- 5 -
Tôi cảm thấy bơ vơ quá chừng, lòng tôi tràn ngập nỗi lo âu khắc khoải! Tôi thẳng tay quất mấy con ngựa lúc nào cũng chực chuyển sang đi bước một. Những con chim bão gầy guộc, cẳng dài lo sợ chạy đi tìm chỗ trú trong khe! Lá ngưu bàng khô héo của hoang mạc bị cuốn lên đường cái: vùng chúng tôi không có loại lá này, nó bị lùa từ nơi nào bên vùng Cadakhơ đây. Mặt trời đã lặn hẳn. Bốn bề không một bóng người. Chỉ có thảo nguyên nhọc lử sau một ngày nắng gắt.
Tôi về đến sân kho thì trời đã tối. Vắng lặng, không một phẩy gió. Tôi gào to gọi Đaniyar.
- Hắn ra sông rồi, - người gác kho đáp. - Oi bức quá thế này, người ta bỏ về nhà hết rồi. Ngoài sân không có gió, cũng chẳng có việc gì làm.
Tôi lùa ngựa ra bãi cho ăn cỏ và định tạt ra sông. Tôi biết cái chỗ Đaniyar ưa thích trên bờ sông dốc đứng.
Anh ngồi khom lưng, cúi gục xuống đầu gối, lắng nghe tiếng nước sông réo ầm ầm dưới chân bờ dốc. Tôi bỗng muốn lại gần, ôm lấy anh và nói với anh điều gì tốt đẹp. Nhưng nói gì với anh được? Tôi đứng đấy một lát, cách anh một quãng, rồi quay trở lại. Sau đó, tôi nằm rất lâu trên đống rơm nhìn bầu trời đầy mây đen đang tối dần lại và nghĩ ngợi: “Tại sao cuộc sống khó hiểu và phức tạp đến thế nhỉ?”
Chị Giamilia vẫn chưa về. Chị đi đâu biệt tăm thế nhỉ? Tôi không ngủ được, tuy đã mệt lả. Những tia chớp nguồn lóe lên ở đằng xa, bên trên các dẫy núi, giữa lòng những đám mây đen.
Lúc Đaniyar về, tôi vẫn chưa ngủ. Anh đi lang thang vơ vẩn trên sân, chốc chốc lại nhìn ra đường. Rồi anh gieo mình xuống đám rơm sau đống cỏ, cạnh tôi. “Bây giờ anh ấy sẽ bỏ đi nơi khác, không ở lại bản nữa đâu! Nhưng anh ấy đi đâu được? Một thân một mình, không cửa không nhà, ai cần đến anh ấy?” Và giữa lúc đang thiêm thiếp ngủ, tôi mơ màng nghe thấy tiếng lộc cộc chậm chạp của chiếc briska đang đến gần. Hình như xe của chị Giamilia đã về...
Tôi không nhớ tôi đã ngủ bao nhiêu lâu, chỉ biết bỗng nhiên ngay sát bên tai tôi, có tiếng chân bước sột soạt trên rơm, như thể có một cánh chim ướt át khẽ chạm vào vai tôi. Tôi mở mắt ra. Đấy là chị Giamilia. Chị ở ngoài sông về, chiếc áo dài đã vắt nước mát lạnh. Chị dừng lại, lo ngại nhìn khắp xung quanh, rồi ngồi xuống cạnh Đaniyar.
- Anh Đaniyar, em đã đến, chính em đến với anh, - chị nói khe khẽ.
Bốn bề yên lặng, một tia chớp lặng lẽ trườn xuống phía dưới.
- Anh giận phải không? Giận lắm phải không?
Và lại yên lặng, chỉ có một tảng đất lở rơi xuống sông và một tiếng “bõm” êm nhẹ.
- Em có lỗi gì đâu? Anh cũng không có lỗi...
Xa xa, một tiếng sấm vang rền trên núi. Ánh chớp dọi sáng khuôn mặt trông nghiêng của Giamilia. Chị nhìn quanh và nép sát vào Đaniyar. Đaniyar đặt hai tay lên vai chị. Và vai chị run lên bần bật. Chị nằm xuống đám rơm, cạnh anh.
Gió nóng hừng hực như hơi lửa từ thảo nguyên đổ về, xoáy lốc, bốc tung đám rơm lên, thốc vào túp lều lung lay ở rìa sân kho, rồi quay tít như con cù, nghiêng ngả chạy trên đường. Giữa những đám mây lại lóe lên những tia lửa xanh, tiếng sấm lẹt rẹt vỡ tan ra trên đầu chúng tôi. Cảnh tượng ấy vừa ghê rợn vừa vui thú: cơn giông đã tới, cơn giông cuối cùng của mùa hè.
- Anh lại tưởng em sẽ đổi anh lấy anh ta ư? - chị Giamilia thì thầm, giọng thắm thiết. - Không đâu, không đời nào! Anh ta chưa bao giờ yêu em cả. Ngay cả câu thăm hỏi em, anh ta cũng chỉ viết thêm vào cuối lá thư gửi về nhà. Em chẳng cần gì con người ấy cùng với thứ tình yêu muộn màng của anh ta, mặc cho thiên hạ muốn nói gì thì nói! Anh yêu quí của em, chàng trai cô đơn của em, em sẽ không nhường anh cho ai cả! Em yêu anh từ lâu rồi. Ngay cả khi chưa biết anh, em đã yêu anh và chờ đợi anh, thế rồi anh đã tới, như thể anh biết em vẫn chờ đợi anh!
Những tia chớp xanh lằng nhằng nối tiếp nhau phóng xuống sông, chỗ chân bờ dốc. Những giọt mưa giá buốt, rơi chênh chếch loạt soạt trên đám rơm.
- Giamiliam, Giamantai!* - Đaniyar thì thầm gọi chị bằng những tên âu yếm nhất của tiếng Kazaxtan và tiếng Kirghizia. - Quay lại đây, em, cho anh nhìn vào mắt em một chút!
Cơn giông bùng ra.
Mảnh dạ bị dứt khỏi lều vật vã như con chim bị bắn hạ quằn quại vỗ cánh. Mưa trút xuống từng đợt ào ào như hôn mặt đất, bị gió thổi dạt đi ở phía dưới. Sấm chuyển dần chéo ngang qua cả bầu trời, ầm ầm như vụ sụt lở mãnh liệt. Chớp nguồn lóa sáng trên núi, chói lọi như đám uất kim hương rực cháy về mùa xuân. Gió gầm gào, lồng lộn dưới bờ dốc.
Mưa vẫn trút xuống, tôi nằm vùi mình trong đám rơm và tay đặt lên ngực, cảm thấy tim đập thình thịch. Tôi sung sướng. Tôi có cảm giác như lần đầu tiên tôi được ra ngoài nhìn ngắm mặt trời sau một trận ốm. Cả mưa cũng như ánh chớp đều xói vào tôi dưới lớp rơm, nhưng tôi sung sướng, tôi mỉm cười ngủ thiếp đi, không hiểu những âm thanh lọt đến tai tôi là tiếng Đaniyar và Giamilia thì thầm với nhau hay là tiếng mưa đang ngứt dần rơi nhẹ trên rơm.
Bây giờ sắp vào mùa mưa, rồi chẳng bao lâu nữa sẽ là mùa thu. Không khí đã thấm đượm mùi ngải cứu ẩm ướt và mùi rơm ướt lúc thu sang. Nhưng cái gì đang chờ đợi chúng tôi trong mùa thu? Chẳng rõ vì sao, tôi không nghĩ tới chuyện ấy.
Mùa thu năm đó, sau hai năm bỏ học, tôi lại đến trường. Hết buổi học, tôi thường ra chỗ bờ dốc ven sông, ngồi cạnh cái sân kho trước kia, bây giờ đã trở nên hoang vắng, ở đấy tôi đã dùng màu của học sinh vẽ những bức phác họa đầu tiên. Ngay với trình độ hiểu biết của tôi lúc bấy giờ, tôi cũng thừa hiểu không phải tôi vẽ bức nào cũng thành công cả.
“Màu khỉ gió! Giá mà có loại màu vẽ thực sự thì phải biết! - tôi tự nhủ, tuy tôi chẳng hình dung được thuốc màu thực sự nó như thế nào.
Mãi sau này tôi mới được nhìn thấy thứ màu vẽ pha dầu thực sự đựng trong ống chì.
Có màu hay không là một chuyện, nhưng có lẽ các thầy giáo tôi nói đúng: vẽ là việc cần học mới làm được. Nhưng lúc ấy tôi đâu dám mơ đến chuyện học tập. Học với hành gì: lâu nay chẳng có tin tức gì về các anh tôi, mẹ tôi không đời nào chịu rời tôi ra, tôi là đứa con trai duy nhất của gia đình, “chàng gighit và là người nuôi sống cả hai gia đình!”. Tôi chẳng dám hé răng nói đến chuyện ấy. Thế mà, cứ như cố tình trêu ngươi, mùa thu năm ấy đẹp đến nỗi tôi chỉ muốn cầm lấy bút vẽ lại cảnh đẹp ấy.
Sông Kurkurêu giá buốt cạn hẳn đi, đá tảng ở những khúc nông lộ ra, mọc đầy rêu xanh sẫm và vàng da cam. Cây liễu mềm yếu trụi hết lá, đỏ tía lên vào những lúc sương giá ban mai, nhưng những cành phong nhỏ bé vẫn còn giữ được những chiếc lá đầy đặn vàng úa.
Ờ những chỗ úng nước, mấy túp lều ám khói, gội mưa của người chăn ngựa sẫm đen lại trên đám cỏ màu đỏ hung, và những làn khói mỏng mảnh thơm thơm màu xanh lam uốn éo tuôn lên qua những lỗ thông khói. Những con ngựa đực gầy nhom hí vang lừng như thường thấy về mùa thu, lũ ngựa cái chạy tan tác đi đâu hết, và từ giờ cho đến mùa xuân, không dễ gì giữ được chúng trong bầy. Gia súc được đưa từ trẻn núi về đi lang thang từng bầy trên đồng ra. Thảo nguyên sạm nâu màu cây cỏ chết khô, chằng chịt những vệt đường mòn ngang dọc do gia súc dẫm lên.
Chẳng bao lâu sau, gió thảo nguyên nổi lên, bầu trời trở nên u ám, mưa lạnh đổ xuống: điềm báo sắp có tuyết. Một hôm thời tiết không đến nỗi xấu, tôi ra sông: tôi rất thích ngắm bụi thanh lương trà vùng núi đỏ rực như lửa trên bãi cát bồi. Tôi ngồi ở một chỗ cách khúc sông cạn một quãng, trong bụi liễu. Bóng chiều đã xuống. Bỗng nhiên tôi nhìn thấy hai người đang đi, rõ ràng họ vừa lội qua sông. Đấy là Đaniyar và Giamilia. Tôi không thể rời mắt khỏi khuôn mặt lo lắng nghiêm nghị của hai anh chị. Vai đeo chiếc túi dết đựng đồ, Đaniyar bước lật đật, vạt chiếc áo khoác lính không cài khuy cứ đập vào ống đôi ủng giả da đã vẹt gót. Chị Giamilia chít chiếc khăn choàng trắng lúc này đã tuột xuống sau gáy, chị mặc bộ áo váy sặc sỡ đẹp nhất chị vẫn thường diện vào những ngày chợ phiên, bên ngoài mặc chiếc áo vét nữ bằng nhung kẻ may chần. Tay chị xách một bọc nhỏ, tay kia níu lấy sợi dây đeo túi dết của Đaniyar. Hai người vừa đi vừa chuyện trò gì với nhau.
Kìa, hai người đã vào con đường mòn dẫn qua khe, giữa những lùm cây bụi. Tôi nhìn theo họ và không biết phải làm gi. Lên tiếng gọi họ chăng? Nhưng lưỡi như dính vào vòm miệng.
Những tia nắng đỏ thắm cuối cùng trườn trên những đám mây đen đốm trắng nối đuôi nhau trôi nhanh dọc theo dẫy núi. Trời bỗng đổ tối. Đaniyar và Giamilia không hề ngoái nhìn lại, đi miết về phía đường tầu tránh. Đầu anh chị thoáng hiện vài lần nữa trong đám lùm cây, rồi biến mất,
- Giamilia-a-a! - tôi rán sức gào toáng lên.
“A-a-a!” tiếng vang dội lại từ nhiều phía.
- Giamilia-a-a! - tôi gào lên lần nữa và cuống cuồng cắm đầu đuổi theo họ, lao bừa xuống nước, vượt qua sông.
Nước giá buốt bắn vọt lên từng cụm lớn, táp vào mặt, quần áo tôi ướt đẫm, tôi cứ chạy bừa đi, chẳng còn biết đâu là đường nữa. Đột nhiên, tôi vấp chân, ngã xấp xuống đất. Tôi cứ nằm như thế, không ngẩng đầu lên, nước mắt giàn giụa khắp mặt. Dường như bóng tối đã đè nặng lên đôi vai tôi. Những thân cây nhỏ mềm mại rít lên vi vút, buồn rầu.
- Giamilia! Giamilia! - tôi nức nở nghẹn ngào nuốt nước mắt.
Tôi phải xa lìa những người thân yêu gần gũi nhất của mình. Mãi đến lúc này, nằm xoài trên mặt đất, tôi mới hiểu tôi yêu chị Giamilia. Phải, đây là mối tình đầu, mối tình thuở niên thiếu của tôi.
Tôi cứ nằm như thế mãi, úp mặt vào cùi tay ướt đẫm. Vừa rồi không phải tôi chỉ giã từ Đaniyar và Giamilia, tôi đã giã từ tuổi thơ của mình.
Khi tôi lần mò trong bóng tối, lần được về đến nhà thì ở sân đã nháo cả lên, tiếng bàn đạp ngựa loảng xoảng, có người thắng yên ngựa, gã Ôxmôn say rượu ngất ngưởng trên mình ngựa, hét tướng lên:
- Lẽ ra phải tống cổ con chó hoang lạc loài ấy ra khỏi bản từ lâu rồi kia! Thật là điếm nhục cho cả dòng họ! Tôi mà vớ được nó thì tôi giết chết tươi ngay tại chỗ, tội vạ gì cũng cam lòng. Không thể để cho bất cứ thằng du đãng nào cũng dụ dỗ được đàn bà con gái bản ta đem đi! Nào, lên ngựa, các chàng gighit, nó không thể trốn thoát đi đâu được, ta đuổi đến ga là tóm được thôi!
Tôi lạnh toát cả người: họ sẽ phóng ngựa đi đâu? Nhưng khi đã biết chắc là họ đuổi theo đường cái ra ga, chứ không phải ra chỗ đường tránh tầu, tôi lẻn vào nhà, lấy chiếc áo dạ lông của bố chùm kín đầu để khỏi ai nhìn thấy tôi khóc.
Cả bản xôn xao bàn tán, thôi thì bao nhiêu điều ong tiếng ve! Các bà các chị thi nhau chỉ trích Giamilia.
- Cái con ngu đần hết chỗ nói! Được làm dâu một gia đình như thế mà bỏ trốn đi, đúng là nó tự xéo nát hạnh phúc của nó.
- Thử hỏi, ả còn thèm muốn cái gì mới được chứ? Tài sản của thằng cha ấy vẻn vẹn có độc một chiếc áo khoác lính cà khổ và đôi ủng rách nát!
- Thì đã hẳn, ngữ ấy làm sao có được một sân đầy gia súc! Một thằng tứ cố vô thân, cầu bơ cầu bất, khố rách áo ôm. Chẳng sao, rồi cô ả xinh đẹp sẽ nghĩ lại thôi, nhưng lúc ấy thì muộn rồi!
- Chính thế! Mà Xađức lại không đáng mặt làm chồng nó ư, không đáng mặt làm chủ gia đình ư? Một chàng gighit cừ khôi nhất bản!
- Còn bà mẹ chồng nữa chứ? Không phải bất cứ ai cũng được Trời ban cho một bà mẹ chồng như thế! Có giỏi cứ đi kiếm cho ra một baibitsê như thế đi! Nó tự hủy hoại đời nó con bé ngu xuẩn, tự dưng vô cớ chuốc họa vào thân!
Có lẽ chỉ một mình tôi không chê trách chị Giamilia, giênê trước kia của tôi. Dù anh Đaniyar chỉ có chiếc áo khoác lính cũ kỹ với đôi ủng rách nát, nhưng tôi biết tâm hồn anh giầu có hơn tất cả chúng tôi. Không, tôi không tin rằng chung sống với anh, chị Giamilia sẽ bất hạnh. Tôi chỉ thương mẹ tôi thôi. Tôi cảm thấy hình như chị Giamilia ra đi đã đem theo cả sức lực trước kia của mẹ tôi. Mẹ tôi rầu rĩ, gầy rộc đi, và bây giờ tôi hiểu rằng mẹ tôi không thể chịu được khi thấy cuộc sống đôi khi phá vỡ một cách quá đột ngột những nền nếp cổ xưa. Một cái cây dù to khỏe đến đâu một khi đã bị bão trốc tung cả rễ thì cũng không còn trỗi dậy được. Trước đây, mẹ tôi không bao giờ nhờ ai xâu chỉ luồn kim: như vậy chạm đến lòng kiêu hãnh của mẹ tôi. Thế mà, có lần đi học về, tôi thấy hai tay mẹ tôi run run, mẹ tôi không nhìn thấy lỗ kim và khóc.
- Này, con luồn hộ mẹ sợi chỉ đi! - mẹ tôi bảo và thở dài não nề. - Giamilia rồi sẽ khổ một đời... Chao ôi, lẽ ra nó sẽ thành một người nội trợ đảm đang biết bao! Nó đi rồi!.. Nó rũ bỏ hết... Tại sao nó bỏ đi nhỉ? Hay ở nhà ta nó cảm thấy khó chịu?
Tôi muốn ôm lấy mẹ, an ủi mẹ, kể cho mẹ tôi biết Đaniyar là người thế nào, nhưng tôi không dám, vì như vậy, tôi sẽ gây cho mẹ tôi vết thương lòng suốt đời không hàn gắn được.
Nhưng rồi việc tôi có dính líu vào chuyện này cũng không còn là chuyện bí mật nữa, tuy tôi chẳng có lỗi gì...
Ít lâu sau anh Xađức về. Tất nhiên anh đau buồn, mặc dù trong lúc say rượu anh có nói với Ôxmôn:
- Nó đi là đáng thôi. Rồi nó sẽ chết đường chết chợ cho mà xem. Thời buổi này thiếu gì đàn bà. Ngay cả một cô ả có tóc bằng vàng cũng chưa đáng giá bằng một gã trai hèn kém nhất đời!
- Đúng thế! - Ôxmôn đáp. - Chỉ tiếc là hôm ấy tôi không vớ được thằng ấy, chứ không thì tôi giết quách nó đi là xong chuyện! Còn con ấy thì cứ nắm tóc nó buộc vào đuôi ngựa kéo lê đi cho đáng đời! Chắc là hai đứa xuống miền Nam đi hái bông sinh sống, hay đi làm thuê làm mướn, thằng này không phải là lần đầu sống cuộc đời lang thang nữa rồi! Có điều tôi không sao hiểu được là sự thể thế nào mà chẳng ai hay biết gì cả, thậm chí chẳng ai ngờ đến nữa. Chính cái con đê tiện ấy nó gây ra chuyện, tự nó dàn xếp hết! Tôi mà tóm được thì phải biết!..
Nghe Ôxmôn nói như vậy, tôi chỉ muốn nói độp vào mặt hắn: “Mi vẫn chưa sao quên được những lời chị ấy nói như tát vào mặt mi ở bãi cắt cỏ đấy thôi. Bụng dạ mi đểu giả lắm!”
Có lần tôi ngồi ở nhà, vẽ bức tranh cho tờ báo tường của nhà trường. Mẹ tôi loay hoay bên bếp lò. Bỗng nhiên anh Xađức xồng xộc chạy vào. Mặt tái nhợt, đôi mắt cau có hằn học, anh xấn đến và gí vào mũi tôi một tờ giấy:
- Chính mày vẽ cái này phải không?
Tôi sững sờ cả người. Đây là bức vẽ đầu tiên của tôi. Hình ảnh Đaniyar và Giamilia sống động lúc ấy đang nhìn tôi:
- Em vẽ đấy.
- Thế ai đây? - anh chỉ ngón tay vào tờ giấy.
- Đaniyar.
- Quân phản bội! - anh Xađức quát vào mặt tôi.
Anh xé vụn bức vẽ rồi đi ra, đóng sầm cửa lại.
Sự yên lặng nặng nề kéo dài hồi lâu, rồi mẹ tôi hỏi:
- Con biết ư?
- Vâng, con biết.
Tựa mình vào bếp lò, mẹ tôi nhìn tôi với bao nhiêu băn khoăn trách móc. Rồi khi tôi nói: “Con sẽ còn vẽ hai anh chị ấy lần nữa!” thì mẹ tôi lắc đầu đầy vẻ chua xót và chán nản.
Tôi nhìn những mẩu giấy vụn bừa bộn dưới sàn, và một nỗi uất giận ghê gớm khiến tôi nghẹt thở. Mặc cho người ta bảo tôi là kẻ phản bội. Tôi phản bội ai kia chứ? Phản bội gia đình ư? Phản bội gia tộc ư? Nhưng tôi không phản bội chân lý, chân lý của cuộc sống, chân lý của hai con người đó! Tôi không thể nói với ai điều ấy, ngay cả mẹ tôi cũng sẽ không hiểu tôi.
Trước mắt tôi, tất cả đều nhòa đi, những mảnh giấy hình như liệng vòng trên sàn như những vật sống. Khoảnh khắc mà Đaniyar và Giamilia trong bức tranh nhìn tôi như người thật đã ăn sâu vào kí ức tôi đến nỗi tôi tưởng chừng nghe thấy bài ca của Đaniyar, bài ca anh đã hát trong cái đêm tháng Tám đáng ghi nhớ ấy. Tôi nhớ lại hai người đã từ bỏ bản làng ra đi như thế nào, và tôi cũng nôn nóng muốn lên đường ra đi như họ, mạnh bạo và kiên quyết dấn thân vào con đường khó khăn đi tìm hạnh phúc.
- Con sẽ đi học... Mẹ nói với bố cho con. Con muốn trở thành họa sĩ! - tôi cả quyết nói với mẹ tôi.
Tôi đinh ninh mẹ tôi sẽ trách móc tôi và òa khóc, sẽ nhắc đến mấy anh tôi đã bỏ mình trong chiến tranh. Nhưng lạ thay, mẹ tôi không khóc, chỉ khẽ nói, giọng buồn rầu:
- Được con cứ đi đi... Con đã đủ lông cánh, con muốn bay nhảy thế nào tùy ý... Ai mà đoán trước được, biết đâu con lại chẳng bay cao? Chưa biết chừng con nghĩ thế mà phải. Con cứ đi đi... Có thể sau này con sẽ nghĩ lại. Bôi bôi vẽ vẽ đâu phải là một nghề... Cứ học đi rồi con sẽ hiểu ra... Nhưng chớ có quên mái nhà mẹ cha...
Từ hôm ấy Nhà bé tách riêng ra, không làm ăn chung với chúng tôi nữa. Ít lâu sau, tôi đi học.
Tất cả câu chuyện chỉ có thế.
Học hết trung cấp, tôi được gửi đến trường cao đẳng mỹ thuật. Tại dây, tôi đã trình bày bài thi tốt nghiệp của tôi: đấy là bức tranh tôi hằng mơ ước vẽ ra từ lâu.
Dễ đoán được rằng bức tranh ấy vẽ Đaniyar và Giamilia. Hai người đi trên con đường thảo nguyên vào một ngày thu. Trước mặt họ là khoảng xa tươi sáng, rộng lớn.
Mặc dù bức vẽ của tôi chưa phải là hoàn mỹ - tài nghệ đâu có đến ngay một lúc được, nhưng tôi quý bức vẽ ấy vô cùng, nó là nỗi khắc khoải có ý thức đầu tiên của tôi trong sự nghiệp sáng tác.
Ngay cả bây giờ, đôi khi tôi vẫn thất bại, có những phút nặng nề tôi mất lòng tin ở chính mình. Khi ấy tôi bị lôi cuốn đến trước bức tranh ấy, bức tranh vẽ Đaniyar va Giamilia. Tôi nhìn hai người hồi lâu và lần nào tôi cũng nói chuyện với anh chị.
Giờ này anh chị ở đâu, anh chị đang sóng bước trên con đường nào? Giờ đây có biết bao nhiêu con đường mới trên thảo nguyên của chúng ta: ở khắp Cadắcxtan cho đến tận Antai và Xibiri! Vô vàn con người dũng cảm đang lao động ở đó. Có lẽ anh chị cũng đã đến những vùng ấy chăng? Chị đã ra đi, Giamilia của tôi, chị đi trên thảo nguyên bao la không hề ngoái nhìn lại. Có thể chị đã mệt mỏi, có thể chị đã mất lòng tin ở chính mình chăng? Chị hãy dựa vào Đaniyar. Hãy để anh hát cho chị nghe bài ca về tình yêu, về đất nước về cuộc sống. Sao cho thảo nguyên chuyển mình và ngời lên đủ mọi màu sắc! Mong chị hãy nhớ lại đêm tháng Tám ấy! Cứ đi đi, Giamilia, đừng hối tiếc gì cả, chị đã tìm thấy hạnh phúc khó khăn của mình!
Tôi nhìn hai người và nghe thấy tiếng nói của Đaniyar. Anh gọi tôi cùng lên đường: vậy là đã đến lúc sửa soạn hành trang. Tôi sẽ đi trên thảo nguyên về bản làng tôi, và ở đấy tôi sẽ tìm thấy những màu sắc mới.
Mong sao mỗi nét vẽ của tôi đều vang lên điệu hát của Đaniyar! Mong sao mỗi nét vẽ của tôi đều phập phồng nhịp tim đập của Giamilia!
Chú thích:
Phạm Mạnh Hùng dịch
Loại xe tải nhẹ, kéo bằng ngựa, - ND.
Kinh đạo Hồi, - ND.
Luật lệ của bộ tộc. - ND.
Phân khô của gia súc lớn dùng để đun. - ND.
Tay kỵ mã tài ba, danh từ này cũng thường dùng chỉ thanh niên trai tráng. - ND.
Loại xe ngựa hai bánh.
Bếp lò ở dưới mặt đất, phía sau nhà, miệng lò tròn, dùng để nướng bánh mì dẹt. Chú thích của tác giả.
Nghĩa đen là “các vị râu bạc”, chỉ các bậc già cả trong làng, - ND..
Gypsophila paniculata một loại cây bụi trên thảo nguyên, ngọn cây dễ bị gió bẻ gãy, rời khỏi thân và lăn lông lốc trên mặt đất như một búi tròn theo chiều gió. – ND.
Con ngựa thần, - chú thích của tác giả.
Chỗ đất cao nhìn bao quát được các vùng xung quanh. Cách gọi này có từ thời người Kirghizia còn sống du mục, - chú thích của tác giả.
Một pút, - 16,38 kg, - ND..
Ý nói: tại sao lại hờn giận bất ngờ như vậy. - ND.
Tên gọi âu yếm của Giamilia. - ND..