← Quay lại trang sách

- 2 -

Dân bản niềm nở đón Đaniyar khi anh trở về làng quê. “Nó đã lang thang phiêu bạt khắp nơi, nay lại trở về, như vậy là cái số nó lại được uống nước con mương quê hương. Nó vẫn chưa quên tiếng mẹ đẻ, chỉ đôi khi đá vài tiếng Cadakhơ thôi, nó nói tiếng quê ta vẫn sõi lắm”.

“Dù muôn trùng cách trở, con Tunpar* rút cuộc sẽ tìm lại bầy. Ai mà không yêu quý quê hương, yêu quý bà con dân bản! Anh trở về là phải lắm! Bà con bản ta vui lòng, vong linh tổ tiên anh cũng hể hả. Ơn trời rồi đây chúng ta sẽ đánh thắng bọn Đức, sẽ sống yên lành. Còn anh, cũng như mọi người khác, anh sẽ lập gia đình, và trên nóc nhà anh sẽ bốc lên ngọn khói bếp ấm cúng”, - các cụ ắcxakan nói như vậy.

Nhắc đến tổ tiên Đaniyar, các cụ nhớ lại đích xác anh là người dòng họ nào. Thế là trong bản chúng tôi đã xuất hiện “một người bà con mới”-Đaniyar.

Rồi một hôm, bác đội trưởng Ôrôzơmát đưa một anh lính cao lớn, hơi gù, tập tễnh chân trái ra chỗ chúng tôi cắt cỏ. Chiếc áo ca-pốt vắt trên vai, anh bước lật đật, cố không chịu để cho con ngựa cái lùn phi nước kiệu nhỏ của Ôrôzơmát bỏ xa mình. Bên cạnh anh chàng Đaniyar cao kều, bác đội trưởng tầm vóc nhỏ bé và hiếu động nom chẳng khác gì con chim dẽ ở ven sông. Bọn trẻ thậm chí phá lên cười.

Cái chân bị thương của Đaniyar vẫn chưa lành hẳn, đầu gối không gập lại được, việc cắt cỏ không thích hợp với anh, vì thế người ta để anh cùng làm với bọn trẻ con chúng tôi, trông coi máy cắt cỏ. Thú thực là lúc đầu chúng tôi không thích Đaniyar. Trước hết chúng tôi không ưa cái tính kín đáo của anh. Anh ít nói, và nếu có nói, ta vẫn có cảm giác như lúc ấy anh còn mải nghĩ chuyện gì khác tận đâu đâu, còn đang theo đuổi những ý nghĩ riêng tư, và cũng không thể hiểu được anh có nhìn, thấy ta không, mặc dù anh vẫn nhìn thẳng vào mặt ta bằng cặp mắt mơ màng, tư lự.

- Tội nghiệp anh chàng, chắc là vẫn chưa hoàn hồn sau những ngày ở mặt trận! - người ta xì xào về anh.

Nhưng, có điều lạ là mặc dù lúc nào cũng trầm ngâm như vậy, Đaniyar làm việc lại rất nhanh nhẹn và chính xác, nhìn anh lúc ấy có thể tưởng anh là con người hồ hởi và cởi mở. Có lẽ quãng đời thơ ấu mồ côi, long đong lận đận đã khiến anh quen giữ kín tình cảm và ý nghĩ của mình, đã tạo cho anh cái tính dè dặt ấy chăng? Có thể lắm.

Cặp môi mỏng của Đaniyar, với những nếp nhăn nhỏ hằn rõ bên khóe miệng luôn luôn mím chặt, đôi mắt nhìn buồn rầu điềm tĩnh, duy có đôi lông mày mềm mại, luôn luôn động đậy làm cho khuôn mặt gầy gò lúc nào cũng có vẻ mệt mỏi của anh linh hoạt hẳn lên. Đôi khi anh dỏng tai nghe, dường như vừa bắt gặp một âm thanh gì mà tai người khác không nghe được, thế là đôi lông mày anh giương hẳn lên và mắt anh bừng sáng một niềm hân hoan khó hiểu. Rồi anh mỉm cười hồi lâu, vui sướng về chuyện gì không rõ. Chúng tôi coi tất cả đó là điều kì quặc. Chẳng phải chỉ có thế mà thôi, anh còn có những thói kì quặc khác nữa. Buổi chiều, sau khi tháo ngựa ra khỏi xe, chúng tôi tụ tập bên cạnh túp lều, chờ chị cấp dưỡng nấu ăn, còn Đaniyar trèo lên “cồn canh gác”* và ngồi lì ở đấy cho đến tối mịt.

- Anh ta làm gì ở đấy, làm nhiệm vụ canh gác chắc? - chúng tôi cười, bảo nhau.

Có lần, vì tò mò tôi theo Đaniyar lên cồn. Dường như ở đấy chẳng có gì đặc biệt. Bốn bề là thảo nguyên trung du trải rộng mênh mông, chìm trong bóng tối màu hoa cà. Cánh đồng mờ tối dường như dần dần tan ra trong im vắng.

Lúc tôi đến, Đaniyar cũng chẳng buồn để ý tới nữa. Anh ngồi bó gối, nhìn đâu đằng trước mặt, ánh mắt tư lự nhưng trong sáng. Và tôi lại có cảm giác như anh chăm chú lắng nghe những âm thanh mà tai tôi không nghe thấy được. Đôi lúc anh lắng tai nghe và ngồi lặng đi, mắt mở to. Có điều gì làm anh khắc khoải, tôi tưởng chừng như anh sắp đứng lên và phơi mở hết tâm hồn, nhưng không phải phơi mở ra với tôi anh không để ý đến tôi, - mà phơi mở ra trước một cái gì vô cũng rộng lớn, bao la mà tôi chưa từng biết. Rồi nhìn anh tôi không nhận ra anh nữa: Đaniyar ngồi ủ rũ, uể oải, như chỉ là anh đang nghỉ ngơi sau buổi làm.

Những bãi cắt cỏ của nông trang chúng tôi ở rải rác trên các khu bãi bồi bên sông Kurkurêu. Sông Kurkurêu ra khỏi hẽm núi ở một chỗ cách bản chúng tôi không xa và chảy qua thung lũng thành dòng dữ dội, không gì chế ngự nổi. Mùa cắt cỏ là mùa nước lũ các con sông trên núi đổ xuống. Từ chiều nước bắt đầu dâng cao, đục lầm và ngầu bọt. Nửa đêm đang ngủ trong lều, tôi chợt thức giấc vì sông chuyển mình dữ dội. Đêm xanh thẳm, lắng đọng, sao trời như những con mắt sáng nhìn vào lều, gió lạnh ào ào thốc tới từng cơn, vạn vật đều ngủ cả, duy có con sông vẫn gầm thét, như dậm dọa chồm đến chỗ chúng tôi. Tuy chúng tôi không ở ngay trên bờ sông, nhưng ban đêm, nghe như nước gần kề bên mình cảm giác ấy khiến tôi bất giác hoảng sợ: ngộ nhỡ nước đến cuốn phăng cả người lẫn lều đi thì sao? Các bạn tôi ngủ say lì, giấc ngủ khó lòng đánh thức nổi của người cắt cỏ, riêng tôi không thể chợp mắt được, và tôi ra ngoài lều.

Cảnh ban đêm trên bãi sông Kurkurêu thật là đẹp và đáng sợ. Đây đó trên bãi cỏ, những con ngựa bị tròng chân làm thành những vệt đen đen. Đám ngựa đã ăn no nê cỏ ngậm sương và bây giờ thỉnh thoảng lại thở phì phì, mơ màng trong giấc ngủ chập chờn. Còn ngay bên cạnh, sông Kurkurêu vít cong một cây liễu nhỏ ướt đẫm và tơi tả, nhảy chồm chồm vào bờ, xô đá ầm ầm. Sông không ngớt gầm réo, đêm tối tràn đầy tiếng ầm ào cuồng loạn, dữ tợn. Khủng khiếp. Rùng rợn.

Những đêm như thế, bao giờ tôi cũng nhớ tới Đaniyar. Ban đêm anh thường ngủ trên những đống cỏ ở ngay bờ sông. Anh không sợ hay sao? Tiếng nước sông gầm réo không làm anh ù tai ư? Anh có ngủ không nhỉ? Tại sao ban đêm anh ngủ một mình trên bờ sông? Anh tìm thấy gì thú vị trong đó? Con người kì quặc, không phải người của thế gian này. Hiện giờ anh ở đâu? Tôi nhìn tứ phía, không thấy ai. Bờ sông chạy ra xa, nhấp nhô những gò đất thoai thoải, những đỉnh núi mờ mờ trong đêm tối. Đằng kia, trên thượng nguồn. đêm thanh vắng và vằng vặc sao.

Dường như đã đến lúc Đaniyar phải tìm người trong bản để kết bạn. Nhưng anh vẫn một thân một mình như trước, cứ như thể anh không hề biết thế nào là bè bạn hay thù địch, thiện cảm hay ghen ghét. Vậy mà trong bản, chàng gighit nào có thể tự bảo vệ mình và bảo vệ người khác, có thể làm việc nghĩa, nhưng đôi khi cũng có thể làm điều ác, dám cưỡng lại các ắcxakan và làm theo ý mình trong các bữa tiệc tùng hay ma chay, thì anh chàng như thế thường được mọi người kiêng nể, thậm chí được phụ nữ để mắt tới.

Nhưng, nếu một kẻ như Đaniyar, sống tách biệt, không can dự vào mọi việc thường ngày trong bản, thì người ta không để ý đến hắn, số khác thì nói với giọng bao dung: Hắn không làm hại ai, cũng chẳng có ích cho ai. Khổ thân hắn, hắn sống vật vờ cho qua ngày đoạn tháng, thôi thì cũng được...

Người như thế thường chuốc lấy sự giễu cợt hay thương hại của thiên hạ. Còn chúng tôi, những gã trai mới lớn, bao giờ cũng muốn tỏ ra già dặn hơn tuổi thực của mình để có thể sánh ngang với những chàng gighit thực thụ, chúng tôi luôn luôn chế nhạo Đaniyar (dĩ nhiên không phải là trước mặt anh, mà giữa chúng tôi với nhau thôi). Chúng tôi chế nhạo cả việc anh ra sông tự giặt lấy chiếc áo cổ đứng bốn túi của mình. Áo giặt xong chưa khô anh đã đem ra mặc: anh chỉ có độc chiếc áo ấy thôi.

Thực cũng lạ, Đaniyar xem chừng có vẻ điềm đạm và hiền lành, vậy mà chúng tôi không hề dám lờn với anh. Không phải vì anh nhiều tuổi hơn chúng tôi (hơn nhau ba bốn tuổi có là bao, với những người như thế chúng tôi chẳng kiêng nể gì, vẫn mày tao chí tớ là thường), cũng không phải vì anh nghiêm nghị hoặc làm ra bộ ta đây, điều đó đôi khi vẫn có thể gợi nên một cái gì giống như sự kính nể, không phải thế. Vẻ trầm ngâm cau có của anh ngầm chứa một cái gì không thể hiểu được, khiến chúng tôi phải e dè, mặc dù chúng tôi vốn sẵn sàng chế nhạo bất cứ kẻ nào.

Có thể duyên do khiến chúng tôi e nể Đaniyar là một sự việc như thế này. Tôi vốn rất tò mò và thường hay làm rầy người khác bằng những câu hỏi đến điều, mà hỏi chuyện chiến tranh những người đã từng chiến đấu ở mặt trận lại là niềm say mê thực sự của tôi. Hồi Đaniyar về bản trong mùa cất cỏ, tôi luôn luôn tìm dịp thuận lợi để dò hỏi một điều gì ở anh chàng mới ở mặt trận về này.

Một buổi chiều, sau ngày làm, chúng tôi ngồi bên đống lúa, chúng tôi đã ăn xong và thung dung nghỉ ngơi.

- Đanikê, trước khi đi ngủ, anh kể cho nghe chuyện gì về chiến tranh đi, - tôi nài.

Thoạt đầu Đaniyar lặng thinh, hình như còn bực mình là đằng khác. Anh nhìn ngọn lửa hồi lâu, rồi ngẩng đầu lên nhìn chúng tôi.

- Kể chuyện chiến tranh ư? - anh hỏi, rồi như để trả lời cho những suy tư riêng của mình, anh nói bằng giọng khàn khàn: - Không, các cậu không nên biết gì về chiến tranh thì hơn.

Rồi anh quay đi, vơ lấy một ôm cỏ khô ném vào đống lửa, và bắt đầu thổi cho cháy bùng lên, mắt không nhìn ai trong bọn chúng tôi.

Đaniyar không nói gì thêm. Nhưng, chỉ một câu ngắn ngủi ấy từ miệng anh nói ra cũng đủ khiến chúng tôi hiểu được rằng không thể nói về chiến tranh một cách đơn giản như vậy, không thể từ đó tạo nên một chuyện cổ tích đưa ta vào giấc ngủ. Chiến tranh đọng lại thành máu trong trái tim sâu thẳm của con người, và kể chuyện về nó không phải là dễ dàng. Tôi xấu hổ với chính mình, và không bao giờ tôi hỏi chuyện Đaniyar về chiến tranh nữa.

Nhưng, buổi tối hôm đó rồi cũng mau chóng chìm vào lãng quên, cũng như trong bản người ta chẳng còn để ý gì đến chính Đaniyar nữa.

Sáng sớm hôm sau, tôi cùng với Đaniyar đưa ngựa ra sân đập, vừa lúc đó chị Giamilia cũng đến. Nhìn thấy chúng tôi từ xa chị đã gọi to:

- Ô này, kichinê bala, dắt ngựa của tôi lại đây! Mấy cái vòng cổ ngựa của tôi đâu rồi nhỉ? - Rồi dường như suốt đời vẫn làm nghề đánh xe ngựa, chị bắt đầu xem xét chiếc briska ra dáng thông thạo lắm, dùng chân lay thử xem moayơ bánh xe có ăn khít với trục không.

Khi tôi với Đaniyar cưỡi ngựa lại gần, chúng tôi nom thật tức cười dưới con mắt của Giamilia. Đôi chân gầy guộc dài ngoằng của Đaniyar buông thõng, xỏ trong đôi ủng giả da. Ủng quá rộng, lúc nào cũng chỉ chực tuột ra. Còn tôi thúc ngựa bằng hai gót chân không giày đã sạm đen lại.

- Rõ thật là xứng đôi! - Giamilia vui vẻ hất đầu lên. Rồi không chần chừ, chị sai bảo chúng tôi:

- Làm nhanh nhanh lên, phải vượt qua được thảo nguyên trước khi nắng gắt.

Chị nắm lấy dây cương, vững vàng dắt mấy con ngựa đến xe briska và bắt đầu đóng ngựa vào xe. Chị tự tay đóng ngựa, chỉ có một lần chị bảo tôi bày cho chị cách sắp đặt giây cương, chị không để ý đến Đaniyar như thể không hề có anh ở bên cạnh.

Thái độ cả quyết, thậm chí là tự tin, như có ý thách thức của Giamilia rõ ràng đã khiến Đaniyar sửng sốt. Với vẻ ác cảm, nhưng cũng không giấu được sự khâm phục ngấm ngầm, anh mím chặt môi một cách lạ lùng, nhìn chị làm. Khi anh lẳng lặng vác một bao tải thóc ở mặt bàn cân lên, đem ra xe, chị Giamilia cự anh:

- Thế là cái quái gì, mỗi người cứ hùng hục làm một mình như thế ư? Không, anh bạn ạ, làm như thế không ổn đâu, đưa tay đây! Này, kichinê bala, sao lại cứ dương mắt nhìn như thế, trèo lên xe xếp các bao tải đi!

Chị Giamilia nắm lấy tay Đaniyar và lúc họ nắm tay nhau cùng xốc tải thóc lên thì anh chàng tội nghiệp cứ đỏ mặt lên vì thẹn. Rồi mỗi lần hai người nâng tải thóc lên, tay nắm chặt tay, đầu gần như chụm vào nhau thì tôi lại thấy Đaniyar vừa ngượng ngùng vừa đau khổ, mím chặt môi, cố không nhìn vào mặt Giamilia. Còn chị Giamilia thì thản nhiên như không, dường như không để ý gì đến anh chàng cùng làm với mình, luôn miệng bông đùa với chị cân thóc. Cuối cùng, khi xe đã chất đầy bao tải và chúng tôi đã cầm dây cương trong tay, chị Giamilia nháy mắt ranh mãnh, vừa cười vừa nói:

- Này, anh gì ơi... A, tên anh là Đaniyar phải không? Nom anh cũng ra vẻ đấng mày râu đấy chứ, anh đi trước mở dường đi!

Đaniyar lại lẳng lặng quất ngựa, và xe đột ngột chuyển bánh. “Ôi, khốn khổ thân đời, người đâu mà gặp chuyện gì cũng thẹn thò bẽn lẽn!” tôi nghĩ thầm.

Chặng dường chúng tôi phải vượt qua khá xa: chừng hai mươi kilômet qua thảo nguyên, rồi qua một hẽm núi và ra ga. Chỉ được cái là từ lúc khởi hành cho đến lúc tới nơi, dường lúc nào cũng xuống dốc, ngựa không nhọc sức.

Bản Kurkurêu chúng tôi nằm rải theo bờ sông, trên sườn dãy Núi Hùng-Vĩ. Chừng nào chưa vào đến hẽm núi thì vẫn còn nhìn thấy bản với những rặng cây thẫm đen.

Một ngày chúng tôi chỉ đi được một chuyến. Chúng tôi ra đi từ sáng, quá trưa mới đến ga.

Trời nắng như đổ lửa, còn ở ga bầy ra cảnh tượng chen chúc xô đẩy nhau, không thể len qua được: xe briska, xe môgiara chở những bao tải thóc từ khắp vùng thung lũng đổ đến, lừa và bò thồ thóc từ các nông trang xa xôi ở trên núi về. Người đi áp tải là trẻ em và những chị vợ lính thân hình đen nhẻm, xống áo bạc phếch, chân đi đất rách toạc vì vấp vào đá, môi rớm máu nứt nẻ vì nóng và bụi.

Ở cổng phòng thu nhận thóc có treo một băng khẩu hiệu: “Từng bông lúa cho mặt trận!” ở sân ga thật là ồn ào hỗn độn, những người tải thóc chen đẩy, hò hét nhau. Cạnh đấy, sau bức tường thấp, một chiếc đầu máy đang dồn toa, phụt ra những cụm hơi nước nóng bỏng dày đặc, tung ra xỉ than nồng nặc thán khí. Những đoàn tầu vùn vụt lao qua, gầm thét đinh tai nhức óc. Mấy con lạc đà há ngoác những chiếc mõm đầy nước bọt, rống lên một cách giận dữ và thất vọng, cứ phủ phục dưới đất không chịu đứng dậy.

Ở chỗ nhận thóc dưới mái tôn nóng hầm hập, thóc chất cao như núi. Phải vác bao tải thóc đi lên một chiếc cầu ván, mang lới tận ngọn đống sát mái nhà. Hơi thóc bốc ngột ngạt, bụi đen nghẽn thở.

- Này, anh bạn, coi chừng đấy! - người thu nhận đứng dưới gào lên, mắt đỏ ngầu vì mất ngủ. Chuyển lên tận trên cùng kia! - Anh ta giơ nắm đấm hăm dọa và thét mắng om sòm.

Nhưng anh ta la mắng cái nỗi gì kia chứ. Chúng tôi biết cần mang bao tải đến đâu và mang đến đúng chỗ. Những hạt lúa này chúng tôi đã nai lưng ra đưa nó từ cánh đồng về. Trên đồng ruộng, phụ nữ, ông già và trẻ em đã trồng nên cây lúa rồi lại hái lượm từng hạt một; ở đấy, giờ đây, trong vụ mùa khẩn trương, người thợ lái máy liên hợp vẫn đang đánh vật với chiếc máy cọc cạch của mình, chiếc máy đáng phải loại bỏ từ lâu, ở đấy phụ nữ suốt ngày gò lưng xuống với những chiếc liềm nóng rực, và bàn tay bé bỏng của trẻ em vẫn đang chắt chiu lượm lặt từng bông lúa rơi.

Đến bây giờ tôi vẫn còn nhớ những bao tải thóc tôi vác hồi ấy nặng biết chừng nào! Đây là việc của những người đàn ông cường tráng nhất. Tôi trèo lên cao, loạng choạng trên chiếc cầu ván kẽo kẹt võng xuống, răng cắn chặt mép chiếc bao tải. cố giữ cho nó khỏi tuột mất. Cổ họng ngứa ngáy vì bụi xộc vào, xương sườn như oằn đi dưới sức nặng của tải thóc, mắt nảy đom đóm. Biết bao lần đuối sức giữa đường, cảm thấy tải thóc đang tuột khỏi lưng không cách gì giữ được, tôi muốn mặc cho nó rơi và lăn xuống cùng với nó. Nhưng đằng sau tôi còn những người khác đang đi lên. Họ cũng vác những bao tải nặng, đó là những trẻ em trạc tuổi tôi, những thiếu niên đang lớn, hoặc những người vợ bộ đội có con cũng lớn bằng tôi. Nếu như không phải thời buổi chiến tranh, ai lại để cho họ khuân vác nặng như thế! Không, tôi không có quyền chùn bước, một khi phụ nữ cũng đang làm công việc ấy.

Thì đây kia, Giamilia đang đi ở phía trước, váy xắn cao quá gối, tôi thấy những bắp thịt tròn mập trên cặp dò bánh mật đẹp đẽ của chị căng lên, tôi thấy chị cố gắng hết sức vác cho được bao tải, tấm thân mềm mại của chị uốn cong xuống dẻo dai như tấm thép. Chỉ thỉnh thoảng chị mới dừng lại một lát dường như chị cảm thấy mỗi bước của tôi càng đuối sức hơn.

- Cố lên, kichinê bala, chỉ còn một quãng nữa thôi!

Nhưng tiếng nói của chị không còn trong trẻo nữa, mà nghẹn ngào.

Trút thóc xong trở xuống, chúng tôi thường gặp Đaniyar. Anh bước đều đều, vững vàng trên cầu ván, chỉ hơi khập khiễng chút ít, nom anh vẫn cô độc và lầm lì như mọi khi. Gặp chúng tôi, Đaniyar đưa mắt nhìn Giamilia, cái nhìn u buồn, nồng cháy, còn chị vươn thẳng tấm lưng mỏi nhừ, sửa lại bộ áo váy nhàu nát. Lần nào anh cũng nhìn chị như thể mới gặp chị lần đầu, còn Giamilia vẫn không để ý gì đến anh.

Phải, điều đó đã thành lệ thường: Giamilia hoặc chế nhạo anh hoặc không bận tâm gì đến anh. Ấy là tùy theo tâm trạng của chị. Có lúc xe chúng tôi đang đi, chị chợt nảy ra một ý nghĩ, thế là chị lớn tiếng bảo tôi: “Nào, phóng lên đi!” Và chị hò ngựa, vung roi trên đầu, thúc ngựa phi nước đại. Tôi cho xe đuổi theo chị. Chúng tôi vượt qua xe Đaniyar, bỏ mặc anh chìm trong đám mây bụi mù mịt mãi chưa lắng hết. Tuy đây chỉ là trò đùa bỡn, nhưng không phải ai cũng nín nhịn nổi. Thế mà Đaniyar hình như không giận. Chúng tôi phóng xe như bay vượt qua, còn anh trân mắt nhìn Giamilia đang đứng trên xe cười vang, cái nhìn vừa khâm phục vừa buồn bực. Tôi quay lại. Đaniyar vẫn nhìn chị qua đám mây bụi. Ánh mắt anh biểu lộ một cái gì hiền hậu, sẵn lòng tha thứ hết thẩy, nhưng tôi còn đoán nhận thấy cái nhìn ấy chứa đựng một nỗi buồn dai dẳng thầm kín.

Dù là Giamilia giễu cợt hay hoàn toàn thờ ơ, Đaniyar chưa bao giờ tức giận. Dường như anh đã thề với mình sẽ nín nhịn hết. Thoạt đầu tôi thương hại anh, và nhiều lần tôi bảo chị Giamilia:

- Chị cứ chế nhạo anh ấy làm gì, giênê, anh ấy hiền lành thế kia mà!

- Kệ anh ta! - chị Giamilia cười và khoát tay. - Chị đùa chơi tí thôi mà, với anh chàng im lìm đó thì chẳng sao đâu mà lo!

Thế rồi sau đó tôi cũng trêu ghẹo, chế nhạo Đaniyar không kém gì chính Giamilia. Cái nhìn dai dẳng kì lạ của Đaniyar bắt đầu làm tôi lo ngại. Những lúc chị Giamilia vác bao tải lên vai, Đaniyar nhìn chị mới ghê chứ. Mà kể cũng phải thôi, ở nơi ồn ào huyên náo, chen đẩy hỗn độn này, trong cái sân ga nhốn nháo như cảnh chợ phiên này, giữa đám người tất tả, la hét đến khản đặc này, chị Giamilia nổi bật hẳn lên bởi những cử động vững vàng, chính xác, dáng đi thanh thoát, như thể mọi việc diễn ra ở chỗ rộng rãi thênh thang vậy.

Không thể không ngắm nhìn chị được. Để đỡ lấy một bao tải trên thành xe, chị dướn người lên, ưỡn ngực ra ghé vai đón và ngửa đầu về phía sau, để lộ cái cổ thon thả rất đẹp và hai bím tóc cháy nắng ngả sang mầu nâu của chị gần chấm đất. Đaniyar làm như tình cờ dừng lại, rồi cứ nhìn theo chị cho đến khi chị đi đến tận cửa. Chắc hẳn anh tưởng nhìn thế cũng không ai để ý thấy, nhưng tôi nhận thấy hết và tôi bắt đầu không ưa cái lối nhìn như vậy, thậm chí cảm thấy như bị người ta xúc phạm đến tình cảm của mình: tôi không thể nào cho rằng Đaniyar xứng đáng với Giamilia.

“Gớm chưa, ngay đến anh chàng này cũng nhìn chị Giamilia như thế thì còn nói gì đến những kẻ khác!” - tôi tức lộn ruột. Cái tính ích kỷ trẻ con mà tôi còn chưa thoát được bừng lên thành cơn ghen dằn vặt. Thường trẻ em bao giờ cũng ghen tức khi người ngoài yêu mến người thân của mình. Thế là, đáng lẽ thương hại Đaniyar, tôi lại căm ghét anh đến nỗi hễ thấy anh bị chế giễu là tôi mở cờ trong bụng.