← Quay lại trang sách

Giamilia

Thế là giờ đây tôi lại đứng trước bức tranh nhỏ ấy, bức tranh lồng trong tấm khung giản dị. Sáng mai tôi có việc phải về bản, và tôi chăm chú ngắm nhìn bức tranh hồi lâu, dường như nó có thể nói với tôi một lời chúc mừng tốt lành tiễn chân tôi lên đường.

Bức tranh này chưa bao giờ tôi gửi đi triển lãm. Hơn nữa, mỗi khi có bà con ở bản lên chơi, tôi tìm cách giấu biệt nó đi. Chẳng phải bức vẽ có điều gì đáng cho tôi xấu hổ, mà chỉ vì nó hoàn toàn không phải là một mẫu mực nghệ thuật. Nó giản dị như mảnh đất vẽ trên đó.

Ở lớp sâu trong cùng của bức tranh là một mảng trời thu nhạt nhòa. Gió lùa những đám mây đen nhỏ bé đốm trắng ruổi nhanh trên dãy núi xa xa. Ở cận cảnh của bức tranh là thảo nguyên ngải cứu mầu nâu đỏ. Một dải đường đen đen chưa kịp khô sau mấy trận mưa vừa qua. Mấy bụi cây khô gãy rụi chen chúc bên vệ đường. Dọc theo vệt bánh xe nham nhở có vết chân hai người đi bộ in dấu liền liền. Càng ra xa, vết chân càng mờ dần trên đường, còn hai người dường như chỉ bước thêm một bước nữa là ra khỏi tầm khung của bức tranh. Một trong hai người... Nhưng thôi, tôi nói trước như vậy hơi sớm quá.

Hổi ấy tôi còn trẻ dại lắm. Chiến tranh đã sang năm thứ ba. Cha anh chúng tôi chiến đấu ở những mặt trận xa xôi, đâu ở gần Cuốcxcơ và Ôriôn. Chúng tôi bấy giờ mới chỉ là những thiếu niên ở lứa tuổi mười lăm, vậy mà chúng tôi đã làm lụng trong nông trang. Công việc nhà nông nhọc nhằn hàng ngày đè nặng lên đôi vai còn non yếu của chúng tôi. Vất vả nhất là vào những ngày gặt hái. Hàng tuần liền chúng tôi không có mặt ở nhà, ngày đêm biệt tăm ngoài đồng ruộng, trên sân đập hay trên đường tải thóc ra ga.

Vào một ngày mùa như thế, trời nóng như thiêu như đốt, lưỡi liềm như nóng đỏ lên vì gặt hái nhiều, tôi đánh chiếc briska* không tải từ ga về, và tôi có ý định ghé qua nhà.

Ngay cạnh chỗ sông cạn, trên một trái đồi nhỏ cuối xóm, có hai cái sân bao quanh bằng tường toóc-xi vững chãi. Quanh nhà dương liễu mọc cao tươi tốt. Đây là nhà chúng tôi. Từ thuở nào đến giờ, hai gia đình chúng tôi vẫn ở cạnh nhau. Chính tôi là con “Nhà lớn”. Tôi có hai anh, cả hai lớn tuổi hơn tôi, cả hai cùng chưa vợ và cùng đi chiến đấu, đã lâu chưa có tin tức gì gửi về.

Bố tôi đã già, làm thợ mộc. Sáng tinh mơ cụ đọc kinh Coran* cầu nguyện, cầu kinh xong cụ đến xưởng mộc làm việc, xưởng ở ngay trong sân chung của bản. Buổi tối khuya bố mới về nhà.

Ở nhà chỉ còn mẹ tôi và đứa em gái nhỏ tuổi.

Sân bên, hay “Nhà bé” như dân bản thường gọi, là chỗ họ hàng gần của chúng tôi. Đâu như cụ kị chúng tôi là anh em với nhau, nhưng tôi gọi họ là bà con gần vì chúng tôi sống chung thành một gia đình. Hai nhà chúng tôi gắn bó với nhau như vậy ngay từ thời còn là dân du mục, khi ông nội chúng tôi cùng dựng trại một chỗ, gia súc cùng chăn chung. Không chỉ riêng hai nhà chúng tôi, mà cả xóm Aran chạy dọc suốt bản trên dải đất giữa hai con sông, đều là người cùng bộ tộc với nhau cả, cùng một dòng họ.

Sau khi tập thể hóa được ít lâu, ông chủ “Nhà bé” qua đời, để lại bà vợ góa với hai con trai nhỏ tuổi. Theo tục lệ cũ của ađat* mà hồi ấy dân bản vẫn tuân theo thì không được để người đàn bà góa với hai con trai nhỏ đi nơi khác, bởi thế họ đương thu xếp cho bố tôi lấy bà làm lẽ. Bổn phận đối với tổ tiên buộc bố tôi phải làm như vậy: vì bố tôi là chỗ họ hàng gần nhất với người quá cố.

Thế là chúng tôi có thêm một gia đình thứ hai. “Nhà bé” được coi là một hộ độc lập: có cơ ngơi riêng, gia súc riêng, nhưng thật ra chúng tôi vẫn sống chung với nhau.

Nhà bé cũng đưa tiễn hai con vào quân đội. Xađức, anh con cả, cưới vợ được ít lâu thì đi. Hai người vẫn gửi thư về, thực ra thì họa hoằn lắm mới được một lá.

Ở “Nhà bé” chỉ còn bà mẹ mà tôi gọi là “kichi-apa”, tức là mẹ bé, và chị con dâu bà, tức là vợ anh Xađức. Hai mẹ con làm lụng từ sáng đến tối ở nông trang. Bà mẹ bé tôi là người nhân hậu, dễ tính, hiền lành, nhưng làm lụng thì không thua gì bọn trẻ, dù là đào mương hay tưới nước: tóm lại, bà cầm vững chiếc cuốc trong tay. Dường như để thưởng công, số phận đã ban cho bà một người con dâu có nết hay làm. Giamilia thật xứng với mẹ: lúc nào cũng luôn chân luôn tay, không biết mệt là gì, đảm đang khéo léo. Chỉ phải cái tính nết hơi khác người.

Tôi yêu quý chị Giamilia hết chỗ nói. Chị cũng yêu quý tôi. Chúng tôi thân nhau lắm, nhưng không dám gọi nhau bằng tên. Nếu không phải là chị em một nhà thì chắc chắn tôi đã gọi chị chỉ đơn giản là Giamilia. Nhưng tôi gọi chị là “giênê”, tức là chị dâu cả, còn chị gọi tôi là “kichinê bala”, nghĩa là chú em bé bỏng, mặc dù tôi chẳng bé bỏng gì cho cam, và chị cũng chẳng hơn tuổi tôi bao lăm. Nhưng tục lệ ở bản là như vậy: chị dâu gọi em trai chồng là “kichinê bala” hay “kaini của tôi”.

Công việc của cả hai nhà do mẹ tôi quán xuyến, cô em gái tôi đỡ thêm một tay. Em gái tôi là một cô bé kỳ cục, tóc tết bím bện lẫn mấy sợi chỉ. Tôi không bao giờ quên được em tôi đã lăn lưng ra làm như thế nào trong những ngày gay go ấy.

Chính em tôi đã đưa cừu và bê của hai nhà đi chăn ở bãi cỏ ngoài vườn rau, chính em tôi đã đi nhặt kigiắc* và củi khô để nhà có cái đun. Chính cô em mũi hếch của tôi đã làm cho mẹ tôi đẹp lòng, đỡ cô đơn và quên đi những ý nghĩ buồn phiền vì không có tin tức gì về hai con trai.

Gia đình chúng tôi đông đúc là thế mà trong nhà vẫn được hòa thuận, no đủ, ấy là nhờ mẹ tôi. Mẹ tôi là người định đoạt mọi công việc của cả hai nhà, là người giữ gìn tổ ấm gia đình. Mẹ tôi về làm con dâu ông bà tôi từ hồi còn non trẻ, bây giờ cha ông chúng tôi còn sống cuộc đời du mục, rồi sau đó mẹ tôi luôn luôn thành kính tưởng nhớ đến ông bà tôi và cai quản hai gia đình rất mực công bằng. Trong bản ai cũng coi mẹ tôi là người nội trợ đáng trọng nhất, chu đáo nhất và khôn khéo nhất. Mọi việc trong nhà đều do mẹ tôi cắt đặt. Còn bố tôi thì thực tình mà nói, dân bản không coi ông là chủ gia đình. Nhiều lần tôi nghe thấy người ta nói với nhau, nhân việc này việc nọ: “Này, này, chẳng cần đến hỏi ustăca làm gì (ở quê chúng tôi, người ta gọi những người khéo tay nghề là ustăca để tỏ ý kính trọng), ông ta chỉ biết có cái rìu của mình thôi. Mọi việc trong nhà đều do bà mẹ cả định đoạt, đến nói với bà ấy thì mới ăn thua...”

Cần nói rõ rằng tuy còn ít tuổi, tôi vẫn thường can dự vào công việc gia đình, sở dĩ tôi có thể xen vào như vậy là vì hai anh tôi đi chiến đấu. Nhiều khi là bông đùa, nhưng đôi lúc cũng là nói đứng đắn, người ta gọi tôi là chàng gighit* của hai gia đình, người bảo vệ và nuôi sống hai nhà. Tôi lấy thế làm hãnh diện, và không lúc nào lãng quên trách nhiệm của mình. Thêm nữa, mẹ tôi cũng khuyến khích tôi có tính độc lập. Mẹ tôi muốn tôi biết thu xếp việc nhà và lanh lẹn tháo vát, chứ dừng như bố tôi, suốt ngày chỉ lùi lũi cưa đục bào gọt.

Thế là tôi đã cho chiếc briska dừng lại cạnh nhà, dưới bóng rợp của cây liễu, nới lỏng dây chằng ngựa, rồi đi về phía cổng, và tôi thấy bác đội trưởng Ôrôzơmát đang ở trong sân nhà tôi. Vẫn như mọi khi, bác cưỡi trên lưng ngựa, chiếc nạng buộc bên yên. Mẹ tôi đứng cạnh bác. Hai người đang bàn cãi chuyện gì đó. Lúc đến gần, tôi nghe thấy mẹ tôi nói:

- Không được! Phải biết kính sợ Thượng đế mới được chứ: đời thuở nào đàn bà lại đánh xe briska tải thóc bao giờ ấy? Không, hãy để cho con dâu tôi được yên, xin để mặc cho nó làm ăn như từ trước đến giờ. Cứ thế này tôi cũng đủ tối mắt tối mũi lại rồi, thì bác hãy thử lo liệu công việc của hai nhà này đi xem có kham nổi không nào! May là con bé nhà tôi đã lớn... Cả tuần nay tôi chưa có lúc nào đứng thẳng lên được, ê ẩm cả lưng, cứ như thể vừa hùng hục cán rạ ấy, lại còn vạt ngô đang héo hắt chờ nước nữa chứ. - Mẹ tôi có vẻ nóng nảy, chốc chốc lại nhét đầu chiếc khăn vấn tóc vào cổ áo. Mẹ tôi thường làm như vậy mỗi khi có điều gì tức giận.

- Ô hay, cái bà này mới lạ chứ! - Ôrôzơmát đảo nghiêng người đi trên yên, thốt lên bằng giọng thất vọng. - Nếu như chân tôi còn lành lặn chứ không què cụt như thế này thì tội gì tôi phải đến đây cầu cạnh bà kia chứ? Giá như trước kia thì tôi cứ quẳng những bao thóc lên xe, rồi đánh ngựa đi là rảnh chuyện... Đây không phải là công việc của đàn bà, tôi biết quá đi chứ, nhưng bói đâu ra đàn ông?.. Vì thế chúng tôi tính nước cậy nhờ chị em vợ các chiến sĩ. Bà thì bà không cho con dâu bà đi, còn chúng tôi lại bị cấp trên mắng nhiếc thậm tệ... Bộ đội cần bánh mì, vậy mà chúng ta không thực hiện được kế hoạch. Liệu có đang tâm được không, còn mặt mũi nào nữa?

Tôi đến gần, tay kéo lê chiếc roi trên mặt đất. Thấy tôi, ông đội trưởng tỏ ra mừng rỡ khác thường, chắc ông chợt nảy ra một ý định gì.

- Thôi được, nếu bà lo giữ gìn con dâu như thế thì đây, có kaini của cô ấy đây, - bác vui mừng trỏ vào tôi, - cậu ấy sẽ không cho đứa nào bén mảng đến gần chị mình. Bà chẳng cần nghi ngại gì nữa! Xêit của chúng ta giỏi đáo để! Chính các chú nhỏ này nuôi sống chúng ta, chỉ có chúng nó mới gỡ được thế bí cho chúng ta.

Mẹ tôi không để cho ông đội trưởng nói hết lời.

- Rõ khiếp chưa, nom có ra cái bộ dạng gì không, thằng mất nết kia! - mẹ mắng tôi. - Tóc tai tùm lum thế kia kia... Mà cái ông lão nhà này cũng đến tệ, chẳng dành lấy một lúc cắt tóc cho con nữa...

- Ờ phải đấy, hôm nay để thằng bé nghỉ chơi ở nhà bố mẹ, - Ôrôzơmát khéo léo nói lựa theo ý mẹ tôi. - Xêit này hôm nay cháu ở nhà, chăm cho ngựa ăn thêm một chút, rồi ngày mai bác sẽ giao xe briska cho Giamilia: hai chị em sẽ chung sức cùng làm. Phải cẩn thận đấy, cháu ạ, cháu sẽ phải chịu trách nhiệm về chị Giamilia. Xin bà đừng lo ngại, baibitsê ạ. Xêit sẽ không để cho ai chòng ghẹo chị nó đâu. Nếu cần nữa tôi sẽ cho cả Đaniyar cùng đi. Bà biết anh ta rồi đấy: anh chàng hiền như cục đất... mới ở mặt trận về. Cả ba người sẽ cùng đánh xe tải thóc ra ga. Thế thì còn đứa nào dám động đến con dâu bà nữa? Bác nói đúng không, Xêit? Cháu nghĩ thế nào? Bác định giao cho Giamilia đánh xe chở thóc, nhưng mẹ cháu vẫn chưa thuận, cháu hãy nói cho mẹ cháu nghe ra đi.

Được bác đội trưởng phỉnh nịnh, lại được bác hỏi ý kiến coi mình như người lớn, tôi thích trí lắm. Thêm nữa, tôi hình dung ra ngay cái lúc tôi cùng với chị Giamilia đánh xe ngựa ra ga thật thú vị biết bao. Tôi làm vẻ mặt nghiêm chỉnh, nói với mẹ tôi:

- Chẳng việc gì phải lo cho chị ấy, dễ thường chị ấy có cơ bị chó sói ăn thịt chắc?

Và như một tay đánh xe lọc lõi, tôi tia nước bọt qua kẽ răng một cách thành thạo, kéo lê cái roi đằng sau, vừa bước đi vừa đung đưa hai vai ra dáng đĩnh đạc.

- Hừ cái thằng này! - mẹ tôi ngạc nhiên và dường như có phần vui sướng, nhưng rồi ngay tức thì, mẹ tôi quát lên bằng giọng cáu kỉnh: - Rồi tao sẽ cho mày thấy thế nào là chó sói! Mày biết cái gì mà dám nói, rõ trứng khôn hơn vịt!

- Chứ nó không biết thì ai biết nào, trong gia đình bà. nó là chàng gighit của cả hai nhà, đáng cho bà tự hào quá đi chứ! - Ôrôzơmát vừa bênh tôi vừa nhìn mẹ tôi một cách e dè, chỉ lo mẹ tôi lại vẫn một mực giữ ý cũ.

Nhưng mẹ tôi không nói lại câu nào, chỉ cúi đầu xuống thở dài, thốt lên:

- Gighit gì nó, mới tí tuổi đầu mà đã ngày đêm làm lụng quần quật, chẳng lúc nào thấy mặt ở nhà... Những chàng gighit thân yêu của chúng ta bây giờ ở đâu, có trời biết! Nhà cửa quạnh quẽ, cứ như khu lều trại bỏ hoang...

Tôi đã đi được một quãng xa và không nghe rõ mẹ tôi nói gì nữa. Vừa đi tôi vừa vung roi quất vào góc nhà, bụi bay mù cả lên, thậm chí em gái tôi mỉm cười với tôi, tôi cũng không đáp lại (em gái tôi lúc ấy đang nắm kigiắc trong sân, hai tay vỗ bồm bộp). Dáng bộ quan trọng, tôi đến dưới mái hiên. Tôi ngồi xổm xuống, thong thả rửa tay, dội bằng nước trong vò. Rồi tôi vào buồng, uống một cốc sữa chua, rót cốc nữa đem ra để trên bậu cửa sổ và bắt đầu bẻ vụn bánh mì thả vào cốc.

Mẹ tôi và bác Ôrôzơmát vẫn ở ngoài sân. Có điều, hai người không bàn cãi nữa, mà bình tĩnh nói chuyện khe khẽ với nhau. Chắc là hai người nói về các anh tôi. Mẹ tôi chốc chốc lại đưa ống tay áo lên lau đôi mắt sưng húp, trầm ngâm gật đầu đáp lại khi nghe Ôrôzơmát nói (chắc bác ta an ủi mẹ tôi), và mắt mờ lệ, mẹ tôi, nhìn đi tận đâu đâu phía trên rặng cây, như hy vọng nhìn thấy mấy người con trai của mình ở đằng ấy.

Đắm lòng trong nỗi buồn phiền, hình như mẹ tôi đã thuận theo lời thỉnh cầu của bác Ôrôzơmát. Còn bác ta hài lòng vì đã được như ý, vung roi quất ngựa phóng nhanh ra khỏi sân.

Đương nhiên, lúc ấy cả mẹ tôi lẫn tôi đều không thể ngờ mọi chuyện về sau sẽ ra sao.

***

Tôi biết chắc mười mươi rằng chị Giamilia sẽ điều khiển thành thạo cỗ briska hai ngựa. Chị sành ngựa lắm: chị vốn là con một người chăn ngựa đàn ở bản Bakair vùng núi mà anh Xađức tôi trước kia cũng đã từng chăn ngựa. Có lần, trong một cuộc đua ngựa vào mùa xuân, đâu như anh ấy đã không đuổi kịp chị Giamilia. Nghe đồn rằng sau đó, tức khí vì bị bẽ mặt, anh Xađức đã bắt cóc chị, chuyện này chẳng rõ thực hư ra sao. Nhưng có một số người lại bảo anh chị lấy nhau vì yêu nhau. Dù sao đi nữa, hai người ăn ở với nhau chỉ được có bốn tháng. Chiến tranh nổ ra, anh Xađức được gọi vào quân đội.

Tôi không biết nên giải thích thế nào, có lẽ vì từ tấm bé, chị Giamilia đã theo bố đi chăn ngựa đàn (ông già chỉ có mình chị, chị vừa là con gái vừa là con trai của bố), bởi thế tính nết chị có những nét như đàn ông, một cái gì dữ dội và đôi khi thậm chí hơi thô. Giamilia làm việc hăm hở, xốc vác như đàn ông. Chị biết cách ăn ở với hàng xóm láng giềng, nhưng kẻ nào không biết điều lại đi gây chuyện với chị thì chị chẳng chịu lép, chị chửi không thua một ai, có lần chị còn túm tóc vít đầu kẻ kia xuống.

Nhiều lần hàng xóm đến nhà than phiền:

- Ông bà có thứ dâu con gì quý hóa thế? Mới chân ướt chân ráo về nhà chồng mà đã mồm năm miệng mười! Không còn kiêng nể ai, không còn biết ngượng ngùng gì nữa!

- Nó thế mà lại hay cơ đấy! - mẹ tôi đáp lại. - Con dâu chúng tôi nó ưa ăn ngay nói thẳng, còn hơn cái lối trước mặt thì im thin thít rồi lại chửi vụng sau lưng. Con dâu các ông các bà bề ngoài thì ra vẻ nhu mì lắm, nhưng những cô ả như thế chẳng khác gì quả trứng ung: bên ngoài thì sạch sẽ nhẵn nhụi, nhưng bên trong thì thối khắm không sao ngửi được.

Đối với chị Giamilia, bố và mẹ bé tôi không bao giờ tỏ ra khe khắt, không bới lông tìm vết như thói thường mẹ chồng nàng dâu. Bố và mẹ bé tôi rất mực ân cần với chị, thương yêu chị và chỉ mong muốn có một điều: chị trung thành với thượng đế và với chồng.

Tôi hiểu lòng hai người. Bốn con trai đều ở trong quân đội, Giamilia là nguồn an ủi của bố và mẹ bé tôi, chị là con dâu duy nhất của cả hai nhà, vì thế bố mẹ tôi quý chị lắm. Nhưng tôi không hiểu được mẹ đẻ tôi. Mẹ tôi không phải là người yêu ai thì chỉ một mực là yêu. Mẹ tôi vốn khắc nghiệt và độc đoán. Mẹ tôi sống theo lề lối riêng của mình và không bao giờ làm trái lệ thường. Hàng năm, cứ mùa xuân đến là mẹ tôi lại dựng cái lều du mục ở sân và đốt gỗ tùng xông khói (chiếc lều này bố tôi làm từ hồi còn trai trẻ). Mẹ tôi dạy dỗ chúng tôi chịu thương thịu khó làm ăn và tôn kính những người lớn. Mẹ tôi đòi hỏi mọi người trong gia đình phải một mực tuân lời, không được cãi lại.

Thế mà chị Giamilia, ngay từ ngày mới bước chân về nhà chồng đã tỏ ra khác tính khác nết, không như mọi cô gái khác về làm dâu con người ta. Thực ra chị cũng tôn kính và vâng lời người lớn, nhưng không bao giờ chịu cúi đầu vâng chịu một bề, tuy vậy chị cũng không có cái lối quay mặt đi lầm bầm chửi vụng sau lưng như những nàng dâu khác. Bao giờ cùng thế, bụng nghĩ thế nào thì chị nói thẳng ra như vậy, không hề sợ bày tỏ ý kiến của mình. Mẹ tôi thường đứng về phía chị, cho là chị nói phải, nhưng bao giờ cũng giành cho mình tiếng nói quyết định.

Tôi cho rằng vì thấy Giamilia thẳng tính và công tâm, mẹ tôi coi chị như người ngang hàng với mình, thầm mơ ước sau này sẽ để chị thay mình, và chị sẽ trở thành người nội trợ cũng quyền thế như mình, một baibitsê như mình, người giữ gìn tổ ấm gia đình.

- Con ạ, nhờ ơn Đức Alakhơ, con được vào làm con một nhà bề thế, được trời ban phước lành, - mẹ tôi răn bảo Giamilia. - Đây là phúc cho con. Hạnh phúc của người đàn bà là sinh con đẻ cái, trong nhà dư dật. Ơn nhờ thượng đế tất cả những gì bố mẹ làm ra sau này sẽ là của con cả. Có ai mang theo của cải xuống mồ được đâu. Có điều, cái phúc nó chỉ ở với người nào biết giữ gìn danh dự và lương tâm mà thôi. Lời mẹ dặn con ghi nhớ lấy, phải biết giữ mình mới được con ạ!..

Nhưng tính tình Giamilia vẫn có cái gì khiến hai mẹ chồng không yên lòng: chị vui vẻ quá lộ liễu, cứ như trẻ thơ. Đôi khi dường như chẳng có duyên cớ gì, chị bỗng phá lên cười mà lại cười rất to, rất vui sướng. Đi làm về, chị không bước bình thường, mà chạy ào vào sân, nhảy qua con mương. Chẳng có duyên cớ gì chị cũng ôm lấy mẹ cả hay mẹ bé mà hôn.

Giamilia còn thích hát nữa, chị luôn luôn khe khẽ hát câu gì, ngay cả trước mặt người lớn tuổi. Tất cả những cái đó cố nhiên không ăn nhập với quan niệm cổ truyền trong bản về tính nết na của con dâu trong gia đình. Nhưng cả hai bà mẹ chồng đều tự trấn an bằng cách tự nhủ rằng dần dà Giamilia sẽ chín chắn hơn: lúc trẻ trung ai mà chẳng thế. Còn với tôi trên đời này không có người nào đáng yêu hơn chị Giamilia.

Hai chị em tôi sống với nhau rất vui, tự dưng vô cớ chúng tôi cũng có thể cười phá lên và chạy đuổi nhau quanh sân. Chị Giamilia xinh thật là xinh. Vóc người thon thả cân đối, tóc cứng không xoăn tết thành hai bím dày và nặng chiếc khăn trắng chị choàng rất khéo trên đầu, chéo xuống trán một chút, nom rất hợp với chị, làm tôn hẳn nước da bánh mật của khuôn mặt bầu bầu, khiến chị càng thêm duyên dáng. Mỗi khi chị Giamilia cười, đôi mắt hạnh đào đen láy, ánh màu biêng biếc của chị lại bừng lên sức sống hăng say của tuổi trẻ hay khi bỗng nhiên chị cất tiếng hát những khúc ca xuồng xã quen thuộc trong bản, đôi mắt đẹp của chị lóe sáng một cách dạn dĩ, không có vẻ gì là một cô gái ngây thơ cả.

Tôi thường để ý thấy nhiều chàng gighit, nhất là những anh chàng ở mặt trận về, cứ hay lấm lét nhìn chị. Chính Giamilia cũng thích bông đùa, nhưng của đáng tội, chị vẫn đe nẹt những anh nào đi quá trớn. Tuy nhiên điều đó bao giờ cũng làm tôi động lòng. Tôi ghen về chị, như các cậu em thường ghen về chị mình, và hễ thấy các chàng trẻ tuổi xán đến gần Giamilia là tôi kiếm cách ngăn cản. Tôi làm bộ ta đây, hằm hè nhìn họ, như muốn dùng bộ dạng của mình bảo với họ:

“Các anh đừng có mà suồng sã quá. Chị ấy là vợ anh tôi đấy, và chớ tưởng rằng không có ai che chắn cho chị ấy!”

Những lúc ấy, tôi cố ý tỏ ra lỗ mãng, dù đúng lúc hay không đúng lúc cũng cứ xen vào câu chuyện của họ, tìm cách chế nhạo những anh chàng tán tỉnh chị, vì nếu làm như vậy mà không ăn thua gì, tôi đâm cáu, cứ mặt sưng mày sỉa khịt mũi hoài. Mấy chàng trai cười lăn ra:

- Ơ này, hãy nhìn chú bé này một tí mà xem! Hình như cô ấy là giênê của chú ta thì phải. Thật nhộn quá, thế mà bọn mình chẳng biết gì hết!

Tôi cố nén giận, nhưng vẫn cảm thấy đôi tai phản bội cháy bỏng lên, và ức quá, nước mắt tôi cứ trào ra. Chị Giamilia, giênê của tôi, hiểu lòng tôi lắm. Mặc dù buồn cười đến nôn ruột, chị gắng kìm lại, làm ra vẻ nghiêm nghị.

- Thế các anh tưởng giênê là của vương vãi trên đường cho ai muốn nhặt thì nhặt à? - chị lấy một tư thế đĩnh đạc nói với các chàng gighit. - ở nhà các anh thì có lẽ giênê là của rơi của nhặt thực đấy, chứ ở nhà chúng tôi thì không đâu. Ta đi chỗ khác đi, kaini của chị, tôi xin kiếu các anh! - Rồi làm điệu vênh vang trước mặt họ, đầu cất cao kiêu hãnh hai vai ngúng nguẩy như khiêu khích, chị bỏ đi cùng với tôi lặng lẽ mỉm cười.

Trong nụ cười ấy, tôi thấy cả sự bực bội, lần niềm vui sướng. Có lẽ lúc ấy chị nghĩ thầm: “Ôi, chú em ngốc nghếch quá! Nếu chị chỉ muốn chơi bời cho thỏa tình riêng thì ai cấm giữ nổi chị? Cả nhà có bám theo từng bước cũng không canh giữ nổi kia mà!” Những lần như thế, tôi lặng thinh như cảm thấy mình có lỗi. Phải, tôi ghen về chị Giamilia, tôi tôn sùng chị, tôi kiêu hãnh vì chị là giênê của tôi, kiêu hãnh về sắc đẹp của chị, về tính tình phóng khoáng, không chịu lệ thuộc vào ai của chị. Tôi với chị là đôi bạn chí thân, không giấu nhau điều gì.

Dạo ấy, ở bản còn rất ít đàn ông. Vì thế có những gã cư xử với phụ nữ một cách trâng tráo, tỏ vẻ khinh miệt ra ý là: cần gì phải tốn công với bọn đàn bà này, chỉ nguẩy ngón tay một cái là ả nào cũng lao theo ngay!

Một lần, ở bãi cắt cỏ, Ôxmôn, một người họ xa của gia đình tôi cứ bám lấy Giamilia toan giở trò ma mãnh. Gã cũng thuộc loại những kẻ cho rằng không một cô gái nào cưỡng nổi sự cám dỗ của mình. Giamilia căm tức gạt tay hắn ra và đứng phắt dậy dưới chân đống cỏ khô, nơi chị đang ngồi nghỉ trong bóng rợp.

- Bỏ cái thói ấy đi! - chị nói, giọng đau xót và xoay lưng lại phía hắn. - Cái ngữ các người là thứ ngựa đực của đàn, còn có thể trông mong gì khác ở các người kia chứ!

Ôxmôn nằm xoài dưới chân đống cỏ, bĩu cặp môi ướt, nói:

- Mèo chê thịt treo cao là thối... Rõ khéo làm bộ, thèm chết đi được mà lại còn bịt mũi chê bai...

Giamilia quay ngoắt lại.

- Có lẽ tôi thèm thật đấy! Có điều chẳng qua số kiếp bắt hai chị em chúng tôi phải chịu cảnh như vậy, thế mà cái đồ ngu xuẩn nhà anh lại giễu cợt chúng tôi. Chẳng thà phải sống cảnh vợ lính xa chồng một trăm năm, chứ những thứ như anh tôi cứ nhổ toẹt vào: thật là tởm. Nếu như không phải thời buổi chiến tranh thì có mà chó nó thèm nói chuyện với nhà anh!

- Thì đây cũng bảo thế mà! Ấy là tại chiến tranh, thiếu cây roi của chồng nên đằng ấy mới phát rồ! - Ôxmôn cười khẩy. - Này, nếu đằng ấy mà là vợ tớ thì đằng ấy sẽ hát giọng khác ngay thôi mà.

Giamilia toan nhảy xổ đến trước mặt hắn, chị định nói câu gì cho bõ tức, nhưng rồi lại lặng thinh: chị hiểu rằng chẳng nên dây với hắn làm gì. Chị nhìn hắn hồi lâu bằng con mắt căm giận. Rồi chị nhổ bọt một cách ghê tởm, nhặt cái chàng nạng ở dưới đất lên và bỏ đi.

Bấy giờ tôi đứng trên chiếc xe môgiara đằng sau đống cỏ. Thấy tôi, chị Giamilia quay ngoắt đi. Chị hiểu tâm trạng tôi lúc ấy. Tôi có cảm giác như không phải chị bị xúc phạm, mà chính là tôi, chính tôi bị lăng nhục. Trong lòng đau đớn, tôi trách chị:

- Những thứ như thế chị dây với nó làm gì, bắt chuyện với chúng nó làm gì kia chứ?

Cho đến tận chiều, Giamilia luôn luôn cau có, ủ ê, không nói với tôi lời nào và không hề cười như trước. Khi tôi đưa xe môgiara* lại gần, vì không muốn cho tôi đả động đến chuyện ban nãy - nó gây cho chị nỗi uất hận ghê gớm mà chị giữ kín trong lòng - chị giang tay lấy đà xọc mạnh cái chàng nạng vào bó cỏ, xốc ngay cả bó lên, giơ cao ở phía trước để che lấp mặt. Chị lăng bổng bó cỏ vào trong xe đánh huỵch một cái, rồi lập tức xóc ngay bó khác. Láng sau xe đã đầy cỏ. Lúc đẩy xe đi, tôi ngoảnh lại nhìn và thấy chị tựa mình vào cán cây chàng nạng, đứng lặng một lát, vẻ chán chường, nghĩ ngợi điều gì, rồi chị chợt nhớ ra, lại hăm hở bắt tay vào việc.

Khi chiếc môgiara cuối cùng đã chất đầy cỏ, Giamilia dường như quên hết mọi thứ trên đời, chị ngắm nhìn hoàng hôn không dứt. Đằng xa, phía bên kia sông, đâu đó ở cuối thảo nguyên Cadắcxtan, vầng mặt trời mùa gặt buổi chiều tà mệt mỏi rã rời đang phun lửa như cái miệng lò tanđưr*. Nó từ từ lẩn xuống sau đường chân trời, hắt lên ánh lửa hừng nhuộm đỏ những đám mây xốp bé nhỏ và ném những tia hồi quang cuối cùng xuống thảo nguyên mầu hoa cà đã điểm những vệt xanh biếc của bóng tối đến sớm ở những chỗ đất thấp. Giamilia nhìn cảnh mặt trời lặn, vẻ mặt hân hoan trầm lặng như đang chiêm ngưỡng một cảnh thần tiên. Gương mặt chị sáng lên vẻ dịu dàng, cặp môi hé mở mỉm cười hiền lành như trẻ thơ. Rồi dường như để trả lời những câu trách móc chỉ chực buột ra từ miệng tôi, chị quay lại và nói, như thể nói tiếp câu chuyện giữa chúng tôi:

- Mà thôi, em đừng bận tâm đến hắn, kichinê bala ạ, mặc xác hắn! Hắn có phải là người đâu nữa?.. - chị chợt im bặt, đưa mắt dõi theo vành mặt trời đang lụi dần, đoạn thở dài, trầm ngâm nói tiếp: - Những kẻ như gã Ôxmôn này làm sao biết được người ta ấp ủ cái gì trong tâm hồn? Mà cũng chẳng ai biết được đâu. Có lẽ trên đời không có những người đàn ông như thế...

Trong lúc tôi đưa mấy con ngựa quay trở lại, chị Giamilia đã kịp chạy đến chỗ đám phụ nữ làm việc cách chúng tôi một quãng, và tiếng nói oang oang vui vẻ của họ vang đến tai tôi. Thật khó nói rõ điều gì đã xảy đến với chị: có lẽ tâm hồn chị bừng sáng lúc chị ngắm cảnh mặt trời lặn, hoặc chẳng qua chị cảm thấy vui vì đã làm việc giỏi. Tôi ngồi trên đống cỏ cao trên xe môgiara và nhìn Giamilia. Chị đã tháo bỏ chiếc khăn choàng trắng nhỏ và giang rộng hai tay, chạy theo người bạn gái, băng qua đồng cỏ đã cắt trụi đang mờ dần trong bóng tối. Vạt áo dài chị mặc bay phần phật trước gió. Thốt nhiên, nỗi buồn trong lòng tôi cũng biến đâu mất: “Hơi đâu mà bận tâm đến mấy câu láo lếu của gã Ôxmôn ấy!”

- Nào, dấn bước lên! - tôi vung roi quất mấy con ngựa, giục giã.

Hôm ấy, theo lời dặn của bác đội trưởng, tôi quyết ý chờ bố về để cắt tóc, trong lúc chờ đợi tôi viết thư trả lời anh Xađức. Về chuyện thư từ này chúng tôi cũng có phép tắc riêng: các anh tôi viết thư về thì đề gửi cho bố, người giao thông của bản trao thư cho mẹ chúng tôi, còn đọc thư và trả lời là nhiệm vụ của tôi. Chưa đọc thư anh Xađức tôi đã biết trước anh viết gì. Mọi lá thư của anh đều giống nhau như những con cừu non trong đàn. Bao giờ anh cũng mở đầu bằng câu: “Tin sức khỏe của tôi”, tiếp đó nhất định là: “Tôi gửi lá thư này qua bưu điện về cho bố mẹ tôi hiện ở bản Talax thịnh vượng, trăm hoa đua nở và ngát hương thơm, cho người cha vô cùng quý mến của tôi là Giôntsưbai...” Tiếp sau đó đến mẹ tôi, mẹ đẻ anh, rồi là đến chúng tôi, theo thứ tự nghiêm ngặt. Rồi đến những câu không bao giờ thiếu được thăm hỏi sức khỏe và đời sống của các ắcxakan* trong bản, thăm hỏi bà con họ gần, và mãi đến cuối thư, anh Xađức mới như vội vã viết thêm: “Tôi cũng gửi lời thăm hỏi vợ tôi là Giamilia...”

Đương nhiên, khi bố mẹ còn sống, các ắcxakan và bà con họ gần vẫn khỏe mạnh mà trong thư nhắc đến vợ trước tiên, nhất là lại đề thư gửi riêng cho vợ thì thực là không tiện, khiếm nhã là đằng khác. Không chỉ riêng anh Xađức cho như thế là phải, mà bất cứ người đàn ông nào biết tự trọng cũng đều thừa nhận như vậy. Điều này chẳng cần giảng giải nhiều, tục lệ ở bản là như vậy, chẳng những không phải là chuyện đem ra bàn cãi được, mà chúng tôi cũng chẳng băn khoăn gì lắm về chuyện ấy, nó chưa đáng kể bằng bản thân lá thư. Mỗi lá thư là một sự kiện vui mừng cả nhà đều mong mỏi.

Mẹ tôi bắt tôi đọc đi đọc lại bức thư mấy lần. Rồi, vừa cảm động vừa thành kính, mẹ tôi đưa hai bàn tay nứt nẻ ra đón lấy nó, giữ mảnh giấy một cách lúng túng như giữ con chim có thể bay vù đi bất cứ lúc nào. Cuối cùng, mẹ tôi động đậy mấy ngón tay cứng đờ một cách khó nhọc, gập lá thư thành hình tam giác.

- Ơi hời các con yêu quý của mẹ, nhà sẽ gìn giữ thư của các con như giữ bùa hộ mệnh! - mẹ tôi nói, giọng run run đẫm lệ, con hỏi thăm bố mẹ, gia đình, bà con có được bình yên không... Ở nhà có làm sao đâu, vẫn ở bản thôi mà. Nhưng còn các con thì sao? Chỉ cần con viết cho một chữ thôi - con còn sống, thế là đủ, chẳng cần gì hơn nữa...

Mẹ tôi con nhìn lá thư gấp hình tam giác hồi lâu rồi cất nó vào chiếc túi da bé nhỏ đựng tất cả thư từ bấy lâu nay và cho vào rương khóa lại.

Nếu lúc đó chị Giamilia có ở nhà, chúng tôi cũng đưa thư cho chị đọc. Mỗi lần chị Giamilia cầm lá thư gấp hình tam giác trong tay, tôi thấy mặt chị đỏ bừng lên. Chị đọc nhẩm một cách nghiến ngấu, mắt lướt vội vàng qua những dòng chữ. Nhưng đọc càng gần đến cuối, đôi vai chị càng rũ xuống, mầu ửng hồng trên má chị tàn dần. Chị chau đôi lông mày bướng bỉnh, và không đọc nốt mấy dòng cuối, chị trả lại mẹ tôi bức thư, hờ hững lạnh lùng như trả vật gì vừa mượn.

Hẳn là mẹ tôi hiểu tâm trạng con dâu theo ý mình, nên tìm cách làm cho chị khuây khỏa.

- Sao lại thế, con? - mẹ tôi vừa nói vừa khóa rương. - Đáng lẽ phải vui mừng thế mà con lại ủ rũ vậy! Phải đâu chỉ mình con có chồng đi bộ đội? Không phải chỉ riêng con buồn khổ, đây là nỗi đau buồn chung của toàn dân, con hãy gắng cùng toàn dân chịu đựng. Con tưởng thế chứ, có ai là người không buồn, không mong nhớ chồng... Có điều buồn thì buồn, nhưng không nên để lộ ra ngoài, chỉ giữ kín trong lòng thôi!

Giamilia lặng thinh. Nhưng cái nhìn bướng bỉnh, buồn rầu của chị như muốn nói: “Mẹ chẳng hiểu gì cả, mẹ ạ!”

Lần này, thư của anh Xađức vẫn gửi từ Xaratốp. Anh nằm quân y viện ở đấy. Anh viết trong thư rằng nhờ trời phù hộ, mùa thu anh sẽ về nhà, vì anh đã bị thương. Thư trước anh đã báo tin này, vì thế cả nhà đều vui sướng vì sắp được đón anh về.

Tuy thế, hôm ấy tôi vẫn không ở nhà, tôi ra sân đập lúa. Tôi thường ngủ đêm ở ngoài ấy. Tôi dắt ngựa ra buộc ở bãi cỏ linh lăng. Ông chủ tịch có lệnh cấm không cho chăn gia súc ở bãi này, nhưng muốn cho ngựa của mình béo tốt tôi vẫn thả trộm ở đây. Tôi biết một chỗ khuất ở khu đất thấp lại vào ban đêm nữa thì không ai trông thấy được. Nhưng lần này, khi tháo ngựa dẫn ra bãi thì thấy bốn con ngựa của ai đã thả ra bãi linh lăng rồi. Tôi tức lắm. Tôi là chủ cỗ xe briska hai ngựa, tôi có quyền tức quá đi chứ. Không đắn đo gì hết tôi định đuổi mấy con ngựa này đi thật xa để cho kẻ láo xược nào dám xâm nhập vào địa phận của tôi một bài học. Nhưng bỗng nhiên tôi nhận ra hai con ngựa của Đaniyar, anh chàng mà lúc ban ngày bác đội trưởng đã nhắc đến. Sực nhớ rằng ngày mai, chị em tôi sẽ cùng Đaniyar đánh xe chở thóc ra ga tôi để mặc mấy con ngựa và trở lại sân đập.

Thì ra Đaniyar cũng ở đây. Anh vừa tra dầu xong vào các bánh xe briska của mình và đang vặn mấy chiếc ê-cu trên trục.

- Anh Đanikê, ngựa của anh ở dưới lũng phải không? - tôi hỏi.

Đaniyar chậm rãi quay đầu lại:

- Hai con của tôi.

- Thế còn đôi kia?

- A, của cái cô gì... cô Giamilia phải không? Ngựa của cô ấy đấy. Cô ấy với chú là thế nào, giênê của chú à?

- Phải, giênê.

- Chính bác đội trưởng thả ngựa ở đây, bảo tôi trông nom...

May mà tôi không đuổi mấy con ngựa ấy đi!

Đêm xuống, ngọn gió hây hẩy từ núi thổi xuống lúc ban chiều đã lặng hẳn. Trên sân đập cũng vắng lặng. Đaniyar nằm dài cạnh tôi, dưới chân đống rơm, nhưng lát sau anh đứng lên và đi ra sông. Cách một quãng không xa, anh dừng lại bên bờ dốc đứng, rồi cứ đứng đấy, tay chắp sau lưng, đầu hơi ngả về một bên. Anh đứng xoay lưng về phía tôi. Cái dáng hình dài dài, góc cạnh, như đẽo bằng rìu của anh in đậm nét trong ánh trăng êm dịu. Dường như anh lắng nghe một cách nhậy bén tiếng ồn ào dưới sông, tiếng ồn ào về đêm mỗi lúc một mạnh thêm ở những khúc nông. Hay có lẽ anh còn lắng nghe những âm thanh và tiếng sột soạt ban đêm mà tai tôi không thu nhận được. “Anh chàng lại định ra ngủ ở ven sông đây, người đâu kì quặc thật!” - tôi cười khẩy

Đaniyar mới xuất hiện ở bản chúng tôi cách đây ít lâu. Lần ấy, một thằng bé chạy ra chỗ cắt cỏ, phi báo rằng có mọt anh thương binh về làng, còn anh ta là ai, người nhà nào thì nó không biết. Ôi, thật là một biến cố phi thường! Ở bản tôi bao giờ cũng thế: hễ có người nào ở mặt trận về là cả làng, già trẻ lớn bé, không trừ một ai lũ lượt đổ ra xem người mới đến, tay bắt mặt mừng, hỏi xem anh ta có gặp người thân của mình ở ngoài ấy không, đón nghe tin tức. Thế là tiếng reo hò nổi lên không thể tưởng tượng nổi, người nào cũng đoán già đoán non: có lẽ anh mình về, hay có khi là ông dâu gia cũng nên? Những người đang cắt cỏ bỏ cả công việc, chạy ùa về xem sự thể ra sao.

Thì ra Đaniyar chính gốc là người quê tôi, sinh ở bản này. Người ta kể lại rằng anh mồ côi từ thuở nhỏ, ba năm trời ăn nhờ ở đậu hết nhà này sang nhà khác, rồi anh bỏ đến vùng thảo nguyên Tsăcmắc, ở với những người Cadakhơ là bà con họ ngoại với anh. Chú bé chẳng còn ai là bà con họ gần, vì thế chẳng ai gọi chú về, rồi người ta quên bẵng chú đi. Khi có người hỏi Đaniyar làm ăn sinh sống ra sao từ hồi bỏ nhà ra đi, anh chỉ trả lời cho qua chuyện có ý lảng tránh. Nhưng tuy vậy vẫn có thể biết được rằng anh đã nếm đủ mùi cay đắng, đã thừa biết thế nào là thân phận của kẻ mồ côi. Cuộc sống xô đẩy Đaniyar lăn lộn khắp đó đây, như ngọn lông chông*. Một thời gian dài, anh chăn cừu ở vùng đất mặn Tsăcmắc, lớn lên anh đi đào mương trên các hoang mạc, vào làm trong các nông trường trồng bông mới thành lập, rồi làm ở các khu mỏ Angren gần Tasken, từ nơi này anh vào quân đội.