← Quay lại trang sách

- 4 -

Tôi hình dung rõ mồn một anh đang bối rối như thế nào. Nhưng ngay trong tiếng hát rụt rè, đứt đoạn ấy vẫn có cái gì cảm động lạ thường. Hẳn là anh có giọng hát hay, nhưng thực không thể tin được rằng người có giọng hát như thế lại là Đaniyar.

- Lạ thật đấy! - tôi buột miệng nói.

Còn chị Giamilia thậm chí kêu lên:

- Sao trước đây anh giấu mình thế nhỉ! Nào, hát đi, hát thật hay vào!

Phía trước hiện ra một khoảng sáng: đấy là chỗ ra khỏi hẽm núi đi vào thung lũng. Từ nơi ấy một làn gió nhẹ thổi tới. Đaniyar lại cất tiếng hát. Lúc đầu anh cũng hát rụt rè ngập ngừng, nhưng rồi giọng anh mạnh dần lên, âm vang khắp hẽm núi, dội tiếng trên các vách đá phía xa.

Điều làm tôi ngạc nhiên nhất là bản thân điệu hát mới thiết tha, nồng cháy làm sao. Tôi không biết gọi nó là gì, mà ngay đến giờ tôi cũng không biết, hay nói cho đúng hơn là không thể diễn giải cho rạch ròi được: phải chăng đấy chỉ là giọng hát hay còn là một cái gì quan trọng hơn nảy sinh từ chính tâm hồn con người, một cái gì có thể khiến người khác cũng xúc động như thế, có thể khơi dậy những ý nghĩ thầm kín nhất.

Ước gì tôi có thể làm hiện lại, dù chỉ là ít nhiều tiếng hát của Đaniyar! Tiếng hát của anh hầu như không có lời, nó phơi mở tâm hồn rộng lớn của con người không cần lời. Trước kia cũng như sau này, chưa bao giờ tôi được nghe tiếng hát nào như vậy: nó không giống làn điệu Kirghizia, cũng không giống làn điệu Cadakhơ mà dung hợp cả hai. Nhạc điệu của Đaniyar thấm hút những làn điệu hay nhất của hai dân tộc anh em và hòa thành một bài ca duy nhất, có một không hai. Đây là bài ca của núi đồi và thảo nguyên, khi thì ngân vang vút lên như những ngọn núi Kirghizia, khi thì trải rộng bao la như thảo nguyên Cadắcxtan.

Nghe anh hát, tôi ngạc nhiên: “Thì ra anh chàng Đaniyar này là như thế đấy! Ai mà ngờ được!”

Chúng tôi đã đi trong thảo nguyên, trên con đường mòn nhẵn đất mềm và bây giờ tiếng hát của Đaniyar thực là mênh mang, làn điệu luôn luôn đổi mới, nối tiếp nhau uyển chuyển lạ thường. Con người ấy mà có tâm hồn phong phú như thế ư? Có chuyện gì đã xảy đến với anh vậy? Dường như bấy lâu nay, anh vẫn chỉ chờ đợi ngày này, giờ này của mình!

Và đột nhiên, tôi bỗng hiểu những cái lạ đời của anh đã khiến mọi người băn khoăn và chế nhạo: tính mơ mộng, ưa lẻ loi, tính lầm lì. Bây giờ tôi hiểu tại sao anh thường ngồi suốt buổi chiều trên cồn canh gác và tại sao anh thường ngủ đêm một mình bên sông, tại sao anh lắng nghe những âm thanh người khác không nghe thấy được và tại sao đôi khi mắt anh bỗng cháy rực lên, đôi lông mày thường ngày vốn có vẻ e dè bỗng xếch ngược lên. Đây là một con người yêu say đắm. Anh đang yêu say đắm, tôi cảm thấy thế, không phải chỉ là yêu mê một người khác; đây là một thứ tình yêu khác, hết sức lớn lao: yêu cuộc sống, yêu cõi đất này. Đúng, anh ấp ủ tình yêu đó trong lòng, trong điệu nhạc của mình, nó là lẽ sống của anh. Người nào mang trong mình một tâm hồn tẻ lạnh không thể hát như vậy được, dù có giọng hay đến đâu.

Khi hồi âm cuối cùng của tiếng hát dường như đã tắt hẳn, cảm hứng xốn xang mới mẻ của bài ca như đánh thức cả thảo nguyên đang thiu thiu ngủ. Thảo nguyên cảm kích nghe tiếng người hát, sung sướng được vỗ về trong điệu hát thân quen. Lúa mì chín biêng biếc đang chờ thu hoạch rập rờn như làn nước mênh mang, và những vệt ánh sáng lúc sắp rạng đông lướt trên cánh đồng. Đám liễu già đông đảo ở cạnh nhà xay rung lá xào xạc, mấy đống lửa của các khu trại đồng bên kia sông đã tàn lụi, một bóng người cưỡi ngựa êm ru trên bờ sông nhằm hướng bản làng, lúc thì biến mất trong những khu vườn, lúc thì lại xuất hiện. Gió từ phía ấy thổi tới dâng hương táo chín, hương mật ngọt của ngô đang trổ hoa thơm thơm như mùi sữa tươi mới vắt và mùi nồng ấm của kigiắc đang khô.

Đaniyar mê mải hát. Đêm tháng Tám đắm đuối nín thở nghe anh hát, cả đến mấy con ngựa cũng đã chuyển sang đi bước một từ lâu, như sợ làm tan biến mất phút giây huyền diệu này.

Đột nhiên, lên đến một âm thanh cao nhất, vang vọng nhất, Đaniyar bỗng ngừng bặt, không hát nữa và hò lên một tiếng, quất ngựa phi nước đại. Tôi cứ tưởng chị Giamilia sẽ giục ngựa đuổi theo anh và tôi cũng sẵn sàng cho ngựa phi, nhưng chị không nhúc nhích. Trước chị ngồi ngả đầu về một bên vai, giờ chị vẫn ngồi như thế, dường như vẫn lắng nghe những âm thanh chưa tàn lạnh còn đang bay lượn trên không. Đaniyar đã đi xa, và cho đến lúc về tới bản, hai chị em chúng tôi không thốt lên một lời nào. Vả chăng, cần gì phải nói kia chứ? Lời nói không phải bao giờ cũng bộc lộ được hết nỗi lòng ta...

Từ hôm ấy trở đi, trong đời sống của chúng tôi hình như đã có cái gì đổi khác. Bây giờ tôi luôn luôn mong chờ một điều gì tốt lành, đáng thèm ước. Từ sáng, chúng tôi đóng thóc vào bao ở sân kho, chở ra ga, và chúng tôi nóng lòng cho xe đi thật mau để khi trở về được nghe Đaniyar hát. Tiếng hát của anh thấm vào hồn tôi, theo tôi từng bước: sáng sáng, tôi cùng nó chạy qua bãi cỏ linh lăng đẫm sương đến chỗ cột ngựa, mặt trời tươi cười nhô lên sau dẫy núi đón chào tôi. Tôi nghe thấy giọng hát ấy cả trong tiếng rào rào êm dịu của trận mưa lúa mạch vàng óng mà các cụ già quạt thóc tung ra trước gió, cả trong nhịp bay uyển chuyển của con diều hâu đơn độc lượn vòng trên không trung cao vọi giữa thảo nguyên. Nhìn bất cứ cái gì tôi cũng nghe thấy tiếng hát ấy, cũng mường tượng đến điệu nhạc của Đaniyar.

Buổi chiều, khi xe chúng tôi qua hẽm núi, lần nào tôi cũng tưởng chừng như tôi lạc vào một thế giới khác. Tôi lim dim mắt nghe Đaniyar hát và trước mắt tôi hiện lên những cảnh tượng thân quen lạ lùng từ thuở ấu thơ: có lúc là những đám mây lang thang mùa xuân dịu hiền, mẩu khói biêng biếc bồng bềnh lướt trôi ở tầm cao sếu bay, phía trên những nhà lều; có lúc là những đàn ngựa hí vang, nện vó rầm rập trên mặt đất dội tiếng ầm vang, phi như bay ra bãi chăn mùa hè, và những con ngựa non bờm chưa xén, mắt rực lên ngọn lửa đến man dại, vừa kiêu hãnh phóng đi vừa như điên như dại chạy quấn xung quanh mẹ; khi thì là những bầy cừu như làn phún thạch bình thản tỏa xuống các sườn dốc; khi thì là một thác nước từ vách đá đổ xuống sủi lên từng đám bọt trắng lóa; khi thì là cảnh thảo nguyên bên kia sông, vầng mặt trời nhẹ nhàng lẩn xuống sau bụi cây, và xa xa, một người cưỡi ngựa đơn độc lững thững ở đường chân trời bốc lửa, dường như đuổi theo vầng dương, chỉ còn cách nó một tầm tay, rồi cũng chìm nốt trong đám cây bụi và trong bóng tối.

Bên kia sông, thảo nguyên Cadakhơ rộng bao la xô dạt núi non của chúng tôi về hai bên, trải ra oai nghiêm và hoang vắng...

Nhưng vào mùa hè đáng ghi nhớ ấy, khi chiến tranh ập đến, những đám lửa đã bùng cháy trên thảo nguyên, hàng đoàn ngựa chiến dìm ngập thảo nguyên trong đám bụi mờ mịt nóng rực, những người đưa tin phóng ngựa về khắp các ngả. Tôi còn nhớ, từ bờ bên kia, một người Cadakhơ cưỡi ngựa phi nước đại, gào lên bằng cái giọng hầu của người chân cừu:

“Hãy lên ngựa, hỡi dân chúng Kirghizia: kẻ thù đã tới!” - rồi người đó tiếp tục lao đi trong cơn lốc bụi và trong lớp sóng hơi nóng bốc lên mờ mịt như sương mù.

Thảo nguyên thôi thúc toàn dân vùng dậy, và những trung đoàn kị binh đầu tiên của chúng tôi từ trên núi kéo xuống, băng qua các thung lũng trong tiếng ầm ầm dữ tợn và trịnh trọng. Hàng nghìn đôi bàn đạp va chạm loảng xoảng, hàng nghìn chàng gighit đưa mắt nhìn khắp thảo nguyên: phía trước là những lá cờ đỏ dương cao bay phấp phới, phía sau, bên kia đám bụi bốc lên dưới vó ngựa, tiếng khóc trang nghiêm đầy đau xót của những người vợ và bà mẹ dội xuống mặt đất: “Cầu cho thảo nguyên trợ giúp các anh, cầu xin anh linh tráng sĩ Manax của chúng ta phù hộ các anh!”

Ở đâu nhân dân lâm vào cảnh chiến tranh, ở đấy còn lại những con đường chua xót...

Và toàn bộ thế giới những vẻ đẹp trần gian này cùng những nỗi lo âu khắc khoải này, Đaniyar đã phơi mở ra trước mắt tôi trong bài ca của anh. Anh đã học được ở đâu? Ai dạy cho anh những câu ca đó? Tôi hiểu rằng tình yêu quê hương như thế chỉ có thể có ở một người đã nhiều năm ròng mong nhớ quê nhà, đã đau khổ vì tình yêu quê hương. Nghe anh hát, tôi nhìn thấy chính anh còn là một chú bé nhỏ tuổi lang thang trên các nẻo đường thảo nguyên. Có lẽ chính khi ấy, tâm hồn anh đã thai nghén ra những bài ca quê hương chăng? Hay có lẽ những bài ca ấy đã ra đời khi anh băng qua những dặm đường khói lửa của chiến tranh?

Nghe Đaniyar, tôi muốn sà xuống đất ôm ghì lấy nó như đứa con ôm hôn mẹ, chỉ vì một lẽ cõi đất đã có thể làm cho con người yêu nó đến thế. Khi ấy lần đầu tiên tôi thấy trong tôi bừng thức dậy một cái gì mới mẻ mà tôi không biết gọi là gì, nhưng đó là một cái gì không thể cưỡng lại nổi, là nhu cầu bộc lộ tâm tình. Phải, bộc lộ, không phải chỉ là chính mình nhìn thấy và cảm nhận thế giới, mà còn phải làm cho người khác nhìn thấy cái mình nhìn, truyền cho họ những ý nghĩ và cảm giác của mình, kể với mọi người về vẻ đẹp của đất nước như Đaniyar đã làm với tình cảm thắm thiết nồng hậu. Tôi lặng người đi, bất giác cảm thấy sợ hãi và vui sướng trước cái gì chưa từng biết. Nhưng hồi ấy tôi vẫn chưa hiểu rằng tôi cần cầm lấy bút vẽ.

Tôi thích vẽ từ bé. Tôi thường vẽ lại những bức tranh nhỏ trong sách giáo khoa, và bạn bè vẫn bảo tôi vẽ “giống hệt”. Ở trường các thầy cũng khen tôi mỗi khi tôi đưa tranh của tôi lên báo tường. Nhưng rồi chiến tranh xảy đến, các anh tôi đi bộ đội, tôi bỏ học và đi làm ở nông trang cũng như tất cả các bạn cùng lứa tuổi. Tôi đã quên cả bột mầu cùng bút vẽ và không hề nghĩ rằng rồi đây sẽ có lúc tôi lại nhớ đến những thứ ấy. Nhưng tiếng hát của Đaniyar đã làm tâm hồn tôi xao xuyến. Tôi như sống trong chiêm bao, tôi nhìn thế giới bằng con mắt ngạc nhiên như thể cái gì cũng mới thấy lần đầu.

Còn chị Giamilia đột nhiên thay đổi mới lạ làm sao! Dường như chị chưa bao giờ là cô gái hay cười, hoạt bát, hay trêu chọc. Nỗi buồn tươi sáng của mùa xuân vương vấn trên đôi mắt thẫn thờ kia. Dọc đường chị luôn luôn mải mê nghĩ ngợi điều gì. Nụ cười mơ màng, khắc khoải phảng phất trên môi chị, chị thầm lặng vui sướng chuyện gì không rõ, điều đó chỉ riêng mình chị biết. Đôi khi, vác tải lên vai, chị cứ đứng ngây ra, rụt rè đến khó hiểu, dường như trước mặt chị là một thác nước cuồn cuộn và chị không biết có nên đi tiếp hay không. Chị tránh mặt Đaniyar, không nhìn vào mắt anh.

Có lần, ở sân đập, Giamilia nói với Đaniyar, giọng cố làm làm ra vẻ bực bội nhưng vẫn yếu đuối:

- Này, cởi chiếc áo va-rơi ra đi. Đưa tôi giặt cho.

Rồi, giặt xong chiếc áo ở sông, chị trải ra phơi và ngồi cạnh đấy, lấy tay vuốt tấm áo hồi lâu cho phẳng, cẩn thận từng li từng tí, soi đôi vai áo đã mòn ra nắng, lắc đầu, rồi lại bắt đầu vuốt tấm áo, lặng lẽ buồn rầu.

Suốt trong thời gian ấy, chỉ có một lần chị Giamilia cười vang, tiếng cười dễ lôi cuốn của chị, và mắt chị lại ngời sáng như trước. Một đám đông ồn ào tạt vào sân đập, đấy là những thiếu phụ, những cô gái và những chàng gighit đã phục viên vừa ở cánh đồng linh lăng về.

- Này, các cô ả, không phải chỉ các cô mới có quyền ăn bánh mì tiểu mạch đâu nhé, đem ra thết chúng anh đi, không thì chúng anh quăng các cô xuống sông bây giờ! - Các chàng gighit vờ giơ chàng nạng lên dọa.

- Đừng có hòng giơ chàng nạng ra dọa chúng tôi! Bạn gái với nhau thì chúng tôi sẽ có món ngon thết đãi ngay, còn các anh thì xin tự kiếm lấy mà ăn! - Giamilia lanh lảnh đáp lại.

- A, đã thế thì cho tất cả các ả xuống thăm thủy cung!

Thế là các cô gái và các chàng trai xô vào túm lấy nhau. Họ la hét, kêu ré, cười đùa xô đẩy nhau xuống nước.

- Túm lấy, lôi đi! - Giamilia cười to hơn hết thảy nhanh nhẹn và khéo léo lẩn tránh những người xấn đến bắt mình.

Nhưng lạ một điều là các chàng gighit dường như chỉ thấy có một mình Giamilia. Anh nào cũng cố túm cho bằng được chị để ôm ghì lấy. Rồi ba chàng trai cũng vồ được chị và khiêng ra bờ sông.

- Hôn đi, không thì cho ùm xuống sông!

- Nào, lăng lấy đà đi!

Giamilia khéo léo thoát ra được, chị ngửa mặt cười to, vừa cười vừa gọi các bạn gái đến cứu. Nhưng các cô bạn cũng đang nháo nhào chạy trên trên bờ sông, vừa chạy vừa lượm những chiếc khăn choàng rơi xuống nước. Giamilia bay xuống sông giữa tiếng cười rộ của các chàng gighit. Chị lóp ngóp bò lên, tóc ướt đẫm xõa tung, nhưng lại càng đẹp hơn trước. Chiếc áo dài vải hoa ướt dính sát vào người, làm lẳn lên bộ đùi tròn trĩnh khỏe mạnh, đôi vú gái tơ rắn chắc, còn chị chẳng để ý gì hết, vẫn cười nghiêng ngả, và nước chảy ròng ròng vui vẻ trên khuôn mặt bừng bừng của chị.

- Hôn đi! - các chàng gighit nài ép.

Giamilia hôn họ, nhưng rồi lại bay xuống nước và lại cười, hất đầu hắt những mớ tóc ướt dính nặng ra phía sau.

Mọi người trên sân đập đều cười vui trước trò tinh nghịch của lớp trẻ. Các cụ già quạt thóc cũng buông xẻng xuống, lau những giọt nước mắt ứa ra, những nếp răn trên khuôn mặt nâu sạm của các cụ ngời lên niềm vui sướng khiến các cụ trẻ hẳn lại trong giây lát. Còn tôi cũng cười thật lòng, lần này tôi quên bẵng mất bổn phận của mình là phải sốt sắng bảo vệ chị Giamilia không cho các chàng gighit chòng ghẹo.

Chỉ riêng Đaniyar là không cười. Tình cờ tôi nhìn thấy anh và tôi im bặt. Anh đứng một mình ở cuối sân, hai chân choãi ra. Tôi có cảm giác như anh sắp lao vọt tới, giằng giật chị Giamilia khỏi tay các chàng gighit. Anh nhìn chị không dứt, cái nhìn buồn rầu, đắm đuối, trong đó niềm vui lẫn với nỗi đau đớn. Đúng, cả hạnh phúc cũng như nỗi đau khổ của anh đều do sắc đẹp của chị Giamilia mà ra. Khi các chàng gighit ôm ghì lấy chị, bắt chị hôn từng anh một thì Đaniyar cúi đầu xuống, dáng bộ như chực bỏ đi, nhưng vẫn không đi.

Lúc đó, chị Giamilia cũng nhận thấy anh. Lập tức chị không cười nữa và cúi gằm mắt xuống.

- Thôi, đú đởn thế đủ rồi! - đột nhiên, chị đẩy phắt những chàng gighit chớt nhả ra.

Có anh chàng lại toan ôm lấy chị.

- Thôi đi chứ! - chị xô anh chàng ra, ngẩng đầu lên, đưa mắt nhìn về phía Đaniyar một thoáng cái nhìn ngượng ngùng như biết lỗi, rồi chị chạy vào bụi cây vắt nước cho khô áo.

Tôi vẫn chưa hiểu rõ quan hệ giữa hai người, và thú thật là tôi không dám nghĩ đến chuyện ấy. Nhưng không hiểu sao tôi áy náy trong lòng khi thấy chị Giamilia buồn rầu vì bây giờ chính chị lại tránh mặt Đaniyar. Chẳng thà chị cứ vui cười và trêu chọc Đaniyar như trước còn hơn. Nhưng đêm đêm, khi chúng tôi trở về bản và nghe tiếng hát của Đaniyar, tôi lại cảm thấy vui mừng cho hai người, niềm vui không thể nói rõ duyên cớ vì sao.

Lúc đi trong hẽm núi, chị Giamilia ngồi xe, nhưng ra đến thảo nguyên thì chị xuống đi bộ. Tôi cũng xuống đi bộ, đi bộ nghe hát thú vị hơn. Thoạt đầu chúng tôi người nào đi cạnh xe người ấy, nhưng dần dà chúng tôi đi lại gần xe Đaniyar lúc nào không biết. Một sức mạnh bí ẩn nào không rõ lôi cuốn chúng tôi đến với anh, chúng tôi muốn nhìn cho rõ vẻ mặt và ánh mắt anh trong bóng tối. Người đang hát là anh đấy chăng, anh chàng Đaniyar ưa lẻ loi, lúc nào cũng càu quạu ấy!

Lần nào tôi cũng thấy Giamilia bàng hoàng xúc động, từ từ chìa tay ra cho anh, nhưng anh không nhìn thấy, mắt anh nhìn tận đâu đâu ở trên cao, nơi xa xăm, gáy tựa vào lòng bàn tay, người lắc lư, còn tay Giamilia mềm nhũn rơi thõng xuống thành xe. Thế là chị giật mình, rụt phắt tay lại và dừng bước. Chị đứng giữa đường, ủ rũ, ngơ ngác, nhìn theo anh hồi lâu, rồi lại đi tiếp.

Đôi khi tôi có cảm giác rằng tôi với chị Giamilia cùng chung một nỗi khắc khoải khó hiểu. Có lẽ tình cảm ấy đã nương náu trong tâm hồn chúng tôi từ lâu và bây giờ đã đến ngày nó bộc lộ ra chăng?

Lúc làm việc, chị Giamilia vẫn còn hăng say mải miết, nhưng những phút nghỉ hiếm hoi, khi chúng tôi dừng lại ở sân đập, chị đứng ngồi không yên. Chị đi vơ vẩn đến chỗ những người quạt thóc, tự nguyện giúp họ một tay xúc mấy xẻng thóc, hất cao và mạnh, tung ra trước gió, rồi đột nhiên chị bỏ chiếc xẻng xuống, đi đến chỗ mấy đống rơm. Ở đây chị chọn một chỗ mát ngồi nghỉ, và dường như sợ cảnh cô đơn, chị gọi tôi:

- Lại đây, kichinê bala, lại đây ngồi với chị!

Tôi vẫn mong chờ chị nói với tôi điều gì quan trọng, giải thích cho tôi rõ cái gì làm xáo động tâm hồn chị. Nhưng chị không nói gì cả. Chị lặng lẽ đặt đầu tôi lên gối chị, mắt nhìn tận đâu đâu, chị xoa ngược mái tóc rễ tre của tôi và những ngón tay nóng hổi run run của chị dịu dàng ve vuốt mặt tôi. Tôi ngước mắt lên ngắm nhìn khuôn mặt xao xuyến bồn chồn, và tưởng chừng như nhìn thấy chính mình. Chị cũng đang bị dày vò bởi một nỗi niềm chi đó, một cái gì đang tích tụ và chín mọng trong tâm hồn chị, đòi một lối thoát. Chị sợ cái đó. Chị khổ tâm, vừa muốn lại vừa không muốn thú thật với lòng ràng chị đã yêu say đắm, cũng như tôi vừa muốn lại vừa không muốn chị yêu Đaniyar. Bởi vì dù sao chị cũng là con dâu của bố mẹ tôi, là vợ của anh tôi!

Nhưng những ý nghĩ như vậy chỉ len vào óc tôi trong giây lát. Tôi xua đuổi nó đi ngay. Đối với tôi lúc ấy không gì vui thú hơn là được nhìn thấy đôi môi dễ rung cảm hé mở một cách ngây thơ của chị, được nhìn thấy đôi mắt mờ lệ của chị. Chị xinh đẹp biết bao, gương mặt chị ánh lên niềm cảm hứng và say mê trong sáng biết bao! Hồi ấy tôi nhìn thấy tất cả những cái đó nhưng không hiểu hết. Ngay bây giờ tôi cũng thường tự hỏi: có lẽ tình yêu là một cảm hứng cũng như cảm hứng của họa sĩ hay của nhà thơ chăng? Nhìn chị Giamilia, tôi muốn chạy ra thảo nguyên, hét vang lên hỏi đất xem tôi phải làm gì, làm cách nào chế ngự được nỗi xao xuyến khó hiểu ấy, niềm vui sướng khó hiểu ấy. Rồi một hôm, hình như tôi đã tìm ra câu trả lời.

Như mọi lần, chúng tôi đánh xe từ ga về. Đêm đã xuống, sao chi chít từng đám trên trời, thảo nguyên thiu thiu ngủ, chỉ có tiếng hát của Đaniyar phá tan sự yên tĩnh, ngân vang và tắt lặng dần trong bóng tối xa xăm mịn màng. Tôi và chị Giamilia đi bộ theo sau anh.

Nhưng lần này có chuyện gì xảy đến với Đaniyar vậy? Điệu hát của anh chứa chan một nỗi buồn êm dịu, thấm thía, một cảm giác cô đơn đến nỗi người nghe nghẹn ngào thương cảm muốn ứa nước mắt.

Chị Giamilia bước đi, đầu cúi thấp tay bám chặt lấy thành xe. Khi tiếng hát của Đaniyar lại vút cao, chị ngẩng đầu lên, nhảy lên xe ngồi cạnh Đaniyar. Chị ngồi như hóa đá, tay khoanh trước ngực. Tôi đi bên cạnh, hơi vượt lên trước một chút và liếc nhìn hai người. Đaniyar vẫn hát, dường như không để ý thấy chị Giamilia ngồi cạnh mình. Tôi thấy hai tay chị Giamilia thẫn thờ buông xuống, và chị áp sát vào Đaniyar, ngả nhẹ đầu lên vai anh. Chỉ một thoáng, như sự đổi nhịp phóng của con ngựa bị quất roi, giọng anh giật nảy lên và lại vang dội với sức mạnh mới. Anh hát về tình yêu!

Tôi bàng hoàng sửng sốt. Thảo nguyên như tưng bừng nở hoa, rung rinh, đẩy lùi bóng tối, và trong thảo nguyên mênh mông ấy tôi thấy cặp tình nhân say mê. Hai người không để ý đến tôi, dường như không có tôi ở đây. Tôi vừa đi vừa nhìn họ: họ quên hết mọi sự đời, cùng nhau lắc lư theo điệu hát. Và tôi không nhận ra họ. Vẫn chỉ là Đaniyar ấy với tấm áo lính đã cũ sờn không cài khuy, nhưng mắt anh hình như cháy rực trong bóng tối. Đây vẫn là chị Giamilia của tôi ngồi áp sát vào Đaniyar, nhưng sao mà trầm lặng và bẽn lẽn, hai hàng mi long lanh giọt lệ. Đấy là những con người mới, vô cùng hạnh phúc. Đó chẳng phải là hạnh phúc sao? Tất cả điệu nhạc đầy cảm hứng ấy, Đaniyar hoàn toàn dâng tặng chị, anh hát là vì chị, anh hát về chị.

Lòng tôi lại xốn xang một nỗi niềm khó hiểu vẫn đến với tôi mỗi khi Đaniyar hát. Bỗng nhiên tôi hiểu rõ tôi muốn gì. Tôi muốn vẽ hai người.

Tôi sợ hãi chính những ý nghĩ của tôi. Nhưng niềm mong muốn mạnh hơn nỗi sợ. Tôi sẽ vẽ hai người đúng như thế, hai con người hạnh phúc. Phải, vẽ họ đúng như lúc này! Nhưng liệu tôi có làm nổi không? Tôi cảm thấy nghẹn thở vì sợ hãi và vui sướng. Tôi bước đi trong trạng thái mê man ngây ngất dịu ngọt. Tôi cũng cảm thấy tràn trề hạnh phúc, bởi vì tôi vẫn chưa biết ước muốn táo bạo ấy rồi đây sẽ gây cho tôi bao nhiêu khó khăn. Tôi tự nhủ lòng: cần biết nhìn cõi thế gian như Đaniyar nhìn thấy nó, tôi sẽ dùng màu kể lại bài ca của Đaniyar, trong bức vẽ của tôi sẽ có núi đồi, thảo nguyên, người, cây cỏ, mây trời và sông nước. Thậm chí lúc ấy tôi nghĩ: “Nhưng ta sẽ lấy màu ở đâu? Nhà trường không cho màu vẽ đâu: chính trường cũng đang cần!” Dường như mọi chuyện chung quy lại chỉ tùy thuộc vào màu vẽ thôi.

Tiếng hát của Đaniyar đột nhiên ngừng bặt. Ấy là vì chị Giamilia bồng bột ôm ghì lấy anh, nhưng rồi chị buông ra ngay, lặng người đi giây lát, nhoai người nhảy xuống xe. Đaniyar lưỡng lự ghì dây cương, mấy con ngựa dừng lại. Chị Giamilia đứng trên đường, quay lưng về phía anh, đột nhiên chị ngẩng phắt đầu lên, hơi xoay mặt lại nhìn anh, và cố cầm nước mắt, thốt lên:

- Ơ kìa, anh nhìn gì mà nhìn gớm thế? - chị im lặng một lát, rồi nghiêm giọng nói thêm. - Đừng nhìn tôi như thế, cho xe đi đi! - Và chị đi về xe của mình. - Còn chú nữa, sao chú cứ trân mắt ra nhìn như vậy? - Chị quặc cả tôi. - Ngồi xuống, cầm lấy dây cương đi! Tôi thật đến khổ với các người!

“Sao bỗng dưng chị ấy lại thế nhỉ?” - tôi băn khoăn giục ngựa đi. Nhưng kể cũng dễ đoán ra thôi: chị đang lâm vào cảnh khó xử, bởi vì chị đã có chồng, đang nằm điều trị ở một quân y viện tại Xaratốp. Nhưng tôi tuyệt nhiên chẳng muốn nghĩ ngợi gì hết. Tôi giận chị và giận chính mình và có lẽ tôi sẽ oán ghét chị Giamilia nếu tôi biết rằng Đaniyar sẽ thôi không hát nữa, tôi sẽ không bao giờ còn được nghe giọng hát của anh.

Tôi mệt chết người, toàn thân rời rã, và chỉ muốn mau mau về đến nhà để nằm lăn ra ổ rơm. Mấy con ngựa đi nước kiệu, lưng nhấp nhô trong bóng tối, xe xóc không thể chịu nổi, dây cương cứ tuột khỏi tay.

Về đến sân đập, tôi tháo quàng mấy chiếc vòng cổ ngựa, ném xuống gầm xe, lê được đến ổ rơm và nằm vật xuống. Lần này Đaniyar đưa ngựa ra bãi cho ăn cỏ.

Nhưng sáng ra, khi thức giấc, tôi cảm thấy vui sướng trong lòng. Tôi sẽ vẽ Giamilia và Đaniyar! Tôi lim dim mắt, hình dung rõ mồn một Đaniyar và Giamilia đúng như trong bức vẽ sắp tới của tôi. Dường như chỉ việc cầm lấy bút, thuốc màu và vẽ là xong ngay.

Tôi chạy ra sông, tắm rửa rồi chạy lại chỗ thả mấy con ngựa. Cỏ linh lăng ướt đẫm lành lạnh quất tanh tách vào đôi chân trần, đâm đau nhói vào hai bàn chân nứt nẻ, nhưng tôi vẫn cảm thấy thích thú. Tôi vừa chạy vừa quan sát mọi diễn biến xung quanh. Mặt trời vươn mình nhô lên sau dãy núi, cây hướng dương mọc hoang trên bờ kênh vươn về phía mặt trời. Đám cúc thỉ xa đầu trắng hau háu xúm xít vây lấy nó, nhưng nó không chịu thua: nó thè ra những chiếc lưỡi vàng, đón lấy những tia sáng ban mai, cho bầu quả nang chặt cứng hạt uống no ánh sáng. Kia là lối qua mương, mặt đất nát nhừ vì xe cộ qua lại, nhiều nước rỉ qua những vệt bánh xe.

Kia là đám cây bạc hà thơm thơm mọc cao ngang tầm thắt lưng, nom như một hòn đảo nhỏ mầu tím nhạt. Tôi chạy trên mảnh đất quê hương, trên đầu tôi chim én thi nhau lao vun vút. Chao ôi, nếu tôi có màu vẽ thì tuyệt quá, tôi sẽ vẽ cả vầng mặt trời buổi sáng này, cả dãy núi xanh điểm những vệt trắng kia. Cả cánh đồng cỏ linh lăng long lanh sương sớm này, cả cây hướng dương mọc hoang bên bờ kênh kia!

Khi tôi trở lại sân đập, niềm hân hoan rạng rỡ trong lòng tôi tắt ngấm, rồi thấy chị Giamilia cau có, gầy rộc đi. Chắc đêm qua chị không ngủ: hai mắt chị thâm quầng. Chị không mỉm cười với tôi và không hỏi han gì cả. Nhưng khi bác đội trưởng Ôrôzơmát đến, chị tới gặp bác và không chào hỏi gì hết, nói luôn:

- Xe của ông, ông lấy lại đi! Ông muốn điều tôi đi làm ở đâu cũng được, nhưng đánh xe ra ga thì tôi không đi nữa đâu!

- Kìa sao thế, Giamilia, con ruồi nào nó đốt cháu đấy?* - Ôrôzơmát ngạc nhiên, hỏi bằng giọng hiền hậu.

- Ruồi bâu ở dưới đuôi bê ấy! Đừng có mà cật vấn tôi! Tôi bảo là tôi không muốn đánh xe ra ga nữa, có thế thôi!

Nụ cười biến mất trên gương mặt Ôrôzơmát.

- Muốn hay không thì cô cứ phải chở thóc ra ga! - Ông dộng chiếc nạng xuống đất. - Nếu có đứa nào chòng ghẹo cháu thì cứ báo bác, bác sẽ quật chiếc nạng vào cổ nó cho kì đến gãy nạng thì thôi! Không thì đừng có giở chứng: đây là cô chở bánh mì cho bộ đội, trong đó có cả chồng cô! - Nói rồi bác quay ngoắt đi, tập tễnh chong nạng bỏ đi.

Chị Giamilia bối rối, đỏ bừng mặt, đưa mắt nhìn về phía Đaniyar và khẽ thở dài. Đaniyar đứng cách đấy một quãng, quay lưng về phía chị, giật mạnh sợi dây da vòng cổ ngựa, xiết cho chặt lại. Anh nghe thấy hết những gì hai người nói với nhau. Chị Giamilia còn đứng ở đây một lát, tay vớ vấy chiếc roi, rồi chị phẩy tay một cách thất vọng và trở về xe briska của mình.

Hôm ấy chúng tôi ra về sớm hơn thường lệ. Suốt dọc đường Đaniyar cứ giục ngựa đi thật mau. Chị Giamilia thì ủ rũ và lặng lẽ. Còn tôi, tôi không sao tin được trước mặt tôi lại là thảo nguyên cháy đen thui. Mới hôm qua còn khác hẳn. Cứ như thể tôi vừa được nghe kể câu chuyện cổ tích và bức tranh hạnh phúc làm xao động tâm trí tôi vẫn còn lởn vởn trong đầu óc. Dường như tôi đã chụp được một mẩu chói lọi nhất của cuộc sống. Tôi hình dung rõ từng nét tỉ mỉ, chỉ riêng điều đó cũng đủ làm tôi bồi hồi. Tôi không sao yên lòng được, mãi cho đến khi đánh cắp được một tờ giấy trắng dầy cộp của chị cân thóc tôi mới bình tâm lại. Tôi chạy ra sau đống rơm, tim đập thình thịch, kê tờ giấy lên tấm bàn xúc bằng gỗ bào nhẵn đã đánh thó được của mấy người quạt thóc ở dọc đường.

- Cầu xin thánh Anla ban phước lành! - tôi lẩm bẩm như hồi xưa lần đầu tiên cha tôi đặt tôi lên mình ngựa, và tôi chằm đầu bút chì xuống giấy. Đây là những nét vẽ đầu tiên, còn vụng về. Nhưng khi những đường nét phác họa hình ảnh Đaniyar đã vạch ra trên giấy, tôi quên hết mọi thứ trên đời! Tôi đã mường tượng thấy cảnh thảo nguyên tháng Tám đêm ấy hiển hiện trên giấy, tôi tưởng như nghe thấy tiếng hát của Đaniyar và nhìn thấy chính anh, đầu ngửa ra sau, ngực phanh trần, và tôi nhìn thấy chị Giamilia nép đầu vào vai anh. Đây là bức họa đầu tiên tôi vẽ theo ý mình: này là chiếc xe briska và cả hai người, dây cương bỏ thõng xuống tấm chắn phía trước, lưng mấy con ngựa nhấp nhô trong bóng tối, xa hơn nữa là thảo nguyên, những ngôi sao xa xăm.

Tôi vẽ say sưa đến nỗi không để ý gì đến xung quanh, mãi tới lúc có tiếng ai gọi trên đầu tôi mới sực tỉnh.

- Chú làm sao thế, điếc rồi à?

Hóa ra là chị Giamilia. Tôi luống cuống, đỏ mặt và không kịp giấu bức vẽ.

- Xe đã chất xong hàng từ lâu, chúng tôi gọi chú suốt một giờ mà chẳng thấy đâu! Chú làm gì ở đây?.. Cái gì thế này? - chị hỏi và cầm lấy tờ giấy. - Hừ! - Chị nhún vai ra chiều bực tức.

Tôi chỉ muốn chui tụt xuống dưới đất. Chị Giamilia nhìn bức vẽ mãi không dứt, rồi chị ngước đôi mắt buồn rầu, loáng ướt lên nhìn tôi và khẽ nói:

- Cho chị cái này nhé, kichinê bala... Chị sẽ cất kỹ làm kỷ niệm... - Đoạn, chị gấp tờ giấy làm hai, nhét vào khoang ngực áo.

Xe chúng tôi đã ra đến đường cái mà tôi vẫn chưa bình tâm lại được. Mọi việc diễn ra như trong giấc chiêm bao. Tôi không thể tin rằng tôi đã vẽ được một hình ảnh giống như những gì tôi đã nhìn thấy. Nhưng đâu đó trong đáy lòng tôi đã dấy lên một niềm hoan hỉ thơ ngây, thậm chí là tự hào, và những mơ ước mỗi lúc một táo bạo hơn, mỗi lúc một quyến rũ hơn, khiến tôi choáng váng đầu óc. Tôi còn muốn vẽ vô vàn bức tranh khác nữa, nhưng không phải bằng bút chì, mà bằng thuốc màu kia. Tôi không để ý rằng xe chúng tôi đã chạy rất nhanh. Ấy là vì Đaniyar ra sức giục ngựa. Giamilia không chịu thua kém. Chị nhìn đó đây, đôi lúc mỉm cười cái gì không rõ, nụ cười cảm động và thẹn thùng như biết mình có lỗi. Tôi cũng mỉm cười: thế là chị không còn giận tôi và Đaniyar nữa, và nếu chị nài thì hôm nay anh sẽ hát...

Lần này chúng tôi đến ga sớm hơn mọi bận nhiều, nhưng ngựa thì đẫm mồ hôi trắng như bọt xà phòng. Xe chưa dừng hẳn, Đaniyar đã bắt đầu xốc bao tải lên vai. Anh vội vã như vậy làm gì, có điều gì mới lạ đã đến với anh, thực khó mà hiểu được. Khi những đoàn xe lửa ầm ầm phóng qua, anh dừng lại, nhìn theo hồi lâu bằng con mắt đăm chiêu. Giamilia cũng dõi theo hướng mắt, như cố đoán xem anh đang nghĩ ngợi gì.

- Anh lại đây hộ tôi với, có một miếng sắt móng ngựa gần như sắp long, giúp tôi dứt hẳn nó ra, - chị gọi Đaniyar.

Khi Đaniyar kẹp móng ngựa giữa hai đầu gối, dứt hẳn được miếng sắt ra rồi đứng thẳng dậy, Giamilia nhìn thẳng vào mắt anh, nói khẽ:

- Sao anh lại thế nhỉ, chẳng lẽ anh không hiểu ư?.. Trên đời này phải chăng chỉ có mình tôi?

Đaniyar lẳng lặng nhìn đi nơi khác.

- Anh tưởng tôi thì dễ xử ư? - Giamilia thở dài.

Đôi lông mày Đaniyar xếch lên như đôi cánh xòe ra, anh nhìn chị, cái nhìn yêu đương và buồn rầu, nói với chị câu gì, nhưng nói nhỏ quá tôi không nghe rõ. Rồi anh rảo bước về xe của mình, thậm chỉ có vẻ hài lòng, không rõ duyên cớ vì sao. Anh vừa đi vừa vuốt ve miếng sắt. Tôi nhìn anh và băn khoăn: câu nói của chị Giamilia có gì đáng cho anh hởi dạ như thế? Có gì đáng hởi lòng hởi dạ khi một người thở dài nặng nề nói với anh: “Anh tưởng tôi thì dễ xử ư?”..

Chúng tôi đã bốc dỡ thóc xong xuôi và sắp ra về thì có một thương binh vào sân, người này gầy gò, mặc chiếc áo khoác lính nhàu nát, vai đeo túi hành lý. Mấy phút trước vừa có chuyến xe lửa đỗ ở ga. Người lính nhìn quanh quẩn rồi lớn tiếng hỏi:

- Ở đây có người nào ở bản Kurkurêu không?

- Tôi ở Kurkurêu đây! - tôi vừa trả lời vừa vắt óc nghĩ xem người này là ai.

- Thế chú là con nhà ai đấy nhỉ? - người lính định đi đến chỗ tôi thì chợt nhìn thấy chị Giamilia, anh mỉm cười ngạc nhiên, vui sướng.

- Kìa Kêrim, anh đấy ư? - chị Giamilia reo lên.

- Ồ, cô Giamilia! - anh lính chạy bổ tới, hai tay nắm chặt lấy tay chị Giamilia.

Thì ra đây là một người cùng làng với chị.

- Thật là may quá! Cứ như thể đã biết trước tôi mới tạt vào đây! - anh lính nói, giọng hào hứng. - Chả là tôi vừa ở chỗ Xađức về đây, chúng tôi cùng nằm một một quân y viện mà. Ơn trời, chỉ một vài tháng nữa anh ấy sẽ về thôi. Lúc chia tay, tôi bảo anh ấy: viết thư cho vợ cậu đi, tớ sẽ mang về cho... Đây, trao tận tay nhé, nguyên vẹn, không suy xuyển gì. - Kêrim đưa cho chị Giamilia lá thư gấp hình tam giác.

Chị Giamilia hấp tấp cầm lấy lá thư, mặt đỏ lên rồi tái nhợt đi, và dè dặt liếc nhìn Đaniyar. Anh đứng một mình cạnh xe briska hai chân choãi rộng như lần ấy ở sân đập, đôi mắt tuyệt vọng nhìn Giamilia.

Lập tức, người từ bốn phía đổ xô đến, trong số đó có cả những người quen và bà con thân thích của anh lính, người ta xúm lại hỏi han dồn dập. Giamilia chưa kịp cám ơn anh mang giúp lá thư thì chiếc xe của Đaniyar đã ầm ầm phóng qua, lồng lộn ra khỏi sân ga, nhẩy chồm chồm trên các ổ gà, tung bụi mù mịt trên đường.

- Gã kia hóa rồ rồi chắc! - người la thét với theo.

Anh lính đã bị lôi đi đâu không rõ, còn tôi với chị Giamilia vẫn đứng ở giữa sân nhìn những cột bụi bốc lên mỗi lúc một xa dần.

- Chị em ta đi thôi, giênê, - tôi nói.

- Chú cứ về đi, mặc chị! - chị đáp bằng giọng chua xót.

Thế là lần đầu tiên trong suốt thời gian ấy, chúng tôi đánh xe đi riêng rẽ từng người. Khí nóng ngột ngạt làm cho môi đã khô sẽ càng đau rát như phải bỏng. Đất nứt nẻ, bị thiêu đốt đến nóng trắng trong ngày, giờ đây dường như đã nguội đi, nom như phủ một lớp muối trắng xám. Trong khung cảnh mờ ảo màu muối trắng ấy lung linh một vầng mặt trời hoàng hôn chập chờn, không có hình thù rõ rệt. Phía trên đường chân trời nhạt nhòa, những đám mây bão màu đỏ da cam đang tụ lại, gió khô ào tới từng cơn, kết thành bọt trắng xóa trên mõm ngựa, khó nhọc lật ngược những cỗ bờm, rồi vùn vụt chuyển ra xa, đảo lộn tơi tả những cụm ngải trên các ngọn đồi.

“Trời sắp đổ mưa chắc?” - tôi nghĩ.