Chương 3.
Người này họ Trịnh, vì là thọt chân, cái tên riêng trở nên xa xỉ, giống như huân chương hoặc đồ trang sức, chỉ xuất hiện vào những lúc trang trọng, bình thường ông giống như mèo chỉ vùi đầu vào túi hồ sơ, người ta gọi ông là Trịnh Thọt.
Trịnh Thọt!
Trinh Thọt!
Gọi thật to, chứng tỏ ông không coi chuyện mình thọt chân là quan trọng. Cân nhắc thêm một bước, có hai lí do, thứ nhất là ông ta thọt rất đẹp, ông đã từng vác súng, đã từng đánh trận một cách tượng trưng; thứ hai, thật ra ông thọt không nặng, chân bên trái ngắn hơn chân bên phải vài phân, thời trẻ chỉ độn đế giày cao hơn một chút là đã giải quyết được, không còn đi tập tễnh, mãi đến ngoài năm mươi tuổi mới bắt đầu chống gậy. Khi tôi gặp thì ông đã chống gậy, cái gậy bằng gỗ táo đỏ au có khắc hoa văn, cho tôi cảm giác ông đúng là một ông già trang nghiêm. Đấy là sự việc của những năm chín mươi thế kỉ trước.
Đấy là một mùa hè, mùa hè năm 1956, Trịnh Thọt mới hơn ba mươi tuổi, sức dài vai rộng, cái gót giày bí mật đang phát huy sức mạnh thần kì, mà cũng là sự lừa dối mọi người, biến một người thọt thành người bình thường. Nhưng người của trường đại học N được trời phù hộ, ngay từ đầu đã biết mưu kế của anh.
Sự việc là thế này, buổi chiều hôm ấy, khi Trịnh Thọt đến trường, gặp lúc sinh viên tập trung cả ở hội trường để nghe một Anh hùng quân Chí nguyên báo cáo thành tích chiến đấu, sân trường rất yên tĩnh, đẹp trời, không có nắng gắt của mùa hè, gió nhẹ, hai hàng cây ngô đồng Tây hai bên đường xào xạc khiến cho khuôn viên nhà trường như càng thêm yên tĩnh. Trịnh Thọt hình như bị cái yên tĩnh ấy hấp dẫn, cho cái xe Jeep chở anh dừng lại, dặn người lái xe ba ngày sau đến nhà khách của trường đón anh, rồi anh xuống xe, một mình đi dạo trong sân trường. Mười lăm năm trước, Trịnh Thọt đã từng học ba năm trung học phổ thông và một năm đại học ở đây, thăm lại trường sau nhiều năm đi xa, anh vừa cảm thấy trường mẹ đã thay đổi, vừa vẫn như xưa, kí ức ngủ quên từ trong bóng tối bước ra, cùng dạo chơi bằng đôi chân. Cuộc họp đã tan, cũng là lúc anh đi đến trước hội trường, sinh viên tràn ra như nước vỡ bờ, chỉ vài giây sau đã bao bọc lấy anh, nhận chìm anh. Anh cố gắng đi chậm lại, không để sinh viên chen lấn xô đẩy, vì anh có những ba cái gót giày, không thể chen lấn. Từng đám sinh viên như đàn cá qua sông, ào tới, tưởng chừng sẽ xô anh ngã bổ chửng, phía sau cũng có một đám sinh viên đang chen lấn, đi sát người anh. Anh bước vội vàng, sợ có người đụng vào, nhưng những bạn trẻ chỉ làm anh giật mình chứ không gây nguy hiểm, như sắp va vào người, cũng có thể trong khoảnh khắc đã nhanh chóng biến nguy hiểm thành bình an, không ai ngoảnh lại nhìn, chứng tỏ anh kê cao gót giày về cơ bản không bị thọt. Có thể cái gót giày an ủi anh, bỗng anh thích đám người này, có trai có gái, nhiệt tình sôi nổi, nói cười vui vẻ, giống như dòng thác lũ chảy tràn ngay trước mặt, thậm chí đưa anh về với một ngày, một khoảnh khắc nào đấy của mười lăm năm trước.
Trên sân, dòng người ào ra như nước vỡ bờ, mối lo bị chen lấn đụng chạm đã được giải toả. Ngay lúc ấy, anh cảm thấy có gì đó đánh vào cổ, không chờ phản ứng, đám người kêu lên “mưa rồi”. Thoạt đầu chỉ nghe thấy tiếng kêu, không thấy ai chạy, tất cả đều ngước lên nhìn trời. Nhưng chỉ trong chớp mắt, từ đám mây mù dày đặc nước xối xuống ào ào như cái vòi phun cao áp. Lập tức, đám người như đàn thú hốt hoảng bỏ chạy, người chạy về phía trước, người chạy về phía sau, người xông vào văn phòng, người tạm chui vào nhà để xe đạp, vừa chạy vừa kêu la, cả khu trường ầm ỹ ồn ào. Lúc ấy anh chạy cũng dở, không chạy cũng dở, chạy sẽ lộ cái gót giày, không chạy sẽ bị mưa làm ướt. Có thể anh không định chạy, mưa bom bão đạn đã trải qua, lẽ nào không chịu được mưa? Không sợ. Nhưng chân bị kích thích, anh bỏ chạy theo ý mình, anh chạy hai chân khập khiễng, anh chạy, một chân như buộc theo một tấm hoặc vài ba tấm kính.
Mới bắt đầu, mọi người chạy thục mạng, không ai chú ý đến anh, nhưng khi mọi người đã vào trú mưa anh mới chỉ chạy qua nửa khoảng sân trường. Anh định chạy hay không cũng được, thêm vào đấy là cái đế giày, túi hành lí trên tay, làm sao không tụt lại? Tụt lại sau rất xa. Cuối cùng, trên cái sân trường chỉ còn một mình anh, hình ảnh cô đơn nổi rõ. Khi ý thức được điều ấy, anh muốn nhanh chóng biến khỏi sân trường, kết quả càng chạy nhanh càng tập tễnh, trông rất dũng cảm nhưng cũng rất buồn cười. Mọi người nhìn anh như nhìn một cảnh tượng, có người hô to: cố lên!
Cố lên!
Cố lên!
Tiếng hô cố lên làm mọi người đổ dồn ánh mắt vào anh. Anh có cảm giác bị ngàn vạn ánh mắt đè dí xuống. Vậy là anh ta quyết định đứng lại, vẫy vẫy tay giữa trời, coi như đáp lại tiếng hô cố lên, sau đấy anh đi từng bước một, nở nụ cười, giống như đang trên sân khấu. Lúc ấy mọi người thấy anh đi ngay ngắn, tưởng như vừa rồi anh chạy là biểu diễn, thật ra đã làm lộ bí mật, khiến anh khó xử, mặt khác cũng làm người khác biết về anh, một người thọt. Một người thọt rất buồn cười và cũng rất thoải mái. Thật ra, mười lăm năm trước, anh đã ở đây tròn bốn năm, rồi lặng lẽ cáo chung, nhưng chiều hôm nay anh chỉ với mấy phút trở thành nhân vật cả trường ai cũng biết. Mấy hôm sau, khi anh bí mật đưa Kim Trân đi, mọi người đều nói: chính cái anh thọt khiêu vũ dưới mưa hôm ấy đưa đi.
Đúng là anh đến để đưa Kim Trân đi.
Vào dịp hè hàng năm, trường đại học N vẫn có những người đến tuyển người, nhưng anh là người độc nhất vô nhị. Anh là người của một đơn vị cỡ lớn, đến rất bí mật, đến là vào ngay phòng Hiệu trưởng. Văn phòng Hiệu trưởng không có ai, anh sang văn phòng của Chánh văn phòng nhà trường ngay kế bên, lúc ấy hiệu trưởng đang ở đấy bàn công chuyện với ông Chánh văn phòng. Anh vào, bảo cần gặp Hiệu trưởng, ông Chánh văn phòng hỏi anh là ai. Anh nửa đùa nửa thật, nói: “Đến tuyển người!”
Ông chánh văn phòng nói: “Vậy anh đến phòng sinh viên.”
Anh nói: “Tôi cần gặp Hiệu trưởng trước.”
Ông Chánh văn phòng: “Có việc gì?”
Anh nói: “Tôi có cái này, muốn cho ông Hiệu trưởng xem.”
Chánh văn phòng: “Cái gì thế, tôi xem nào.”
“Ông có phải Hiệu trưởng không? Chỉ Hiệu trưởng mới được xem.” Anh nói rất kiên quyết.
Ông Chánh văn phòng nhìn ông Hiệu trưởng, ông Hiệu trưởng hỏi: “Cái gì thế, đưa tôi xem.”
Biết chắc đấy là Hiệu trưởng, anh mới mở xà cột, lấy ra một cặp tài liệu, cái cặp rất thông dụng, cặp làm bằng bìa cứng, hầu hết các thầy giáo đều có. Anh lấy một tờ công văn, đưa cho ông Hiệu trưởng, yêu cầu ông đọc.
Ông Hiệu trưởng tiếp nhận tờ công văn, lùi lại vài bước và đọc. Ông Chánh văn phòng chỉ có thể thấy mặt sau của văn thư, tờ giấy không lớn, không cứng, cũng chẳng có trang trí đặc biệt, không khác gì những giấy giới thiệu thông thường. Nhưng nhìn phản ứng của ông Hiệu trưởng, vẻ khác biệt khá lớn. Anh chú ý, ông Hiệu trưởng chừng như chỉ lướt qua, có thể ông thấy con dấu đóng ở góc bên phải, vẻ mặt lập tức trở nên nghiêm túc và thận trọng.
“Anh là Trịnh, Trưởng phòng à?”
“Đúng vậy.”
“Xin lỗi, tôi không biết.”
Ông Hiệu trưởng nhiệt tình mời anh ta sang phòng của mình.
Không ai biết đấy là công văn của cơ quan nào mà có phong độ như vậy, khiến ông Hiệu trưởng phải kính nể. Ông Chánh văn phòng nhà trường cần phải biết bí mật, vì nhà trường quy định tất cả các công văn của các nơi gửi đến đều do văn phòng giữ. Về sau, ông không thấy ông Hiệu trưởng giao lại công văn kia, một hôm ông hỏi, ông Hiệu trưởng bảo đốt đi rồi. Ông Hiệu trưởng nói: câu đầu tiên của công văn kia viết: đọc xong phải đốt ngay. Ông chánh văn phòng cảm thán: rất bí mật hay sao? Ông Hiệu trưởng nói: quên chuyện ấy đi, đừng nói lại với ai.
Sự thật thì, ông Hiệu trưởng đưa Trịnh Thọt về văn phòng của mình, tay anh đã cầm sẵn bao diêm, chờ ông Hiệu trưởng đọc xong, anh quẹt diêm, nói với ông Hiệu trưởng:
“Tôi đốt đi nhé?”
“Ừ, đốt đi.”
Vậy là đốt.
Hai người ngồi không nói gì nhiều, chỉ lặng lẽ nhìn ngọn lửa thiêu tờ giấy thành tro.
Tờ giấy cháy hết, ông Hiệu trưởng hỏi: “Anh cần bao nhiêu người?”
Anh đưa một ngón tay ra: “Một người.”
Ông Hiệu trưởng hỏi: “Chuyên ngành nào?”
Anh lại mở cặp hồ sơ, lấy ra một tờ giấy, nói: “Đây là suy nghĩ và yêu cầu của tôi về người tôi cần, không nhất thiết toàn diện, đây chỉ là tham khảo”.
Tờ giấy lớn bằng tờ công văn vừa rồi, giấy khổ A4, không đóng dấu, không phải chữ in, mà là viết tay. Ông Hiệu trưởng nhìn lướt qua, hỏi:
“Tờ giấy này đọc xong cũng đốt ngay à?”
“Không.” Anh cười: “Ông cho đây là bí mật hay sao?”
“Tôi chưa kịp nhìn.” Ông Hiệu trưởng nói: “Không biết có gì bí mật không.”
“Không có gì bí mật.” Anh nói: “Ông có thể đưa cho những người có liên quan hay sinh viên xem, ai cảm thấy thích hợp thì đến gặp tôi, tôi ở ngay trong chiêu đãi sở của trường, phòng số 302, gặp vào lúc nào cũng được.”
Ngay tối hôm ấy, có hai sinh viên giỏi của khoa toán được nhà trường đưa đến phòng số 302. Sau đấy phòng 302 liên tiếp có người ra vào, đến chiều ngày thứ ba có đến hai mươi hai sinh viên do nhà trường giới thiệu hoặc tự đến phòng số 302 để gặp Trịnh Thọt bí ẩn. Những sinh viên này phần đông thuộc khoa toán, trong đó có bảy nghiên cứu sinh trong số chín người thuộc khoá thứ hai nhà trường mới tuyển chọn, cá biệt có những sinh viên chuyên ngành toán của các khoa khác. Tóm lại, khả năng toán học là điều kiện thứ nhất để Trịnh Thọt tuyển chọn, chừng như đây cũng là điều kiện duy nhất. Nhưng, những người sau khi đến gặp đều nói chuyện vớ vẩn, ai cũng nghi ngờ tính nghiêm túc, chân thật của sự việc. Nói đến bản thân Trịnh Thọt, thậm chí mọi người nghiến răng nghiến lợi chửi anh ta là kẻ thần kinh, chân thọt cộng thêm thần kinh. Một nửa trong số đó sau khi vào phòng anh ở, anh không thèm ngó ngàng, họ đứng hoặc ngồi ngẩn ngơ hồi lâu, anh xua tay bảo họ về. Giáo sư Quan của khoa toán được sinh viên phản ánh, ông đến chiêu đãi sở trực tiếp hỏi Trịnh Thọt cho ra nhẽ, người đến chưa hỏi chưa nói gì đã bị xua đuổi, câu trả lời nhận được là: đấy là cách làm việc của tôi.
Trịnh Thọt nói: “Mèo có lối đi của mèo, chó có lối đi của chó, huấn luyện viên thể dục dựa vào xương cốt chọn vận động viên, tôi chọn người có tố chất tâm lí vững vàng. Có người thấy tôi không để mắt đến, người ấy tỏ ra không tự nhiên, đứng ngồi không yên, bối rối, tôi không cần những người có tố chất tâm lí như thế.”
Giọng nói nghe hay hơn hát, thật hay giả chỉ một mình anh ta biết.
Buổi chiều hôm thứ ba, Trịnh Thọt mời ông Hiệu trưởng đến chiêu đãi sở để nói về tình hình tuyển người lần này, cảm giác chung là không lí tưởng, nhưng cũng không phải không có hi vọng. Anh đưa cho ông Hiệu trưởng danh sách năm trong số hai mươi hai người mà ông đã gặp, muốn xem hồ sơ lí lịch của những người ấy, có thể người mà anh ta sẽ chọn là một trong số năm người này. Ông Hiệu trưởng thấy công việc đã đi đến hồi kết, lại nghe nói anh ta ngày mai sẽ đi, nên ông ở lại ăn bữa cơm thường với anh tại chiêu đãi sở nhà trường. Đang ăn, Trịnh Thọt như sực nhớ ra điều gì, hỏi ông Hiệu trưởng về ông Lily Hiệu trưởng cũ, ông Hiệu trưởng nói:
“Nếu ông cần gặp ông Hiệu trưởng cũ, tôi sẽ mời ông ấy đến.”
Trịnh Thọt nói: “Làm gì có chuyện ông ấy đến gặp tôi, mà phải là tôi đến gặp ông ấy.”
Tối hôm ấy, Trịnh Thọt đi gặp ông Lily.
(Ghi theo lời kể của thầy Dung)
Hôm ấy tôi xuống mở cửa cho anh ta, tôi không quen mà cũng không biết anh ta là con người bí ẩn đã hai hôm nay trong khoa vẫn kháo nhau. Lúc đầu cha cũng không biết, nhưng tôi đã nói với cha về chuyện có người đang đảo lộn cả khoa. Sau đấy cha biết đấy là con người bí ẩn kia, cha gọi tôi vào, giới thiệu với anh ta. Lúc ấy tôi rất hiếu kì, hỏi anh ấy lấy người để làm việc gì. Anh ấy không trả lời thẳng câu hỏi của tôi, chỉ nói để làm một công tác vô cùng quan trọng. Tôi hỏi, quan trọng đến mức nào, có liên quan đến sự sinh tồn hay phát triển con người? Anh ta nói có liên quan đến an nguy quốc gia. Tôi hỏi, việc tuyển chọn đến đâu rồi, chừng như anh ta không thật thoả mãn, nói: bó đũa chọn cột cờ vậy.
Trước đấy, chắc chắn anh đã nói chuyện này với cha tôi rồi. Chừng như cha biết anh cần người như thế nào. Trông cái vẻ không thoả mãn của anh, cha nói như đùa: thật ra, có người rất thích hợp yêu cầu của anh.
Ai? Anh ta tỏ ra rất nghiêm túc.
Cha vẫn như đùa, nói: xa tận chân trời, gần ngay trước mắt.
Anh ta cho rằng, người cha nói là tôi, anh lập tức hỏi thăm tình hình tôi, cuối cùng cha chỉ Trân trong khung kính, nói: cậu kia. Anh ta hỏi đấy là ai? Cha lại chỉ vào tấm ảnh cô tôi, nói: anh không thấy hai người kia giống nhau hay sao? Anh ta đến gần khung kính, nhìn kĩ, nói: giống lắm. Cha nói: lớp sau của cô kia, là cháu.
Trong ấn tượng của tôi, chưa bao giờ cha giới thiệu với ai về Trân như thế, chừng như đấy là lần đầu tiên. Mà cũng không biết tại sao cha lại nói như thế, cũng có thể anh ta là người ngoài, không hiểu tình hình, cho nên cha nói có phần tuỳ tiện. Hơn nữa, anh ta là người đã tốt nghiệp Đại học N, tất nhiên phải biết cô tôi là ai. Nghe cha tôi nói, anh ta bỗng phấn chấn hẳn lên, liền hỏi thăm chúng tôi về Trân. Cha cũng rất phấn khởi nói về Trân, nói có phần khoa trương. Nhưng cha nhắc nhở anh ta, đừng đụng đến đầu óc Trân. Anh ta hỏi tại sao, cha nói: vì đề tài nghiên cứu của tôi cần đến Trân. Cha cười, không nói gì thêm, cho đến khi anh ta sắp ra về cha cũng không nói thêm gì, tạo nên cảm giác cha đã quên hẳn Trân.
Sáng hôm sau, Trân về ăn cơm, nói tối hôm qua rất muộn có người đến tìm. Hồi ấy, điều kiện của nhóm nghiên cứu rất tốt, Trân thường làm việc đến khuya, ở lại văn phòng, chỉ về nhà ăn cơm. Trân nói, tất nhiên cha biết người đến tìm là ai, cha cười: xem ra anh ta vẫn chưa từ bỏ ý định.
Trân hỏi: người ấy là ai?
Cha nói: mặc người ta.
Trân nói: ông ấy rất muốn em về cơ quan ông ấy.
Cha hỏi: em có muốn không?
Trân nói: em nghe lời thầy.
Cha nói: vậy thì mặc kệ người ta.
Đang nói chuyện thì có tiếng gõ cửa, người đến lại là anh ta. Cha trông thấy, việc đầu tiên là mời anh ta cùng ăn sáng, anh ta nói đã ăn ở nhà khách, cha mời anh ta lên gác ngồi chơi, cha sẽ ăn xong ngay. Ăn xong, cha bảo Trân đi, vẫn nhắc lại câu nói: mặc kệ người ta.
Trân đã đi, tôi cùng cha lên lầu, thấy anh ta đang ngồi hút thuốc ở phòng khách. Cha tỏ ra rất khách khí, nhưng trong lời nói lại không có gì khách khí. Cha hỏi, anh đến chào từ biệt hay đến lấy người? Cha nói, nếu đến lấy người thì cha không tiếp, vì tối hôm qua đã nói, đừng nghĩ đến Trân, có nghĩ đến cũng vô ích. Anh ta nói: xin bác tiếp tôi, tôi đến để chào bác.
Cha mời anh ta vào thư phòng.
Vì buổi sáng tôi có giờ, chỉ nói chuyện với anh ta vài câu rồi về phòng riêng để chuẩn bị. Lát sau tôi ra, định chào anh ta một câu, nhưng thấy cửa thư phòng của cha đóng kín, nghĩ bụng, thôi, không chào nữa. Đến lúc hết giờ trên lớp, mẹ tôi rất buồn, nói Trân phải đi. Tôi hỏi đi đâu, vậy là mẹ tôi khóc, nói: đi với người kia, cha đồng ý rồi.
Không ai biết Trịnh Thọt nói gì với ông Lily trong thư phòng đóng kín cửa. Thầy Dung bảo, cha cấm mọi người hỏi đến chuyện ấy, hễ hỏi là cha nổi cáu, bảo có những chuyện chôn chặt trong bụng, nói ra sẽ gây phiền phức. Nhưng có điều rõ ràng là không được nghi ngờ, tức là: thông qua buổi nói chuyện bí mật, Trịnh Thọt đã làm cho ông Lily vốn khó thay đổi trở nên hồ đồ. Nghe nói, hai người nói chuyện chỉ hơn nửa tiếng đồng hồ, vậy mà lúc ra khỏi phòng, ông Lily nói với vợ, chuẩn bị để Kim Trân đi.
Khỏi phải nói, qua chuyện này, sự bí ẩn của Trịnh Thọt đạt đến cực điểm, sự bí ẩn ấy về sau không ngừng tán phát trong đầu óc Kim Trân.
Sự bí ẩn của Kim Trân bắt đầu từ buổi chiều hôm ấy, tức là ngay buổi chiều Trịnh Thọt và ông Lily mật đàm, bắt đầu tiết lộ. Buổi chiều hôm ấy, Trịnh Thọt đưa Kim Trân đi bằng chiếc xe Jeep, đến tối mới về, vẫn là chiếc ô tô con đưa về. về đến nhà, ánh mắt Kim Trân bắt đầu tỏ ra bí ẩn, đã lâu Kim Trân không nhìn những người trong gia đình bằng ánh mắt thân thiết, có thể nói sự bí ẩn lộ ra ở hành vi, cho mọi người cảm giác sau khi đi với ông Trịnh, cậu có sự ngăn cách với người trong nhà. Hồi lâu sau, ông Lily vặn hỏi, cậu ta mới thở dài, ấp úng:
“Thầy Hiệu trưởng đưa em đến một nơi mà em không muốn đến.”
Nói năng rất nhẹ nhàng, nhưng lại rất nặng nề, khiến những người có mặt, ông Lily, bà vợ và thầy Dung, đều ngạc nhiên.
Ông Lily hỏi: “Có chuyện gì?”
Cậu ta nói: “Em cũng không biết phải nói thế nào, lúc này em chỉ có thể nói những điều không thể nói.”
Những ánh mắt vốn căng thẳng thêm căng thẳng.
Bà Lily khuyên: “Nếu em thấy không nên đi thì thôi, không nhất thiết phải đi.”
Kim Trân nói; “Không đi không được.”
Bà Lily nói: “Đâu có chuyện? Thầy Hiệu trưởng (chỉ ông Lily) là thầy Hiệu trưởng, em là em, thầy đồng ý không thể nói là em phải đồng ý. Cô thấy em vẫn nghe lời thầy, việc này em tự quyết định, muốn đi thì đi, không thích đi thì thôi, để cô nói giúp em.”
Kim Trân nói: “Không thể được.”
Bà Lily nói: “Tại sao không?”
Kim Trân nói: “Họ đã chấm rồi thì không ai có thể từ chối.”
Bà Lily nói: “Cơ quan nào, đơn vị nào mà quyền hành to vậy?”
Kim Trân nói: “Không thể nói ra.”
Bà Lily nói: “Ngay cả với cô giáo cũng không thể nói được à?”
Kim Trân nói: “Không thể nói với bất cứ ai, em đã tuyên thề...”
Ngay lúc ấy, ông Lily vỗ tay, đứng dậy, rất hiên ngang, nói: “Thôi, đừng nói gì nữa, bao giờ đi? Quyết định chưa? Chúng ta chuẩn bị cho Trân.”
Kim Trân nói: “Đi ngay trước khi trời sáng.”
Đêm hôm ấy cả nhà không ai ngủ, mọi người bận chuẩn bị cho Kim Trân, đến bốn giờ sáng, hành lí đã sẵn sàng, chủ yếu có sách vở, áo quần mùa đông, tất cả đóng vào hai cái thùng giấy. Chuẩn bị thêm những đồ dùng hàng ngày, tuy Kim Trân và ông Lily nói, có những thứ có thể tạm thời mua sắm, khỏi cần đem theo, nhưng hai người phụ nữ chừng như không kiềm chế nổi, cứ lên lên xuống xuống, moi óc suy nghĩ, lúc là cái đài thu thanh, lúc là bao thuốc lá, lúc gói trà, thuốc chữa bệnh, rất chi tiết, rất kiên nhẫn, nhét đầy va li. Gần năm giờ, mọi người xuống tầng dưới, bà Lily tâm trạng rối bời, không thể vào bếp lấy thức ăn sáng cho Kim Trân, bà đành bảo con gái làm. Nhưng bà vẫn ngồi trong bếp, không rời nửa bước chỉ huy con gái, yêu cầu này khác. Không phải thầy Dung không biết nấu nướng, mà vì bữa ăn này rất không bình thường, bữa ăn tiễn biệt. Trong lòng bà Lily, bữa ăn tiễn biệt phải đạt được bốn yêu cầu:
1. Món chính là một tô mì mang ý nghĩa bình an, trường thọ;
2. Mì phải là mì kiều mạch, mì kiều mạch mềm hơn mì bình thường, mang ý nghĩa con người có thể co, có thể duỗi;
3. Gia vị nhất thiết phải có dấm chua, ớt cay và nhân đào, nhân đào đắng, ý nói có cả chua cay ngọt đắng, trong đó ba vị chua, cay, đắng để lại nhà, ra đi chỉ có ngọt ngào.
4. Số lượng thà ít hơn nhiều, vì đến lúc ăn Kim Trân sẽ không bỏ thừa một tị nước canh nào, tượng trưng cho sự viên mãn, trọn vẹn.
Thật ra, đấy là tấm lòng của bà Lily hơn là một tô mì, tô mì là lời chúc mừng và mong đợi.
Tô mì ngụ ý sâu sắc được đưa lên bàn, bà Lily bảo Kim Trân ăn, bà ngồi bên cạnh lấy ra một miếng ngọc có khắc hình con hổ nằm, ấn vào tay Kim Trân, bảo cậu ta ăn xong rồi cài vào thắt lưng, đem theo nó sẽ gặp may. Đúng lúc ấy, ngoài cửa có tiếng ô tô dừng lại. Chỉ lát sau, ông Trịnh đưa người lái xe vào, sau khi chào hỏi mọi người, ông ta bảo người lái xe đưa hành lí của Kim Trân lên xe.
Kim Trân vẫn lặng lẽ ăn hết tô mì, cậu ta im lặng từ lúc bắt đầu ăn, im lặng không lời nào có thể tả nổi. Tô mì đã ăn không còn một giọt nước canh nào, nhưng cậu ta vẫn lặng lẽ ngồi yên, không có ý đứng dậy.
Trịnh Thọt đi tới, vỗ vai cậu ta, tưởng như đã là người của anh ta, nói: “Chào mọi người đi, tôi chờ cậu ở xe.” Anh quay đầu, chào bà Lily và thầy Dung.
Căn phòng lặng lẽ, những ánh mắt lặng lẽ thu lại, ngưng đọng. Tay Kim Trân vẫn nắm chặt viên ngọc, cậu đang cố bóp viên ngọc, tiếng động duy nhất trong căn phòng.
Bà Lily nói: “Em để nó vào lưng quần, nó sẽ cho em vận may.”
Kim Trân đưa viên ngọc lên hôn, chuẩn bị nhét vào lưng quần.
Ngay lúc ấy, ông Lily cầm lấy viên ngọc tròng tay Kim Trân, nói: “Chỉ những kẻ phàm phu tục tử mới cần nó đưa lại may mắn, em là một thiên tài, hãy tin vào tài năng của bản thân.” Nói xong, ông rút từ trong túi ra cây bút máy đã dùng nửa thế kỉ nay, đưa cho Kim Trân, nói: “Em cần cái này hơn, em ghi lại những suy nghĩ của mình, dừng để nó trôi mất, em sẽ nhận ra không có ai bằng mình.”
Kim Trân lặng lẽ hôn cây bút máy rồi cài nó lên ngực áo. Bên ngoài có tiếng còi ô tô, chỉ một tiếng rất ngắn. Kim Trân như không nghe thấy, vẫn ngồi im.
Ông Lily nói: “Họ đang giục em đấy.”
Kim Trân vẫn ngồi bất động.
Ồng Lily nói: “Em đi làm việc cho nhà nước, phải vui vẻ chứ.”
Kim Trân vẫn ngồi bất động.
Ông Lily nói: “Trong nhà là nhà của em, ngoài kia là đất nước, không có đất nước sẽ không có nhà, đi đi, đừng mất thì giờ nữa.”
Kim Trân vẫn ngồi bất động, tưởng như nỗi buồn li biệt gắn chặt cậu vào cái ghế, không động đậy nổi.
Bên ngoài lại có tiếng còi ô tô, tiếng còi dài hơn vừa rồi. Ông Lily nhìn Kim Trân vẫn ngồi yên, ông đưa mắt nhìn bà vợ, như bảo hãy nói với nó một câu.
Bà Lily đi tới, hai tay nhẹ nhàng đặt lên vai Kim Trân, nói: “Đi đi, em, đằng nào cũng phải đi, cô chờ thư em.”
Bàn tay bà Lily như làm Kim Trân bừng tỉnh, cậu mơ màng đứng dậy, vội vàng bước ra cửa, nhưng vẫn im lặng, bước chân nhẹ nhàng giống như những bước mộng du, khiến những người trong gia đình đều không hiểu ra sao, giống như mộng du cùng cậu ta. Ra đến cửa, Kim Trân bỗng quay lại, quỳ thụp xuống, cúi lạy ông bà Lily, nói với giọng đầy nước mắt:
“Mẹ, con đi, dù đến chân trời góc biển nào con cũng là...” Đó là sự việc xảy ra lúc hơn năm giờ sáng ngày mười một tháng sáu năm 1956, vào thời điểm ấy, Kim Trân thiên tài toán học suốt hơn một chục năm sống tại Đại học N yên tĩnh và ồn ào, như một cái cây, như một truyền thuyết, bước vào con đường bí mật, không quay trở lại. Trước lúc đi, cậu ta đề nghị ông bà Lily cho cậu được gọi là Dung Kim Trân, cậu chia tay với cái tên mới, thân phận mới, từ cuộc chia tay đầy lưu luyến, cảm động đến khuôn mặt đầm đìa nước mắt, cả người ra đi và người ở lại đều hiểu đây là cuộc chia li không bình thường. Có thể nói không quá rằng, từ đấy về sau không ai biết Kim Trân đi đâu, cậu ta biến mất trong bóng tối của buổi bình minh cùng chiếc xe Jeep, lại giống như một cánh chim đưa cậu ta đến một thế giới khác. Có cảm giác cái tên mới (hoặc thân phận mới) làm một bức màn đen che khuất quá khứ và tương lai của Kim Trân, ngăn cách cậu ta với thế giới hiện tại. Từ đấy về sau, mọi người chỉ biết cậu ta ở đâu đấy, cái nơi có địa chỉ gửi thư:
Hòm thư số 36 - thành phố C.
Hình như rất gần ngay bên cạnh.
Nhưng chẳng ai biết đấy là nơi nào.
(Ghi theo lời kể của thầy Dung)
Tôi đã từng hỏi mấy sinh viên đã tốt nghiệp về làm việc ở các bưu cục, hòm thư số 36 của thành phố này là đơn vị nào, ở đâu? Câu trả lời đều không biết, tưởng như đấy là địa chỉ ngoài trái đất. Lúc đầu tôi cư nghĩ địa chỉ này ở ngay trong thành phố, nhưng khi nhận được thư của Kim Trân, thời gian thư đi trên đường đã mách bảo với tôi, đấy không phải là chuyện có thể bịt được mắt mọi người. Có thể nơi ấy rất xa, có thể là dưới lòng đất một nơi thật xa.
Lá thư đầu tiên Trân viết sau khi rời gia đình được ba ngày, chúng tôi nhận được vào ngày thứ mười hai. Trên bì thư không có địa chỉ người gửi, góc bì thư vẫn đề địa chỉ là một câu nói của Mao Chủ tịch: sống vĩ đại, chết vinh quang. Là thủ bút của Mao Chủ tịch, được in màu đỏ. Đặc biệt bì thư không có dấu bưu cục xuất phát, chỉ có dấu bưu cục nhận. Tất cả các thư sau đều như thế, cùng một loại bì thư, cũng không có dấu bưu cục phát, thời gian chuyển thư gần bằng nhau, khoảng tám, chín ngày. Cho đến khi Cách mạng Văn hoá bắt đầu, câu nói của Mao Chủ tịch được thay bằng lời bài hát được lưu hành rộng rãi thời đó: Ra khơi nhờ tay lái vững. Còn nữa không có gì thay đổi. Bí mật quốc gia là gì? Từ những bức thư bí ẩn của Trân mà tôi biết được chút ít.
Mùa đông năm Trân đi, tháng mười hai, vào một buổi tối, ngoài trời gió to, nhiệt độ bỗng hạ thấp, lúc ăn cơm, cha bỗng cảm thấy đau đầu, mọi người đều nghĩ cha bị cảm lạnh, cha uống mấy viên Aspirine rồi lên lầu đi nằm. Mấy tiếng đồng hồ sau, khi mẹ lên giường đi ngủ, phát hiện người cha vẫn nóng, nhưng đã tắt thở. Vậy là cha đã đi, tưởng như mấy viên thuốc uống trước khi đi ngủ là thuốc độc, chừng như cha biết không có Trân đề tài nghiên cứu khoa học của cha đã bị đẻ non, cho nên cha dứt khoát kết thúc đời mình.
Tất nhiên, sự thật không phải thế, là bởi máu tràn màng não đã cướp sinh mệnh của cha.
Có gọi Trân về hay không, lúc đầu tôi rất do dự, chỉ nghĩ Trân đi chưa được bao lâu, nơi công tác của nó rất quan trọng và bí mật, lại rất xa. Lúc ấy tôi đã xác định Trân không ở thành phố này. Cuối cùng mẹ quyết định gọi Trân về, mẹ nói: Trân mang họ Dung, gọi mẹ bằng mẹ, nó là con của mẹ, cha qua đời tất nhiên phải gọi về. Vậy là tôi đánh điện cho Trân, báo để Trân về chịu tang.
Nhưng không phải là Trân về mà là một người lạ, anh này thay mặt Trân đến đặt vòng hoa viếng cha. Vòng hoa rất lớn, lớn nhất trong số những vòng hoa đưa đến viếng, nhưng chúng tôi vẫn cảm thấy không được an ủi, thậm chí còn buồn đau hơn. Nói thật, chúng tôi hiểu Trân, nếu có thể về Trân sẽ về, Trân là người coi nghĩa tử là nghĩa tận, hễ biết thể nào Trân cũng tìm mọi cách để về, không phải là người sợ hãi điều gì. Trân không về, tất nhiên chúng tôi cũng suy nghĩ nhiều, không hiểu tại sao, có thể người đến viếng đã nói không rõ ràng, những là sau này gia đình có chuyện gì, khả năng Trân về thăm là rất ít, những là họ là anh em thân thiết với Kim Trân, họ đến là thay mặt Trân; những là anh ta không thể trả lời gia đình, chuyện ấy không thể nói, vân vân. Tôi nghe và nghĩ, có lúc nghĩ đã có chuyện gì xảy ra với Trân rồi chăng, chết chẳng hạn. Nhất là từ đấy về sau thư của Trân cứ thưa dần, ngắn dần, hơn nữa năm nào cũng vẫn vậy, chỉ thấy thư không thấy người, càng ngày tôi càng nghĩ Trân không còn sống trên đời này nữa. Trong một cơ quan vừa bí ẩn vừa bí mật có liên quan đến an nguy quốc gia, có thể sinh mệnh rất dễ vĩ đại, cũng dễ giành được vinh quang, nhưng cũng đưa lại cho gia đình hiện tượng giả người chết như đang sống. Có thể nói đấy là phương thức để chúng tôi thể hiện sự vinh quang, là một bộ phận của vinh quang. Tóm lại, Trân theo năm tháng không về thăm nhà, không trông thấy con người Trân, không nghe tiếng nói của Trân, chỉ dựa vào những bức thư, tôi không còn tin Trân có thể bình an trở về.
Đến năm 1966, Đại Cách mạng Văn hoá bùng nổ, trái bom chôn vùi trong số phận tôi mấy chục năm cũng bùng nổ, một tờ báo chữ to vạch tội tôi, bảo tôi yêu tha thiết con người kia (bạn trai của thầy Dung), thế là đủ loại suy luận, giả tưởng ma quái, táo tợn, li kì liên tiếp xuất hiện, nào là ngoài anh ấy ra tôi không lấy ai, nào là yêu anh ấy tức là yêu Quốc Dân đảng, nào là tôi là tình nhân của Quốc Dân đảng, tôi là gián điệp của Quốc Dân đảng, vân vân, họ nói đủ thứ, nói chắc như đinh đóng cột, không được phép nghi ngờ.
Ngay buổi chiều báo chữ to dán lên, mấy chục sinh viên nhao nhao đến bao vây nhà tôi, có thể cái uy của cha tôi còn dư lại, chúng chỉ hò hét không xông vào nhà lục soát, về sau ông Hiệu trưởng kịp thời đến khuyên bọn chúng. Đấy là tai hoạ đầu tiên của tôi, chừng như chỉ đến thế, không có những hành vi quá khích.
Hơn một tháng sau, tai hoạ thứ hai đến với tôi. Mấy trăm con người áp giải ông Hiệu trưởng, theo sau là mấy nhân vật quyền uy của trường, họ đến và xông vào nhà tôi, lôi cổ tôi ra, chụp lên đầu cái mũ có chữ “Tình nhân Quốc Dân đảng”, đẩy vào tốp người bị phê đấu, đưa đi bêu rếu như một lũ tội phạm. Sau đấy, họ nhốt tôi vào nhà vệ sinh cùng một cô giáo khoa hoá vốn có dư luận sinh hoạt thiếu lành mạnh, ban ngày lôi ra đấu, buổi tối bắt viết kiểm điểm. Hai chúng tôi bị cạo nửa đầu, người không ra người ma không ra ma. Một hôm, trong buổi phê đấu, mẹ trông thấy tôi, bà hoảng sợ quá, ngất ngay tại chỗ.
Mẹ nằm bệnh viện không biết sống chết thế nào, bản thân không biết là người hay ma, những ngày này tôi như trong chảo mỡ nóng. Tối hôm ấy, tôi lén gửi cho Trân một bức điện, điện chỉ một câu: “Nếu còn sống hãy về cứu chị!” Bức điện với danh nghĩa mẹ. Hôm sau, một sinh viên đồng cảm với tôi giúp tôi đánh điện. Điện gửi đi rồi, tôi suy nghĩ các khả năng, khả năng lớn nhất là không có hồi âm, kế đó là khả năng có người về như hồi cha chết, tôi nghĩ không có khả năng Trân về, càng không dám nghĩ Trân xuất hiện một cách nhanh chóng.
Hôm ấy, thầy Dung cùng với “đồng đảng” tiếp nhận sự phê đấu ở toà nhà khoa hoá. Hai người đứng ở bậc thềm sảnh ra vào, đầu đội mũ, ngực đeo tấm biển có những chữ thật to, hai bên là cờ đỏ và băng khẩu hiệu, dưới là sinh viên và cán bộ giảng dạy, chừng hai trăm người, họ ngồi, người phát biểu đứng dậy, cảm giác rất có trật tự.
Cứ như vậy, bắt đầu từ mười giờ sáng, vừa vạch tội, vừa phê phán. Đến trưa, họ ăn cơm tại chỗ, thầy Dung và những người bị đấu ngồi đọc “Lời dạy của Mao chủ tịch”, đến hơn bốn giờ chiều, hai người đứng chân đã tê mỏi, khuỵu xuống. Lúc ấy, một chiếc ô tô có gắn quân hiệu bỗng chạy tới, đứng trước toà nhà, khiến mọi người phải chú ý. Ba người từ trên xe bước xuống, hai người cao to kèm giữa một người thấp bé, đi thẳng vào hiện trường đấu tố. Họ sắp bước lên bậc thềm thì bị Hồng vệ binh canh gác ngăn lại, hỏi họ là ai. Người nhỏ con đi giữa nói với vẻ hách dịch:
“Tôi đến đưa bà Dung Nhân Dịch đi.”
“Anh là người thế nào?”
“Người đến đưa bà ấy đi.”
Một Hồng vệ binh thấy người kia nói năng đàng hoàng, mặt cau có, lớn tiếng đáp:
“Mụ ấy là tình nhân của Quốc Dân đảng, không được đi!”
Người nhỏ con giận dữ nhìn anh Hồng vệ binh kia, lớn tiếng chửi thẳng: “Láo! Nếu bà ấy là Quốc Dân đảng, vậy tao đây cũng là Quốc Dân đảng à? Nói cho mày biết, hôm nay tao phải đưa bà ấy đi bằng được, tránh ra!”
Nói xong, họ gạt những người ngăn cản, bước lên thềm.
Lúc ấy, không biết ai đó gào to: “Chúng dám chửi Hồng vệ binh chúng ta, gô cổ chúng lại!”
Mọi người đứng bật dậy, tràn ra, vây lấy anh kia và tung đòn hội chợ. Nếu không có người bảo vệ, người kia chắc đã chết vì đòn hội chợ, rất may hai người bảo vệ anh ta cao lớn, xem ra là người bản lĩnh cao cường, chỉ vài động tác đã tạo thành vòng tròn để người kia đứng ở giữa, hai người như hộ vệ, hô to:
“Chúng tôi là người của Mao Chủ tịch, ai đụng đến chúng tôi người đó không phải là người của Mao Chủ tịch, không phải là Hồng vệ binh. Chúng tôi là người thân nhất của Mao Chủ tịch, tránh ra, tránh ra!”
Dựa vào sự dũng cảm, hai người cứu được người bé nhỏ ra khỏi vòng vây, một người hộ tống anh kia chạy, một người nữa chạy theo sau, nhưng bỗng quay lại, rút khẩu súng lục từ trong người ra, bắn chỉ thiên, hét lên:
“Đứng lại! Mao Chủ tịch cử tôi đến đây.”
Tiếng súng và vẻ uy nghiêm của anh ta đã trấn áp được đám đông, họ đứng lại nhìn thẳng vào anh ta. Nhưng phía sau có ai đó hô to: Hồng vệ binh không sợ chết, không sợ hắn. Xem ra sắp xảy ra xô xát. Lúc ấy anh ta lấy từ trong túi ra một cuốn sách bìa đỏ, trên bìa có in hình quốc huy, mở ra một trang, giơ cao, nói thật to:
“Các người thấy đây, chúng tôi là người của Mao Chủ tịch! Chúng tôi chấp hành nhiệm vụ của Mao Chủ tịch giao, kẻ nào dám ngăn cản, Mao Chủ tịch sẽ cử quân đội đến bắt. Lúc này chúng ta đều là người của Mao Chủ tịch, có gì thì nói với nhau, mời lãnh đạo của các đồng chí đứng ra, Mao Chủ tịch sẽ nói chuyện.”
Có hai người tách khỏi đám đông, người kia cất súng, gọi hai người đến thì thầm điều gì đó, hai người bị thuyết phục, quay lại nói với đám đông rằng anh ta đúng là người của Mao Chủ tịch, yêu cầu mọi người về chỗ cũ. Chỉ lát sau, hiện trường trở nên yên tĩnh, hai người chạy xa mấy chục mét cũng quay lại, một người dẫn đầu đám đông đi tới bắt tay người bé nhỏ, một người nữa giới thiệu cho mọi người biết anh ta là anh hùng của Mao Chủ tịch, yêu cầu mọi người vỗ tay. Tiếng vỗ tay thưa thớt, chứng tỏ mọi người vẫn còn thắc mắc về người anh hùng này. Có thể sợ xảy ra chuyện gì nữa, người bắn súng không để người anh hùng đến gần, anh ta đi tới thì thầm điều gì, đưa anh kia lên xe, bảo lái xe cho xe chạy, còn anh ta ở lại.
Xe nổ máy, người anh hùng thò đầu ra cửa xe, kêu to:
“Chị, chị đừng sợ, em đi gọi người đến cứu chị.”
Người ấy là Kim Trân, Dung Kim Trân.
Tiếng gọi của Kim Trân vang vọng trên đầu mọi người, dư âm vẫn chưa tan thì đã có thêm một chiếc xe Jeep gắn quân hiệu chạy đến, dừng gấp trước cái xe của Kim Trân. Ba người từ trong xe chui ra, hai người mặc quân phục sĩ quan, họ đến nói gì đó với người vừa bắn súng, sau đấy giới thiệu để anh ta làm quen với một người. Người này là nhân vật số một của Hồng vệ binh nhà trường, vẫn gọi là Tư lệnh Dương.
Mấy người đứng bên chiếc xe bàn bạc một lúc, thấy Dương với vẻ nghiêm khắc đi đến đám Hồng vệ binh, không nói câu nào, giơ cao sách đỏ hô to Mao Chủ tịch muôn năm, những người ngồi dưới hô theo, hô cho đất rung núi chuyển. Hô xong, anh ta nhảy lên bậc thềm, lấy cái mũ trên đầu và tấm biển đeo trước ngực thầy Dung, nói với mọi người ngồi dưới: “Tôi xin bảo đảm với Mao Chủ tịch, bà không phải là tình nhân của Quốc Dân đảng, mà là chị của anh hùng chúng ta, là người thân của Mao Chủ tịch, là đồng chí cách mạng nhất của chúng ta.”
Nói xong, anh ta lại giơ nắm tay, liên tiếp hô to:
Mao Chủ tịch muôn năm!
Mao Chủ tịch muôn năm!
Mao Chủ tịch muôn năm!
Hô xong, anh ta lấy huy hiệu Hồng vệ binh xuống, tự tay gài cho thầy Dung. Ngay lúc ấy lại có người hô khẩu hiệu, hô không ngớt, giống như hô để đưa tiễn thầy Dung, thật ra là để che chở cho thầy Dung, tiếng hô khẩu hiệu sẽ làm mọi người bớt chú ý đến thầy. Vậy là thầy Dung giữa tiếng hô khẩu hiệu như sóng trào, kết thúc giai đoạn lịch sử bị cách mạng trừng phạt.
(Ghi theo lời kể của thầy Dung)
Nói thật, ngay lúc bấy giờ tôi không nhận ra Trân. Mười năm không gặp, trông Trân còn gầy hơn xưa, Trân đeo cặp kính dày như đít chai, giống như một ông lão, khiến tôi không dám nhận, cho đến khi Trân gọi chị, tôi mới như bừng tình giấc mơ. Nhưng giấc mơ ấy vẫn không tỉnh lại nổi, cho đến nay tôi vẫn nghi ngờ sự việc hôm ấy là mơ hay thực?
Khoảng thời gian từ khi gửi bức điện đi cho đến khi gặp lại Trân rất ngắn, có thể ở ngay thành phố này. Trân về, tỏ ra là người vừa có quyền, vừa bí ẩn, hình như đã trở thành nhân vật quan trọng. Hôm Trân ở nhà, người bắn súng giống như cái bóng luôn bám sát Trân, có cảm giác như bảo vệ lại như theo dõi, quản lí Trân không để tự do, chúng tôi nói gì với nhau, anh ta cũng can dự, không cho hỏi chuyện này, không cho nói chuyện kia. Cơm tối có ô tô đưa đến, về danh nghĩa nói là tránh phiền hà cho chúng tôi, thật ra là sợ chúng tôi bỏ thuốc độc vào thức ăn. Ăn xong, người kia giục Trân đi, mẹ và Trân yêu cầu, anh ta mới để Trân ở lại một đêm. Việc ấy hình như rất nguy hiểm đối với Trân, vì thế có thêm hai chiếc xe con nữa đến, bố trí canh phòng cửa trước cửa sau nhà tôi, có đến bảy tám người, mặc quân phục có, mặc thường phục có, anh ta và Trân ngủ cùng phòng trước khi ngủ, anh ta đi xem xét săm soi khắp lượt. Hôm sau, Trân đòi đi thăm mộ cha, bị họ từ chối thẳng thừng.
Vậy là, Trân về như giấc mơ, như một giấc mơ ở lại một đêm, ra đi cũng như một giấc mơ.
Qua lần gặp mặt ấy, Trân vẫn là điều bí ẩn đối với chúng tôi, thậm chí rất bí ẩn, điều mà chúng tôi biết rõ là Trân vẫn sống, đã lấy vợ, nghe nói lấy vợ cách đây ít lâu, vợ cùng làm một chỗ, chúng tôi không có cách nào biết được Trân đang làm việc gì, ở đâu, chỉ biết cô ấy tên là Cù Lợi, người Bắc Kinh. Cứ nhìn vào hai tấm ảnh Trân đưa về, cô này cao to hơn Trân, trông khoẻ mạnh, có điều ánh mắt rất buồn, giống như Trân, không thích thổ lộ bản thân. Trước khi đi, Trân ấn vào tay tôi một cái phong bì, rất dày, nói là của vợ gửi, bảo lúc nào Trân đi rồi hãy mở ra xem. về sau tôi xem, trong đó có hai trăm đồng và một lá thư của vợ Trân viết, thư nói cấp trên không đồng ý để cô cùng Trân về thăm nhà, rất xin lỗi. Khác với Trân, cô ta gọi mẹ tôi là má, má kính yêu.
Trân đi được ba hôm, người vẫn thay mặt đơn vị của Trân đến chúc mừng gia đình chúng tôi mỗi kì lễ tết, đưa đến cho chúng tôi một văn bản của Quân khu cùng với Ủy ban Cách mạng của tỉnh, nội dung nói: Dung Kim Trân được Trung ương Đảng, Chính phủ, Quân uỷ trung ương phong tặng danh hiệu Anh hùng cách mạng, gia đình Cách mạng, gia đình Vinh quang, không một đơn vị nào, tổ chức hoặc cá nhân nào được đụng đến, không được có bất kì hành vi sai trái nào đối với bản thân người anh hùng. Trên văn bản còn ghi thêm: những ai vi phạm đều bị coi là phản cách mạng. Văn bản do chính Tư lệnh quân khu kí. Văn bản này như một thanh bảo kiếm, dựa vào nó, từ nay về sau gia đình chúng tôi không gặp bất cứ một rắc rối nào, kể cả tôi. Dựa vào văn bản ấy, anh trai tôi được về lại Đại học N, sau đấy được ra nước ngoài cũng là nhờ nó. Anh tôi nghiên cứu siêu dẫn, hồi ấy, thử hỏi trong nước lấy đâu ra điều kiện? Phải ra nước ngoài. Nhưng thử nghĩ, hồi ấy ra nước ngoài khó khăn đến chừng nào? Với một ý nghĩa nào đó, vào những năm tháng đặc biệt ấy, đúng là Trân đã tạo cho chúng tôi điều kiện sống và môi trường công tác bình thường, thậm chí có thể gọi là lí tưởng.
Nhưng Trân đã có cống hiến to lớn đến mức nào cho đất nước để có được vinh quang và quyền uy thần kì đến vậy, thậm chí Trân có thể xoay chuyển thời đại một cách dễ dàng trong lòng bàn tay mình, quả là một bí mật lớn đối với chúng tôi. Sau lần Trân về cứu tôi, người của khoa hoá lan truyền dư luận bảo Trân là người có công làm ra bom nguyên tử của nước ta, tin đồn rất cụ thể. Tôi chợt cảm thấy có thể tin được, bởi vì, về mặt thời gian rất phù hợp, nước ta thử thành công bom nguyên tử vào năm 1964, đúng khoảng thời gian Trân đi; thứ hai, về mặt chuyên ngành cũng đúng, nghiên cứu bom nguyên tử cần có nhà toán học tham gia; một điều nữa là, theo tôi nghĩ, chỉ có làm việc ấy Trân mới phải bí mật đến thế, quan trọng và vinh dự đến thế. Mãi đến những năm tám mươi, trong danh sách Nhà nước khen thưởng những người có công làm ra bom nguyên tử và bom khinh khí, không có Trân, không biết có phải Trân đổi tên hay chỉ là tin đồn?
Giống như thầy Dung, ông Trịnh Thọt là nhân vật quan trọng giúp tôi hoàn thành câu chuyện này. Trước khi hỏi chuyện thầy Dung, tôi đã hỏi chuyện ông, đồng thời tạo được quan hệ bạn bè thân thiết với ông. Lúc bấy giờ ông đã sáu mươi tuổi, da thịt nhăn nheo, giơ cả xương, cho nên thọt càng rõ thọt hơn, không thể giải quyết vấn đề bằng cái đế giày, đành chống gậy. Có người nói, ông chống gậy trông có vẻ oai hơn, nhưng tôi nghĩ, cái vẻ oai không ở cái gậy, mà ở chức vụ của ông. Hồi mới quen nhau, ông là nhân vật hàng đầu của cơ quan 701, là Cục trưởng. Một người làm đến chức vụ ấy không ai dám gọi là Thọt, cho dù có ai gọi ông cũng không chấp, với lại làm đến chức vụ ấy, đã có chức danh, lại lớn tuổi, cũng sẽ có nhiều cách xưng hô.
Cục trưởng.
Thủ trưởng.
Sếp.
Ông Trịnh.
Bây giờ mọi người đều xưng hô với ông như thế, tuỳ cách, tuỳ người. Có điều bản thân ông vẫn tự trào mình là Cục trưởng chống gậy. Nói thật, cho đến nay tôi cũng không biết ông tên gì, bởi ông có nhiều cách gọi, thông thường, tôn trọng, biệt danh, rất nhiều, tên trở nên thừa, lâu không dùng, tự động biến mất. Tất nhiên, với thân phận của tôi, tôi chỉ dám gọi một cách tôn trọng, đó là Cục trưởng Trịnh.
Cục trưởng Trịnh.
Cục trưởng Trịnh.
Bây giờ tôi nói về những bí mật của Cục trưởng Trịnh. Ông có bảy số điện thoại, nhiều như tên gọi của ông. Ông cho tôi hai số, như vậy cũng đủ dùng, một số gọi cho thư kí của ông, gọi lúc nào cũng có người nghe. Ấy là, có thể khẳng định Cục trưởng nghe thấy tiếng tôi, còn tôi có thể nghe thấy tiếng ông hay không, còn phải trông chờ may rủi.
Sau khi nói chuyện với thầy Dung, tôi gọi vào hai số máy của Cục trưởng Trịnh, một máy không người nghe, một máy bảo tôi chờ giây lát, tức là còn xem may rủi của tôi. Rất may, tôi nghe được tiếng Cục trưởng Trịnh, ông hỏi tôi có chuyện gì, tôi bảo, hiện tại trong trường đại học N đang có dư luận Dung Kim Trân là người có công trong việc làm ra hai trái bom nguyên tử. Ông hỏi tôi, nói như vậy có ý gì. Tôi nói, Kim Trân công trạng hiển hách, nhưng bởi làm một việc bí mật, nên công trạng của Kim Trân bị mọi người đồn thổi, trở thành có công làm ra bom nguyên tử. Bất ngờ, đầu kia đường dây là một giọng nói bực tức, nói với tôi một thôi dài:
“Tôi không thấy như thế. Chả nhẽ chỉ dựa vào một trái bom nguyên tử để có thể thắng được một cuộc chiến tranh hay sao? Bom nguyên tử tượng trưng cho sức mạnh quốc gia, là bình hoa cho mọi người thấy, còn việc Kim Trân làm là xem người khác, từ trong gió nghe nhịp tim người khác, tìm kiếm bí mật người khác giấu kín. Chỉ có biết người biết ta mới bách chiến bất bại, cho nên, theo tôi, từ góc độ quân sự, việc Kim Trân làm có ý nghĩa hơn cả việc làm ra bom nguyên tử.”
Việc Kim Trân làm là hoá giải mật mã.
(Ghi theo lời kể của Cục trưởng Trịnh)
Sự nghiệp giải mã là sự nghiệp của một thiên tài nỗ lực nghiền ngẫm nghiên cứu, là một thiên tài trái tim, là cuộc chém giết, đấu đá cao cấp nhất của người đàn ông. Sự câu kết bí ẩn và âm thầm ấy đã tập hợp được mọi tinh hoa của loài người, không phải vì điều gì khác mà là phỏng đoán bí mật, diễn dịch mấy con số Ả rập đơn giản. Nghe ra có vẻ rất vui, giống một trò chơi, nhưng anh minh của loài người bị cái trò chơi này giày vò cho chết đi sống lại.
Cái ghê gớm của mật mã là ở chỗ này.
Cái bi ai của những người giải mã cũng ở chỗ này. Trong lịch sử nhân loại, không nghi ngờ gì nữa, chôn vùi nhiều thiên tài nhất chính là giới giải mã. Nói một cách khác, có thể chôn vùi từng người, thậm chí từng thế hệ thiên tài, trên đời này chỉ có cái mật mã đáng chết, nó giam giữ hàng loạt người tài giỏi của nhân loại không phải để sử dụng tài năng của họ, mà để giết chết họ, chôn vùi họ. Cho nên, người ta bảo giải mã là sự nghiệp tàn khốc nhất loài người.
Buổi sáng mùa hè năm 1956, Kim Trân ngồi xe rời trường đại học N vào lúc mờ sáng, cậu không biết con người có cử chỉ ngạo mạn ngồi bên cạnh là ai, đã gắn kết cuộc đời của cậu vào sự nghiệp mật mã tàn khốc và bí mật mà không thể nào đảo ngược nổi. Cậu cũng không biết, con người bị sinh viên đại học N chế nhạo là anh thọt nhảy múa dưới mưa lại là người đứng đầu một cơ quan tuyệt mật, là trưởng phòng giải mã của đơn vị 701 hết sức đặc biệt. Nói một cách khác, từ đấy về sau anh ta là người lãnh đạo trực tiếp Kim Trân. Xe chạy, lãnh đạo muốn nói chuyện với thuộc cấp, nhưng có thể vì nỗi buồn chia li, thuộc cấp không nói năng gì. Xe chạy trong ánh đèn sáng trắng, có cảm giác bí ẩn, chẳng lành.
Xe chạy ra khỏi thành phố trong ánh bình minh, chạy nhanh trên quốc lộ, Kim Trân cảnh giác nhìn chung quanh, cậu nghĩ không phải thành phố này, thành phố này hòm thư số 36, tại sao phải chạy lên quốc lộ? Tuy tối hôm qua, Trịnh Thọt đưa Kim Trân đi làm thủ tục điều động, xe cứ chạy vòng vo, phải đến hơn chục phút thậm chí có lúc cậu buộc phải đeo kính chắn sáng, coi như bị bịt mắt, nhưng dựa vào cảm giác, Kim Trân tin rằng xe chưa ra khỏi thành phố. Lúc này xe phóng vù vù trên quốc lộ, cảm giác phải đi một nơi thật xa, cậu nóng lòng hỏi thăm.
“Chúng ta đi đâu?”
“Về đơn vị.”
“Ở đâu?”
“Không biết.”
“Không phải đến cái nơi hôm qua à?”
“Cậu biết nơi hôm qua là đâu?”
“Chắc chắn là trong thành phố.”
“Nhưng...”
“Không nhưng gì hết. Hãy nhắc lại lời thề.”
“Nơi ở, những điều nghe thấy, đều thuộc bí mật, không được nói với bất cứ ai.”
“Nghe đây, phải nhớ lấy nó, từ nay về sau những gì cậu nghe thấy đều tuyệt mật.”
Trời tối, xe vẫn tiếp tục chạy. Phía trước đã thoáng thấy ánh đèn, chừng như một thành phố không lớn không bé, Kim Trân quan sát, muốn biết đây là đâu. Trịnh Thọt lại bắt cậu phải đeo kính chắn sáng, cho đến khi được phép bỏ kính xuống, xe đã đi vào con đường quanh co, hai bên đường toàn là cây và vách núi, không có biển chỉ đường và những vật ghi dấu. Đường núi quanh co, chật hẹp, tối đen, đèn xe bật sáng, ánh đèn thỉnh thoảng bị dồn tụ, ép thành con đường, giống như đèn pha, vừa sáng vừa chụm, cảm giác như không phải xe chạy mà được ánh sáng đèn kéo đi. Đi chừng hơn một tiếng đồng hồ, Kim Trân từ trên vách núi trông thấy ánh đèn, đấy cũng là nơi cậu xuống xe.
Ở đây cửa nhà không có biển, gác cửa là một ông già cụt tay, nét mặt còn in dấu oán hận, suốt từ dưới tai bên trái, qua sống mũi, chạy sang má bên phải. Không hiểu tại sao, Kim Trân trông thấy ông ta, chợt nghĩ đến cướp biển trong tiểu thuyết phương Tây, trong tĩnh lặng, cảm giác như ngôi nhà chết, lại khiến cậu có cảm giác như trong lâu đài thời trung cổ xuất hiện trong tiểu thuyết tôn giáo cũng của phương Tây. Từ trong bóng tối bỗng xuất hiện hai bóng người, giống như hồn ma, đến gần mới phát hiện một người là nữ, cô ta đi tới bắt tay Trịnh Thọt, một anh chui vào xe, lấy hành lí của Kim Trân ra.
Ông Thọt giới thiệu Kim Trân với người phụ nữ, Kim Trân chưa nghe rõ chị ta tên gì, chỉ nghe là chủ nhiệm gì đó, là lãnh đạo nơi này. Trịnh Thọt nói với Kim Trân, đây là cơ sở tập huấn của đơn vị 701, tất cả những ai mới đến đơn vị 701 đều phải học chính trị và huấn luyện nghiệp vụ tại đây.
Trịnh Thọt nói: “Bao giờ cậu hoàn thành khoá huấn luyện tôi sẽ cho người đến đón, mong cậu nhanh chóng hoàn thành đợt tập huấn, trở thành người đủ tư cách của đơn vị 701.” Nói xong anh lên xe đi ngay, cảm giác như một tay lái buôn, vừa trút được món hàng, xong là đi ngay, không còn do dự vấn vương gì.
Một buổi sáng ba tháng sau, Kim Trân đang tập nằm thẳng và ngồi dậy trên giường, bỗng nghe bên ngoài có tiếng mô-tô dừng ở cửa, có người gõ cửa. Mở cửa thì thấy một thanh niên, vừa thấy mặt đã nói ngay:
“Tôi từ chỗ thủ trưởng Trịnh đến đây đón anh, chuẩn bị đi nhé.”
Mô-tô đưa anh đi, nhưng không phải đi ra cổng, mà đi sâu vào trong, đi vào một hang động, trong hang lại có một hang thông với chung quanh, sâu thẳm và phức tạp, giống như một mê cung. Mô-tô đi thẳng, đi chừng mười phút, dừng lại ở một cánh cửa vòm bằng sắt, người lái xe xuống xe, vào cổng một lúc rồi ra, tiếp tục cho xe đi. Lại đi một lúc, xe ra khỏi hang, trước mắt Kim Trân là một khu lớn hơn nhiều lần cơ sở tập huấn - đây là căn cứ của đơn vị 701 tuyệt mật và được giấu kín, cũng là nơi sống của Kim Trân từ nay về sau, nơi làm việc ở trong cánh cửa sắt mô-tô vừa dừng. Người ờ đây gọi nơi này là khu Bắc, cơ sở tập huấn là khu Nam. Khu Nam là cửa ngõ của khu Bắc, cũng là trạm kiểm soát, giống như sông hộ thành và cầu treo. Một người bị khoá ở khu Nam sẽ vĩnh viễn không có cơ may được thấy khu Bắc, tức là cầu treo không hạ xuống.
Mô-tô lại đi thêm một chặng nữa, cuối cùng dừng lại trước một toà nhà xây gạch đỏ, tường có dây leo, mùi cơm từ trong nhà bay ra như nói với Kim Trân, đầy là nhà ăn. Trịnh Thọt đang ăn, nhìn qua cửa sổ thấy Kim Trân, vội đứng dậy ra đón, trên tay còn cầm miếng bánh bao, mời Kim Trân vào nhà.
Kim Trân chưa ăn sáng.
Trong nhà ăn đủ loại người, có nam có nữ, có già có trẻ, có người mặc quân phục có người mặc thường phục, thậm chí có người mặc cảnh phục. Ở cơ sở tập huấn Kim Trân vẫn phỏng đoán nơi này thuộc đơn vị nào, hệ thống nào? Quân đội hay địa phương? Trông cảnh tượng trước mắt, Kim Trân càng không hiểu thế nào, cậu chỉ lặng lẽ suy nghĩ, có thể đây là một nơi đặc biệt của một đơn vị đặc biệt. Sự thật thì, đây là một đơn vị đặc biệt, một cơ quan đặc biệt, nhất là bề ngoài của nó, bí mật là trái tim, giống như một âm thanh bên ngoài vùng trời xa xôi.
Trịnh Thọt đưa Kim Trân đi qua sảnh lớn, sang phòng bên cạnh, trên bàn đã bày sẵn thức ăn, có sữa, có trứng, bánh bao nhân thịt, bánh bao chay, có cả thức ăn.
Trịnh Thọt nói: “Ngồi xuống đây.”
Kim Trân ngồi xuống.
Trịnh Thọt nói: “Cậu nhìn ngoài kia, họ ăn không nhiều món như cậu, họ ăn cháo đấy.”
Kim Trân nhìn, người ngoài kia đều bưng bát, nhưng mình được dùng đũa, trong cốc có sữa.
Trịnh Thọt nói: “Có biết tại sao không?”
Kim Trân nói: “Đón tôi phải không?”
Trịnh Thọt nói: “Không, vì cậu làm công việc quan trọng hơn.”
Ăn xong bữa sáng, Kim Trân bắt đầu công việc giải mã suốt đời. Nhưng cho đến lúc này, cậu vẫn chưa biết mình phải làm một công việc tàn khốc bí mật. Tuy lúc ở cơ sở tập huấn, cậu được huấn luyện làm một công việc ?