KẾT LUẬN
Liệu các quốc gia tiến bước trở thành cường quốc một cách chủ động, hay rơi vào địa vị đó vì hoàn cảnh bắt buộc? Lịch sử cho thấy cả hai yếu tố này đều có vai trò nhất định. Khi Tập Cận Bình theo đuổi viễn kiến của mình về “ngoại giao như một cường quốc”, ông đã gạt bỏ sang bên nguyên tắc cũ về tính tự kiềm chế trong các vấn đề ngoại giao. Việc theo đuổi phục hưng quốc gia – “Giấc mộng Trung Quốc” – là một toan tính hữu ý nhằm khôi phục thế lãnh đạo truyền thống của Trung Quốc ở châu Á, không chỉ ở vai trò một đại quốc mà còn là một nguồn lực ảnh hưởng cho sự phát triển khu vực. Trung Quốc đang cẩn thận dùng lối ngoại giao kinh tế để thuyết phục các nước láng giềng đi theo tầm nhìn của Trung Quốc, vốn được hậu thuẫn bằng mối đe dọa tiềm ẩn về việc chế tài kinh tế và hành động quân sự.
Sự thật là Trung Quốc gần như không có lựa chọn nào ngoài việc bắt đầu hành động như một cường quốc. Căn cứ vào dân số khổng lồ của mình và mức tăng trưởng kinh tế chóng mặt trong ba thập niên qua, họ chỉ đơn giản là quá lớn đến mức không thể làm gì khác hơn. Các viên chức Hoa Kỳ và EU từ lâu đã kêu gọi Trung Quốc hãy thủ vai trò chủ động trong các sự vụ toàn cầu – để trở thành một “bên tham gia có trách nhiệm”, theo lời của cựu Phó Ngoại trưởng Hoa Kỳ Robert Zoellick.1* Do giới lãnh đạo Trung Quốc đang bắt đầu chấp nhận địa vị này, theo đuổi một chính sách ngoại giao mạnh mẽ hơn và tạo lập các định chế quốc tế của riêng họ, Hoa Kỳ và một số đồng minh châu Á đều phản ứng bằng vẻ bất an. Tuy vậy sức nặng ngày càng tăng của các lợi ích kinh tế và chiến lược của Trung Quốc có nghĩa là họ không thể không nắm một vai trò chủ động hơn trên toàn cầu. Nói đơn giản là để bảo vệ các lợi ích ở nước ngoài, Trung Quốc phải can thiệp vào những sự vụ liên quan các nước khác.
Những lợi ích ở đây mà họ cần phải bảo vệ là gì? Luật an ninh quốc gia của Trung Quốc, ban hành vào tháng Bảy năm 2015, giúp làm rõ ý của Trung Quốc khi họ nói về “lợi ích cốt lõi”.2* Liên quan đến chính sách đối ngoại, ý này chung quy là về nguyên tắc chủ quyền và bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ. Ngoài Ðài Loan, Tây Tạng và Tân Cương, các quan chức đối ngoại đều làm rõ rằng hiện tại Bắc Kinh xem Biển Ðông và quần đảo Senkaku do Nhật nắm giữ đều thuộc lợi ích cốt lõi của họ. Arunachal Pradesh ở Ấn Ðộ, nơi mà giới truyền thông nhà nước Trung Quốc đã bắt đầu gọi là “Nam Tây Tạng”, có thể cũng rơi vào hạng mục lợi ích này.
Chính sách đối ngoại “tích cực chủ động” mới đây của Tập Cận Bình ở châu Á đã mang đến một phi vụ thẳng thắn: Trung Quốc sẽ thúc đẩy giao thương, đầu tư và những phần quà kinh tế khác cho tất cả các đối tác nào thuận theo – hoặc chí ít không thách thức – những lợi ích cốt lõi của họ. Trung Quốc dựa vào công tác ngoại giao về kinh tế vì họ thiếu sức ảnh hưởng về chính trị. Khác với Hoa Kỳ, với quyền lực ở châu Á đến từ cơ cấu liên minh trong khu vực, Trung Quốc cần các đối tác kinh tế để xúc tiến các mục đích về địa chính trị của họ. Mục tiêu chiến lược về Sáng kiến Vành đai và Con đường nhằm để giúp Trung Quốc thăng tiến lên ở vai trò nguồn động cơ cho sự phát triển, đan kết một mạng lưới tương thuộc nhau khắp châu Á và xa hơn nữa. Bắc Kinh hi vọng rằng động cơ thúc đẩy đầu tư cơ sở hạ tầng quy mô lớn sẽ thuyết phục được các nước châu Á đặt lợi ích kinh tế của họ lên trên những mối lo ngại an ninh.
Mục tiêu lâu dài của Trung Quốc là làm cho sự phồn thịnh của các nước láng giềng bị ràng buộc vào bước tiến triển của chính Trung Quốc, trong cái mà họ gọi là “cộng đồng chung vận mệnh”. Liệu họ sẽ thành công? Trước tiên, Bắc Kinh sẽ chật vật để gầy dựng niềm tin, đặc biệt ở những thể chế trông cậy vào sự ủng hộ của dân chúng. Ðiều này hiển nhiên đúng ở những nước đang tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc hoặc đang cảm hoài những tồn tại lịch sử với Trung Quốc. Nhưng ở khắp châu Á, ý tưởng thực hiện lối ngoại giao “đôi bên cùng có lợi” của Trung Quốc thường bị bác bỏ và được xem là cách nói khác của kiểu “mối lợi kép cho Trung Quốc”. Chưa có đủ niềm tin để tin rằng Trung Quốc có động lực từ việc lan tỏa sự phát triển qua biên giới, đặc biệt khi các công ty của họ gần như không có thành tích ấn tượng gì về việc theo đuổi tinh thần lợi kỉ mang tính khai minh (enlightened self-interest)[67].
Thậm chí một số cố vấn chính sách đối ngoại của chính Trung Quốc còn cảnh báo rằng việc bành trướng phạm vi kinh tế của nước này sẽ gây ra phản ứng mạnh mẽ trong người dân (các quốc gia khác), như đã từng xảy ra ở Myanmar và Sri Lanka. Các công ty Trung Quốc, đa phần là doanh nghiệp nhà nước, vốn có nhiều điều tiếng trong chuyện hoạt động mà gần như không để tâm đến các vấn đề nhạy cảm ở địa phương – bất kể đó là chuyện đưa công nhân Trung Quốc vào hay chuyện gây hại môi trường. Họ hài lòng khi cộng tác với giới đầu não địa phương và các viên chức nắm quyền không qua bầu cử (unelected official)[68], nhưng lại kém thạo hơn nhiều trong việc ứng phó với xã hội dân sự. Cách làm đó có thể hiệu quả trong lúc các đối tác được ưu ái vẫn còn đương nhiệm, làn gió chính trị dịch dời thường làm hỏng các khoản đầu tư lớn ở nước ngoài, và sẽ tiếp tục như vậy.
Trung Quốc sẽ nỗ lực hòng thuyết phục được phần lớn công chúng châu Á rằng họ có ý định tốt. Họ được nhìn nhận bằng con mắt khá thiện chí ở Pakistan, Malaysia và Indonesia, theo Khảo sát Nghiên cứu Pew về các thái độ toàn cầu; nhưng những cái nhìn này lại phức tạp hơn nhiều ở Philippines và Ấn Ðộ, Việt Nam và Nhật.3* Chứng cứ thu thập từ các câu chuyện kể (anecdotal evidence) ở Mông Cổ, Kazakhstan, Kyrgyzstan và khu vực Viễn Ðông Nga (Russian Far East) cho thấy người dân hãy còn đó nỗi sợ Trung Quốc “xâm lược”, được dung dưỡng bằng kí ức và những năm tháng lịch sử. Mặc dù những nước này sẽ vui lòng chấp nhận đầu tư Trung Quốc, nhưng nỗi sợ này cũng sẽ tiềm ẩn nguy cơ gây nên phản kháng.
Thực tế là Trung Quốc sẽ càng hiện diện rõ rệt hơn nhiều ở khắp châu Á trong nhiều thập niên sắp tới. Khi các công ty Trung Quốc mở rộng sang các thị trường mới và hàng triệu người Trung Quốc sẽ ra hải ngoại tìm việc làm, Bắc Kinh sẽ lâm vào cảnh bị liên tục lôi vào cái hiện thực rối rắm của chính trường ngoại quốc. Ðiều này lần đầu tiên trở nên rõ ràng vào mùa xuân năm 2011 – không phải ở châu Á, mà ở Bắc Phi. Khi tình trạng rối loạn trùm lên Libya, Trung Quốc đã di tản hơn 35.000 công nhân Trung Quốc bằng phi cơ, tàu, xe buýt và xe tải. Họ biểu quyết ở Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc cho việc chế tài Muammar Gaddafi vì tội đối xử tệ bạc với người dân Trung Quốc, và đồng thuận với giải pháp thứ nhì vốn kết cuộc dẫn tới sự thay đổi chế độ do NATO bảo trợ.4*
Sự can thiệp bất điển hình của Bắc Kinh trong nhà nước ngoại quốc đã phản ứng một thực tế bất khoan nhượng: 75 công ty Trung Quốc trước đó đã đầu tư, theo ước tính, 18,8 tỉ đô-la Mỹ ở Libya, và họ phải bảo vệ cả công dân lẫn tài sản của mình. Truất phế một lãnh đạo độc tài của nước khác không phải là chuyện mà giới lãnh đạo của chính Trung Quốc xem nhẹ, vì những lí do hiển nhiên; nhưng những sự kiện ở Libya khiến họ không còn lựa chọn nào khác. Không khó hình dung một khủng hoảng ở châu Á sẽ cần đến sự can thiệp tương tự. Tính quyết đoán gia tăng của Trung Quốc không chỉ là việc chuyển dời ý thức hệ do họ hướng đến việc khôi phục vinh quang quốc gia: đó là kết cuộc cần thiết cho việc bành trướng phạm vi thương mại và chiến lược.
Trung Quốc đã có ước tính khoảng 5 triệu quốc dân sống ở hải ngoại, nhưng những nhu cầu (về nhân lực) đối với nhà nước Trung Quốc sẽ cứ tăng lên khi Sáng kiến Vành đai và Con đường tiến triển. Pakistan, nơi Trung Quốc đã cam kết cấp tiền cho những khoản đầu tư khổng lồ, chính là nguy cơ an ninh lớn nhất. “Các công dân Trung Quốc đang bị sát hại, và thêm nhiều người nữa sẽ bị sát hại”, theo cảnh báo của David Sedney, cựu Phó Trợ lí Bộ trưởng Quốc phòng chuyên trách khu vực Afghanistan, Pakistan và Trung Á, người cố vấn cho chính quyền Trung Quốc về chiến lược ở khu vực đó.5* Islamabad đang huấn luyện một sư đoàn an ninh đặc biệt với hàng nghìn lính canh để bảo vệ quốc dân Trung Quốc làm việc cho dự án “Hành lang Kinh tế Trung Quốc – Pakistan”, một trong những dự án lớn nhất nối kết với Vành đai Kinh tế Con đường Tơ lụa. Nhưng Bắc Kinh sợ tình hình bất an ninh sẽ tràn qua biên giới sang khu vực mà Trung Quốc khó quản thúc được là Tân Cương. Ở Pakistan, cũng như ở Afghanistan láng giềng, Trung Quốc thấy không thể chia tách vấn đề kinh tế với vấn đề an ninh.
Chủ tịch Tập Cận Bình đã hứa dùng sức mạnh của nhà nước Trung Quốc, bao gồm quân lực, để giữ an toàn cho công dân Trung Quốc. Ở Ðại hội Ðảng lần thứ 18 năm 2012, kì Ðại hội đầu tiên của Tập ở cương vị đứng đầu Ðảng Cộng sản Trung Quốc, chuyện “bảo vệ quốc dân ở hải ngoại” cuối cùng đã được đưa lên làm ưu tiên chính trị.6* Một bản Sách trắng về quốc phòng công bố năm 2013 tuyên bố lần đầu tiên rằng Quân đội Giải phóng Nhân dân phải đem lại an ninh cho các lợi ích của Trung Quốc ở nước ngoài. Thậm chí trước khi đó là quốc sách, năm 2011 quân đội Trung Quốc đã dẫn dắt một cuộc săn tìm những kẻ sát nhân 13 thủy thủ Trung Quốc ở vùng Tam giác Vàng – điểm giao nhau giữa Myanmar, Lào và Thái Lan – cho dù bọn sát nhân ấy động thủ bên ngoài Trung Quốc. Cuộc điều tra đó dẫn đến việc dẫn độ, truy tố và hành hình một tay thủ lĩnh băng cướp Miến Ðiện ở Vân Nam, và dẫn đến chuyện Trung Quốc cho quân đi tuần dọc theo sông Mekong.7*
Công tác ngoại giao về kinh tế của Trung Quốc đặt tiền đề ở sự hứa hẹn lợi ích chung – tuy vậy chính sách này sẽ lâm vào tình cảnh căng thẳng ở bất kì nước nào mà quyền lực nhà nước tan rã và các lợi ích của Trung Quốc bị đe dọa. Nếu vụ thảm sát công nhân Trung Quốc xảy ra ở Pakistan hoặc nơi nào khác, Bắc Kinh hẳn sẽ nhận thấy áp lực kinh khủng từ trong nước hòng thúc họ can thiệp trực tiếp. Trong quá khứ, Bộ Ngoại giao đã từng nhận được mấy viên can-xi gửi qua đường bưu điện bởi những tay phê bình theo chủ nghĩa quốc gia vốn đang ta thán việc nhà nước không chứng tỏ được sự cứng cáp nơi cột sống của mình.8* Việc Tập Chủ tịch chuyển dời sang chính sách ngoại giao tích cực chủ động là điều được thiết kế nhằm phô bày Trung Quốc ra như một đại quốc, nhưng đó còn là phản ứng trước hiện thực về việc trở thành một đại quốc sẽ dính líu đến chuyện gì.
Lịch sử cho thấy “thương mại theo sau quốc kì”[69], nhưng cũng cho thấy “quốc kì theo sau thương mại”: Ấn Ðộ thuộc Anh là một nước thuộc địa mậu dịch chịu sự bảo hộ của Công ty Ðông Ấn cho đến khi cuộc nổi dậy năm 1857 đã khiến Nữ hoàng Anh áp đặt sự cai trị trực tiếp.9* Không ai dự đoán một xứ Raj của Trung Quốc[70], nhưng khi Bắc Kinh kiên quyết bảo vệ các quốc lợi cốt lõi lẫn các quyền công dân của họ, điều đó nghĩa là nguyên tắc bất can thiệp trong các sự vụ ngoại quốc không còn là một phương án nữa. Khi các thực tế về kinh tế đẩy Trung Quốc đến địa vị đại quốc, Trung Quốc sẽ phải phô bày ra thêm thực lực về chính trị và quân sự ở khắp châu Á – cho dù họ muốn hay không.
Năm 1890, Hoàng đế Wilhelm II của Ðức phát động một “Lộ tuyến Mới (New Course)” đầy hiếu chiến ở các sự vụ ngoại quốc, vốn có kết cuộc dẫn tới nạn tàn sát ở Thế chiến I. Một bức hí họa Ý năm 1915 miêu tả vị hoàng đế háu ăn đó, có hàm ria và đội mũ chim ưng, toan ăn cả thế giới.10* Trung Quốc chưa đánh trận chiến nào kể từ năm 1979, nhưng lâu nay người ta đã có trào lưu đi so sánh giữa sự trỗi dậy của Trung Quốc với sự trỗi dậy của Ðế quốc Ðức.11* Những so sánh này không công bằng: Tinh thần quân đội của Trung Quốc gần như không vượt quá việc xây dựng một hai căn cứ ở Biển Ðông. Tuy vậy bóng ma của một Trung Quốc có ý hướng can thiệp nhiều hơn, sẵn sàng tung uy lực kinh tế và quân sự ra muôn nơi, lại là thứ làm các nước láng giềng kinh sợ.
Nỗ lực của Trung Quốc nhằm làm cho vẻ ngoài và tiếng nói của họ thật cứng rắn lại không làm gì được để xua đi nỗi âu lo về “mối đe dọa Trung Quốc”. Thử lấy minh họa ở màn trình diễn sức mạnh quân sự với dáng đi kiểu chân ngỗng vốn đưa Bắc Kinh đến chỗ bế tắc vào ngày 3 tháng Chín năm 2015. “Dân tộc Trung Hoa yêu hòa bình”, Chủ tịch Tập Cận Bình bảo thế với hàng trăm triệu người xem khắp thế giới. “Bất luận phát triển mạnh đến đâu đi nữa, Trung Quốc không bao giờ xưng bá, không bao giờ khuếch trương”.12* Tuy vậy 12.000 lính (trong lễ duyệt binh) cùng kho vũ khí gồm nhiều tên lửa đạn đạo xuyên lục địa, máy bay ném bom tân tiến và nhiều trực thăng không kích lại cho người ta thấy một câu chuyện khác. Ðây không phải là thời điểm duy nhất mà ở đó Trung Quốc biểu hiện ra nhiều thông điệp khác nhau về những ý định liên quan quân sự của mình. Phát biểu ở Paris năm 2014, Tập Chủ tịch trích câu cách ngôn xưa của Napoleon về việc Trung Quốc đang là “con sư tử say” ngủ mà khi thức dậy “sẽ làm cả thế giới rung chuyển”. “Con sư tử ấy đã tỉnh dậy rồi”, Tập nói. “Nhưng nó là con sử tử hiền hòa, có thể gần gũi và văn minh.”13*
Những màn trình diễn quân sự kiểu Xô Viết và những gợi nhắc theo kiểu Napoleon về “con sư tử thức giấc” khó lòng gây được niềm tin vào bản tính hiền hòa thực chất của Trung Quốc. Nhưng sự thật là Trung Quốc tự xem mình là phe bị đe dọa, chứ không phải mối đe dọa đối với người khác. Ðiều này không nực cười như vẻ ngoài cho thấy thế: Hệ thống an ninh của châu Á do Hoa Kỳ chi phối và bảo trợ, một nước đang duy trì một số thỏa thuận phòng vệ trong khu vực và một số liên minh chính thức với Nhật, Hàn Quốc, Philippines, Thái Lan và Úc. Ngoài ra, Hoa Kỳ còn có thêm mối quan hệ đối tác an ninh với Singapore và có những mối quan hệ đang tiến triển với Việt Nam, Malaysia, Indonesia và Ấn Ðộ. Do vậy, cảm giác bất an ninh của Trung Quốc không phải là điều hoang tưởng: họ thực sự bị các đồng minh của Hoa Kỳ bao vây.
Hành động một cách khá hợp lí, Trung Quốc kiên quyết làm phai nhạt đi thế kiểm soát của Hoa Kỳ về mặt an ninh trong khu láng giềng của Trung Quốc. Ở một hội nghị an ninh quốc tế diễn ra tại Thượng Hải năm 2014, Tập Chủ tịch đã vén mở một “quan niệm an ninh châu Á” mới, về căn bản kêu gọi hãy để nền an ninh châu Á cho người châu Á xử lí.14* Mọi người đều hiểu thông điệp thực sự của ông ta là: vai trò của Hoa Kỳ phải giảm bớt lại. Vấn đề đối với Trung Quốc là rất ít nước châu Á muốn Hoa Kỳ rời khu vực này, do họ xem sự hiện diện của Hoa Kỳ là điều cần yếu để duy trì cán cân quyền lực. Thực tế, lời than phiền lớn nhất của các nước đó về chính quyền Obama chính là sự miễn cưỡng của chính quyền này trong việc thực hiện hoàn toàn việc “xoay trục sang châu Á” (sau đó được đổi cách gọi thành “tái cân bằng (rebalance)”). “Chúng tôi muốn một nước Hoa Kỳ mạnh mẽ đảm vai trò dẫn dắt”, một đại sứ châu Á nói với tôi trong một cuộc phỏng vấn ở Washington, DC.15*
Ðây không phải lời kêu gọi mang tính chất khiêu khích để Hoa Kỳ có chính sách quyết đoán hơn nhằm hạn chế một Trung Quốc đang trỗi dậy – mà hoàn toàn ngược lại. Giới ngoại giao châu Á cảm thấy thiếu kiên nhẫn trước sự miễn cưỡng của Hoa Kỳ trong việc đề cập những ngụ ý chiến lược ở sự trỗi dậy của Trung Quốc: họ phàn nàn việc Washington từ chối thừa nhận Trung Quốc là một đại quốc vốn phải chịu thích ứng với cơ cấu an ninh trong khu vực. Họ ủng hộ vai trò cần thiết của Hoa Kỳ trong việc duy trì hòa bình và ổn định trong khu vực, nhưng họ lại cực kì để ý đến thực tế địa chính trị – rằng Trung Quốc nằm ngay trung tâm châu Á, nơi mà Trung Quốc xem như là phạm vi ảnh hưởng của mình. “Hiện tại không thể có kết quả tốt đẹp”, vị đại sứ kia cho biết. “Việc duy trì hiện trạng này không phải là phương án khi sức mạnh đang gia tăng của Trung Quốc có ý muốn bảo rằng các ưu điểm tương đối trong khu vực đã đổi thay.”
Hoa Kỳ xác nhận rằng chính sách về Trung Quốc của họ xoay quanh việc can dự, không phải hạn chế. Nhưng họ tiếp tục xem Trung Quốc là một đối thủ chiến lược cần phải bị giữ ở yên chỗ của mình. Sau khi thông báo chiến lược “xoay trục sang châu Á”, chính quyền Obama tăng cường những mối quan hệ quân sự với các nước đồng minh trong khu vực, ưu ái những nước Ðông Nam Á đang tranh chấp vùng biển với Trung Quốc, và vận động thuyết phục những nước bằng hữu tránh tham dự những sáng kiến của Trung Quốc như Ngân hàng Ðầu tư Cơ sở hạ tầng Châu Á (AIIB). Thỏa thuận mậu dịch và đầu tư Ðối tác Xuyên Thái Bình Dương, vốn bao gồm 12 nước ở khu vực giáp Thái Bình Dương (Pacific Rim) ngoại trừ Trung Quốc, được giới quan sát hoài nghi ở Bắc Kinh xem như là một nỗ lực khác nữa của Hoa Kỳ nhằm giảm bớt những tham vọng chính đáng của Trung Quốc ở vai trò một đại quốc – cho dù đường lối chính thống ở cả hai bên đều cho thấy Trung Quốc sẽ được tự do gia nhập sau này. Ðây không phải là tình huống có thể tiếp tục mãi mãi.
Những cuộc gặp thượng đỉnh hai lần mỗi năm giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ đã có những tiến triển vừa phải ở những vấn đề nhỏ, nhưng lại cố ý tránh đi một trong những câu hỏi lớn về chiến lược của thời đại chúng ta: làm thế nào Trung Quốc có thể tăng trưởng bên trong một hệ thống an ninh do Washington chi phối và bảo trợ? Hoa Kỳ làm lơ vấn đề này vì họ không chấp nhận Trung Quốc ở vai trò một thế lực ngang hàng. Trung Quốc không mong muốn đàm phán, nhưng họ tin họ đang có những tiến triển tuy chậm mà chắc hướng đến việc chiếm chỗ Hoa Kỳ. Họ sẽ tiếp tục phô bày thực lực về kinh tế và bám vào chính sách dần dần nắm kiểm soát vùng Biển Ðông. Tuy vậy giới lãnh đạo tương lai cần phải xử lí vấn đề này trước khi sự bất hòa biến chuyển thành xung đột.
Trong phe diều dâu của Washington, người ta đang đòi một đại chiến lược hòng hạn chế Bắc Kinh. Một quan điểm đưa ra là Hoa Kỳ phải làm mọi thứ có thể nhằm ngăn chặn Trung Quốc không thay thế Hoa Kỳ ở vai trò thế lực chi phối ở châu Á, nghĩa là quân sự Hoa Kỳ phải tăng cường lực lượng hải quân và không quân tại vùng Biển Ðông.16* Lối tiếp cận này sẽ chỉ làm cho mối đe dọa xảy ra chiến tranh càng gần hiện thực hơn. Những tiếng nói tỉnh táo hơn trong cộng đồng chính sách đối ngoại tin rằng Hoa Kỳ cần đạt được một thỏa hiệp ngầm với Bắc Kinh. Ðiều đó nghĩa là tìm ra cách thừa nhận tham vọng toàn cầu của Trung Quốc và nhượng bộ cho Trung Quốc có được quyền tự do hành động hơn trong khu vực của chính họ, đồng thời giữ nguyên sự hiện diện chiến lược của chính Hoa Kỳ.
Chiến lược sau đó hòa điệu cùng với quan điểm phổ biến ở phần lớn châu Á. Sức hút kinh tế của Trung Quốc là thứ có thật, nhưng không đủ lực để thuyết phục các nước láng giềng rằng không có lực lượng an ninh của Hoa Kỳ thì tốt hơn đối với những nước đó. Hầu hết các nước châu Á đều thống nhất chuyện ủng hộ Hoa Kỳ ở vai trò đối trọng đối với sức mạnh Trung Quốc. Tuy vậy họ sẽ phản đối bất kì chính sách nào của Hoa Kỳ vốn có thể làm tức giận nước láng giềng khổng lồ của họ, đặt họ vào vị thế hiểm nghèo: không ai muốn là miếng thịt kẹp trong chiếc sandwich Hoa Kỳ – Trung Quốc. Họ thừa nhận rằng Trung Quốc, một siêu cường kinh tế với quân đội càng lúc càng mạnh, sẽ không sẵn sàng giữ vai trò thứ yếu ở sân sau của chính mình, và thật liều lĩnh khi tìm cách hạn chế họ lại.
Ở vị trí của mình, tôi khó lòng chỉ định việc Hoa Kỳ và Trung Quốc nên tránh nguy cơ xung đột như thế nào. Tuy nhiên, tôi quả tin rằng Hoa Kỳ và các nước đồng minh trong khu vực phải chấp nhận quyết định của Trung Quốc trong việc tạo nên phạm vi ảnh hưởng của chính họ ở khắp châu Á. Và khi chấp nhận sự trỗi dậy của Trung Quốc là chuyện không tránh được, hướng hành động an toàn nhất chính là thuận theo Trung Quốc trong giới hạn cơ cấu an ninh khu vực vốn đã được tu chỉnh lại. Chuyện Trung Quốc có chấp nhận sự thỏa hiệp như thế không là một vấn đề khác, và phần nhiều sẽ phụ thuộc vào những ưu thế tương đối của cả hai bên trong nhiều thập niên sắp tới. Nhưng khi Trung Quốc theo đuổi tầm nhìn phục hưng quốc gia của họ, một thứ gì đó cần phải được bỏ đi. Nếu không, “Giấc mộng Trung Quốc” có thể biến đổi một cách bi kịch thành cơn ác mộng Á châu.
[67] “Enlightened self-interest” là một khái niệm được Alexis de Tocqueville bàn thảo trong cuốn sách trứ danh Democracy in America (bản Việt ngữ mang tên Nền dân trị Mỹ, do Phạm Toàn dịch, Bùi Văn Nam Sơn hiệu đính). Trong tác phẩm của mình, Tocqueville không dùng chữ như trên, mà dùng chữ “self-interest rightly understood (lợi ích riêng được nhận thức đúng)”. Khái niệm này, nôm na, chỉ đến sự việc nhiều người hiệp lại cùng nhau trong các hội đoàn, giúp nhau thúc đẩy lợi ích của tập thể, rồi qua đó phục vụ cho lợi ích riêng của chính mỗi người – ND.
[68] Ở đây tác giả ý nói các viên chức được chính quyền sở tại chỉ định, chứ không thông qua bầu cử – ND.
[69] Nguyên gốc: trade follows the flag, ý chỉ chuyện các nước thuộc địa sẽ giúp xúc tiến mậu dịch ở nước mẹ. Cụm này bắt nguồn từ một quán lệ rằng các nước mẹ thường hay cắm cờ của họ ở mọi nước thuộc địa mà họ thâu tóm được – ND.
[70] Nguyên gốc: Chinese Raj. Ở đây có ý so sánh với British Raj (sự cai trị của Nữ hoàng Anh đối với tiểu lục địa Ấn Ðộ) – ND.