.190.000 lạng vàng cho cuộc chiến này”, một đoạn ghi chú viết thế, kế bên phần trưng bày các thanh kiếm và đoản kiếm thời cổ được dùng để đánh trả quân Trung Quốc xâm lược. Nơi đây nhấn mạnh rằng căn cước quốc gia được hun đúc từ việc chiến đấu chống quân xâm lược Trung Quốc. Tuy vậy bốn dòng thơ thần tương truyền của tướng Lí Thường Kiệt để ca tụng chiến thắng này lại được viết bằng chữ Hán – bởi nơi đây có nhiều mối liên hệ văn hóa gần gũi với Trung Quốc.

Hai tấm bia lớn nhất trong Viện bảo tàng, cao 4m và rộng gần 2m, ca tụng cuộc nổi dậy Lam Sơn chống lại quân Minh đang chiếm cứ vào đầu thế kỉ 15. Dưới quyền lãnh đạo của Lê Lợi thuộc dòng dõi “hùng trưởng một phương”[64], quân binh Việt trải qua mười năm đối địch quân Trung Quốc, nổi lên giành thắng lợi. Năm 1428, Lê Lợi khai sáng triều Lê, và ngày nay mọi thành phố ở Việt Nam đều có đường đặt theo tên ông. Văn bia được khắc bằng chữ Hán và trang trí bằng những hình rồng cuộn mình, tảng đá lớn ấy đặt ở trên một con rùa lớn – một biểu tượng huyền bí về trường thọ và vận may trong liên hệ văn hóa Trung Quốc. Trong suốt lịch sử kháng chiến trường kì, đẫm máu và đầy tự hào của Việt Nam chống lại quân xâm lược phương Bắc, nền văn hóa Trung Quốc đã “giao lưu nhiều” khía cạnh của đời sống địa phương – từ ngôn ngữ và ẩm thực, đến nghệ thuật và những hành vi tôn giáo. Ðến ngày nay, tiếng Việt chứa nhiều từ mượn tiếng Trung Quốc, và ảnh hưởng văn hóa từ phương Bắc cũng là điều hiển hiện.

Ðiểm nổi bật đối với những mối bang giao hiện đại giữa Trung Quốc và Việt Nam là hầu hết người Việt vẫn xem Trung Quốc là láng giềng cần phải đề phòng. Trong khi các cựu binh của Lục quân Hoa Kỳ quay lại Việt Nam được đón chào nhất loạt bằng tinh thần thân thiện – mặc dù họ từng chiến đấu chống lại đối phương, những người thắng cuộc sau này ở cuộc Chiến tranh Việt Nam – còn giới thương gia và du khách Trung Quốc được đối xử bằng vẻ dè dặt. Kể từ vụ việc chỗ giàn khoan, công luận đã chuyển hướng sang thái độ đề phòng nhiều hơn. Theo Khảo sát Nghiên cứu Pew năm 2015 về các thái độ toàn cầu, người Việt có quan niệm tiêu cực ngập tràn đối với Trung Quốc. Trong số những người được khảo sát, 74% bảo rằng họ có cái nhìn không thiện chí với Trung Quốc, nhiều hơn bất kì nước nào khác ngoài Nhật.47*

Trong quá khứ, Trung Quốc từng viện trợ gạo và pháo cho miền Bắc Việt Nam trong suốt thời gian kháng chiến thống nhất đất nước. Những mối bang giao suy yếu vào cuối thập niên 1970, khi chế độ Khmer Ðỏ ở nước Campuchia láng giềng, trước đây từng tấn công các ngôi làng biên giới Việt Nam, có sự giật dây của Trung Quốc. Những mối căng thẳng càng tăng thêm trước mối quan hệ thân cận của Việt Nam với Liên Xô, một đối thủ của Trung Quốc. Sau sự hiện diện của quân Việt Nam ở Campuchia năm 1978, Trung Quốc và Việt Nam giao tranh trong một cuộc chiến biên giới ngắn ngày vào năm 1979, tiếp theo sau bằng những đụng độ trên biển tranh chấp Rạn san hô Gạc Ma (Johnson South Reef) ở quần đảo Trường Sa của Việt Nam năm 1988.

Tuy thế, khi Liên Xô bắt đầu tan rã, Trung Quốc và Việt Nam đàm phán để các mối ràng buộc song phương được chính thức bình thường hóa.

Một trong những nhà phê bình nghiêm khắc nhất đối với ảnh hưởng chính trị của Trung Quốc là ông Tương Lai, cựu Viện trưởng Viện Khoa học Xã hội Việt Nam và là cố vấn cho hai cựu Thủ tướng Việt Nam. Vốn là cộng tác viên thường xuyên cho mục op-ed[65] của tờ New York Times, Tương Lai chủ trương việc cải cách kinh tế thêm nữa và việc hình thành mối quan hệ thân cận hơn với Hoa Kỳ.48*

Vào một buổi sáng nóng nực tháng Năm ở Thành phố Hồ Chí Minh, tôi nhảy lên ngồi sau xe máy của thông dịch viên để đến nhà Tương Lai ở phía Nam thành phố. Hàng triệu xe máy kêu vo vo như một bầy khổng lồ các con ong khi chúng tôi lướt qua rừng đước ngập mặn và những căn nhà kho hoen gỉ của bến cảng cũ ở sông Sài Gòn. Tóc bạc và mặc đồ tự nhiên trong bộ áo phông kẻ sọc, Tương Lai đón chào chúng tôi trong căn hộ hiện đại thoáng khí được trang hoàng bằng nhiều tấm bích chương đóng khung với nội dung là thi ca cổ Việt Nam được viết bằng chữ Hoa phồn thể. Thưởng thức trà xanh đựng trong cốc bằng tre, ông bắt đầu đi vào phần lịch sử trường kì trong mối bang giao nhiều biến động của Việt Nam với Trung Quốc.

Tiếp ứng trước chủ đề của mình, Tương Lai giải thích làm thế nào Trung Quốc lại cố tình thách thức Hoa Kỳ để tăng ảnh hưởng ở châu Á. “Chính sách bành trướng hiện tại của Bắc Kinh ở Biển Ðông là một chính sách nhất quán”, ông nói tiếp.

Chính sách “giữ mình trong tối” chỉ là một động thái chiến thuật của Ðặng Tiểu Bình, chờ thời điểm thích hợp để biểu hiện sức mạnh Trung Quốc ở hải ngoại. Hoàn cảnh an ninh trong thế kỉ 21 cực kì phức tạp đối với Washington, vốn đang đối diện nhiều khó khăn trên khắp thế giới, đặc biệt ở Trung Ðông và với Nga. Giới lãnh đạo Trung Quốc đã nhận ra đây là thời điểm thích hợp để thay đổi cách tiếp cận.

Ông kết luận, tham vọng của Trung Quốc là muốn hoàn tất điều mà họ đang cố làm trong suốt 2000 năm với tiêu điểm kiểm soát biển để trở thành một siêu cường.

Ở Hà Nội, đường lối chính thống mềm dẻo hơn, sau sự kiện giàn khoan dầu năm 2014, vốn làm bật lên việc Trung Quốc khinh thị chủ quyền của Việt Nam lẫn luật quốc tế. “Việt Nam luôn mong muốn có hòa bình, hữu nghị (với Trung Quốc)”, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng phát biểu năm đó. “Nhưng Việt Nam nhất định không chấp nhận đánh đổi chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, vùng biển, để nhận lấy một thứ hòa bình hữu nghị viển vông, lệ thuộc.”49*

Chuyến công du của Tập Cận Bình đến Việt Nam vào tháng Mười Một năm 2015, chuyến công du đầu tiên của một Chủ tịch Trung Quốc trong một thập niên, được truyền thông Tây phương miêu tả là nỗ lực của Bắc Kinh hòng giành lại được ảnh hưởng bị mất của mình. Trong bài phát biểu 21 phút của mình, Tập đã nói: “Trung Quốc và Việt Nam được hưởng tình hữu nghị đồng chí lẫn anh em”, ông nói, “uống nước từ cùng con sông”. Ông nói đến “hữu nghị truyền thống” và “tin cậy lẫn nhau” giữa hai nước láng giềng.50*

Tập Chủ tịch dùng nửa sau bài phát biểu để thúc bách thêm sự hợp tác kinh tế. “Cả hai bên cần chung tay nỗ lực tạo nên một trật tự và hoàn cảnh trong khu vực vốn sẽ mang lại thêm nhiều lợi ích cho châu Á và thế giới nói chung”, ông nói. Ðối với Bắc Kinh, “sự hợp tác đôi bên cùng có lợi” như thế kì thực là về chuyện tăng cường thịnh vượng trong khu vực theo một trật tự khu vực do Trung Quốc dẫn dắt – chính là điều những người Việt Nam yêu nước phải suy nghĩ cẩn trọng. Có số liệu cho thấy 20% phi vụ giao thương của Việt Nam diễn ra với nước láng giềng phương Bắc này, nơi bắt nguồn cho gần 30% hàng nhập khẩu của Việt Nam.51* Thâm hụt thương mại song phương này, vốn lơ lửng quanh mốc 25 tỉ đô-la Mỹ, là điều làm Hà Nội quan tâm rất nhiều. Những lĩnh vực xuất khẩu vốn là thứ mà sự tăng trưởng của Việt Nam trong tương lai chịu phụ thuộc lớn, và Hà Nội biết rằng những lĩnh vực đó trông cậy vào hàng nhập khẩu nguyên liệu thô và các đầu vào từ Trung Quốc.

Về mặt kinh tế, Bắc Kinh có hầu hết đòn bẩy đó. Hãy xét những dữ kiện sau. GDP 194 tỉ đô-la Mỹ của Việt Nam nhỏ hơn nhiều so với các nền kinh tế ở những tỉnh láng giềng Trung Quốc, Quảng Tây (270 tỉ đô-la Mỹ) và Vân Nam (220 tỉ đô-la Mỹ), cho dù hai tỉnh này được xếp vào hàng những tỉnh nghèo nhất Trung Quốc. Việt Nam trong tương quan kinh tế với Quảng Ðông, một nơi mạnh về xuất khẩu của Trung Quốc, nền kinh tế Quảng Ðông lớn hơn Việt Nam sáu lần. Hàng xuất khẩu của Quảng Ðông trị giá 746 tỉ ?