- 2 -
Không biết rồi câu chuyện sẽ kết thúc ra sao, nếu lúc ấy chú tôi, mình trần trùng trục, không trèo lên khỏi hố thóc. Chú thường bực mình không sao chịu được khi thấy vợ cứ nhúng vào những công việc không phải của mình, quên mất rằng trong nhà thì người chồng làm chủ. Chú tôi thường đánh đập thím ấy tàn nhẫn vì những tội như vậy. Và lần này cũng có thể thấy rõ rằng chú đã điên tiết lắm rồi.
- Thôi đi, đồ đàn bà! - chú vừa quát tháo vừa leo lên. - Bà làm chủ trong nhà này từ bao giờ đấy, bà bắt đầu chỉ huy từ bao giờ thế hả? Bớt ba hoa đi mà làm nhiều vào. Còn con ông Tastanbek kia, anh cứ đem con bé đi, muốn dạy nó học thì dạy muốn làm gì nó thì làm. Thôi cút đi!
- A, thế ra con bé sẽ đi lêu lổng ngoài trường học, còn công việc ở nhà thì ai làm cho? Để dồn cả cho tôi à? - thím tôi vừa hé miệng, chú tôi đã chặn ngay:
- Thôi, không lôi thôi gì nữa!
Chẳng có việc gì rủi mà lại không có một phần may. Chuyện tôi được đi học lần đầu là như thế đấy.
Từ hôm đó sáng nào thầy Đuysen cũng đến từng nhà để gọi chúng tôi.
Lần đầu tiên chúng tôi tới trường, thầy giáo xếp sắp cho chúng tôi ngồi trên các ổ rơm trải giữa sàn nhà rồi phát cho mỗi đứa một quyển vở nhỏ, một cái bút chì và một chiếc bảng con.
- Các em tỳ bảng lên đầu gối mà viết cho dễ, - thầy Đuysen giảng giái.
Rồi thầy chỉ lên bức chân dung của một người Nga dán trên vách nói:
- Đây là Lênin!
Suốt đời tôi vẫn nhớ bức chân dung ấy. Không hiểu tại sao về sau tôi không thấy nơi nào có bức đó nữa, và trong thâm tâm tôi vẫn thầm gọi nó là bức chân dung Lênin “của Đuysen”. Lênin trên bức ảnh mặc chiếc áo dài quân nhân hơi rộng, má gầy hóp, bộ râu cằm lởm chởm. Cánh tay bị thương của người treo băng trước ngực, đầu đội mũ lưỡi trai hơi hất ra sau, đôi mắt chăm chú của người nhìn xuống một cách điềm đạm. Cái nhìn dịu dàng làm ấm lòng người đó dường như nói với chúng tôi: “Các cháu ơi, giá các cháu biết một tương lai đẹp đẽ đến nhường nào đang chờ các cháu!” Trong phút yên lặng ấy tôi cảm thấy như Người quả đang nghĩ đến tương lai của tôi thật.
Bức chân dung in trên loại giấy áp-phích thường, những đường gấp đã sờn và mép giấy đã nát bươm, chứng tỏ rằng thầy Đuysen giữ bức ảnh đã lâu. Nhưng ngoài tấm chân dung ấy ra, trên bốn bức vách của lớp học không còn gì nữa.
Thầy Đuysen nói:
- Thầy sẽ dạy các em biết đọc, biết đếm, hướng dẫn các em viết chữ cái, chữ số. Thầy sẽ dạy các em tất cả những điều mà thầy biết...
Và quả nhiên thầy đã dạy chúng tôi tất cả những gì thầy biết, và trong khi dạy bảo chúng tôi, thầy đã tỏ ra kiên nhẫn lạ thường. Cúi xuống sát từng học sinh một, thầy chỉ bảo từ cách cầm bút chì, rồi về sau lại say sưa giảng cho chúng tôi những chữ khó.
Giờ đây nghĩ lại tôi không khỏi ngạc nhiên tự hỏi: làm thế nào người thanh niên biết không được bao nhiêu chữ nghĩa, khi đọc còn phải đánh vần một cách chật vật, trong tay không có lấy một quyển sách giáo khoa, ngay đến cả sách vỡ lòng cũng không có, mà lại dám đảm nhận một công việc thật là to lớn như vậy? Dạy những đứa trẻ mà từ đời ông, đời cụ bầy tộc tổ tiên đều không biết lấy một chữ cắn đôi có phải chuyện đùa đâu! Và tất nhiên Đuysen cũng không hề có một khái niệm cỏn con nào về chương trình, về phương pháp giảng dạy. Nói cho đúng hơn, Đuysen cũng không hề ngờ rằng trên đời có những thứ đó.
Đuysen đã đem hết năng lực dạy cho chúng tôi, biết được bao nhiêu, thầy dạy bấy nhiêu, dạy tất cả những gì thầy tự cho là cần thiết theo trực giác. Nhưng tôi tin chắc như đinh đóng cột rằng lòng nhiệt tình chân thành của thầy trong công việc dạy dỗ đã chẳng phí hoài.
Thầy Đuysen đã lập một chiến công mà không hề biết. Thật vậy, đó là một chiến công, bởi vì chính hồi đó, dưới mái trường này, hay nói cho đúng hơn dưới mái nhà tranh vách đất hở hoác đến nỗi ngồi trong lớp lúc nào cũng nhìn thấy những đỉnh núi tuyết phủ một thế giới mới, chưa bao giờ nghe nói đến, chưa bao giờ nhìn thấy, đã mở ra trước mắt chúng tôi, những đứa trẻ của xứ Kirghidi chưa hề bước chân ra khỏi làng.
Chính khi ấy chúng tôi được biết là thành phố Matxcơva, nơi Lênin đang sống, lớn hơn Aulieata rất nhiều, lớn hơn cả Taskent nữa, và trên mặt đất còn có những biển cả rộng hơn cả bình nguyên Talax, trên mặt hồ có những chiếc tàu thủy qua lại to như những quả núi. Chúng tôi còn được biết rằng dầu hỏa mà người ta mua ở chợ về là phải lấy từ dưới đất lên. Và chúng tôi đã tin tưởng chắc chắn rằng sau này, khi dân ta đã giàu có hơn, trường chúng tôi sẽ được đặt trong một tòa nhà lớn quét vôi trắng có những cửa sổ rộng, và các em học sinh sẽ có bàn ngồi học.
Chúng tôi mới biết qua loa vần chữ cái, còn chưa biết viết những chữ “mẹ”, “bố”, đã viết được chữ “Lênin” lên giấy. Vốn từ chính trị của chúng tôi gồm có những khái niệm như “địa chủ”, “cố nông”, “xô-viết”. Và, thầy Đuysen hứa một năm sau sẽ dạy chúng tôi viết từ “cách mạng”.
Nghe thầy Đuysen kể chuyện, chúng tôi ngỡ như mình đang cùng thầy đánh quân bạch vệ. Còn khi kể về Lênin, thầy bồi hồi xúc động như thể chính mắt thầy đã được thấy Người. Bây giờ thì tôi đã hiểu rằng nhiều điều thầy kể lại là những chuyện truyền khẩu đã hình thành trong dân gian về vị lãnh tụ vĩ đại, nhưng đối với chúng tôi, những người học trò của thầy Đuysen hồi ấy, thì đó là những sự thật hiển nhiên, như thể sữa bao giờ cũng trắng.
Có lần chúng tôi hỏi thầy một câu hoàn toàn không có ẩn ý gì bên trong cả:
- Thưa thầy, thầy vẫn thường được bắt tay Lênin chứ ạ?
Thầy buồn bã lắc đầu đáp:
- Không, các em ạ, thầy chưa được nhìn thấy Lênin bao giờ cả.
Thầy thở dài ân hận như người có lỗi – thầy thấy ngượng với chúng tôi.
Cứ cuối mỗi tháng thầy Đuysen lại lên huyện có việc. Thầy đi bộ và thường hai ba ngày sau mới về.
Trong những ngày đó, chúng tôi buồn lắm. Dù là anh ruột tôi, có lẽ tôi cũng chẳng nóng lòng mong ngóng như mong thầy Đuysen về trong những ngày ấy. Tôi lẻn trốn thím tôi chạy ra sau nhà và đứng hồi lâu nhìn về phía con đường cái chạy qua thảo nguyên: bao giờ bóng thầy Đuysen với chiếc đẫy vải sau lưng mới hiện ra, bao giờ tôi mới được thấy nụ cười ấm áp của thầy, bao giờ mới được nghe những lời lẽ vẫn đem lại cho chúng tôi những hiểu biết mới mẻ?
Trong số học sinh của thầy tôi là đứa lớn nhất. Có lẽ vì thế nên tôi học khá hơn những học sinh khác, mặc dù tôi vẫn nghĩ đó không phải là nguyên nhân duy nhất. Mỗi lời thầy giảng, mỗi chữ thầy viết - tất cả đối với tôi đều thiêng liêng. Và trên đời này tôi không hề biết có gì quan trọng hơn là hiểu cho được những điều thầy dạy. Tôi muốn gìn giữ quyển vở của thầy, cho nên tôi đã lấy mũi liềm tập viết những chữ cái ra đất, dùng than viết lên vách, lấy que viết trên mặt tuyết, trên bụi đường. Tôi cảm thấy trên đời này không có ai học rộng và thông minh hơn thầy Đuysen.
Tiết trời đã sắp sang đông.
Trước những trận mưa tuyết đầu mùa, mỗi khi đi học, chúng tôi phải lội qua một con suối lòng đá chảy róc rách dưới chân đồi. Nhưng về sau không thể nào lội qua được nữa, vì nước băng lạnh buốt cóng cả chân. Khổ nhất là những em nhỏ, thậm chí chúng phải phát khóc lên. Những lúc ấy, thầy Đuysen đã bế các em qua suối. Lưng thì cõng, tay thì bế, và cứ như thế thầy lần lượt đưa hết các em sang.
Giờ đây nhớ lại cảnh xưa, tôi thấy khó lòng mà tin được rằng tất cả những điều đó là có thực. Nhưng lúc bấy giờ, không biết vì ngu dốt hay vì nông nổi, người ta đã cười thầy Đuysen, nhất là bọn nhà giàu thường trú qua mùa đông ở trên núi và chỉ xuống làng khi cần xay thóc. Đã nhiều lần gặp chúng tôi ở chỗ lội qua suối, bọn họ, đầu đội mũ lông cáo màu đỏ, mình mặc những chiếc áo lông cừu quý, nghễu nghện trên lưng những con ngựa hung dữ no căng, giương mắt nhìn thầy Đuysen khi đi qua. Một tên trong bọn cười nấc lên và huých tay tên đi cạnh nói:
- Đứa thì cõng, đứa thì bế, trông đã hay chưa!
Và tên kia ghìm con ngựa đang thở phì phì, nói thêm:
- Ôi, thật đáng tiếc, sao mình không biết trước, lấy vợ lẽ là phải chọn người như thế!
Rồi chúng quất cho ngựa chạy làm nước và bùn bắn tung tóe lên chúng tôi, cười phá lên rồi đi khuất.
Sao lúc đó tôi muốn đuổi theo những con người ngu xuẩn ấy thế, muốn nắm lấy cương ngựa và quát thẳng vào những bộ mặt láo xược của họ: “Các người không được nói về thầy giáo của chúng tôi như thế! Các người ngu lắm, các người tồi lắm!”
Nhưng liệu có ai chịu nghe lời một con bé thơ dại như tôi? Và tôi chỉ còn biết nuốt những giọt lệ căm uất đang trào lên, nóng hổi. Còn thầy Đuysen thì dường như không để ý đến những lời lăng mạ đó, coi như không nghe thấy gì hết. Thường là thầy nghĩ ra một câu chuyện vui nào đó khiến lũ chúng tôi phá lên cười, quên mất mọi sự.
Thầy Đuysen có cố gắng bao nhiêu cũng vẫn chưa kiếm đủ gỗ để bắc một chiếc cầu nhỏ qua suối. Có lần ở trường về, sau khi đã đưa hết các em nhỏ sang, tôi cùng với thầy Đuysen dừng lại trên bờ suối. Chúng tôi quyết định lấy đá và những tảng đất cố đắp thành các ụ nhỏ trên lòng suối để bước qua cho khỏi bị ướt chân.
Thật ra thì bà con trong làng chỉ cần tập hợp lại và cùng nhau bắc qua suối đôi ba cây gỗ là trong nháy mắt đã có chiếc cầu cho các em đi học. Nhưng số là vì hồi ấy người ta vẫn còn u mê nên coi nhẹ việc học hành, và khá ra thì cũng chỉ cho thầy Đuysen là một người hết sức gàn dở không biết làm gì khác nên phải bày trò nhì nhằng với bọn trẻ con. Thích thì dạy, không thích nữa thì đuổi chúng về nhà hết. Bản thân họ bao giờ cũng đi ngựa chẳng cần đến cầu. Nhưng dù sao dân làng chúng tôi tất nhiên rồi cũng phải suy nghĩ vì đâu người thanh niên ấy, vốn chẳng thua kém gì ai, và cũng không ngu ngốc hơn những người khác, lại phải chịu khó, chịu thiệt, phải nghe những lời châm chọc, nhạo báng để dạy cho con cái họ học, mà lại dạy với một chí kiên trì hiếm có, với một quyết tâm phi thường như thế?
Hôm chúng tôi xếp đá qua dòng nước, tuyết đã phủ đầy trên mặt đất và nước buốt đến chết cóng đi được. Tôi không tưởng tượng được thầy Đuysen làm thế nào chịu nổi, vì thầy tôi đi chân không, làm không ngơi tay. Tôi chật vật đặt chân xuống suối, tưởng chừng như lòng suối rải đầy than hồng nóng bỏng. Bỗng dưng đến giữa suối tôi bị chuột rút ở chân, người co rúm lại. Tôi không thể kêu lên một tiếng, cũng không thể đứng thẳng lên được nữa, và từ từ ngã xuống nước. Đuysen lẳng tảng đá đi, nhảy ngay lại bên tôi, đỡ tôi lên tay, rồi bế tôi chạy lên bờ và lót chiếc áo choàng đặt tôi ngồi vào đây. Thầy hết xoa hai chân đã tím bầm, cứng đờ như gỗ của tôi, lại bóp chặt đôi tay lạnh cóng của tôi trong lòng bàn tay mình, rồi đưa lên miệng hà hơi ấm cho tôi.
Thầy Đuysen khẽ nói:
- Antưnai, em ngồi đây cho ấm, đừng xuống nữa. Một mình thầy làm cũng đủ...
Cuối cùng khi những chỗ đặt chân đã xếp xong, Đuysen vừa xỏ chân vào ủng, vừa nhìn nét mặt ỉu xìu, tái mét của tôi và mỉm cười hỏi:
- Thế nào, cô em giúp việc, đã đỡ rét chưa? Khoác cái áo choàng lên, thế... thế! - Thầy yên lặng một lát rồi hỏi: - Antưnai, lần ấy có phải em trút lại kigiắc ở trường không?
- Vâng ạ, - tôi đáp.
Thầy hơi nhếch mép mỉm cười, như thể tự nhủ: “Mình đoán đúng mà!”
Tôi còn nhớ lúc ấy máu dồn lên má tôi nóng ran: như vậy nghĩa là thầy đã biết và chưa quên một điều tưởng như nhỏ mọn ấy. Tôi sung sướng quá, lịm cả người đi, và Đuysen cũng hiểu niềm hân hoan của tôi.
- Dòng suối trong trẻo của thầy, - thầy âu yếm nhìn tôi nói, - em thông minh lắm... Ôi, ước gì thầy được gửi em ra thành phố lớn. Em còn sẽ khá hơn biết chừng nào!
Đuysen bước nhanh lên bờ.
Và giờ đây tôi mường tượng thấy thầy đang đứng trước mặt tôi, như lúc bấy giờ thầy đã đứng gần dòng suối đá đang réo lên ầm ầm, hai tay để sau gáy và đôi mắt sáng long lanh đăm đăm nhìn theo những đám mây trắng xa tít đang bị gió thổi cuốn qua các ngọn núi.
Thầy nghĩ gì khi ấy? Có thể thầy đang mơ tưởng cho tôi ra một thành phố lớn học thật chăng? Còn tôi, lúc bấy giờ cuộn tròn trong chiếc áo choàng của thầy Đuysen, tôi thầm nghĩ: “Ước gì thầy là anh ruột của tôi! Ước gì tôi được bá cổ thầy, nhắm nghiền mắt lại và thủ thỉ với thầy những lời đẹp đẽ nhất! Trời ơi, ước gì thầy Đuysen là anh ruột tôi!”
Chắc chắn tất cả đám học sinh chúng tôi đứa nào cũng yêu mến thầy vì tấm lòng nhân từ, vì những ý nghĩ tốt lành, vì những ước mơ của thầy về tương lai chúng tôi. Tuy chúng tôi còn bé, nhưng tôi nghĩ rằng lúc đó chúng tôi đều đã hiểu được những điều ấy. Còn có cái gì khác bắt chúng tôi ngày nào cũng đi xa, leo đồi lội suối, bạt hơi vì gió rét, chân ngập trong những cồn tuyết như vậy được nữa? Chúng tôi tự nguyện đến trường, không ai phải xua chúng tôi đến cả. Không ai có thể buộc chúng tôi phải chịu cóng trong căn nhà kho lạnh lẽo: tuy ngồi trong nhà, mà mỗi khi thở ra là hơi giá bám trắng xóa cả mặt mũi, tay chân, quần áo. Chúng tôi chỉ dám thay phiên nhau đứng sưởi cạnh lò, còn tất cả đành ngồi tại chỗ nghe thầy Đuysen giảng bài.
Vào một trong những ngày giá buốt ấy - tôi còn nhớ là khoảng cuối tháng Giêng, - Đuysen, vẫn như thường lệ, đến từng nhà tập hợp tất cả chúng tôi lại và dẫn tới trường. Thầy lặng lẽ bước đi, không nói một lời, vẻ nghiêm nghị, đôi lông mày nhíu lại như đôi cánh chim ưng, và nét mặt sắt lại như luyện bằng thép. Chưa bao giờ chúng tôi nom thấy thầy như vậy. Chúng tôi liếc nhìn thầy rồi cũng đều im lặng: chúng tôi cảm thấy có điều gì không lành.
Mỗi khi trên đường đi có những đống tuyết lớn là thầy Đuysen thường đi trước để mở đường, tôi đi theo sau thầy, rồi đến các bạn khác. Lần này cũng thế; ở chỗ chân gò đêm qua tuyết xuống nhiều nên Đuysen lại đi trước. Đôi khi chỉ cần nhìn vào lưng một người nào ta đã có thể đoán biết ngay được tâm trạng họ ra sao, có những cảm xúc gì đang diễn ra trong lòng họ. Lúc đó cũng vậy, có thể thấy rõ thầy Đuysen đang có điều gì đau buồn vô hạn. Đầu thầy cúi gầm xuống, hai chân lê đi một cách khó nhọc. Cho đến bây giờ tôi còn nhớ mãi cái cảnh khủng khiếp của những màu đen, màu trắng lần lượt tiếp theo nhau trước mắt tôi. Chúng tôi nối đuôi nhau leo lên đồi. Dưới chiếc áo choàng màu đen, lưng thầy Đuysen khom hẳn lại, và trên đỉnh dốc nhấp nhô những đống tuyết trắng trông như những cái bướu lạc đà, gió vẫn cuồn cuộn thổi hất tuyết từ các ụ đổ xuống. Và cao hơn nữa - trên bầu trời trắng nhờ nhờ lơ lửng một đám mây đen cô độc.
Khi chúng tôi tới trường, thầy Đuysen không nhóm lò sưởi.
Thầy nói:
- Các em đứng dậy!
Chúng tôi đứng dậy.
- Bỏ mũ xuống.
Chúng tôi ngoan ngoãn nghe theo, và thầy cũng bỏ chiếc mũ kỵ binh ở trên đầu xuống. Chúng tôi không hiểu tại sao phải làm như thế. Lúc đó thầy cất giọng khàn khàn nói đứt quãng:
- Lênin đã mất. Giờ đây trên khắp quả đất đang mặc niệm Người. Các em cũng hãy đứng tại chỗ và yên lặng. Các em hãy nhìn lên đây, nhìn bức chân dung này. Các em hãy ghi nhớ lấy ngày hôm nay.
Toàn trường chúng tôi lặng ngắt đi, tưởng chừng như đã bị vùi kín dưới tuyết. Có thể nghe thấy tiếng gió lùa qua các kẽ hở. Có thể nghe thấy cả tiếng những bông tuyết rơi nhè nhẹ xuống mái rơm.
Trong giờ phút ấy, trong khi tất cả các thành phố vốn nhộn nhịp đều đã lặng đi, trong khi những công xưởng vẫn làm rung chuyển cả đất đã im bặt tiếng máy, trong khi những đoàn tàu đang lăn bánh ầm ầm bỗng đứng lặng yên trên các đường sắt, trong khi toàn thế giới đang chìm sâu trong tang tóc, - trong giờ phút đau thương đó thầy trò chúng tôi, một bộ phận nhỏ bé của toàn dân, cũng đang nín thở, nghiêm trang đứng mặc niệm trong căn nhà kho lạnh giá không ai hề biết tới được gọi là trường học ấy, để vĩnh biệt Lênin, thầm cho mình là những kẻ thân thuộc nhất của Người và thương tiếc Người hơn ai hết. Còn Lênin của chúng tôi vẫn vận chiếc áo quân nhân hơi rộng với cánh tay bị thương treo ngang trên ngực, vẫn từ trên vách nhìn xuống chúng tôi, cái nhìn trong sáng vẫn như nói với chúng tôi: “Các cháu ơi, giá các cháu biết một tương lai đẹp đẽ nhường nào đang chờ các cháu!” Và tôi có cảm giác rằng trong giây phút yên lặng đó Người đang nghĩ về tương lai của tôi thật.
Sau đó thầy Đuysen đưa ống tay áo lên lau nước mắt và nói:
- Hôm nay thầy phải lên huyện. Thầy đi để gia nhập Đảng. Ba ngày nữa thầy sẽ về.
Đối với tôi ba ngày đó mãi mãi là những ngày nặng nề nhất trong những ngày đông tháng giá mà tôi phải chịu đựng. Dường như có những sức mạnh hùng vĩ nào của thiên nhiên đang muốn ra sức thay thế trên mặt đất con người vĩ đại vừa đi khỏi thế giới của chúng ta: gió không ngừng thổi réo lên từng cơn, bão tuyết cứ quay cuồng không ngớt, băng giá kêu lanh lảnh như tiếng sắt... Sức mạnh của thiên nhiên không sao yên được: nó lồng lộn, vật vã trên mặt đất, khóc than nức nở...
Làng tôi chìm lặng dưới chân những ngọn núi lờ mờ tối xẫm giữa các tầng mây mù bay là là sát đất. Những làn khói trắng nhỏ tỏa ra từ các ống khói ngoằn nghèo. Không một ai ló ra khỏi nhà. Hơn nữa lũ chó sói đói bỗng trở nên liều lĩnh. Ban ngày chúng trắng trợn hoành hành trên các ngả đường, tối đến chúng sục sạo ở ngay cạnh làng và suốt đêm cho tới sáng cứ tru lên đói khát, điên dại.
Không hiểu sao tôi cứ lo thay cho thầy của chúng tôi: không có áo lông, chỉ mặc phong phanh chiếc áo choàng bộ đội ấy thì thầy làm thế nào chịu được cơn rét này? Và đến ngày Đuysen phải về, tâm can tôi cứ như lửa đốt: lòng tôi đã cảm thấy có điều gì chẳng lành. Chốc chốc tôi lại chạy ra sân, nhìn ra cánh thảo nguyên vắng vẻ phủ đầy tuyết trắng xem thầy giáo có xuất hiện trên đường cái không. Nhưng vẫn không có lấy một bóng người.
“Thầy ơi, thầy ở đâu? Em van thầy, thầy đừng về khuya đấy, về nhanh lên thầy! Chúng em đang đợi thầy đấy, thầy có nghe thấy không? Chúng em đang mong ngóng thầy về!” Nhưng vẫn không có lấy một bóng người.
Nhưng thảo nguyên không hề đáp lại tiếng gọi thầm lặng của tôi, và không hiểu sao tôi òa lên khóc nức nở.
Thím tôi đã phải bực mình vì tôi cứ ra vào mãi. Rồi thím giơ ngón tay lên đe tôi:
- Hôm nay mày có để cho cái cửa được yên không nào. Ngồi ngay vào một chỗ, cầm lấy ống sợi mà quay. Mày làm cho mấy đứa trẻ chết cóng lên rồi đấy. Có giỏi cứ nhảy ra ngoài một lần nữa tao xem nào! - và thím không cho tôi ra khỏi nhà nữa.
Trời đã tối xẩm, thế là tôi không được biết thầy đã về hay chưa. Vì thế tôi không thể nào ngồi yên được. Khi thì tôi tự an ủi rằng Đuysen chắc đã về đến làng rồi - vì chưa lần nào thầy trở về lỡ hẹn cả. Khi thì tôi lại chợt nghĩ hay thầy bị ốm nên phải đi chậm, hễ trời nổi cơn bão tuyết lên là đêm hôm thế này chẳng may chốc thầy sẽ bị lạc trên thảo nguyên. Tôi không sao làm việc được nữa, không sao điều khiển nổi hai cánh tay, sợi cứ đứt luôn, làm cho thím tôi điên tiết lên.
- Hôm nay mày làm sao thế? Tay mày là tay gỗ hay sao? - thím tôi càng nói càng nổi xung, mắt lườm tôi. Cuối cùng, không sao chịu được nữa, thím quát: - Ồ, sao mày không chết quách đi cho rảnh! Tốt hơn hết là mày xéo đi, mang trả cho bà cụ Xaikan cái bao tải.
Thiếu chút nữa tôi đã nhảy cẫng lên vì vui sướng. Thầy Đuysen lại ở ngay nhà bà cụ Xaikan. Hai ông bà Kartanbai và Xaikan vốn có họ xa với mẹ tôi. Trước đây tôi vẫn thường lui tới chỗ hai cụ, đôi khi tôi còn ngủ lại đây nữa. Không hiểu thím tôi có nhớ tới chuyện đó hay trời xui khiến thím ấy. Thím vừa dúi cái bao tải vào tay tôi vừa nói thêm:
- Hôm nay mày làm tao phát ngấy lên, như trong những năm đói cứ phải ăn cám mãi ấy. Cút đi ngay, nếu ông cụ bà cụ cho ngủ thì ở quách lại đằng ấy. Đi cho khuất mắt tao...
Tôi chạy vụt ra sân. Gió cứ điên cuồng lồng lộn như một lão phù thủy hung dữ: nó sặc sụa một lát, rồi phần phật thổi hắt tung những nắm tuyết lạnh buốt vào khuôn mặt nóng bừng của tôi. Tôi cặp chặt chiếc bao tải vào nách và chạy một mạch theo những vết chân ngựa thưa thớt còn mới nguyên đến cuối làng. Trong đầu tôi bấy giờ chỉ có một ý nghĩ duy nhất: “Đã về chưa, thầy giáo đã về chưa?”
Tôi chạy tới nơi, nhưng không thấy thầy đâu. Thấy tôi im thin thít đứng ngoài ngưỡng cửa, thở hổn hển, bà cụ Xaikan lo sợ hỏi:
- Cháu làm sao thế? Sao cháu phải chạy hộc tốc thế? Có chuyện gì chẳng lành phải không?
- Không ạ, chẳng sao đâu ạ. Cháu mang cái bao tải đến đây này. Bà cho cháu ở lại đây tối nay được không?
- Cháu quý của bà, cháu cứ ở lại đây. Trời ơi, con ranh này làm cho bà hoảng cả lên. Sao từ mùa thu đến giờ chả thấy cháu thò mặt đến? Cháu ngồi lại gần lửa mà sưởi cho ấm.
Ông cụ Kartanbai đang ngồi cạnh cửa sổ vá mấy chiếc ủng cũ nói vọng ra:
- Này, bà nó này, đem thịt rang lại cho cháu gái nó ăn đi. May ra Đuysen cũng sắp về rồi đấy. Lẽ ra anh ấy phải về từ lâu rồi, nhưng không sao, anh ấy sắp về đấy, cũng mới bắt đầu tối thôi. Con ngựa nhà này phóng nước mã hồi nhanh lắm.
Ngoài cửa sổ trời đã tối sầm lại từ lúc nào không biết. Trong lòng tôi cứ thấp thỏm không yên. Mỗi khi nghe thấy tiếng chó sủa hay tiếng người nói văng vẳng là tim tôi lại lặng đi. Nhưng thầy Đuysen vẫn chưa về. May sao bà cụ Xaikan luôn miệng nói chuyện này chuyện nọ, thành thử cũng đỡ sốt ruột.
Chúng tôi cứ thế đợi thầy Đuysen hết giờ này sang giờ khác, nhưng tới gần nửa đêm ông cụ Kartanbai cũng đã mệt và bảo bà cụ:
- Thôi, bà nó trải giường đi. Anh ấy chả về tối nay đâu, khuya rồi. Các ông lãnh đạo ấy khối việc ra, chắc lại giữ anh ta lại thôi, không thì anh ấy đã về đến nhà từ lâu rồi.
Ông cụ lên giường ngủ.
Bà cụ dọn chỗ nằm cho tôi trong góc nhà sau lò sưởi. Nhưng tôi không tài nào chợp mắt được. Ông cụ cứ ho thúng thắng trở mình, thì thầm đọc kinh, rồi lo lắng lẩm bẩm:
- Chả hiểu con ngựa của mình ra sao? Đến nắm cỏ cũng chẳng ai cho không, còn lúa mạch thì dù có tiền cũng chẳng mua được cho nó ăn.
Chả mấy chốc cụ Kartanbai đã ngủ say. Nhưng ngoài trời gió vẫn không dịu xuống. Gió sục sạo trên mái nhà, lùa những đuôi mái tranh ở đầu hồi bay lất phất, quất từng trận vào cửa kính. Nghe thấy cả tiếng tuyết rơi đập vào tường ở mé ngoài.
Lời lẽ của ông cụ cũng chẳng làm tôi yên tâm được. Tôi cứ có cảm tưởng là thầy giáo sắp về đến nơi, và tôi cứ nghĩ mãi về thầy, hình dung thấy thầy đang trên đường về, ở giữa cánh đồng tuyết phủ mênh mông. Tôi cũng không hiểu tôi chợp mắt ngủ được bao lâu, nhưng bỗng có cái gì khiến tôi phải cất đầu lên khỏi mặt gối. Có tiếng tru ú ớ chuyển đi trên mặt đất rồi mất hút trong thinh không. Chó sói! Và không phải chỉ một con, mà cả một bầy. Lũ chó sói gọi nhau ở tứ phía, rồi dồn lại rất nhanh. Những tiếng tru của bầy sói quyện lại với nhau thành một tiếng rống kéo dài hòa theo gió vang đi khắp thảo nguyên, khi xa dần, khi gần lại. Có khi lại tưởng chừng như chúng luẩn quẩn đâu đây, ngay bên cạnh, ngay ngoài đầu làng.
- Tiếng sói gọi bão đây! - bà cụ thì thầm.
Ông cụ im lặng lắng tai nghe, rồi nhảy từ trên giường xuống.
- Không, bà nó ạ, không phải chỉ có thế đâu? Chó sói đang rượt theo ai. Chúng nó đang vây người hay ngựa đấy. Thấy không? Cầu chúa phù hộ cho Đuysen tai qua nạn khỏi. Anh ấy chẳng biết lo nghĩ gì cả, anh ấy còn trẻ người non dạ quá thôi! - Ông cụ Kartanbai đứng phắt dậy, tìm cái áo lông trong bóng tối. - Đèn đâu, bà nó ơi, thắp cái đèn lên! Trời ơi, nhanh lên!
Chúng tôi run cầm cập vì sợ hãi, và choàng dậy. Trong lúc bà cụ Xaikan tìm được đèn, đang thắp lên thì tiếng chó sói rống bỗng câm bặt, như bị cắt ngang.
- Lũ sói chết tiệt chộp được mồi rồi! - Ông cụ Kartanbai thét to lên, vớ lấy chiếc gậy, toan ra cửa, nhưng vừa lúc ấy lại có tiếng chó sủa. Có tiếng đế giày bước lạo sạo trên mặt tuyết, có ai chạy qua dưới các cửa sổ, rồi có tiếng gõ mạnh, dồn dập vào cánh cửa.
Hơi lạnh ở bên ngoài lùa vào phòng thành một đám mây dầy đặc. Khi đám mây đó đã tan hết, chúng tôi mới nhìn thấy Đuysen. Mặt xám ngắt, thở hổn hển, thầy lảo đảo bước qua ngưỡng cửa, rồi ngả lưng dựa vào tường.
- Súng! - Đuysen nói trong một tiếng thở phào.
Nhưng chúng tôi hầu như không hiểu thầy định nói gì. Mắt tôi tối sầm lại, rồi tôi chỉ còn nghe thấy hai cụ than thở.
- Xin cúng một con cừu đen, xin cúng một con cừu trắng! Thôi nhờ đức Baubêđin phù hộ cho anh. Có phải anh đấy không?
- Súng, đưa súng đây cho tôi! - thầy Đuysen nhắc lại.
- Không có, anh định làm gì đấy, anh đi đâu?
Ông cụ và bà cụ mỗi người bám lấy một bên vai thầy Đuysen.
- Đưa cho tôi cái gậy vậy!
Nhưng hai cụ khẩn khoản nói:
- Chừng nào chúng tôi còn sống, anh không được đi đâu cả, không đi đâu nữa. Thà anh giết chúng tôi ngay tại chỗ còn hơn.
Tôi bỗng thấy người mỏi mệt rã rời, đành lặng lẽ nằm xuống giường.
- Tôi không kịp... chúng đã đuổi sát đến tận nhà, - thầy Đuysen vừa thở hổn hển vừa nói rồi lẳng chiếc roi da vào góc nhà. - Dọc đường về ngựa đã kiệt sức, rồi lại bị chó sói đuổi, nó vừa chạy đến đầu làng thì ngã gục xuống. Lũ chó sói nhảy xổ ngay tới.
- Thôi kệ xác nó, quý hồ anh còn sống là được rồi. Con ngựa mà không quỵ xuống thì chúng nó cũng chẳng tha cho anh về đâu. May mà đức Baubêđin phù hộ cho, nên mới được như thế. Bây giờ cởi áo ra, ngồi lại gần lửa mà sưởi. Đưa tôi tháo ủng cho, - cụ Kartanbai lăng xăng bên cạnh Đuysen nói, - còn bà lão xem có gì ăn đem ra hâm lại đi.
Họ ngồi xuống cạnh lửa, và bây giờ cụ Kartanbai mới thở phào nhẹ nhõm.
- Thôi, cái gì trời đã định là không sao tránh khỏi. Nhưng sao anh lại ra về muộn thế?
- Thưa bác hội nghị ở ủy ban huyện bị kéo dài. Cháu vào Đảng rồi.
- Hay lắm. Nhưng sáng hôm sau hãy ra về có phải hơn không, nào có ai bắt anh phải về ngay đâu.
- Cháu đã trót hứa với các em là sẽ về hôm nay, - thầy Đuysen đáp. - Mai phải bắt đầu học rồi.
- Ôi, thật là ngốc! - cụ Kartanbai nhỏm người dậy và bực dọc lắc đầu. - Này, bà già nó ơi, thử nghe xem: anh ấy đã trót hứa với lũ trẻ con, với cái bọn nhãi ấy mất rồi! Thế nhỡ mệnh hệ nào thì sao hả? Mà anh có hiểu là anh đang nói gì không?
- Đấy là bổn phận của cháu, nhiệm vụ của cháu bác ạ. Nhưng còn cái này bác thử nghĩ xem: thường cháu vẫn đi bộ, thế mà lần này, không biết ma quỷ nào xui khiến cháu mượn của bác con ngựa để đem cúng cho lũ sói...
Cụ Kartanbai cáu kỉnh nói:
- Nhưng tôi không nói chuyện ấy. Con ngựa chết tiệt ấy mất đi thì mặc xác nó. Coi như nó hiến thân để chuộc mạng cho anh! Trước kia hàng bao nhiêu năm tôi không có ngựa, thì bây giờ mất ngựa cũng chẳng sao. Chính quyền Xô-viết còn thì tôi còn làm ra được...
- Ông già nói phải đấy, - bà cụ Xaikan tiếp lời, giọng đầy nước mắt. - Chính quyền Xô-viết còn là ta sẽ còn làm ăn được... Này, ăn đi con, kẻo nguội mất.
Họ yên lặng. Một lát sau cụ Kartanbai vừa cời than hồng ra, vừa nói, vẻ trầm ngâm:
- Anh Đuysen, tôi xem anh cũng không đến nỗi đần độn, mà lại còn thông minh nữa là khác. Nhưng tôi vẫn không hiểu được tại sao anh cứ bịn rịn với cái trường này, với bọn trẻ con khờ dại ấy? Hay anh không kiếm được nghề nào khác? Anh cứ đi chăn cừu thuê cho người ta cũng sẽ được no ấm chán...
- Bác ạ, cháu hiểu rằng bác chỉ mong điều lành cho cháu. Nhưng nếu những trẻ em thơ dại kia sau này cũng cứ nói như bác: cần gì trường học, cần gì phải đi học, thì sự nghiệp của nhà nước Xô-viết sẽ chẳng nhích đi được bao xa. Thế nhưng bác lại muốn sao cho chính quyền Xô-viết đứng vững, sao cho nó sống mãi. Chính vì vậy nên đối với cháu trường học không phải là gánh nặng, bác ạ, giá cháu dạy được cho các em học thật tốt thì cháu không còn mơ ước gì hơn nữa. Chính Lênin đã từng nói...
- Ừ thì tiện anh nói... - cụ Kartanbai chặn lời Đuysen, yên lặng một lát rồi nói tiếp: - Đấy anh cứ đau buồn thương tiếc mãi. Nhưng nước mắt cũng chẳng làm cho Lênin sống lại được! Hừ, giá có được phép lạ ấy! Hay là anh tưởng những người khác không hề buồn, không hề đau khổ chăng?.. Anh thử nhìn vào tận trong lồng ngực tôi mà xem: tim tôi cũng ứa máu ra chứ có phải không đâu. Tôi không biết làm như vậy có hợp với cái chính trị của anh không, chứ mặc dầu Lênin là người khác tín ngưỡng, tôi cứ mỗi ngày năm lần cầu nguyện cho Người. Anh Đuysen ạ, có khi tôi lại nghĩ rằng dẫu chúng ta khóc Người bao nhiêu chăng nữa cũng chẳng được ích gì. Anh Đuysen ạ, tôi cứ tự phán đoán theo lối các cụ già thế này: Lênin bao giờ cũng sống mãi trong nhân dân, và cứ theo dòng máu lưu truyền từ đời cha đến đời con...
- Thật cháu xin cám ơn những lời bác nói. Bác nghĩ đúng lắm. Lênin tuy mất rồi, nhưng chúng ta sẽ noi gương Người mà sống...
Trong khi nghe cụ Kartanbai và Đuysen nói chuyện với nhau tôi hoàn hồn dần; hồn vía tôi từ một nơi nào xa lắm từ từ trở lại. Thoạt đầu tất cả những việc xảy ra hệt như một giấc mơ. Mãi tôi vẫn chưa tin được rằng Đuysen đã về, vẫn còn sống và vẫn lành lặn. Rồi một nguồn vui bồng bột, chan hòa như dòng nước lũ mùa xuân tràn vào tâm hồn tôi; rồi dường như chìm ngập trong dòng tình cảm nóng hổi đó, tôi òa lên khóc nức nở. Có lẽ chưa có ai sống qua những phút mừng rỡ như tôi lúc bấy giờ. Trong giây phút đó đối với tôi không còn gì tồn tại nữa: kể cả túp lều vách đất, cả đêm bão tuyết ngoài sân, cả đàn chó sói đang xâu xé con ngựa duy nhất của cụ Kartanbai ở đầu làng. Không có gì nữa hết! Tất cả tâm hồn, ý nghĩ, cả con người tôi đều tràn ngập một niềm hạnh phúc phi thường, không lường hết được, vô tận, vô cùng như vũ trụ. Tôi trùm chăn kín đầu và bịt chặt miệng lại để đừng ai nghe thấy tiếng khóc của tôi. Nhưng thầy Đuysen đã hỏi:
- Ai khóc thút thít sau lò sưởi thế?
Bà cụ Xaikan đáp:
- Antưnai đấy mà, lúc nãy nó sợ quá nên đang khóc đấy.
- Antưnai à? Em ấy ở đâu đến đây? - thầy Đuysen đứng phắt dậy, chạy lại quỳ xuống đất ngay cạnh đầu giường tôi rồi khẽ chạm tay vào vai tôi. - Antưnai, làm sao thế? Tại sao em khóc?
Tôi quay mặt vào tường và càng khóc to hơn trước.
- Sao thế, sao em sợ đến thế? Em đã lớn rồi kia mà, sao lại thế... nào, nhìn thầy này...
Tôi ôm chặt lấy thầy Đuysen, áp chặt đôi má nóng bừng, ướt đẫm nước mắt vào vai thầy giáo và khóc nức nở, không tài nào tự chủ được nữa. Niềm vui sướng tràn ngập tâm hồn tôi, tôi run lên như trong cơn sốt và không còn đủ sức để kìm lại nữa.
- Ừ... hẳn là con bé hồn xiêu phách lạc đi đâu hết. - Cụ Kartanbai cũng đâm lo và đứng dậy. - Kìa, bà khấn khứa cho nó một tí, nhanh lên nào...
Và cả hai cụ bỗng tíu tít cả lên. Bà cụ Xaikan thì thầm mấy câu thần chú, rồi vẩy hết nước lạnh đến nước nóng vào mặt tôi, xông hơi cho tôi và cũng khóc òa lên cùng với tôi.
Trời ơi, giá các cụ hiểu được rằng tôi “hồn xiêu phách lạc” vì một niềm hạnh phúc lớn lao mà tôi không đủ sức để kể ra và có lẽ cũng không tài nào diễn tả nổi.
Thầy Đuysen vẫn ngồi cạnh tôi, đưa bàn tay mát lạnh vuốt nhè nhẹ lên vầng trán nóng hổi của tôi cho đến lúc tôi nín hẳn và ngủ thiếp đi.
***
...Mùa đông đã du mục sang bên kia đèo. Mùa xuân đang lùa những đàn gia súc màu xanh của nó đến. Trên những cánh đồng băng, tuyết đã tan, mặt đất ướt như sưng phù lên từng chỗ. Từ miền ấy, những luồng hơi ấm bốc lên lùa vào núi, mang theo hơi thở mùa xuân của đất đai, hương vị của sữa đang lên hơi. Các cồn tuyết cũng xẹp xuống, những tảng băng trên núi đã chuyển mình, và các dòng suối bắt đầu lên tiếng, rồi tràn lên, cuồn cuộn chảy thành những thác nước dũng mãnh réo ầm ầm trong các thung lũng.
Có lẽ đó chính là mùa xuân đầu tiên trong thời niên thiếu của tôi. Dù sao đối với tôi nó cũng vẫn đẹp hơn tất cả các mùa xuân trước. Đứng ở trường chúng tôi, từ trên đỉnh đồi, có thể nhìn thấy cả cái thế giới tươi đẹp của mùa xuân mở rộng ra trước mắt. Mặt đất dường như dang tay chạy từ trên núi xuống, và không đủ sức dừng lại nữa, cứ lao vùn vụt vào các vùng xa tắp của cánh thảo nguyên đang lấp lánh như bạc dưới ánh nắng, bao phủ trong một làn hơi huyền ảo. Ở một nơi nào xa tít tận góc biển chân trời có những hồ nước băng tan xanh biếc, ở một nơi nào xa tít tận góc biển chân trời có những bầy ngựa đang hí lên, trên nền trời xanh đàn sếu bay qua, cánh nâng những làn mây trắng. Đàn sếu bay từ đâu tới và gọi lòng người về đâu mà cất tiếng kêu lanh lảnh buồn buồn như vậy?
Mùa xuân tới, gieo vui vào lòng chúng tôi. Chúng tôi bày đủ các trò chơi, luôn cất tiếng cười vô cớ, cứ đến giờ tan học, suốt dọc đường về làng, chúng tôi vừa chạy vừa gọi nhau ầm ỹ. Thím tôi rất ghét cái lối ấy, và không bỏ lỡ dịp mắng mỏ tôi:
- Con ngốc, mày làm gì mà cứ tớn tác lên thế? Mày làm bà cô thế mãi mà không biết dơ à? Con nhà có phúc như người ta mà bằng tuổi mày thì cũng đã có chồng có con vui nhà vui cửa từ lâu rồi, còn mày thì... Đằng này lại thích đi học cơ! Nhưng cứ đợi đấy... bà sẽ cai quản mày...
Thật ra thì tôi cũng chẳng để tâm đến những lời dọa nạt của thím ấy lắm, vì đó không phải chuyện lạ - suốt đời thím ấy chỉ chửi mắng. Còn nói rằng tôi làm bà cô thì thật không đúng chút nào. Có điều là mùa xuân năm nay tôi lớn như thổi.
Thầy Đuysen nói đùa tôi:
- Em còn là một cô bé đầu bù tóc rối, mà hình như tóc em lại còn đỏ nữa kia chứ!
Những lời nói của thầy không làm tôi chạnh lòng chút nào cả. Tôi thầm nghĩ: “tất nhiên mình đầu bù tóc rối thật đấy, nhưng tóc mình đâu phải hoàn toàn đỏ. Rồi đến lúc mình lớn hơn ít nữa, mình sẽ là một cô gái đến tuổi đi lấy chồng, mình chả đầu bù tóc rối thế này nữa đâu. Lúc đó thím cứ thử nhìn xem mình có xinh không”. Thầy Đuysen vẫn nói tôi có đôi mắt sáng như sao, có khuôn mặt cởi mở thật thà.
Có một lần, khi chạy ở trường về tôi thấy hai con ngựa lạ đứng ngoài sân. Cứ trông yên ngựa, dây thắng, cũng biết chủ của chúng là những người ở trên núi xuống. Và trước đây cũng có khi họ đã ghé vào nhà chú tôi mỗi khi đi chợ về hay mang thóc xuống xay.
Đứng ngoài ngưỡng cửa tôi đã nhói tai lên vì tiếng cười thiếu tự nhiên của thím tôi:
- Gớm, thôi, đừng lo anh ạ, không nghèo đi đâu mà sợ. Rồi sau này khi con chim non đã cầm chắc trong tay rồi, anh sẽ thầm cảm ơn tôi cho mà xem - hì-hì-hì! - Đáp lại lời thím tôi có tiếng vâng dạ rối rít và những tiếng cười ha hả. Đến khi tôi bước vào cửa thì mọi người im bặt. Cạnh đống nỉ phủ chiếc khăn trải bàn có một người đàn ông to béo phục phịch, mặt đỏ, ngồi chềnh ềnh như súc gỗ. Đầu hắn đội mũ lông cáo che kín cả cái trán nhễ nhại mồ hôi. Hắn đưa mắt liếc tôi rồi đằng hắng một cái và cụp mắt xuống.
Thím tôi nhoẻn miệng cười âu yếm, nói:
- Ồ, con đã về đấy à, vào đây con!
Chú tôi cũng ngồi cạnh đống nỉ với một người lạ mặt. Hai người vừa đánh bài, vừa nhắm rượu với bánh ô mạch. Cả hai đều ngà ngà say, và mỗi khi họ quật bài xuống, đầu họ cứ lắc lư đến kỳ quặc.
Con mèo mướp bò lên chỗ khăn trải bàn, nhưng lão mặt đỏ gập đốt ngón tay cốc mạnh vào đầu nó một cái, khiến nó kêu thét lên, rồi nhảy vọt sang một bên và chúi đầu vào xó nhà. Khổ thân con mèo, nó đau quá! Tôi muốn bỏ đi ngay, nhưng không biết làm thế nào. May vừa lúc ấy thím tôi nói:
- Con ạ, thức ăn ở trong chảo ấy, con ăn đi kẻo nguội.
Tôi bước ra khỏi phòng, trong lòng rất khó chịu với thái độ của thím tôi vừa rồi. Và tôi bắt đầu thấy chột dạ. Tôi bất giác đề phòng.
Chừng hai giờ sau, hai người khách lên ngựa trở về núi. Lập tức thím tôi lại bắt đầu chửi mắng tôi như thường lệ và tôi thấy đỡ lo. Tôi nghĩ thầm: “Té ra thím có vẻ ôn tồn như vậy chẳng qua vì say rượu thôi”.
Ít lâu sau có lần bà cụ Xaikan ghé qua nhà chú tôi. Lúc đó tôi ở ngoài sân, nghe thấy bà cụ nói:
- Lạy giời, mợ làm gì vậy! Mợ giết nó mất thôi.
Bà cụ Xaikan và thím tôi nói lấp cả lời nhau, tranh cãi kịch liệt điều gì, và lát sau cụ Xaikan bước ra khỏi nhà, vẻ rất tức giận. Bà cụ nhìn tôi bằng đôi mắt vừa giận dữ vừa thương xót và lặng lẽ ra về. Tôi bỗng thấy bứt rứt trong người. Tại sao bà cụ lại nhìn tôi như vậy, tôi đã làm gì đến nỗi cụ không hài lòng?
Ngày hôm sau đến trường tôi nhận thấy ngay thầy Đuysen vẻ mặt sa sầm, như đang có điều gì lo nghĩ, mặc dầu thầy cố giấu đi. Tôi còn nhận thấy một điều nữa là không hiểu tại sao thầy không hề nhìn về phía tôi. Sau buổi học, khi chúng tôi ào ào chạy ra khỏi trường như ong vỡ tổ, thầy Đuysen gọi giật tôi lại:
- Antưnai, đứng lại thầy bảo. - Thầy bước lại gần tôi, nhìn chằm chằm vào mắt rồi đặt tay lên vai tôi. - Em đừng về nhà nữa, Antưnai, em có hiểu thầy không?
Tôi lặng người đi vì kinh hãi. Bây giờ tôi mới hiểu thím tôi định làm gì tôi.
Thầy Đuysen nói:
- Thầy sẽ chịu trách nhiệm về em. Em cứ tạm ở nhà bác Kartanbai với thầy. Và lúc nào cũng phải đi theo thầy.
Chắc hẳn lúc ấy tôi không còn chút máu mặt nào nữa. Thầy Đuysen lấy tay nâng cằm tôi lên, nhìn thẳng vào mắt tôi và mỉm cười như mọi khi:
- Antưnai, em đừng sợ! - thầy vừa cười vừa nói. - Thầy còn ở bên em, thì em không phải sợ ai cả. Em cứ học đi, cứ đến trường như cũ, và đừng nghĩ ngợi gì... Vì thầy vẫn biết là em nhát lắm... Và nhân đây thầy kể cho Antưnai nghe một câu chuyện mà thầy đã định kể từ lâu. - Thầy Đuysen lại phì cười, hẳn đang nhớ lại điều gì ngộ nghĩnh. - Chắc em còn nhớ có một lần cụ Kartanbai dậy thật sớm và biến đi đâu mất ấy. Té ra cụ đi mời... cụ dẫn ai về nhà em có biết không? - dẫn bà lang Giainakova về. Thầy hỏi: “Làm gì thế bác?” Cụ trả lời là: “Ấy để cho bà ấy cúng bái một chút để gọi hồn nó về, không thì con bé sợ quá hồn xiêu phách lạc đi đâu mất”. Thầy nói: “Mời bà ấy ra đi, không lại phải cúng cho bà ấy một con cừu mất thôi. Mà nào nhà mình có giàu có gì cho cam. Ngựa cũng chả có mà cúng, có mỗi con thì cúng bầy chó sói mất rồi...” Còn em thì lúc đó đang ngủ say. Thế là thầy đuổi cổ được thầy cúng ra khỏi nhà. Về sau cụ Kartanbai giận thầy suốt một tuần lễ, không thèm trò chuyện với thầy. Ông cụ nói: “Tôi già cả thế này mà anh còn chơi khăm tôi”. Nhưng ông cụ, bà cụ là những người phúc hậu, hiếm có người tốt như thế. Thôi bây giờ ta về đi, Antưnai...
Dù tôi có cố gắng can đảm lên bao nhiêu cho thầy Đuysen khỏi bận tâm, những ý nghĩ lo sợ cũng vẫn không buông tha tôi. Vì bất thần lúc nào thím tôi cũng có thể đến cưỡng bức lôi tôi đi. Rồi ở nhà họ muốn làm gì tôi thì làm, không ai ở trong làng cấm họ được cả. Suốt đêm tôi trằn trọc không ngủ được vì mải lo nghĩ tới tai họa sắp đến.
Tất nhiên thầy Đuysen hiểu rõ tâm trạng tôi. Cũng có thể vì muốn xua đuổi những ý nghĩ đen tối đó của tôi nên ngày hôm sau thầy mang về trường hai cây phong nhỏ. Sau buổi học, thầy cầm tay tôi dẫn sang một bên.
Thầy mỉm một nụ cười bí ẩn và bảo tôi:
- Antưnai, bây giờ thầy với em cùng làm chung một việc. Hai cây phong này thầy mang về cho em đấy. Chúng ta sẽ cùng trồng. Và trong khi chúng lớn lên, ngày một thêm sức sống, em cũng sẽ trưởng thành, em sẽ là một người tốt. Em có một tâm hồn đẹp và một đầu óc ham học. Thầy bao giờ cũng nghĩ rằng em sẽ trở thành người thông thái. Thầy tin như vậy, em ạ, số phận em nhất định sẽ như thế. Em bây giờ trẻ măng như một thân cây non, như đôi cây phong nhỏ này. Antưnai ạ, ta hãy tự tay trồng lấy hai cây phong này. Và mong sao em sẽ tìm thấy hạnh phúc trong học tập, ngôi sao nhỏ trong sáng của thầy ạ...
Hai cây phong ấy còn non, vừa cao bằng người tôi, thân biêng biếc. Và khi hai chúng tôi đã trồng xuống khoảng đất cạnh trường, từ chân núi đưa lên một làn gió nhẹ, lần đầu tiên chạm vào những khóm lá hãy còn bé lăn tăn như thổi một luồng sinh khí vào chúng. Mấy khóm lá run rẩy, hai cây phong bắt đầu lay động, đung đưa...
- Em trông, đẹp chưa kìa! - Đuysen cười, lùi lại ngắm.
- Bây giờ ta hãy đào một đường dẫn nước ở ngọn suối đằng kia về. Rồi em sẽ thấy hai cây phong của chúng ta đẹp đến nhường nào! Chúng nó sẽ đứng trên ngọn đồi này, sát cạnh nhau như hai anh em. Và mọi người sẽ luôn luôn nhìn thấy chúng, và những người lành sẽ thấy lòng vui lên khi nhìn chúng. Đến khi ấy cả cuộc sống cũng sẽ khác Antưnai ạ. Tất cả những gì đẹp nhất đều hãy còn ở phía trước...
Ngay cả bây giờ tôi cũng không sao tìm được những lời lẽ có thể nói lên ít nhiều lòng cảm kích của tôi trước tâm hồn cao thượng của Đuysen. Còn khi ấy, tôi chỉ đứng yên nhìn thầy. Tôi nhìn Đuysen như thể lần đầu tiên tôi được thấy hết vẻ đẹp sáng ngời trên gương mặt thầy, tấm lòng trìu mến và trung hậu ánh lên trong đôi mắt thầy, dường như trước kia tôi chưa từng biết đôi bàn tay của thầy mạnh mẽ và khéo léo như thế nào trong lao động, nụ cười trong sáng của thầy có sức sưởi ấm lòng người đến nhường nào. Và trong lòng tôi, như một đợt sóng nồng nàn, bỗng cuộn lên một tình cảm mới mẻ mà tôi chưa hề biết, từ một thế giới xa lạ nào lan tới. Và cả hồn tôi như vươn mạnh đến Đuysen, để nói với người: “Thầy ơi, em cảm ơn thầy đã sinh ra với một tâm hồn đẹp đẽ như vậy... Em muốn ôm hôn thầy!” Nhưng tôi e ngại không dám nói lên những lời ấy. Đáng lẽ tôi nói ra mới phải...
Lúc ấy chúng tôi chỉ đứng yên dưới vòm trời trong sáng, giữa vùng đồi xuân xanh mơn mởn, mỗi người theo đuổi một ước mơ riêng. Và giờ phút ấy tôi quên bẵng mối nguy cơ đang treo lơ lửng trên đời tôi. Thậm chí tôi cũng không hề nghĩ xem ngày mai đây cái gì đang chờ đợi tôi, và cũng không hề nghĩ xem tại sao đã hai ngày nay thím tôi không đi tìm tôi. Có lẽ họ đã quên tôi chăng, hay họ đã đành chịu để mặc tôi? Nhưng thật ra Đuysen lại đang nghĩ đến điều đó.
- Em đừng buồn, Antưnai ạ, ta sẽ tìm ra lối thoát, - Đuysen nói khi chúng tôi trở về thôn. - Ngày kia thầy sẽ lên huyện. Thầy sẽ bàn việc của em với các đồng chí trên ấy. Có lẽ họ sẽ nghe thầy mà cho em lên tỉnh học. Em có muốn đi không?
- Thầy đã nói sao, em cũng xin vâng lời, - tôi đáp.
Tuy tôi không hình dung được trên tỉnh ra sao, nhưng những lời Đuysen nói cũng đủ để tôi ước mơ cuộc sống ở thành thị. Có khi tôi thấy sợ hãi trước cảnh sống xa lạ nơi đất khách quê người, có khi tôi lại quyết tâm ra đi - nói tóm lại bấy giờ trong trí óc tôi không lúc nào không lởn vởn những tỉnh với thành.