Chương 2.
Liền trong hai năm, tôi dành những ngày nghỉ phép để quẩn quanh tại mấy địa điểm đường sắt giao nhau ở miền Nam, đầu tiên là hỏi chuyện năm mươi mốt người lớn tuổi biết chuyện, đọc hơn một triệu chữ tư liệu, cuối cùng vững tin để ngồi viết. Những ngày ở miền Nam cho tôi hiểu thế nào là miền Nam. Cảm nhận thiết thân của tôi là, sau khi đến miền Nam, mỗi lỗ chân lông của tôi đều nhoẻn miệng cười, ngọt ngào hít thở, say mê hưởng thụ, đẹp tươi như hoa, thậm chí từng chân tơ kẽ tóc rối rắm cũng trở nên sống động, tưởng như đen hơn. Cho nên, không có gì lạ khi tôi chọn một nơi ở miền Nam để ngồi viết, điều khó hiểu là, do thay đổi nơi ngồi viết, dẫn đến phong cách viết của tôi cũng thay đổi theo. Tôi nhận ra, khí hậu dễ chịu làm tôi cảm thấy đủ dũng khí và lòng kiên nhẫn vượt qua khó khăn trong lúc viết, đồng thời làm cho câu chuyện tôi kể cũng xanh tươi như cây cỏ miền Nam. Nói thẳng ra, nhân vật chính của câu chuyện lúc này vẫn chưa xuất hiện, nhưng sắp xuất hiện. Với một ý nghĩa nào đấy, nhân vật chính đã xuất hiện, chẳng qua tôi chưa trông thấy, giống như chúng ta không trông thấy những hạt giống nảy mầm dưới lớp đất ẩm.
Thật ra, hai mươi ba năm trước, việc thiên tài Dung Ấu Anh sinh ra Quỷ Đầu To, không ai tin rằng sự việc vô cùng khiếp sợ ấy còn có thêm một lần nữa. Nhưng, mấy tháng sau ngày người con gái không tên vào ở trong nhà họ Dung, lại tái hiện một phiên bản đầu to. Vì còn trẻ, tiếng kêu gào của người con gái không tên càng vang hơn, tiếng gào cứ bay lượn trong khuôn viên thâm nghiêm, khiến cho ánh sáng cũng phải run rẩy, thậm chí làm cho ông trưởng họ mất trí cũng phải giật mình kinh hãi. Bà đỡ đến rồi về, về rồi đến, người trông coi hết người này đến người khác, lúc ra về trên người ai cũng nồng nặc mùi tanh của máu, máu dính đầy người, giống như một trận đấu kiếm. Máu từ trên bàn đẻ chảy xuống đất, từ trong phòng chảy ra ngoài, chảy ra ngoài rồi vẫn còn chảy, chảy theo khe của những tấm đá xanh, chảy ra tận bãi cỏ có trồng mấy cây mai. Hoa mai nở lẫn với cỏ, lẽ ra phải tàn, nhưng mùa đông năm ấy hoa mai nở hai lần, nghe nói vì chúng được uống máu người. Lúc mai nở, người đàn bà không tên đã hồn xiêu phách lạc, không biết làm oan hồn ma dại nơi nào rồi.
Tất cả những người biết chuyện đều nói, cô gái không tên cuối cùng sinh hạ được đứa bé quả là kì tích. Những người ấy còn nói, nếu đứa trẻ được sinh ra, người mẹ sống, sẽ là đại kì tích, kì tích của kì tích. Có điều kì tích của kì tích đã không thành. Sau khi đứa trẻ được sinh ra, người con gái không tên cũng buông tay khỏi thế gian. Kì tích của kì tích không dễ gì tạo nên, trừ phi sinh mệnh không phải là máu thịt, vấn đề không ở đấy, vấn đề ở chỗ khi mọi người rửa sạch máu trên mặt đứa bé, ai cũng kinh ngạc phát hiện, đứa bé từ đầu đến chân không một chỗ nào không giống Quỷ Đầu To: tóc đen xù lên, giống từ cái đầu to, cái bớt hình trăng khuyết ở mông. Sự việc đến nước này, hoá ra lời nói dối của Lily con thành to chuyện. Một đứa bé thần bí nửa người nửa thần tiên, ai trông thấy cũng kính nể và sợ hãi, bỗng chốc trở thành con quỷ nghịch tặc dữ tợn. Nếu bà chị dâu ông J. Lily không có chút ấn tượng nào đối với Bàn tính đầu to, khi trông thấy đứa bé này, e rằng dù có tấm lòng từ bi kính Phật, cũng phải đem nó vứt ra bãi hoang. Nói một cách khác, vào lúc quan trọng vứt hay không vứt, cái đứa nhỏ này và hình bóng quên mình của bà nội nó đã cứu nó, giữ nó lại trong gia đình họ Dung.
Nhưng giữ cái sinh mệnh ấy lại, thì sự tôn trọng đối với những người họ Dung không còn, thậm chí ngay cả họ tên của nó cũng không có. Suốt một thời gian dài, ai cũng gọi đứa nhỏ kia là Ma Chết. Một hôm, ông Tây đi qua cửa nhà hai vợ chồng lão bộc nhận nuôi Ma Chết, lão bộc rất khách khí mời ông Tây vào nhà, nhờ đặt cho đứa bé cái tên. Họ đều là người già sợ chết, cảm thấy ớn lạnh khi gọi Ma Chết, tưởng như giục đòi sinh mệnh của chính họ, cho nên rất muốn đổi tên cho đứa nhỏ. Đã từng đổi tên, những là Cún, là Miu, có thể không thiết thực, không ai gọi, không có ai gọi, xóm giếng cứ gọi nó là Ma Chết, Ma Chết, gợi cho hai ông bà già đêm nào cũng gặp ác mộng. Cho nên, rất bức xúc mời ông Tây đặt cho nó cái tên khác.
Ông Tây chính là người năm xưa giải mộng cho bà cố, một thời rất được nhà họ Dung yêu quý, nhưng không phải những người có tiền có của yêu quý. Một hôm, ở bến tàu, ông bói cho một người chuyên buôn trà, kết quả bị một trận đòn nhừ tử, tay chân bị gãy không nói làm gì, ngay cả đôi mắt xanh sáng quắc cũng bị mất một con. Ông ta dựa vào cái tay cái chân gãy và con mắt mù bò đến cửa nhà họ Dung, người nhà họ Dung với thiện tâm của vong linh bà cố, nhận ông ta, sau đấy cứ ra ra vào vào, ở ngay trong nhà họ Dung, dựa vào hiểu biết và sự chán đời khi đã tỉnh ngộ, ông tìm cho mình một công việc thích hợp, ấy là sửa sang đính chính gia phả của dòng họ cao quý này. Hết năm nọ sang năm kia, cho đến nay, chính ông là người hiểu biết ngọn ngành họ Dung hơn bất cứ người nào của dòng họ, quá khứ, hiện tại, nam nữ, lịch sử công khai, lịch sử bí mật, hưng vong vinh nhục, thậm chí cả sự đổi thay trong từng chi tiết, dây mơ rễ má, tất thảy đều trong tim, trên đầu ngòi bút của ông ta. Cho nên, Ma Chết là người nơi nào, dây nào quả nào, quả này thối hay thơm, là sáng hay tối, sang hay hèn, vinh hay nhục, người bên cạnh hay trong mây trong mù... ông ta đều biết rõ, chính vì biết rõ, cho nên cái tên hoặc tên hiệu đều rất khó đặt.
Ông Tây suy nghĩ, tên phải có họ, vậy họ gì? Đúng lí ra, nó phải mang họ Lâm, nhưng như vậy khác nào lạy ông tôi ở bụi này, làm cho mọi người ghét bỏ; họ Dung, đấy là chuyện cách đời không thể được; theo họ mẹ, cô gái không tên thì lấy đâu ra họ? Dù có cũng không thể lấy như thế, khác nào bôi gio trát trấu vào mặt nhà họ Dung, khác nào chửi thẳng vào mặt. Nghĩ đi nghĩ lại, nghĩ mãi cái họ không ra, đành đặt cho nó cái tên hiệu. Ông Tây nhìn cái đầu to của nó, nó có cái đau khổ là sinh ra không cha không mẹ, là cái số tự sinh tự diệt, chợt nghĩ ra một cái tên hiệu: Sâu Đầu To.
Sự việc truyền đến Phật đường, người tụng kinh vừa ngửi mùi hương thơm vừa suy nghĩ rồi nói:
“Đều là hung thần, nhưng Quỷ Đầu To làm cho tài nữ nhà họ Dung phải chết, cho nên gọi là quỷ không còn gì đúng hơn, đứa nhỏ này làm chết một một cô gái mà không biết xấu mặt, nó dám tỏ ra bất kính với Đức Phật, đúng là tội đáng chết, là đồ trời tru đất diệt! Làm cô ta chết tức là thay trời hành đạo, trừ ác cho con người, gọi đứa bé là quỷ có phần oan cho nó, vậy từ nay về sau gọi nó là Sâu Đầu To, chắc chắn nó không hoá rồng được.”
Sâu Đầu To!
Sâu Đầu To!
Sâu Đầu To sống như một con sâu.
Sâu Đầu To!
Sâu Đầu To!
Sâu Đầu To lớn lên như một ngọn cỏ.
Trong khuôn viên rộng lớn, chỉ có một người coi Sâu Đầu To là con người, là một đứa bé, đó là ông Tây, một người tự do phóng khoáng đến từ bên kia đại dương. Mỗi ngày sau khi đọc xong một bài kinh buổi sáng và nghỉ buổi trưa, vẫn thường theo con đường rải đá yên tĩnh, thả bước đến nhà vợ chồng lão bộc, ngồi bên cạnh thằng Sâu Đầu To đang đứng trong cái thùng gỗ, hút điếu thuốc, dùng tiếng mẹ đẻ của ông ta để kể về giấc mộng đêm qua, hình như kể cho Sâu Đầu To nghe, thật ra chỉ một mình nghe thấy, vì Sâu Đầu To không hiểu. Có lúc, ông ta đem cho Sâu Đầu To cái chuông hoặc thằng người bằng đất, cái tượng bằng sáp..., hình như những thứ đó làm cho Sâu Đầu To có cảm tình với ông. Về sau, Sâu Đầu To chân tay đã cứng cáp, có thể vung vẩy đi chơi, chỗ mà nó đến là vườn lê, nơi ông Tây sống và làm việc.
Vườn lê, đúng như tên gọi, có hai cây lê trên trăm tuổi, trong vườn còn có một cái nhà gỗ có gác xép, là nơi nhà họ Dung cất giấu thuốc phiện và dược thảo. Một năm, một người hầu gái bỗng mất tích, lúc đầu nghĩ cô đi theo trai, về sau phát hiện thi thể cô đã thối rữa trong cái nhà gỗ này. Cô hầu chết không rõ nguyên nhân, nhưng tin chết không cánh mà bay, làm cho người họ Dung ai cũng biết. Từ đấy về sau, vườn lê trở thành nơi ma quỷ trú ngụ và âm u đáng sợ, ai nhắc đến cũng phải biến đổi sắc mặt; trẻ con quấy khóc, người lớn đều lấy nơi này ra doạ: còn khóc nữa sẽ ném mày vào vườn lê! Ông Tây dựa vào cái nơi làm mọi người khiếp hãi để hưởng thụ sự yên tĩnh, tự do của riêng mình. Mùa lê nở hoa, nhìn hoa lê rực rỡ, ngửi thấy hương thơm của hoa, ông tin rằng, đây chính là nơi mà suốt đời ông phải cực khổ, phiêu bạt kiếm tìm. Lúc hoa lê tàn, ông nhặt những cánh hoa rơi, phơi khô, đem cất lên gác xép, như vậy quanh năm ngôi nhà lúc nào cũng ngan ngát hương thơm của hoa, có cảm giác bốn mùa đều là xuân. Vào những lúc buồn bực, ông còn dùng cánh hoa lê khô ngâm vào nước, uống vào thấy dễ chịu, rất công hiệu.
Sau lần đầu Sâu Đầu To đến, ngày nào nó cũng đến đây, đến nhưng không nói chuyện, chỉ đứng dưới gốc cây lê, ánh mắt dõi theo bóng ông Tây, nó lặng lẽ, rụt rè, giống chú nai con nhút nhát. Vì từ nhỏ phải đứng trong cái thùng gỗ, nó tập đi sớm hơn những đứa trẻ khác, nhưng chậm nói, hơn hai tuổi, những đứa khác đã biết đọc thơ ngũ ngôn thất luật, nó chỉ mới biết a... a... Nó chậm nói khác thường nên nhiều người nghĩ nó bị câm bẩm sinh, nhưng rồi một hôm, ông Tây nghỉ trưa trong lán tranh, bỗng nghe có tiếng kêu buồn đau:
“Mặt đất...”
“Mặt đất...”
“Mặt đất...”
Ông Tây lại nghe ra có người dùng tiếng mẹ đẻ để gọi tên cha của ông ta. Ông choàng mở mắt, trông thấy Sâu Đầu To đứng bên cạnh, tay kéo áo ông, nước mắt giàn giụa. Đấy là lần đầu tiên Sâu Đầu To gọi người, nó coi ông Tây là cha đẻ, bây giờ cha đã chết, nó khóc, khóc gọi ông dậy. Từ hôm ấy, ông Tây đón Sâu Đầu To về ở trong vườn lê. Ông Tây ngoài tám mươi tuổi, dựng một cây đu ngay trong vườn lê, làm tặng phẩm mừng Sâu Đầu To tròn ba tuổi.
Sâu Đầu To sống dưới làn hoa lê bay bay rơi rụng.
Tám năm sau, cứ mỗi độ hoa lê đua nở, ông Tây ngày ngày đón những cánh hoa nhảy múa, trong bước đi lảo đảo cố suy xét đắn đo từng cách dùng từ, buổi tối chép lại bản thảo từ trong bụng lên trang giấy, mấy hôm sau thành lá thư gửi cho ông Lily con, con trai ông John Lily, đang trên tỉnh. Lá thư để trong ngăn kéo hơn một năm, cho đến khi ông cảm thấy mình không còn sống được bao lâu nữa, mới lấy ra, đề thêm ngày tháng, sai Sâu Đầu To đưa ra trạm bưu điện. Bởi chiến tranh, ông Liiy con không có chỗ ở cố định, đi về không quy luật, mãi mấy hôm sau mới nhận được thư. Lá thư viết:
Thưa ông Hiệu trưởng tôn kính,
Kính chúc ông mạnh khỏe, bình an!
Không biết tôi gửi thư cho ông có phải là sai lầm cuối cùng trong cuộc đời cổ hủ, ngu dốt của tôi? Bởi sợ hãi là một sai lầm, bởi cũng muốn sống thêm với Sâu Đầu To một ngày, cho nên viết xong thư này tôi không gửi ngay. Thư gửi vào trước đêm lâm chung của tôi, tuy như vậy là sai lầm, nhưng cũng may mắn tránh được những lời quở trách. Với đặc quyền của linh hồn, tôi từ chối mọi lời quở trách của thế gian, bởi sống ở thế gian này tôi đã phải nhận quá nhiều lời quở trách nặng nề. Đồng thời với linh hồn, tôi quan sát những ánh mắt của thế gian nhìn xem ông đã coi trọng lời lẽ trong lá thư này ở mức độ nào, thậm chí cả việc thực hiện. Ở một mức độ nào đấy, cũng có thể coi bức thư này là di chúc của tôi, tôi đã sống trên mảnh đất người ma lẫn lộn gần một thế kỉ, tôi biết ông rất cung kính người đã chết cũng giống như khắc nghiệt với người còn sống, khiến mọi người phải thán phục. Cho nên, tôi tin rằng ông không làm ngược lại di nguyện của tôi.
Tôi chỉ có một di nguyện là, với Sâu Đầu To, những năm gần đây, trên thực tế tôi là người trông coi nó, mà tiếng chuông tận thế cận kề nói với tôi, thời gian tôi trông coi nó đã nhiều, nay cần có người khác trông coi nó. Tôi cầu xin ông hãy là người trông coi nó từ nay về sau. Tôi nghĩ, ông có ba lí do để làm người trông coi nó:
1. Bởi thiện tâm và dũng khí của ông và của thân sinh ra ông, nó mới có may mắn đến với thế gian;
2. Dù thế nào đi nữa thì nó cũng là hậu duệ của dòng họ Dung, cụ cố của nó đã từng là người mà thân sinh của ông quý nhất đời;
3. Đứa nhỏ này cực kì thông minh. Những năm gần đây tôi như phát hiện một miền đất lạ, từng tí một bị trí tuệ thần bí như giấc mơ trên con người nó làm tôi phải kinh ngạc. Ngoại trừ tính cô đơn và lạnh lùng, tôi cho rằng nó không khác gì bà nội của nó, hai người rất giống nhau, thông minh hơn người, năng lực phân tích lí giải rất cao, tính cách trầm tĩnh. Ác-si-mét nói, nếu cho một điểm tựa, nó có thể làm xoay chuyển quả đất. Tôi tin nó là một người như thế. Nhưng bây giờ nó đang rất cần chúng ta, vì nó mới mười hai tuổi.
Thưa ông, hãy tin lời tôi, cho nó rời khỏi nơi này, đưa nó về sống bên cạnh ông, nó cần đến ông, cần tình yêu thương, cần sự giáo dục, thậm chí cần ông cho nó một cái tên.
Cầu xin!
Cầu xin!
Lời cầu xin của một người sống!
Cũng là lời cầu xin của một vong linh!
R. J. - Người sắp chết.
Thị trấn Đồng, ngày 8 tháng 6 năm 1944
Năm 1944, Trường Đại học N và thành phố C nơi có trường Đại học N, gặp nhiều tai hoạ, đầu tiên là ngọn lửa chiến tranh rửa tội, sau đấy là chính phủ ngụy của Nhật Bản giày xéo, thành phố và lòng người có những thay đổi lớn. Khi ông Lily con nhận được thư của ông Tây, lửa chiến tranh đã tắt. Nhưng sự hỗn loạn của chính phù ngụy gây ra đạt đến cực điểm. Lúc bấy giờ, ông John Lily đã qua đời được mấy năm, uy tín còn lại của ông ngày một suy giảm, thêm vào đấy là thái độ bất hợp tác của chính quyền ngụy, địa vị của ông Lily con trong Trường Đại học N khó tránh khỏi lung lay, chính quyền ngụy coi trọng nhưng gây áp lực đối với ông, vì, thứ nhất ông là một người nổi tiếng, có giá trị lợi dụng mà người khác không có; thứ hai, dưới triều Chính phủ Quốc Dân, họ Dung của ông bị lạnh nhạt, rất dễ bị lợi dụng. Cho nên, khi chính phủ ngụy mới thành lập, đã khảng khái phong cho ông Lily vốn là Phó Hiệu trưởng lên chức Hiệu trưởng, cho rằng làm như thế cũng đã đủ mua chuộc được ông. Không ngờ, ông Lily xé quyết định tấn phong ngay trước mặt mọi người, đồng thời để lại một câu nói rất nổi tiếng:
“Mất nước, họ Dung chúng tôi thà chết không phục tùng!”
Kết quả như thế nào cũng có thể biết, ông Lily được lòng người, nhưng bị mất chức. Ông muốn về thị trấn Đồng để tránh cái bộ mặt đáng ghét của chính phủ ngụy, gồm cả những con người và cuộc tranh giành quyền lực sục sôi một thời ngay trong nhà trường. Thư của ông Tây vô tình thúc đẩy hành trình của ông. Ông nhẩm đọc những lời trong lá thư, bước xuống tàu, trước mắt hiện lên hình ảnh người quản gia trong gió mưa. Ông quản gia ra đón, bất chợt ông hỏi:
“Ông Tây có khoẻ không?”
“Ông Tây đi rồi.” Người quản gia nói. “Đi từ lâu rồi.”
Bỗng tim ông đập mạnh, lại hỏi:
“Vậy đứa bé kia đâu?”
“Ông hỏi ai ạ?”
“Sâu Đầu To.”
“Nó vẫn ở vườn lê.”
Ở vườn lê thì ở vườn lê, nó làm gì ít người biết, bởi nó không mấy khi ra khỏi khu vườn, người nhà cũng ít khi đến đấy. Nó như một linh hồn, biết nó ở đấy, nhưng khó lòng trông thấy bóng nó. Ngoài ra, theo lời người quản gia, có thể khẳng định Sâu Đầu To bị câm.
“Chưa bao giờ con nghe hiểu lấy một câu từ miệng nó nói ra.” Người quản gia nói. “Nó rất ít nói, mà có nói cũng giống như người câm nói, không ai hiểu gì.”
Người quản gia nói thêm, những người làm trong nhà đều bảo rằng, trước khi qua đời, ông Tây cũng đã cúi lạy cụ Ba, sau khi ông ấy mất, vẫn để Sâu Đầu To ở vườn lê, không nên đuổi nó đi. Người quản gia lại nói, ông Tây để lại cho Sâu Đầu To tất cả số vàng bạc mà ông ấy tích góp suốt mấy chục năm trời, hiện tại có thể Sâu Đầu To đang sống bằng số của cải ấy, vì nhà họ Dung không chi tiền ăn cần thiết cho nó.
Sáng hôm sau ông Lily đến vườn lê. Mưa đã tạnh, nhưng mưa mấy hôm liền làm cho vườn lê ướt át, chân giẫm lên bùn nhão, dấu chân in sâu, bẩn cả giày. Ông Lily không trông thấy bất cứ một dấu chân người nào, mạng nhện trên cành cây, nhện vào nhà trú mưa, có con đang giăng tơ ngay trước cửa, nếu ống khói không có khói bay lên và tiếng dao cứa trên gạch, ông không nghĩ ở đây có người.
Sâu Đầu To đang thái khoai lang, nước trong nồi đang sôi, chỉ có rất ít gạo đang loi ngoi chìm nổi. Ông Lily bước vào, Sâu Đầu To không kinh ngạc, cũng không bực tức, chỉ nhìn ông rồi tiếp tục công việc, tưởng như người vừa vào là ông nội của nó, hoặc một con chó. Người nó nhỏ bé hơn suy nghĩ của ông, đầu cũng không to như người ta vẫn đồn, có điều đầu hơi nhọn, giống như đang đội cái mũ quả dưa - có thể vì đầu cao mới không cảm thấy to. Tóm lại, cứ nhìn cái vẻ bề ngoài, ông Lily nói không có gì khác người, nhưng vẻ lạnh lùng, trầm tính của nó để lại ấn tượng sâu sắc hơn, cái vẻ trầm mặc của người già trước tuổi. Căn nhà chỉ có một gian thông thống, nhìn vào là có thể thấy tất cả và chất lượng cuộc sống, nấu nướng, ăn uống, nghỉ ngơi đều rất đơn giản, cái tủ đựng dược thảo, cái bàn, cái ghế thái sư trông còn ra dáng. Trên mặt bàn là một cuốn sách mở ra, cuốn sách khổ lớn, giấy đã cũ. Ông Lily khép cuốn sách lại để xem bìa, cuốn sách tiếng Anh “Encyclopedia Britannica”[1]. Ông để cuốn sách xuống, nghi ngờ nhìn đứa bé, hỏi:
“Cháu đang xem cuốn sách này đấy à?”
Sâu Đầu To gật đầu.
“Xem có hiểu không?”
Sâu Đầu To lại gật đầu.
“Ông Tây dạy cháu à?”
Nó gật đầu tiếp.
“Sao cháu không nói, hay là câm?” Ông Lily hỏi, giọng nói có ý trách cứ. “Nếu đúng cháu hãy gật đầu, nếu không phải thì nói chuyện với bác.” Sợ nó không hiểu, ông Lily dùng tiếng Anh nhắc lại.
Sâu Đầu To đến bên bếp lò, đổ khoai lang đã thái vào nồi nước sôi, sau đấy nó dùng tiếng Anh trả lời rằng nó không câm.
Ông Lily hỏi có biết tiếng Trung Quốc không, Sâu Đầu To lại dùng tiếng Trung Quốc trả lời.
Ông cười, nói:
“Cháu nói tiếng Trung Quốc giọng điệu kì quặc như bác nói tiếng Anh, hình như cháu cũng học ông Tây phải không?”
Sâu Đầu To gật đầu.
Ông Lily nói:
“Cháu đừng gật đầu.”
Sâu Đầu To nói: “Vâng ạ.”
Ông Lily nói: “Mấy năm nay bác không nói tiếng Anh, nay nói không thạo, tốt nhất cháu nói tiếng Trung Quốc với bác.”
Sâu Đầu To trả lời bằng tiếng Trung Quốc: “Vâng ạ.”
Ông Lily ngồi vào cái ghế tựa bên cái bàn, châm một điếu thuốc, hỏi: “Năm nay cháu mấy tuổi rồi?”
“Mười hai ạ.”
“Ngoài dạy cháu đọc những sách này, ông Tây còn dạy thêm gì cho cháu nữa không?”
“Không ạ.”
“Lẽ nào ông Tây không dạy cháu giải mộng? Ông ấy là bậc thầy về giải mộng đấy.”
“Có dạy ạ.”
“Cháu biết chưa?”
“Có biết.”
“Bác nằm mơ, có thể giải cho bác được không?”
“Không được.”
“Tại sao?”
“Cháu chỉ giải mộng cho một mình cháu thôi ạ.”
“Trong mộng cháu có thấy bác không?”
“Có thấy.”
“Có biết bác là ai không?”
“Biết.”
“Là ai?”
“Hậu duệ đời thứ tám của dòng họ Dung, sinh năm 1883, hàng thứ hai mươi mốt, tên là Dung Tiểu Lai, tự Đông Tiến, hiệu Trạch Thổ, tên thường gọi là Lily, là con trai của ông John Lily, người sáng lập trường đại học N, năm 1906 tốt nghiệp khoa toán đại học N, năm 1912 lưu học tại Mĩ, giành được học vị thạc sĩ toán tại Đại học Massachusette, từ năm 1926 về dạy tại Đại học N, hiện tại là Hiệu phó Đại học N, giáo sư toán.”
“Vậy là rất hiểu bác.”
“Những người trong nhà họ Dung cháu đều hiểu rõ.”
“Cũng do ông Tây dạy à?”
“Vâng.”
“Ông ấy còn dạy thêm gì nữa?”
“Không dạy gì nữa.”
“Cháu đi học chưa?”
“Chưa.”
“Có muốn đi học không?”
“Không muốn.”
Nước trong nồi lại sôi, hơi nóng bốc lên mù mịt, có mùi thơm của khoai chín. Ông Lily đứng dậy, chuẩn bị ra vườn lê đi dạo. Sâu Đầu To nghĩ rằng ông sắp đi, bỏ nó ở lại, vội nói ông Tây để lại vài thứ cho ông. Nói rồi nó đến bên giường, lôi cái hộp giấy trong gậm giường ra, đưa cho ông Lily:
“Ông ấy nói, nếu ông về, đưa cho ông cái này.”
“Ông nào? Ông Tây à?”
“Vâng.”
“Đây là cái gì?” Ông Lily nhận cái hộp giấy.
“Ông cứ mở ra khắc biết.”
Đồ vật được gói bằng mấy tờ giấy ngả vàng, xem ra khá to, thật ra gói nhiều lớp, mở ra, để lộ bức tượng Quan Âm chỉ nằm gọn trong lòng bàn tay, tượng được khắc bằng thứ ngọc trắng, giữa trán có khảm một viên bảo thạch màu xanh thẫm, trông giống con mắt thứ ba. Ông Lily cầm trên tay, ngắm nghía mãi, lập tức cảm nhận được một luồng hơi mát mẻ từ bàn tay lan toả quanh người, chứng tỏ phẩm chất thượng thặng của ngọc, những nét khắc thủ công cũng rất tinh tế, chìm trong những đường nét thủ công là lịch sử dài lâu của nó. Có thể khẳng định, đây là vật sưu tập quý giá, đem bán nó cũng được một món tiền không nhỏ. Ông Lily nâng niu cái tượng, nhìn thằng nhỏ, khẽ nói:
“Bác với ông Tây không thân nhau lắm, tại sao ông ấy lại cho bác báu vật này?”
“Cháu không biết.”
“Cái này rất đáng tiền, cháu cứ giữ lấy.”
“Không.”
“Từ nhỏ cháu được ông Tây yêu quý, tình cảm như người thân, nó phải là của cháu.”
“Không.”
“Cháu cần hơn bác.”
“Không.”
“Hay là ông Tây sợ cháu bán rẻ, nên nhờ bác bán hộ?”
“Không.”
Đang nói chuyện thì ánh mắt ông Lily bỗng chạm vào tờ giấy gói, trên ghi những dãy tính, từng dãy tính, hình như tính toán một con số hết sức phức tạp. Ông trải mấy tờ ra, tất cả đều như thế, là những dãy tính. Câu chuyện chuyển sang một hướng khác.
“Ông Tây có dạy cháu tính toán không?”
“Không.”
“Ai làm những con tính này?”
“Cháu.”
“Cháu tính gì?”
“Cháu tính số ngày ông ấy sống...”
Cái chết của ông Tây bắt đầu từ cổ họng, có thể là trả thù sự nghiệp giải mộng mà ông ta yêu mến suốt đời, nói tóm lại, cái miệng lưỡi khéo hót có ích suốt đời, mà hoạ cũng bởi cái miệng quạ đen nói trơn tuột chuyện âm dương. Từ khi chuẩn bị viết di chúc cho ông Lily, ông ta đã mất tiếng, không nói được nữa, điều ấy củng làm ông ta dự cảm được cái chết đang đến gần, mới dặn lại những chuyện về sau của Sâu Đầu To. Trong những ngày câm lặng, cứ mỗi buổi sáng, Sâu Đầu To lại đặt nơi đầu giường ông ta một chén trà hoa lê pha đậm nhạt tuỳ theo mùa, ông tỉnh lại trong thoang thoảng hương thơm, trông thấy những cánh hoa lê trắng nở dần trong nước, lòng cảm thấy bình an. Nước trà hoa lê tự chế đã từng là thứ thuốc xua đi những chứng bệnh của ông ta, thậm chí ông thấy mình thọ như vậy cũng là bởi cái thứ trà đơn giản này. Nhưng khi ông thu thập những cánh hoa hoàn toàn là việc nhàn rỗi, hoặc bởi màu trắng tình khiết và dịu dàng của hoa lê đã hấp dẫn và thức tỉnh nhiệt tình của ông, ông thu lượm chúng, phơi chúng nơi mái hiên, phơi khô, rồi cất chúng nơi đầu giường, trên bàn viết, đồng thời ngửi hương thơm của hoa khô, tưởng như giữ bên mình mùa hoa đua nở.
Bởi chỉ còn một mắt, đôi chân không còn nhanh nhẹn, ngày nào cũng ngồi yên một chỗ, lâu ngày không tránh khỏi táo bón, những lúc nghiêm trọng ông có cảm giác sống không bằng chết. Đầu đông năm ấy, chứng táo bón lại tái phát, ông vẫn dùng biện pháp cũ, buổi sáng ngủ dậy uống một bát to nước lã đun sôi, sau đấy uống tiếp, những mong một cơn đau bụng kéo đến. Nhưng lần táo bón này rất ngoan cố, ông uống nước liền mấy ngày, cái bụng vẫn lặng im, không có phản ứng gì, khiến ông cảm thấy đau khổ và tuyệt vọng. Buổi tối hôm ấy, ông đi cắt thuốc ở thị trấn về, nhân lúc còn tối, ông uống cạn bát nước đã chuẩn bị trước khi ra ngoài, vì uống quá nhanh, cuối cùng ông mới thấy nước có vị lạ, đồng thời có rất nhiều cặn cùng trôi tuột vào dạ dày, khiến ông thấy khang khác. Ông thắp đèn lên xem, thấy trong bát là những cánh hoa lê khô được nước làm sống lại, không biết do gió thổi rơi vào hay là chuột tha vào. Trước đấy, ông chưa từng nghe nói hoa lê khô có thể làm nước uống, ông thắc thỏm không yên chờ đợi vì chuyện này mà có thể dẫn đến những chuyện gì khác, thậm chí ông chuẩn bị cho cả cái chết. Nhưng không chờ ông sắc thuốc, ông cảm thấy bụng nhân nhẩn đau, tiếp theo là những cơn đau dữ dội như ông mong muốn. Ông biết, việc lành đã đến, sau một tràng trung tiện, ông đi nhà vệ sinh, lúc ra người cảm thấy vô cùng nhẹ nhõm.
Trước đấy, mỗi lần cảm thấy nhẹ nhàng thoải mái chính là lúc bắt đầu viêm ruột, sau khi hết táo bón, thông thường kéo theo vài ngày đi ngoài, có gì đó như sự chuyển hoá ngược lại. Nhưng lần này ra khỏi vòng quái dị rất bi thảm, không xảy ra những triệu chứng bất thường hoặc một điều gì không thích hợp, có thừa sự bí hiểm, hình ảnh nước hoa lê lại hiện lên trong đầu ông ta. Sự việc bắt đầu thật ngẫu nhiên và sai lầm, kết quả biến thành sự xếp đặt khéo léo của số phận. Từ đấy về sau, ông bắt đầu ngày nào cũng pha nước hoa lê như thể người ta pha trà để uống, càng uống ông càng cảm thấy ngon. Nước hoa lê trở thành ân thưởng cho số phận, khiến cuộc sống già yếu của ông thêm phần say sưa và đời thường. Hàng năm cứ đến mùa hoa lê, ông lại cảm thấy vô cùng sung mãn và hạnh phúc, ông thu nhặt từng bông hoa lê thơm ngát, giống như thu lượm cuộc sống và sức khoẻ của mình. Vào lúc sắp chết, ngày nào ông cũng nằm mơ, trông thấy hoa lê nở trong nắng, rơi rụng trong gió mưa, như bảo rằng ông mong Thượng đế đưa ông đi cùng với hoa lê.
Vào một buổi sáng, ông gọi Sâu Đầu To đến, bảo lấy giấy bút, viết câu này: Sau khi tôi chết mong được chôn cùng hoa lê. Đến tối, ông lại gọi Sâu Đầu To đến bên giường, bảo lấy giấy bút, ghi lại nguyện vọng chuẩn xác: Tôi sống trên đời tám mươi chín năm, mỗi năm một bông hoa, chôn cùng tôi tám mươi chín bông hoa lê. Sáng sớm hôm sau, một lần nữa ông gọi Sâu Đầu To vào, lấy giấy bút, ghi lại nguyện vọng chính xác hơn: Hãy tính, tám mươi chín năm có bao nhiêu ngày, có bao nhiêu ngày chôn theo tôi bấy nhiêu bông hoa lê. Có thể, sự sợ hãi hoặc mong đợi cái chết làm cho ông trở nên hồ đồ, ông ghi lại nguyện vọng chính xác đến độ phức tạp, nhất định ông quên rằng mình chưa dạy cho Sâu Đầu To biết tính toán.
Tuy chưa học, nhưng những phép cộng trừ đơn giản nó có thể làm được. Đó là chi tiết cuộc sống, một phần của đời thường, đối với một đứa trẻ ở tuổi đi học, không học cũng có thể biết. Ở một góc độ nào đó, Sâu Đầu To cũng đã được học và được tập làm cộng trừ, bởi hàng năm cứ đến mùa hoa lê, ông Tây sau khi thu nhặt hoa rơi, chắc chắn bảo Sâu Đầu To đếm, đếm rõ ràng, ghi lên tường, hôm sau lại bảo nó đếm, ghi tiếp lên tường. Như vậy, sau một mùa hoa khả năng đếm và cộng trừ của Sâu Đầu To, gồm cả khái niệm lẻ, chục, trăm, nghìn, vạn đều được huấn luyện ở một mức độ nhất định. Nhưng cũng chỉ đến vậy. Lúc này nó phải dựa vào một chút bản lĩnh, cùng với lời ghi trên bia đã được ông Tây xác định - trên đó ghi đầy đủ ngày sinh và địa điểm - tính số ngày mà ông ta sống. Vì trình độ có hạn, nó phải mất rất nhiều thời gian, mất đúng một ngày mới tính ra. Trong nhá nhem, Sâu Đầu To đến bên giường, nói với ông Tây kết quả mà nó đã tính ra. Ông Tây không còn đủ sức gật đầu, chỉ bóp bàn tay nó một cách tượng trưng, và nhắm mất lần cuối cùng. Cho nên, đến nay Sâu Đầu To có tính đúng hay không, khi nó thấy ông Tây nhìn những phép tính của nó, lần đầu tiên nó cảm thấy quan hệ giữa con người này với nó, sự quan trọng đối với nó, bởi thế nó thấy hồi hộp, sợ hãi.
Những con tính viết kín ba trang giấy, tuy không đánh số trang, nhưng khi ông Lily trải rộng các trang giấy ra, lập tức hiểu ngay đâu là trang đầu tiên. Trang đầu tiên viết như thế này:
Một năm: 365 (ngày)
Hai năm: 365 + 365 = 730 (ngày)
Ba năm: 365 + 365 + 365 = 1.095 (ngày)
Bốn năm: 1.095 + 365 = 1.460 (ngày)
Năm năm: 1.460 + 365 = 1.825 (ngày)
…
Nhìn những dãy số, ông Lily biết Sâu Đầu To chưa biết làm phép nhân, không hiểu phép nhân, cho nên chỉ có thể làm theo cách thủ công. Như vậy, nó cứ luỹ kế, cho đến tám mươi chín lần ba trăm sáu mươi lăm, ra con số 32.485 (ngày), rồi nó lấy con số này trừ đi 235 (ngày), cuối cùng được kết quả 32.232 (ngày).
Sâu Đầu To hỏi: “Cháu tính như thế có đúng không?”
Ông Lily nghĩ, thật ra tính như thế không đúng, vì trong số tám mươi chín năm, không phải năm nào cũng đủ ba trăm sáu mươi lăm ngày. Ba trăm sáu mươi lăm ngày là cách tính theo lịch Tây, cứ bốn năm lại có một năm nhuận, thực tế là ba trăm sáu mươi sáu ngày. Nhưng ông lại nghĩ, thằng nhỏ này mới mười hai tuổi, có thể luỹ kế chính xác quả là không đơn giản. Ông không muốn làm nó buồn, nên nói là đúng, hơn nữa còn ngỏ lời khen:
“Có điểm này cháu làm rất đúng, ấy là cháu tính theo năm, rất khéo. Cháu nghĩ, nếu không tính như thế, cháu phải trừ năm đầu và năm cuối không đủ số ngày, bây giờ cháu chỉ cần tính năm cuối cùng là được rồi, cho nên gọn hơn rất nhiều.”
“Nhưng bây giờ cháu có cách tính đơn giản hơn.” Sâu Đầu To nói.
“Cách nào?”
“Cháu không biết gọi là gì, bác xem nhé.”
Nói rồi, Sâu Đầu To lấy mấy trang giấy ở đầu giường, đưa cho ông Lily xem.
Những trang giấy này bất luận lớn hay bé, tính chất, và cả nét chữ đậm nhạt, rõ ràng không như những trang giấy vừa rồi, chứng tỏ không phải viết cùng một ngày. Sâu Đầu To nói, nó làm những con tính này sau ngày mai táng ông Tây. Ông Lily lật giở ra xem, bên trái vẫn là những phép tính cộng, nhưng bên phải là những phép tính rất thần bí, nó như sau:
Một năm: 365 (ngày). 1 = 365 (ngày)
Hai năm: 365 + 365 = 730 / 365.2 = 730 ngày
Ba năm: 730 + 365 = 1095 / 365. 3 = 1095 (ngày)
Khỏi phải nói, dấu chấm khó hiểu kia chính là dấu nhân, chẳng qua nó không biết, cho nên dùng cách ấy để biểu thị. Giống như thế, nó tính cho đến năm thứ hai mươi, từ năm thứ hai mươi mốt trở đi, hai cách tính được thay đổi vị trí trước sau, phép nhân trước, phép cộng sau, theo như dưới đây:
21 năm: 365.21 = 7665 (ngày)/7300 + 365 = 7665 (ngày)
Ông Lily chú ý, dùng phép nhân để tính ra con số 7665 đã được sửa chữa, con số trước đó hình như 6565, về sau năm nào cũng sửa, phép nhân để trước, phép cộng để sau, đồng thời dùng phép nhân để tính ra con số ấy có đôi chỗ phải sửa, sửa cho đúng với số của phép cộng, nhưng hai mươi năm trước (từ năm thứ nhất đến năm thứ hai mươi) con số dưới phép nhân không bị sửa chữa, nói lên hai điều:
Thứ nhất, hai mươi năm đầu nó chủ yếu dùng phép cộng để tính, dùng phép nhân là để tham chiếu, không hoàn toàn độc lập, từ năm thứ hai mươi mốt trở đi, nó dùng phép nhân để tính, phép cộng viết ra chỉ có tác dụng thử lại phép nhân.
Thứ hai, hồi ấy nó chưa nắm vững cách làm phép nhân, thỉnh thoảng có chỗ sai, cho nên mới có hiện tượng sửa chữa. Nhưng về sau sửa chữa bớt dần, điều này chứng tỏ nó dần dần nắm vững cách làm phép nhân.
Cứ như vậy tính cho đến năm thứ bốn mươi, bỗng nhảy luôn đến năm thứ tám mươi chín, dùng phép nhân và được con số 32485 (ngày), sau đấy bớt đi 253 (ngày), được tổng số 32232 (ngày), nó khoanh tròn con số nhằm gây chú ý, cuối cùng nổi bật lên một con số đứng riêng ra.
Sau đấy còn một bản nháp nữa, trên đấy là các phép tính rất rối, nhưng ông Lily xem và biết nó đang tính, tổng kết quy luật phép nhân. Cuối cùng, quy luật được liệt kê rõ ràng ở cuối trang giấy. Ông Lily nhìn và bất giác miệng đọc theo: một một được một, một hai được hai, một ba được ba, hai hai được bốn, hai ba được sáu, hai bốn được tám, ba ba được chín, ba bốn mười hai, ba năm mười lăm, ba sáu mười tám...
Một dãy phép nhân không sai.
Đọc xong, ông Lily vừa mặc nhiên lại vừa ngơ ngác nhìn thằng nhỏ, trong lòng lẫn lộn cảm giác vừa khó hiểu, vừa lạ lùng, không chân thật. Trong căn nhà yên tĩnh hình như vẫn còn dư âm tiếng ông đọc, ông ngẩn ngơ lắng nghe, những cảm thấy một sự dễ chịu và nhiệt thành đang lan toả, ngay lúc ấy ông có dự cảm không thể không đưa đứa nhỏ này đi. Ông nghĩ bụng, vào những năm tháng chiến tranh liên miên, tất cả những việc thiện không phù hợp thực tế chỉ có thể đưa lại phiền hà cho bản thân, nhưng đứa nhỏ này là một thiên tài, nếu mình hôm nay không đưa nó đi, chắc rằng sẽ hối hận suốt đời.
Trước kì nghỉ hè kết thúc, ông Lily nhận được điện của tỉnh cho biết, trường đã khôi phục việc học hành, mong ông sớm về lại trường, chuẩn bị khai giảng năm học mới. Tay cầm bức điện, ông nghĩ, có thể không làm hiệu trưởng, nhưng không thể bỏ rơi sinh viên, vậy là ông gọi quản gia đến, bảo anh ta chuẩn bị hành lí để lên đường, cuối cùng ông đưa tiền cho anh ta. Người quản gia cảm ơn, nghĩ rằng ông thưởng cho mình.
Ông Lily nói: “Tiền này không phải cho anh, mà đưa để anh lo liệu công việc.”
Người quản gia hỏi: ‘Thưa ông, ông định làm gì ạ?”
Ông Lily nói: “Đưa cho Sâu Đầu To, bảo nó ra phố mua vài bộ đồ.”
Người quản gia nghĩ mình nghe nhầm, anh ta đứng ngẩn người.
Ông Lily nói: “Làm xong việc, anh sẽ được thưởng.”
Mấy hôm sau, người quản gia xong việc, anh ta đến lĩnh thưởng, ông Lily nói: “Anh chuẩn bị cho Sâu Đầu To, ngày mai đi với tôi.”
Người quản gia lại tưởng mình nghe nhầm.
Ông Lily phải nói lại một lần nữa.
Sáng hôm sau, trời vừa tảng sáng, chó trong khuôn viên đã sủa vang. Chó con nọ sủa con kia cũng sủa theo, chỉ lát sau tiếng chó sủa ầm ỹ khiến cả chủ và tớ đều thức giấc, đứng trong cửa sổ nhìn ra ngoài, theo ngọn đèn trong tay người quản gia, những cặp mắt sau cửa sổ đều kinh ngạc tròn xoe, bởi mọi người thấy Sâu Đầu To mặc bộ đồ mới, tay xách cái va li của ông Tây vượt biển đưa về, lặng lẽ từng bước theo chân ông Lily, vẻ sợ sệt, giống như một con ma vừa đến trần gian. Vì kinh ngạc, nên mọi người không dám khẳng định những gì mình trông thấy là thật, cho đến khi người quản gia đưa tiễn người đi rồi quay lại, nghe người quản gia nói mọi người mới tin những gì mắt mình trông thấy là sự thật.
Lại có thêm nhiều nghi vấn: Ông chủ đưa nó đi đâu? Đưa nó đi làm gì? Sâu Đầu To còn về nữa không? Tại sao ông chủ tốt với Sâu Đầu To như thế? Vân vân và vân vân.
Người quản gia có hai cách trả lời.
Với chủ anh ta nói: “Không biết.”
Với người làm anh ta nói: “Có ma mới hiểu nổi.”
Ngựa làm cho thế giới trở nên nhỏ bé, thuyền làm cho thế giới rộng hơn, ô tô lại làm cho thế giới trở thành trò ảo thuật. Mấy tháng sau, quân Nhật tràn đến thị trấn Đồng, đi đầu là đội quân mô-tô chỉ cần vài tiếng đồng hồ là về đến nơi. Đấy cũng là lần đầu tiên ô tô xuất hiện trên con đường từ tỉnh về thị trấn, tốc độ của ô tô khiến mọi người cho rằng ông trời hàm ơn Ngu Công, đã di dời dãy núi ngăn cách tỉnh và thị trấn đi nơi khác. Trước kia, phương tiện giao thông nhanh nhất nối liền hai nơi này là ngựa, chọn con ngựa tốt, quất roi phi nước đại cũng mất bảy, tám tiếng đồng hồ. Mười năm trước, ông Lily vẫn thường ngồi xe ngựa đi về, tuy xe ngựa không nhanh bằng cưỡi ngựa, nhưng dọc đường thúc ngựa cũng có thể sớm đi tối đến. Ngày nay, tuổi gần sáu mươi, không thể ngồi xe ngựa xóc tung người, đành ngồi thuyền. Lần này ra đi, ông Lily ngồi thuyền mất hai ngày hai đêm mới đến được thị trấn Đồng, lúc về xuôi dòng, không lâu như lúc đi, cũng phải một ngày một đêm.
Sau lúc lên thuyền, ông bắt đầu nghĩ đến tên họ cho thằng nhỏ, đến khi thuyền vào đến đoạn sông lên tỉnh, ông vẫn chưa quyết. Đụng đến mới biết vấn đề thật sâu sắc. Sự thật thì, ông đụng đến cái khó của ông Tây khi đặt tên cho nó, có thể nói thời gian lại đi vào lịch sử. Nghĩ đi nghĩ lại, ông quyết định cứ để đấy, chỉ xuất phát từ chỗ đứa trẻ sinh ở thị trấn Đồng, lớn lên ở thị trấn Đồng, ông chọn hai cái tên có phần khiên cưỡng: một là Kim Chân, một nữa là Đồng Chân, để thằng nhỏ tự quyết định.
Sâu Đầu To nói: “Tuỳ đấy.”
Ông Lily nói: “Đã thế, bác sẽ đặt tên cho cháu, cháu tên là Kim Chân nhé, được không?”
Sâu Đầu To nói: “Được, cứ gọi cháu là Kim Chân.”
Ông Lily nói: “Từ nay về sau cháu làm một người đúng nghĩa.”
Sâu Đầu To nói: “Vâng, cháu làm một người đúng nghĩa.”
Ông Lily nói: “Đúng nghĩa, nghĩa là từ nay về sau cháu toả sáng như một thỏi vàng.”
Sâu Đầu To nói: “Vâng, sáng như một thỏi vàng.”
Một lúc sau, ông Lily lại nói: “Cháu có thích cái tên Kim Chân không?”
Sâu Đầu To nói: “Cháu thích lắm.”
Ông Lily nói: “Ông quyết định đổi tên cho cháu, được không?”
Sau Đầu To nói: “Được lắm.”
Ông Lily nói: “Ông chưa đổi mà cháu đã nói được?”
Sâu Đầu To nói: “Ông định đổi tên gì?”
Ông Lily nói: “Đổi tên 'Chân' thành 'Trân', Trân châu, được không?”
Sâu Đầu To nói: “Được lắm, Trân có nghĩa là Trân châu.”
Ông Lily nói: “Cháu có biết tại sao ông đổi tên cho cháu không?”
Sâu Đầu To nói: “Cháu không biết.”
Ông Lily nói: “Cháu thử nghĩ xem.”
Sâu Đầu To nói: “Là vì... cháu không biết...”
Thật ra, ông Lily đổi tên là bởi mê tín, ở thị trấn Đồng thậm chí cả miền Giang Nam, dân gian vẫn nói: trai tướng gái, trông cũng sợ. Ý là, nam có tướng gái, tức cả dương lẫn âm, âm dương tương tế, trong cương có nhu, rất dễ biến một người con trai từ rồng hoá hổ, làm người trên người, Bởi vậy, dân gian mới sinh ra các kiểu phương thức, phương pháp kì vọng âm dương tương tế, gồm cả việc đặt tên. Có những người cha mong con thành rồng, nên cố đặt cho con cái tên con gái để sau này con thành đạt. Ông Lily định bảo với nó như thế, lại thấy không thích hợp, ông do dự giây lát, những điều định nói rồi lại thôi, cuối cùng chỉ nói một cách đại khái: “Thôi, quyết định gọi là Kim Trân, Trân châu.”
Lúc ấy, thành phố C đã thấp thoáng nơi xa.
Tàu cặp bến, ông Lily gọi một chiếc xe kéo, nhưng không về nhà, mà đến thẳng trường cao đẳng tiểu học cửa Thuỷ Tây, tìm ông hiệu trưởng. Ông hiệu trưởng tên Trình, vốn là học sinh của trường trung học trực thuộc đại học N, trong thời gian ông Lily học đại học N, kể cả những năm ông ở lại trường dạy học, ông vẫn thường xuyên giảng bài cho trường trung học trực thuộc này. Ông Trình vốn là một học sinh nhanh nhẹn hoạt bát, có biệt danh “lớp trưởng bí mật”, để lại cho ông Lily những ấn tượng sâu sắc. Sau ngày tốt nghiệp trung học, thành tích học tập của ông đủ để lên tiếp đại học, nhưng ông thích bộ quân phục và trang bị của quân Bắc phạt, ông vác súng đến chào tạm biệt ông Lily. Mùa đông năm sau, ông Trình vẫn mặc quân phục Bắc phạt đến tìm ông Lily, nhưng không còn mang súng, nhìn kĩ, không những không còn súng mà tay cầm súng cũng không còn, ống tay áo rỗng trông giống con mèo chết, ống áo lép kẹp treo ngược, nom kì quặc dễ sợ. Ông Lily ngượng ngùng nắm bàn tay trái còn lại, có cảm giác vẫn còn nguyên sức mạnh, hỏi có viết được nữa không, trả lời là có. Ông Lily giới thiệu đến trường cao đẳng tiểu học mới thành lập để dạy toán, từ đấy Trình giảm bớt khó khăn, cuộc sống ổn định. Vì chỉ còn một tay, anh được mọi người gọi là “Một Tay”, nay làm Hiệu trưởng, đúng với cái tên Một Tay. Mấy tháng trước, ông Lily cùng vợ đã đến đây tránh chiến sự, ở tạm trong cái lán dành cho thợ mộc. Hôm nay, ông Lily gặp Một Tay, câu đầu tiên hỏi: “Cái nhà dành cho thợ mộc tôi ở hồi nọ còn nữa không?”
“Vẫn còn.” Một Tay trả lời. “Chỉ để mấy quả bóng rổ và bóng đá.”
Ông Lily nói: “Vậy thì tốt, để nó ở đấy. Tay ông chỉ vào Sâu Đầu To.
Một Tay hỏi: “Ai đấy?”
Lily nói: “Kim Trân, học sinh mới của anh.”
Kể từ hôm ấy, Sâu Đầu To không còn gọi là Sâu Đầu To nữa, mà gọi là Kim Trân.
Kim Trân.
Kim Trân.
Kim Trân là sự bắt đầu của những bắt đầu ở tỉnh và sau này, mà cũng là sự kết thúc và kỉ niệm của nó ở thị trấn Đồng.
Tình hình mấy năm sau đấy, lời kể của Dung Nhân Dịch, con gái lớn của ông Lily là đủ căn cứ nhất.
Ở đại học, mọi người gọi cô là thầy Dung, thầy Dung, không biết có phải là do cô nhớ đến bố, hay chính sự từng trải của cô. Suốt đời cô không lấy chồng, không phải vì không có tình yêu, mà vì yêu quá sâu nặng, quá cực khổ vì tình yêu. Nghe nói, thời trẻ cô có một người yêu, anh này là một sinh viên giỏi của khoa vật lí đại học N, tinh thông kĩ thuật vô tuyến điện, chỉ cần một buổi tối là có thể lắp được một máy thu thanh ba băng tần. Năm chiến tranh bùng nổ, Đại học N là trung tâm kháng Nhật cứu nước của thành phố C, hầu như tháng nào cũng có một tốp sinh viên xếp bút nghiên tòng quân, sục sôi nhiệt huyết ra chiến trường, trong số đó có người yêu của thầy Dung. Suốt mấy năm sau ngày tòng quân, anh vẫn giữ liên hệ với người yêu, về sau, tín tức thưa dần, lá thư cuối cùng của anh viết ở Trường Sa, tỉnh Hồ Nam mùa xuân năm 1941, nói anh làm công tác cơ mật trong quân đội, tạm thời chấm dứt mọi liên lạc với bạn bè và người thân. Trong thư, anh bày tỏ vẫn yêu cô, mong cô yên tâm chờ đợi, câu cuối cùng rất trang trọng và hết sức xúc động: Em yêu, chờ anh, ngày kháng chiến thắng lợi cũng là ngày chúng ta cưới nhau! Thầy Dung kiên trì chờ đợi, kháng chiến thắng lợi, cả nước được giải phóng nhưng không thấy anh về, một chút tin tức cũng không. Cho đến năm 1953, có người từ Hồng Công về, cho cô biết tin, anh đã đi Đài Loan và đã có vợ, có con, nhắn cô hãy xây dựng gia đình.
Đấy là sự kết thúc một tình yêu kéo dài hơn chục năm của thầy Dung, kết thúc buồn, là một đòn nặng để lại di chứng không nói cũng có thể hiểu. Mười năm trước, tôi đến đại học N, thầy Dung vừa rời vị trí chủ nhiệm khoa toán. Câu chuyện của chúng tôi bắt đầu tù tấm ảnh hạnh phúc của toàn gia đình treo ở phòng khách, tấm ảnh có năm người, hàng đầu là vợ chồng ông Lily, hai người ngồi, đứng giữa hàng sau là thầy Dung chỉ gần hai mươi tuổi, tóc cắt ngang vai; bên trái là cậu em trai đeo cặp kính cận thị; bên phải là cô em gái, tóc tết bím sừng dê, chừng bảy, tám tuổi. Ảnh chụp vào mùa hè năm 1936, lúc ấy em trai thầy Dung đang chuẩn bị đi du học, cho nên mới chụp tấm ảnh kỉ niệm này. Do chiến tranh, em trai của thầy mãi sau khi chiến tranh kết thúc mới về nước, lúc ấy nhà đã mất một người mà cũng có thêm một người, mất cô em gái, năm xưa bị bệnh sốt ác tính cướp đi tuổi thanh xuân, có thêm Kim Trân, cậu ta bước vào cái gia đình này vào kì nghỉ hè, sau khi cô em gái mất được ít lâu. Thầy Dung nói.
(Ghi theo lời kể của thầy Dung)
Cô em gái mất vào kì nghỉ hè năm ấy, mới mười bảy tuổi.
Trước khi nó mất, tôi và mẹ đều không biết Kim Trân là ai, bố giấu nó ở trường cao đẳng tiểu học của thầy Trình như giấu một bí mật. Vì thầy Trình ít đến chơi nhà tôi, cho nên bố tuy muốn giữ bí mật, nhưng không dặn thầy đừng nói với chúng tôi. Thế rồi một hôm, thầy Trình đến chơi, không hiểu thầy nghe tin ở đâu mà biết em gái tôi mất, thầy đến hỏi thăm và chia buồn. Hôm ấy tôi và bố đều không có nhà, một mình mẹ tiếp thầy, hai người nói chuyện và rồi tiết lộ bí mật của bố tôi. Lúc bố về, mẹ hỏi chuyện là thế nào, bố nói đại thể đây là đứa trẻ bất hạnh, thông minh, được ông Tây gửi gắm nhờ vả. Có thể vì đụng đến nỗi đau của mẹ, mẹ nghe nói đến nỗi bất hạnh của đứa nhỏ, khiến mẹ đầm đìa nước mắt. Mẹ nói với bố tôi, Nhân Chi (em gái tôi) vừa mất, trong nhà có một đứa nhỏ có thể là sự an ủi đối với mẹ, mẹ đón thằng nhỏ về.
Vậy là em Trân bước vào gia đình tôi, em Trân tức là Kim Trân.
Ở nhà, tôi và mẹ đều gọi Kim Trân là em Trân, chỉ có bố gọi Kim Trân. Em Trân gọi mẹ tôi là cô giáo, gọi bố tôi là thầy Hiệu trưởng, gọi tôi là chị, dù sao thì gọi như thế cũng không ra sao. Thật ra, nếu theo thứ bậc, em Trân thuộc hàng dưới tôi, gọi tôi bằng cô mới phải.
Nói thật, lúc đầu tôi không thích Trân lắm, vì nó không hề tươi cười, không nói năng, đi đứng thì rón rén, giống như một hồn ma. Hơn nữa, nó còn nhiều thói xấu, lúc ăn rất hay ợ, không giữ vệ sinh, buổi tối đi ngủ không rửa chân, cởi giày ở đầu cầu thang khiến cả phòng ăn và lối đi nồng nặc mùi chua và hôi thối. Hồi ấy chúng tôi ở trong căn nhà của ông nội để lại, nhà hai tầng kiểu đông tây kết hợp. Tầng dưới chỉ có phòng ăn và bếp, còn nữa là phòng riêng của mỗi người trong gia đình. Mọi người đều ở trên tầng, mỗi lần xuống nhà ăn cơm trông thấy đôi giày thối của Trân, lại nghĩ đến việc nó ngồi ăn cứ ợ liên hồi, vậy là ăn cũng mất ngon. Tất nhiên chuyện giày dép cũng giải quyết được. Mẹ nói với nó, mẹ bảo phải chú ý, ngày nào cũng phải rửa chân, thay tất, tất phải giặt sạch hơn mọi người. Năng lực sống của nó rất tốt, thổi cơm, giặt áo quần, nhóm bếp than quả bàng, thậm chí biết khâu vá, làm giỏi hơn tôi. Tất nhiên, những việc ấy đều liên quan đến sự từng trải của nó, được rèn luyện từ nhỏ. Nhưng chứng ợ giữa bữa ăn, có lúc còn trung tiện, thật khó sửa chữa. Sự thật thì cũng không sửa chữa nổi, vì nó có bệnh về dạ dày, cho nên người nó gầy gò. Bố bảo, bệnh dạ dày của nó là do hồi nhỏ uống nước hoa lê với ông Tây, cái thứ đó người già uống có thể là một thứ thuốc, có thể chữa bệnh, nhưng trẻ con uống có được không? Nói thật, để chữa bệnh dạ dày, nó uống thuốc còn nhiều hơn ăn cơm, mỗi bữa nó chỉ ăn chừng một bát cơm, ăn như mèo, ăn thêm chút nữa là ợ.
Có lần, Trân đi nhà vệ sinh không cài cửa, tôi không biết, bước vào, làm tôi sợ quá. Chuyện ấy trở thành dây lửa dẫn đến việc tôi ghét nó, cứ đòi bố mẹ đưa trả nó về trường học. Tôi nói, nó được coi như người thần trong gia đình, nhưng cũng không nhất thiết ở trong gia đình, ở trường học có không ít học sinh trọ học. Lúc đầu bố không nói gì, chờ cho mẹ nói. Mẹ nói, nó vừa đến đã bảo đi, như thế không tiện, muốn bảo nó đi cũng nên chờ khai giảng năm học mới. Đến lúc ấy bố mới bày tỏ thái độ, bố bảo được thôi, chờ năm học mới khai giảng sẽ đưa nó về trường. Mẹ nói, nhưng chủ nhật nên đón nó về nhà, để nó nghĩ đây là nhà. Bố bảo được.
Sự việc quyết định như thế.
Nhưng về sau lại thay đổi. ( )
Một buổi tối sau kì nghỉ hè, bên bàn ăn, thầy Dung nói đến một tin đăng trên báo trong ngày, tin cho hay năm ngoái cả nước bị đại hạn ít thấy trong lịch sử, hiện tại đường phố người ăn xin còn đông hơn binh lính. Bà mẹ nghe rồi thở dài, bảo năm ngoái hai tháng nhuận, xưa nay gặp năm ấy thường là những năm đói kém, khổ nhất là dân nghèo. Kim Trân vẫn ít nói, vì thế mỗi lần bà nói gì cũng đều phải để ý đến Kim Trân, muốn kéo nó vào câu chuyện, cho nên bà cố tình hỏi nó có biết thế nào là tháng nhuận. Thấy nó lắc đầu, bà nói, nhuận kép có nghĩa là năm dương lịch và năm âm lịch cùng nhuận. Thấy nó như chưa hiểu, bà hỏi lại:
“Cháu có biết thế nào là năm nhuận không?”
Nó vẫn lắc đầu, không trả lời. Nó vẫn thế, gặp chuyện không biết, nó không bao giờ lên tiếng. Sau đấy bà giảng giải thế nào là nhuận, nhuận âm lịch là thế nào, nhuận dương lịch là thế nào, tại sao lại có năm nhuận cả âm lịch và dương lịch... Bà nói xong, nó ngơ ngác nhìn, tưởng như bảo nó phải nhận xét xem bà nói đúng hay không.
Ông Lily nói: “Đúng, đúng như thế.”
“Vậy ra cháu tính sai rồi à?” Mặt Kim Trân đỏ lên, trông như sắp khóc.
“Tính sai thế nào?”
Ông Lily không biết nó nói gì.
“Tuổi thọ của ông Tây, cháu tính mỗi năm có ba trăm sáu mươi lăm ngày.”
“Sai rồi...”
Ông Lily chưa nói xong, Kim Trân bật khóc to.
Nó khóc như không nín nổi, mấy người dỗ cũng không được, cuối cùng vẫn là ông Lily, ông bực tức đập bàn mắng nó mới thôi. Nó không khóc nữa, nhưng lòng vô cùng đau khổ, hai tay như bị ma ám cứ cào cấu hai đùi. Ông Lily ra lệnh cho nó để tay lên bàn, rồi nghiêm giọng, lời nói lại như an ủi.
“Cháu khóc gì, ông chưa nói hết, nghe này, nghe ông nói xong, cháu muốn khóc thì khóc.”
Ông nói: “Vừa rồi ông bảo cháu sai rồi đó là về khái niệm, đứng trên góc độ năm nhuận để nói. Về mặt tính toán, cuối cùng có sai hay không, lúc này chưa thể khẳng định, phải tính toán để biết, vì mọi tính toán đều cho phép có sai số.”
Ông nói tiếp: “Theo như ông biết, nếu tính toán chính xác, thời gian trái đất xoay quanh mặt trời mất ba trăm sáu mươi lăm ngày năm giờ, bốn mươi tám phút, bốn mươi sáu giây, tại sao lại có năm nhuận? Là bởi, theo cách tính của dương lịch mỗi năm nhiều hơn năm tiếng đồng hồ, cho nên dương lịch quy định cứ bốn năm có một năm nhuận, năm nhuận là ba trăm sáu mươi sáu ngày. Cháu thử nghĩ, nếu tính mỗi năm ba trăm sáu mươi lăm ngày, năm nhuận tính ba trăm sáu mươi sáu ngày, trong đó vẫn có sai số, đấy là sai số được phép, thậm chí cũng khó xác định, ông nói với ý nghĩa ấy, có tính toán là có sai số, không thể tuyệt đối chính xác được.”
Ông Lily nói: “Bây giờ cháu tính xem, tám mươi chín năm của ông Tây có bao nhiêu năm nhuận, có tổng cộng bao nhiêu ngày nhuận, rồi sau đấy cháu lại tính tổng số những ngày nhuận cháu tính được sẽ có sai số bao nhiêu. Nói chung con số phải lên đến hàng vạn, sai số cho phép là một phần nghìn, nếu hơn một phần nghìn coi như cháu tính sai, là sai số không được phép. Bây giờ cháu tính đi, sai số của cháu hợp lí hay không hợp lí?”
Ông Tây mất vào năm nhuận, năm ấy ông tám mươi chín tuổi, đời ông có hai mươi hai năm nhuận, không hơn, không kém, mỗi năm một ngày, cộng hai mươi hai ngày, đặt trong hơn ba vạn ngày của tám mươi chín năm, chắc chắn sai số chỉ dưới một phần nghìn. Ông Lily nói ra con số ấy mục đích để Kim Trân có đường lùi, đừng tự trách mình. Vậy là, ông Lily vừa dỗ vừa doạ, cuối cùng thì Kim Trân không khóc nữa.
(Ghi theo lời kể của thầy Dung)
Về sau, bố tôi nói với chúng tôi lí do để ôn