- 3 -
Và hôm sau, trong khi ngồi học, tôi cũng chỉ nghĩ đến việc ấy: tôi sẽ sống ở tỉnh ra sao và biết ở nhà ai được? Nếu có ai cho tôi ở nhờ, tôi sẽ bổ củi, xách nước, giặt giũ, họ sai gì tôi cũng làm. Tôi đang suy nghĩ liên miên như thế trong khi ngồi học thì bỗng giật mình thảng thốt khi chợt nghe tiếng vó ngựa dồn dập sau mấy bức vách ọp ẹp của ngôi trường chúng tôi. Những tiếng động ấy đột ngột quá, và mấy con ngựa phi nhanh quá, đến nỗi tưởng như chúng sắp xéo bừa lên ngôi trường. Chúng tôi ai nấy đều nín thở, chờ đợi.
- Các em đừng để ý, cứ lo việc của các em đi, - Đuysen nói nhanh.
Nhưng lúc ấy cửa bỗng mở toang nghe đánh sầm một tiếng, và trên ngưỡng cửa thím tôi hiện ra, trên môi nở một nụ cười hả hê nanh ác, đầy vẻ thách thức. Đuysen bước ra cửa:
- Bà đến có việc gì?
- Đến có một việc chẳng dính dáng gì đến mày. Tao đem con tao đi gả chồng. Ê! Cái con cầu bơ cầu bất kia! - Thím chồm về phía tôi, nhưng Đuysen đã chặn lối.
- Ở đây toàn là nữ sinh cả, chưa có em nào gả chồng được! - Đuysen nói, giọng rắn rỏi và điềm tĩnh.
- Để rồi xem. Ê! Bọn đàn ông! Bắt lấy con chó chết ấy, lôi nó ra!
Thím tôi giơ tay vẫy một tên trong bọn cưỡi ngựa. Đó chính là cái lão mặt đỏ đội mũ lông cáo. Thêm hai tên nữa cầm những chiếc gậy nặng vót nhọn xuống ngựa theo sau lão ta. Thầy tôi vẫn đứng yên.
- Đồ chó lộn nòi, sao mày lại dám tự tiện xem con gái nhà người ta như vợ mày thế hả? Thôi cút đi!
Nói đoạn tên mặt đỏ xông vào Đuysen như một con gấu.
- Các người không có quyền vào đây, đây là trường học! - Đuysen nói, hai tay nắm chặt lấy thành cửa.
- Tôi đã bảo mà! - thím tôi rít lên. - Hắn hú hí với con ấy đã lâu. Hắn rủ rê con chó đẻ ấy đến đây để hưởng không!
- Tao nhổ toẹt vào cái trường học của mày! - lão mặt đỏ gầm lên, tay hoa chiếc roi da.
Nhưng Đuysen đã nhanh tay hơn hắn. Thầy giơ chân đạp mạnh vào bụng hắn. Hắn kêu lên một tiếng và ngã xuống. Ngay lúc ấy hai tên cầm gậy nhọn xông vào Đuysen. Lũ trẻ con kêu rú lên và chạy bổ về phía tôi. Cánh cửa bị xô mạnh vỡ ra từng mảnh. Tôi lao vào đám đánh nhau, lôi theo cả lũ trẻ đang bíu vào người tôi.
- Buông thầy giáo ra! Không được đánh! Tôi đây, bắt tôi đi chứ không được đánh thầy giáo!
Đuysen quay lại nhìn. Mình mẩy Đuysen máu me bê bết, vẻ căm giận trông rất khủng khiếp. Thầy cúi xuống đất lấy một tấm ván khoa lên, quát:
- Chạy đi các em, chạy về làng đi! Antưnai, chạy đi! - tiếng kêu của Đuysen nghẹn ngào thành tiếng nấc.
Chúng nó đã đánh gãy tay Đuysen. Thầy ép cánh tay vào ngực, bước lùi lại, còn bọn kia thấy thầy không còn sức chống cự, liền xông vào đánh thầy, rống lên như một đàn bò dại.
- Đánh! Đánh! Đập vỡ đầu nó ra! Đánh chết nó đi!
Thím tôi và lão mặt đỏ hầm hè xông vào tôi. Họ lấy bím tóc của tôi quấn quanh cổ tôi và lôi xềnh xệch ra sân. Tôi cố sức vùng vẫy, và thoáng một giây tôi trông thấy đám trẻ em đờ người ra gào thét, và Đuysen đứng cạnh tường, mình đầy những vết máu đen thẫm.
- Thầy ơi!
Nhưng Đuysen không thể có cách gì cứu tôi được. Thầy hãy còn đứng được, nhưng loạng choạng như người say rượu dưới trận đòn của lũ ác ôn. Mái đầu Đuysen gục xuống ngực, thầy cố ngẩng lên trong khi bọn vô lại ra sức đánh mãi thầy. Bọn chúng vật tôi xuống đất và trói tay tôi lại. Trong lúc đó Đuysen lăn lộn trên mặt đất.
- Thầy ơi!
Nhưng bọn chúng đã bịt mồm tôi lại và xốc tôi nằm vắt ngang trên yên ngựa.
Lão mặt đỏ đã lên ngựa, hai tay và ngực lão đè lên người tôi. Hai tên đang đánh Đuysen cũng lên yên. Thím tôi thì chạy bên cạnh và nện vào đầu tôi:
- Thấy chưa! Thấy chưa! Tao tống tiễn mày đi như thế đấy! Còn thằng thầy mày thì hết kiếp rồi...
Nhưng không, thầy tôi chưa hết kiếp. Từ phía sau bỗng vang lên một tiếng kêu tuyệt vọng:
- Antưna-a-ai!
Tôi chật vật ngẩng mái đầu đang buông thõng bên yên ngựa và nhìn lại. Đuysen đang chạy theo sau. Bị đánh gần chết, máu me bê bết, thầy cầm một hòn đá lớn đuổi theo. Và sau lưng thầy, cả lớp cũng vừa kêu khóc vừa chạy theo.
- Đứng lại! Đồ thú dữ! Đứng lại! Buông nó ra, buông ra! Antưnai! - Đuysen đuổi kịp, quát lên.
Bọn hung đồ kìm ngựa, hai tên kia cho ngựa quay lại kèm hai bên Đuysen. Đuysen cắn lấy ống tay áo cho cánh tay bị gãy khỏi vướng, nhằm đích và ném hòn đá, nhưng không trúng. Hai tên kia liền đâm hai nhát gậy nhọn vào Đuysen, khiến thầy ngã xuống một vũng nước. Mắt tôi hoa lên, tôi chỉ kịp nhận thấy lũ trẻ trường chúng tôi chạy lại chỗ thầy, vẻ sợ hãi.
Tôi không nhớ chúng đem tôi đến đâu và như thế nào. Tôi tỉnh dậy trong một căn lều vải. Những ngôi sao đầu hôm, trầm tĩnh, không chút ưu tư, dòm qua chóp lều để hở. Gần đâu đây một con sông chảy róc rách, và nghe văng vẳng có tiếng nói chuyện của những người chăn cừu đêm. Bên bếp lửa đã tàn lụi có một bà già lầm lì, người khô đét như que củi đang ngồi yên. Mặt bà ta đen xạm như màu đất. Tôi ngoảnh đầu sang phía bên kia... Ôi, giá cái nhìn của tôi có thể giết chết được lão ấy!
- Mụ đen, đỡ nó dậy, - lão mặt đỏ ra lệnh.
Người đàn bà đen đủi đến cạnh tôi và đưa bàn tay khẳng kheo lay vai tôi.
- Mụ bảo con bạn mụ cho nó biết điều, không nghe cũng không xong đâu: ta sẽ không nhiều lời với nó.
Hắn ra khỏi lều. Còn người đàn bà mặt đen xạm thậm chí cũng chẳng buồn nhúc nhích và chẳng nói lấy nửa lời. Có lẽ bà ta câm chăng? Đôi mắt đờ đẫn như màu tro lạnh của bà ta nhìn thẫn thờ, không biểu lộ một cảm xúc gì hết. Có những con chó bị đánh dập liên miên từ khi còn bé. Những con người độc ác luôn luôn bạ gì vớ nấy đánh vào đầu chúng và chúng quen dần đi. Nhưng trong khóe nhìn của chúng có một vẻ gì âm thầm, trống trải đến nỗi trông mà ghê người. Tôi nhìn vào đôi mắt không hồn của người đàn bà mặt đen xạm và có cảm giác như chính tôi bây giờ cũng không còn sống nữa, tôi đang nằm dưới mộ. Tôi đã sẵn sàng tin như vậy, nếu không có tiếng nước róc rách từ ngoài sông đưa lại. Dòng nước cuồn cuộn vỗ vào các ghềnh đá - nước nó được tự do...
Thím ơi, tâm địa thím sao mà đen tối đến thế, thím thật đáng muôn đời nguyền rủa! Hãy chết sặc trong nước mắt và máu của tôi!.. Đêm hôm ấy, mới mười lăm tuổi đầu, tôi đã không còn là một người con gái trinh trắng nữa... Tôi còn ít tuổi hơn con cái tên hung đồ...
Đến đêm thứ ba tôi nhất quyết trốn đi, dù có sao cũng mặc. Dù có lạc đường hay bọn hung đồ đuổi kịp, tôi cũng sẽ chống cự cho đến hơi thở cuối cùng như Đuysen thầy tôi.
Trong đêm tối, tôi lặng lẽ lần ra phía cửa lều. Tôi sờ lên cửa thì thấy nó đã bị buộc chặt bằng một sợi thừng tết bằng lông đuôi ngựa. Nút dây xiết cứng rắc rối, tối mịt thế này không thể nào mở ra được. Tôi bèn cố vén thành lều lên để tìm cách bò ra ngoài. Nhưng dù tôi cố sức bao nhiêu cũng không sao vén được: ở phía ngoài cũng có những sợi chão căng sát vách lều xuống đất.
Chỉ còn cách tìm một cái gì sắc cạnh để cắt những sợi dây buộc cửa. Tôi bắt đầu lục lọi chung quanh, nhưng không tìm thấy gì ngoài một cọc gỗ nhọn. Trong cơn tuyệt vọng tôi bắt đầu lấy cọc đào đất dưới vách lều. Dĩ nhiên làm như vậy cũng chỉ uổng công, nhưng lúc bấy giờ tôi không còn hay biết gì nữa. Trong đầu tôi chỉ còn một ý nghĩ vô hy vọng cố thoát ra khỏi chốn này hay là chết, miễn sao đừng phải nghe tiếng thở phì phò, tiếng ngáy nặng nề của hắn, miễn sao đừng phải ở lại đây: có chết thì cũng chết tự do, chết trong khi chống chọi với chúng, chứ không thể chịu khuất phục.
Tôkôn nghĩa là vợ lẽ. Ôi, sao tôi căm thù hai tiếng này đến thế! Ai đã nghĩ ra hai tiếng ấy, nó sinh ra từ những thời quái gở nào? Còn gì có thể ô nhục hơn tình cảnh của người vợ lẽ, bị ép buộc mọi bề, một kẻ tôi mọi cả về thể xác lẫn linh hồn? Hỡi những người khốn khổ kia, hãy từ đáy mộ đứng lên, hỡi oan hồn của những người đàn bà bị chà đạp, bị lăng mạ, bị tước hết phẩm cách làm người! Hãy đứng lên, hỡi những người bị đọa đầy hành hạ, hãy lay chuyển bóng tối đen đặc của thời xưa ấy! Hãy nghe tôi, người cuối cùng trong những người đã bước qua số kiếp ấy!
Đêm ấy tôi có hay đâu rằng sau này tôi sẽ được thốt lên những lời kia. Tôi cứ hăm hở, mê mải đào đất dưới vách lên. Mặt đất ở chỗ ấy lởm chởm những đá, không sao đào được. Tôi cào bằng móng tay, mấy ngón tay tôi toạc rách, rớm máu. Và đến khi lỗ đào đã vừa rộng để thò tay ra ngoài lều thì trời đã hửng sáng. Chó sủa ran, người ở các lều bên bắt đầu thức dậy. Có tiếng vó rầm rập của một đàn ngựa phi qua lều xuống sông uống nước. Những đàn cừu ngái ngủ kéo qua, thở phì phò. Rồi có ai đến cạnh lều, tháo cởi những sợi chão căng ở ngoài và bắt đầu dỡ các tấm nỉ lợp lều. Đó là người đàn bà mặt đen trầm lặng.
Thế nghĩa là thôn du mục này sắp dời đi nơi khác. Tôi chợt nhớ ra rằng hôm qua tôi tình cờ nghe loáng thoáng họ nói sáng nay sẽ dời đến cắm lều ở trên đèo, tới chỗ chăn thả mới, rồi sẽ sang bên kia đèo, đi sâu vào vùng núi ở suốt mùa hè trong ấy. Và tâm hồn tôi lại càng nặng trĩu: từ đấy trốn đi còn khó gấp trăm lần.
Lúc nãy tôi ngồi cạnh lỗ đào ra sao thì bây giờ tôi cũng vẫn ngồi yên như thế, thậm chí chẳng buồn nhích sang bên nữa. Tôi còn giấu giếm làm gì cơ chứ... Người đàn bà mặt đen có trông thấy chỗ đất bị đào lên dưới vách, nhưng cũng chẳng nói chẳng rằng, tiếp tục làm công việc mình. Và nói chung bà ta luôn có vẻ như không có việc gì dính dáng đến mình cả, như thể không có gì trên đời này có thể gợi nên trong lòng bà ta một mảy may cảm xúc. Thậm chí bà ta cũng không đánh thức chồng dậy, không dám xin hắn giúp mình một tay để thu vén lên đường. Hắn đang ngáy như một con gấu, mình ngập dưới đống chăn mềm và áo khoác.
Những tấm dạ đều đã cuộn lại, lều chỉ còn lại có cái sườn, và tôi như ngồi trong một cái lồng nhìn ra ngoài: cách đấy không xa bên kia sông có mấy người đang xếp đồ đạc lên lưng bò và ngựa. Rồi tôi thấy ba người cưỡi ngựa từ đâu bỗng phi về phía đám người kia, và sau khi hỏi họ mấy câu, lại đi về phía lều tôi đang ngồi. Thoạt tiên tôi tưởng họ đi tập hợp mọi người lên đường, nhưng khi nhìn kỹ lại tôi choáng người đi. Đó là Đuysen, còn hai người kia thì đội mũ lưỡi trai công an, mặc áo khoác đính dải khuy đỏ.
Tôi ngồi thừ ra như người chết rồi, thậm chí cũng không kêu lên được nữa. Tôi mừng quýnh lên: thầy tôi vẫn sống! Và đồng thời tôi bỗng thấy lòng tôi như trống hoác ra: nay tôi đã là một kẻ bỏ đi, một con người ô uế.
Đầu Đuysen quấn băng, tay cũng treo băng. Thầy nhảy xuống ngựa, giơ chân đạp sập cửa, chạy vào lều và kéo phắt tấm chăn đắp trên người lão mặt đỏ.
- Dậy! - Đuysen giận dữ quát.
Lão kia nhấc đầu lên, dụi mắt rồi toan chồm lên người Đuysen, nhưng lập tức phải chịu im khi thấy hai khẩu súng lục của hai người công an chĩa vào mặt. Đuysen túm lấy cổ áo hắn lay mạnh rồi kéo đầu hắn vào sát mặt mình.
- Đồ hèn mạt! - Đuysen nói thì thào qua đôi môi trắng bệch. - Bây giờ mày phải theo ta! Đi!
Lão kia ngoan ngoãn cất bước, nhưng Đuysen lại nắm chặt lấy vai hắn rồi nhìn thẳng vào tận mặt hắn nói, giọng đứt quãng:
- Mày tưởng đã giày xéo lên Antưnai như xéo lên đám cỏ dại hẳn, mày tưởng đã hãm hại được Antưnai?.. Mày lầm! Thời của mày đã hết, bây giờ đến thời của Antưnai, cái thời của mày đã mạt kiếp rồi!..
Họ để cho tên mặt đỏ đi ủng, trói tay hắn lại và xốc lên ngựa. Một trong hai người công an cầm cương ngựa dắt đi, còn người kia cưỡi ngựa theo sau. Tôi ngồi lên ngựa của Đuysen, còn thầy đi bộ bên cạnh.
Khi chúng tôi cất bước, ở phía sau bỗng vang lên một tiếng rú man rợ, nghe không còn ra tiếng người nữa: người đàn bà mặt đen đang chạy theo chúng tôi. Như một người điên, bà ta nhảy chồm vào chồng, tay cầm một hòn đá đánh vào chiếc mũ lông cáo đội trên đầu hắn, miệng hét thất thanh:
- Mày đã uống máu tao, đồ sát nhân! Mày đã đầy đọa thân tao suốt đời! Quân giết người! Tao không để cho mày sống mà đi khỏi nơi này đâu!
Chắc hẳn bốn mươi năm nay bà ta không ngẩng đầu lên. Và tất cả những gì bấy lâu chồng chất lại, sôi sục trong lòng bà ta, những gì vẫn đầu độc đời bà như một loài cỏ đắng, giờ đây đã bùng nổ ra. Những tiếng rú the thé của người đàn bà vang dội khắp các vách đá trong thung lũng. Bà ta lồng lộn quanh lão mặt đỏ đang sợ sệt co rúm người lại, ném vào lão ta, nào đá, nào phân ngựa, nào những cục đất sét, vớ được gì cũng ném, lớn tiếng nguyền rủa:
- Sao cho cỏ đừng mọc ở những chỗ chân mày bước qua! Sao cho xương mày phơi trên đồng nội, sao cho quạ mổ mày đi! Cầu trời đừng bắt tao thấy lại mặt mày lần nữa! Mày chết đi cho khuất mắt tao, đồ quái vật, mày chết đi, chết đi, chết đi! - bà ta thét, rồi im bặt, vừa kêu gào vừa bỏ chạy. Có thể tưởng như bà ta muốn trốn thoát khỏi mớ tóc đang bay tả tơi trước gió đuổi theo mình.
Mấy người láng giềng vừa đến liền lên ngựa rượt theo.
Như sau một cơn ác mộng, đầu tôi cứ váng lên. Mình mẩy ê ẩm, tôi đờ đẫn ngồi trên yên ngựa. Đuysen cầm cương đi trước một quãng. Thầy lặng thinh, mái đầu quấn băng cúi gằm.
Đi mãi hồi lâu chúng tôi mới ra khỏi cái thung lũng ghê rợn kia. Hai anh công an vượt lên trước, cách chúng tôi khá xa. Đuysen cho ngựa dừng lại và lần đầu tiên nhìn tôi, đôi mắt buồn rười rượi.
- Antưnai ơi, thầy không bảo vệ được em, em tha thứ cho thầy nhé, - Đuysen nói, đoạn cầm lấy tay tôi áp lên má. - Nhưng dù em có tha thứ nữa thì thầy cũng không đời nào có thể tự tha thứ cho mình việc này được...
Tôi khóc nấc lên và gục xuống bờm ngựa. Đuysen đứng cạnh, lặng lẽ vuốt tóc tôi và đợi tôi nín khóc. Cuối cùng thầy nói:
- Em bình tâm lại, Antưnai ạ, ta đi đi. Em nghe thầy nhé. Hôm kia thầy vừa lên huyện. Em sẽ lên tỉnh học. Em nghe thấy không?
Khi chúng tôi dừng lại bên một ngọn suối trong veo tuôn chảy róc rách, Đuysen nói:
- Antưnai, em xuống ngựa mà tắm một chút. - Thầy rút trong túi ra miếng xà phòng nhỏ. - Cầm lấy, Antưnai, cứ tha hồ dùng cho hết. Thầy sẽ ra kia cho ngựa ăn cỏ một lát, em cởi quần áo xuống suối tắm đi. Và em hãy quên hết những chuyện đã xảy ra, đừng bao giờ nhớ đến nữa. Tắm đi, Antưnai, em sẽ thấy dễ chịu hơn. Được chứ?
Tôi gật đầu. Và khi Đuysen đã dắt ngựa đi khuất, tôi cởi áo quần, thận trọng bước xuống suối. Những viên sỏi trắng, tím, xanh, đỏ từ dưới lòng suối nhìn tôi. Làn nước xanh lơ chảy xiết réo lên quanh mắt cá tôi. Tôi lấy tay vốc nước vỗ lên ngực. Những dòng nước mát rượi chảy trên thân thể tôi, và tôi bất giác cất tiếng cười, lần đầu tiên trong suốt mấy ngày hôm ấy. Được cười, thích biết bao nhiêu! Tôi luôn tay vốc nước phả lên người, rồi gieo mình xuống làn nước sâu. Dòng suối băng băng cuốn tôi đến một cồn cát. Tôi đứng lên rồi lại ngụp xuống dòng nước chảy cuồn cuộn, tung bọt trắng xóa.
- Nước ơi, hãy cuốn đi tất cả những bùn nhơ, những nỗi ô nhục của mấy ngày hôm nay! Hãy làm cho tôi trong sạch như nước suối này! - tôi thì thầm.
Tại sao vết chân con người không còn lại mãi mãi ở những nơi thân thiết, đáng ghi nhớ đối với lòng họ? Giá giờ đây tôi có thể tìm lại con đường mòn mà Đuysen đã đưa tôi xuống núi, tôi sẽ phục xuống đất và hôn lên những vết chân của thầy tôi. Đối với tôi con đường mòn ấy là con đường dẫn tới mọi con đường. Thiêng liêng và diễm phúc thay ngày hôm ấy, con đường mòn ấy, con đường đã dẫn tôi trở về với cuộc sống, với niềm tin mới vào bản thân mình, với những niềm hy vọng mới, với ánh sáng... cảm ơn ánh sáng mặt trời, cám ơn mảnh đất ngày hôm ấy...
Hai hôm sau Đuysen đưa tôi ra ga.
Sau tất cả những sự việc xảy ra, tôi không muốn ở lại trong thôn nữa. Phải bắt đầu cuộc sống mới ở một chốn mới. Vả chăng mọi người cũng đều thấy tôi nghĩ đúng. Hai vợ chồng bà cụ Xaikan theo tiễn tôi, cuống quít, khóc lóc như trẻ con, dúi vào tay tôi những gói giấy, những bọc vải đựng thức ăn đường. Những người láng giềng khác đến từ biệt tôi, ngay cả ông Xatưmkin hay cãi cũng tới.
- Thôi, Thượng đế phù hộ con, - ông ta nói, cho đường đi của con sáng sủa. Con đừng sợ, con hãy sống theo lời dạy của thầy Đuysen tất sẽ nên người. Thôi, chúng ta đây cũng bắt đầu hiểu biết ít nhiều rồi.
Các học sinh trường chúng tôi chạy mãi theo chiếc xe ngựa và vẫy tay từ biệt tôi...
Tôi ra đi cùng với mấy em nữa, cũng được đưa lên nhà nuôi trẻ ở Taskent. Ở sân ga có một người đàn bà Nga mặc ao va-rơi đã đợi chúng tôi.
Về sau đã bao lần tôi đi xe lửa qua ngôi nhà ga vùng núi nấp dưới bóng phong dương này! Tôi thường có cảm giác như đã vĩnh viễn để lại một nửa trái tim tôi ở nhà ga ấy.
Trong ánh sáng loang loáng màu tím nhạt của buổi chiều xuân hôm ấy có một cái gì buồn hiu hắt, tưởng chừng như ánh hoàng hôn cũng hiểu thấu nỗi buồn chia ly của chúng tôi. Đuysen cố gắng không để lộ cho ai thấy thầy đau lòng đến nhường nào, tâm hồn thầy đang buồn khổ đến nhường nào, nhưng tôi thì tôi biết: cũng chính nỗi đau buồn ấy đang nghẹn ngào trong cổ tôi. Đuysen nhìn chăm chăm vào mắt tôi, thầy lấy tay vuốt tóc, vuốt má tôi, mân mê cả những chiếc khuy trên áo tôi.
- Antưnai ạ, lẽ ra không bao giờ thầy để em xa thầy một bước, - Đuysen nói. - Nhưng thầy không có quyền cản trở em. Em phải học. Vì thật ra thầy cũng chẳng biết được bao nhiêu chữ nghĩa. Em đi đi, như vậy tốt hơn... Có lẽ rồi em sẽ trở thành một người giáo viên thật sự và đến khi nhớ lại ngôi trường của chúng ta, em sẽ cười cũng nên... thầy chỉ mong thế chỉ mong được thế...
Xa xa có tiếng còi tàu hỏa rúc lên, vang dội khắp thung lũng quanh ga. Đã trông thấy những ánh đèn trên các toa xe. Mọi người nhốn nháo trên sân ga.
- Thôi thế là em sắp đi, - Đuysen xiết tay tôi nói, giọng run run, - chúc em hạnh phúc, Antưnai nhé. Và cái chính là em phải học, phải học...
Tôi không đáp, nước mắt trào lên nghẹn ngào không sao nói được.
- Đừng khóc, Antưnai ạ. - Đuysen lau nước mắt cho tôi, rồi bỗng như sực nhớ ra, thầy nói: - Còn hai cây phong mà thầy với em đã trồng, thầy sẽ tự chăm bón lấy. Và khi em đã trưởng thành trở về đây, em sẽ thấy chúng đẹp nhường nào.
Giữa lúc ấy tàu hỏa đã vào ga. Bánh xe lăn ầm ầm, các toa xe xô vào nhau lịch kịch rồi dừng lại.
- Thôi, chúng ta hãy chia tay nhau đi! - Đuysen ôm chặt tôi và hôn lên trán. - Chúc em khỏe, lên đường may mắn nhé, từ biệt em, Antưnai của thầy... Em đừng sợ, hãy mạnh dạn lên mà đi.
Tôi nhảy lên bậc toa và ngoái cổ lại nhìn. Không bao giờ tôi có thể quên hình ảnh Đuysen, tay treo băng, đứng nhìn tôi với đôi mắt nhòa lệ, rồi vươn người tới như muốn đến với tôi. Vừa lúc ấy đoàn tàu chuyển bánh.
- Từ biệt Antưnai! Từ biệt em, ngọn lửa nhỏ của thầy! - Đuysen kêu lên.
- Từ biệt thầy! Từ biệt thầy kính mến của em!
Đuysen chạy bên toa xe, dừng lại, rồi bỗng chồm lên gọi lớn:
- Antư-ư-na-a-ai!
Đuysen gọi như thể vừa quên nói với tôi một điều gì vô cùng quan trọng rồi bỗng sực nhớ ra, tuy biết rằng bây giờ đã muộn mất rồi... Cho đến nay trong tai tôi vẫn còn văng vẳng tiếng gọi ấy, thốt lên tự đáy lòng, từ những nơi sâu kín nhất của tâm hồn Đuysen...
Tàu hỏa chạy qua đoạn đường hầm rồi đổ ra đường thẳng, tăng tốc độ đưa tôi băng qua những cánh thảo nguyên của miền Kazakhơ tiến tới một cuộc sống mới...
Từ biệt thầy, từ biệt ngôi trường đầu tiên của tôi, từ biệt thời thơ ấu, từ biệt mối tình đầu của tôi, mối tình không hề thổ lộ với ai....
Phải, tôi đã được học trong một thành phố lớn như Đuysen vẫn ước mơ, trong những nhà trường lớn, có những khung cửa sổ rộng như thầy vẫn tả. Rồi sau khi tốt nghiệp trường dự bị đại học công nhân, tôi được gửi đi Matxcơva, vào trường đại học.
Tôi đã phải trải qua bao nhiêu khó khăn trong những năm học dài đằng đẵng, đã bao nhiêu lần tôi tuyệt vọng tưởng chừng không sao vươn được đến những đỉnh chóp cao siêu của khoa học. Và cứ mỗi lần như vậy, trong những phút gay go nhất tôi lại thầm giữ trách nhiệm đối với người thầy đầu tiên của tôi và không dám lùi bước. Những điều mà người khác học được ngay thì tôi phải chật vật lắm mới tiếp thu nổi. Bởi vì cái gì tôi cũng phải bắt đầu từ a. b. c.
Trong khi còn học ở trường dự bị đại học công nhân, tôi có viết cho Đuysen một bức thư thú nhận rằng tôi yêu Đuysen và chờ đợi. Đuysen không trả lời. Đến đấy chúng tôi không còn trao đổi thư từ gì với nhau nữa. Tôi nghĩ rằng Đuysen cưỡng lại tình cảm của tôi và của Đuysen nữa là vì không muốn cản trở việc học tập của tôi. Có lẽ Đuysen nghĩ đúng... Hay cũng có thể vì những nguyên nhân nào khác chăng? Dạo ấy tôi đã đau khổ và băn khoăn biết mấy về việc này.
Tôi bảo vệ luận án đầu tiên của tôi ở Matxcơva. Đối với tôi đó là một thắng lợi lớn, một thắng lợi quan trọng. Suốt mấy năm ấy tôi không có dịp về thăm làng vì chiến tranh bùng nổ. Cuối mùa thu năm ấy, trong khi rời Matxcơva tản cư đi Frunde, tôi ghé xuống nhà ga mà thầy tôi đã tiễn tôi lên đường. May sao gặp ngay được một chiếc xe ngựa đi về nông trường quốc doanh qua thôn chúng tôi.
Ôi, quê hương tôi, trong thời chiến tranh gian khổ tôi đã ghé về thăm người. Tuy nhiên mảnh đất thân yêu đã đổi mới, tôi vui mừng khôn xiết - những thôn ở mới đã mọc lên, nhiều cánh đồng được cày thêm, nhiều đường sá và cầu cống mới được xây, - nhưng chiến tranh đã gieo màu sắc thê lương vào chuyến gặp gỡ này.
Đi đến gần làng, tôi thấy lòng bồi hồi xúc động. Từ xa tôi đưa mắt ngắm những con đường làng trước kia không có, những ngôi nhà và những thửa vườn mới, rồi nhìn lên ngọn đồi trước đây có ngôi trường cũ của chúng tôi, và hồi hộp nghẹn thở: trên đồi, hai cây phong lớn mọc sát cạnh nhau, đang đung đưa trước gió. Và lần đầu tiên tôi đã cất tiếng gọi tên người mà suốt đời tôi đã gọi bằng “thầy” Đuysen.
- Đuysen! - tôi thì thầm - Cám ơn anh về tất cả những gì anh đã làm cho em, anh Đuysen! Anh không quên, tức là anh vẫn nghĩ đến... Em biết anh không thể khác được!..
Thấy mặt tôi ướt đầm nước mắt, người thanh niên đánh xe ngựa lo lắng hỏi:
- Chị làm sao thế?
- Không, có sao đâu. Anh có biết ai trong nông trang này không?
- Biết chứ. Ở đây toàn người quen cả.
- Thế anh có biết Đuysen không, trước kia làm thầy học ấy mà?
- Đuysen? Anh ấy đi bộ đội rồi. Chính tôi chở anh ấy từ nông trang lên ủy ban tuyển binh, cũng trên chiếc xe này.
Sắp vào làng, tôi bảo anh thanh niên dừng lại, rồi xuống xe. Tôi xuống xe và ngẫm nghĩ một lát. Bây giờ mà đi nhà này nhà nọ, thời buổi chiến chinh này mà đi tìm người quen, hỏi người này người khác xem họ có nhớ mình không, tự xưng mình là người làng đây, tôi không sao làm được. Đuysen thì đã đi bộ đội rồi. Vả chăng tôi đã thề sẽ không bao giờ đến nơi chú thím tôi ở. Người ta có thể tha thứ nhiều điều cho người khác, nhưng một hành động tàn ác như vậy thì tôi nghĩ không ai có thể tha thứ cho nhau được. Thậm chí tôi cũng không muốn họ biết tôi có về làng. Tôi rời đường cái đi lên phía hai cây phong trên ngọn đồi.
Ôi, hai cây phong, hai cây phong! Bao nhiêu nước suối đã trôi đi từ dạo chúng mày hãy còn là hai cây non bé nhỏ, thân xanh biếc. Tất cả những gì mà người trồng cây lên và chăm bón cho cây lớn hằng mơ ước, hằng tiên đoán, nay đều đã thành sự thực. Nhưng sao cây rì rào buồn bã như vậy, cây có điều gì sầu muộn mà nỉ non rầu rĩ như vậy? Hay cây than vãn về nỗi mùa đông sắp đến, và những cơn gió lạnh sẽ tỉa trụi lá trên cành cây? Hay nỗi đau buồn của dân ta đang rên rỉ trong thân cây?
Phải, mùa đông sẽ lại đến với những cơn giá rét, những trận bão tuyết hãi hùng, nhưng rồi xuân sẽ lại sang...
Tôi đứng hồi lâu lắng nghe tiếng lá thu xào xạc. Máng nước ở chân hai cây phong được ai dọn sạch cách đây không lâu: trên mặt đất hãy còn thấy những vết thuổng sâu, trông còn mới. Làn nước trong trẻo đầy ắp trong máng chỉ thoáng gợn lên một chút, và trên mặt nước rung rinh những chiếc lá phong vàng.
Đứng trên gò tôi có thể trông thấy nóc mái đỏ của ngôi trường mới, còn trường chúng tôi thì chẳng còn bóng dáng đâu nữa. Sau đó tôi xuống đường cái, đón một chiếc xe ngựa đi qua và lên ga.
Chiến tranh tiếp diễn, rồi kết thúc thắng lợi. Bao nhiêu hạnh phúc đượm mùi đắng cay đã đến với mọi người: lũ trẻ chạy đến trường đeo những chiếc xà cột dã chiến của cha chúng, những cánh tay đàn ông lại trở về với công việc đồng áng, những người vợ khóc ráo hết nước mắt rồi lặng lẽ dằn lòng chịu đựng cuộc sống góa bụa. Cũng có những người dai dẳng đợi chờ người thân. Vì không phải ai cũng trở về ngay được.
Riêng tôi, tôi cũng không biết Đuysen ra sao. Những người làng tôi lên tỉnh nói rằng Đuysen bị mất tích, ủy ban xã đã nhận được giấy báo tin như thế.
- Có lẽ anh ta chết rồi cũng nên - họ phỏng đoán, - thời gian cứ trôi qua, mà anh ta vẫn biệt vô âm tín.
“Thế nghĩa là thầy tôi không còn về nữa rồi, - tôi thường nghĩ. Thế là thầy và em không còn được gặp lại nhau kể từ cái ngày đáng ghi nhớ khi chúng ta từ biệt nhau ở ga...”
Đôi khi ngẫm nhớ lại dĩ vãng, tôi cũng không ngờ rằng hóa ra bao nhiêu buồn tủi đã tích lại trong lòng tôi.
Năm bốn mươi sáu, vào cuối mùa thu tôi lên đường đi công tác khoa học ở trường đại học tổng hợp Tômxcơ. Lần đầu tiên tôi đi qua Xibiri. Vào tiết cuối thu năm ấy, miền Xibiri thật khắc khổ và ảm đạm. Những cánh rừng già hàng thế kỷ chạy vùn vụt ngoài cửa tàu như một bức tường tối sẫm. Ở những khoảng rừng thưa thấp thoáng những mái nhà đen ngòm của các làng mạc với những làn khói trắng từ các ống khói bốc lên. Trên những cánh đồng lạnh lẽo, tuyết đầu mùa đã phủ xuống. Những đàn quạ xơ xác bay vật vờ trên tuyết. Trời lúc nào cũng xám xịt.
Nhưng ngồi trong toa tàu, tôi vui lắm. Người ngồi cạnh tôi trong ngăn toa là một cựu chiến binh, một anh thương binh đi nạng gỗ; anh ta kể những chuyện vui, những mẩu giai thoại ở bộ đội làm chúng tôi cười như nắc nẻ. Tôi không khỏi ngạc nhiên vì cái tài bịa chuyện không cùng của anh ta, và ở sau tiếng cười chất phác không hề có ác ý ấy bao giờ cũng cảm thấy một sự thật sâu sắc. Trong toa ai cũng mến anh ấy lắm. Khi qua Nôvôxibirxcơ, đoàn xe của chúng tôi phải dừng lại một phút ở ngã ba đường sắt nào đấy. Tôi đứng nhìn ra cửa sổ và đang cười vì một câu đùa mới của anh bạn đường.
Đoàn xe chuyển bánh, tăng tốc độ; một ngôi nhà ga nhỏ cô đơn lướt qua cửa sổ, và đến khi tàu đi qua chỗ bẻ ghi tôi bỗng vụt né người lại rồi ghé sát mặt vào tấm kính. Đuysen đang đứng đấy! Anh ấy đứng cạnh chiếc chòi canh, tay cầm cờ tín hiệu. Tôi không biết trong lòng tôi đã diễn ra những gì.
- Đứng lại! - tôi thét vang cả toa xe và lao ra cửa toa, tự mình cũng không biết phải làm gì, nhưng tôi chợt trông thấy cái dây khóa ống hơi hãm xe, liền lấy hết sức giật ra khỏi dấu niêm phong bằng chì.
Các toa xô mạnh vào nhau, đoàn tàu đột ngột bị hãm lại và đột ngột lùi về phía sau. Hành lý để trên giá đổ xuống ầm ầm, cốc chén rơi loảng xoảng, đàn bà và trẻ con kêu ơi ới. Có tiếng ai hét thất thanh:
- Tàu nghiến phải người rồi!
Tôi chạy ra bậc toa, nhảy xuống đất mà không trông thấy mặt đất ở dưới chân, như nhảy xuống vực thẳm, rồi vẫn thế, không trông thấy gì ở trước mặt, không hay biết gì nữa, tôi lao người chạy về phía chòi canh của người bẻ ghi, về phía Đuysen. Sau lưng tôi có những tiếng còi tới tấp của các nhân viên coi toa. Nhiều hành khách cũng nhảy xuống xe và chạy theo tôi. Tôi chạy một hơi dọc đoàn tàu. Đuysen cũng đã chạy ngược về phía tôi.
- Đuysen, thầy! - tôi vừa gọi vừa lao về phía Đuysen.
Người bẻ ghi đứng lại, ngỡ ngàng nhìn tôi. Đó chính là Đuysen, chính khuôn mặt ấy, chính đôi mắt ấy, chỉ có điều là bây giờ Đuysen để ria và trông hơi già đi.
- Chị làm sao thế, chị! - người bẻ ghi ân cần hỏi bằng tiếng Kadakh. - Chắc chị nhầm, tôi là người bẻ ghi Giagadin, tên tôi là Bâynêu.
- Bâynêu?
Tôi không biết làm sao tôi lại có thể kịp nghiến răng lại để đừng kêu lên vì buồn khổ, vì đau đớn và hổ thẹn. Tôi đã làm gì thế này? Tôi giơ hai tay bưng mặt và cúi đầu. Tại sao đất ở dưới chân tôi không sụt xuống? Lý ra tôi phải xin lỗi người bẻ ghi, xin lỗi hành khách, nhưng tôi cứ đứng im lặng như một tảng đá. Đám hành khách vây quanh, không hiểu tại sao cũng im lặng. Tôi biết thế nào họ cũng sắp quát mắng, chửi bới tôi. Nhưng mọi người đều im lặng. Và trong cõi im lặng ghê rợn ấy chợt có tiếng nấc của người đàn bà không rõ:
- Khổ thân, cô ấy tưởng tìm được chồng hay anh gì đấy, hóa ra không phải.
Đám người xôn xao lên.
- Sao lạ thế nhỉ, - có ai nói, giọng trầm trầm.
- Lạ gì, trong chiến tranh chúng ta đã phải chịu đựng bao nhiêu và cũng còn lại bao nhiêu cảnh éo le cay đắng... - một giọng đàn bà nghẹn ngào đáp.
Người bẻ ghi gỡ hai tay tôi đang bưng mặt và nói:
- Ta đi đi, tôi đưa chị về toa nhé, ở đây lạnh lắm.
Anh ấy khoác lấy tay tôi. Ở phía bên kia, một người sĩ quan nào cũng khoác tay tôi giắt đi.
- Ta đi thôi chị ạ, chúng tôi hiểu hết, - người sĩ quan nói.
Hành khách dãn ra, và họ dìu tôi đi như đi đưa đám ma. Chúng tôi chậm rãi đi ở phía trước, và mọi người bước theo sau. Những hành khách từ phía tàu đi lại cũng lặng lẽ nhập vào đám đông. Có ai khoác lên vai tôi một chiếc khăn choàng lông. Anh bạn cùng toa của tôi khập khiễng trên đôi nạng gỗ, đi vượt lên phía trước một chút và nhìn vào mặt tôi. Con người vui tính, hay đùa bỡn, tốt bụng và can đảm ấy không hiểu sao bùi ngùi để đầu trần đi bên cạnh tôi. Hình như anh đang khóc. Tôi cũng khóc. Và trong tiếng chân bước chậm rãi của đoàn người đi dọc các toa tàu, trong tiếng gió rít qua các hàng dây thép, tôi ngỡ chừng nghe thấy những âm thanh của một khúc điếu ca. “Không, mình sẽ không bao giờ còn gặp lại anh ấy nữa”.
Bên toa tàu của chúng tôi, viên xa trưởng chặn chúng tôi lại. Ông ta quát tháo, giơ ngón tay lên dọa tôi, nói những gì nào là vi phạm luật pháp, nào là phạt vi cảnh. Nhưng tôi lặng thinh không đáp. Tôi còn thiết gì nữa. Ông ta dúi vào tay tôi một tờ biên bản, bảo tôi phải ký vào, nhưng tôi không còn hơi sức cầm lấy cây bút chì nữa.
Lúc bấy giờ anh bạn cùng toa giật lấy tờ giấy trong tay viên xa trưởng, chống nạng tiến đến sát và quát vào mặt ông ta:
- Ông để cho cô ấy yên! Tôi sẽ ký. Chính tôi đã giật cái khóa hơi, tôi sẽ chịu trách nhiệm...
Trên đất Xibiri, mảnh đất cổ truyền của dân Nga, đoàn tàu vội vã cướp lại thời gian đã mất. Tiếng đàn ghi-ta của anh bạn cùng toa nỉ non buồn bã trong đêm. Tôi cứ mang theo trong lòng dư âm bi thảm sau lần đụng mặt với cuộc chiến tranh đã kết thúc từ lâu ấy như một khúc ca lời rền rĩ của những người phụ nữ Nga góa bụa.
Năm qua tháng lại, dĩ vãng đã xa xăm, mà hiện tại thì luôn cất tiếng gọi trở về với cuộc sống, với những nỗi lo âu bận rộn lớn nhỏ hàng ngày. Tôi lấy chồng muộn. Nhưng tôi đã gặp được một người tốt. Chúng tôi có mấy đứa con, gia đình chúng tôi sống rất hòa thuận. Bây giờ tôi đã là tiến sĩ triết học. Tôi thường phải đi công tác luôn. Tôi đã qua nhiều nước... Thế nhưng chưa bao giờ tôi về làng nữa. Dĩ nhiên có nhiều lý do, nhưng tôi không có ý định thanh minh. Tôi đã cắt dứt liên hệ với người cùng làng đó là một điều không tốt, không thể tha thứ được. Nhưng số phận tôi nó thế. Không phải tôi quên dĩ vãng, không, tôi không thể quên được tôi chỉ xa lánh dĩ vãng mà thôi.
Trên núi có những dòng suối như vậy: một con đường mới được đắp lên, người ta quên lãng con đường mòn dẫn đến suối và ngọn suối kia dần dần phủ kín dưới lau lách, bụi bờ. Đứng xa mà nhìn chẳng còn thấy suối đâu nữa. Và ít khi có ai nhớ đến dòng suối cũ mà từ đường cái rẽ về bên suối vào một ngày nồng nực để uống cho đỡ khát. Nhưng rồi một hôm có người tìm thấy nơi vắng vẻ ấy, rẽ đám lau lách ra và khẽ thốt lên: dòng nước mát mẻ, trong trẻo lạ lùng đã từ lâu không ai đến khuấy động làm vẩn đục, đang chảy lặng lờ, sâu thẳm, khiến cho khách phải ngạc nhiên. Khách nhìn xuống nước và trông thấy mình, thấy ánh thái dương, bầu trời, những rặng núi... Và khách nghĩ rằng không biết đến những nơi như thế này thật là có tội, phải kể lại cho các bạn bè cùng biết. Khách nghĩ thế rồi quên bẵng đi cho đến ngày thấy lại dòng suối lần nữa.
Trong cuộc sống đôi khi cũng như vậy. Nhưng có lẽ chính như thế nó mới là cuộc sống...
Tôi sực nhớ đến những ngọn suối ấy cách đây không lâu sau khi ghé về thăm làng.
Chắc anh rất ngạc nhiên không hiểu sao dạo ấy tôi bỏ Kurkurêu ra đi một cách đột ngột như vậy. Phải chăng không thể kể cho mọi người ở đây nghe tất cả những điều mà tôi đang kể cho anh nghe? Không phải. Lúc bấy giờ tôi bối rối quá, tôi xấu hổ, tôi thẹn cho mình quá, nên phải bỏ đi ngay. Tôi đã hiểu ra rằng tôi sẽ không tài nào gặp lại Đuysen, không thể nào dám nhìn thẳng vào mắt Đuysen được. Tôi cần phải bình tâm lại, sắp xếp lại những ý nghĩ đang rối tung, dọc đường suy nghĩ lại tất cả những điều tôi muốn nói không những với các bạn cùng quê mà còn nói với nhiều người khác nữa. Tôi còn thấy mình có tội nữa vì không phải tôi là người có quyền được trọng vọng đủ điều như vậy, được ngồi ở chỗ danh dự trong buổi lễ khánh thành trường mới. Đó trước hết là quyền của người thầy đầu tiên của chúng ta, người cộng sản đầu tiên trong làng chúng ta - thầy Đuysen già cả. Thế nhưng sự việc đã diễn ra trái hẳn. Chúng ta ngồi quanh bàn tiệc, còn con người vàng ngọc ấy thì đang hối hả chạy đi đưa thư, vội vã chuyển những bức điện chúc mừng của học trò cũ mình về cho kịp lễ khánh thành.
Mà đấy không phải là một trường hợp duy nhất. Tôi đã nhiều lần thấy như vậy. Cho nên tôi thường tự hỏi: chúng ta đã bỏ mất cách biết trân trọng con người bình thường như Lênin từng trân trọng tự bao giờ? May thay, giờ đây chúng ta nói lên những điều như thế một cách thẳng thắn không kèm theo chút đạo đức giả nào. Cũng rất hay là ngay cả trong việc này chúng ta đã cùng đến sát với Lênin hơn.
Lớp thanh niên không biết rõ Đuysen trước kia là một người thầy như thế nào. Còn thế hệ cũ thì đã nhiều người không còn nữa. Không ít các học trò cũ của Đuysen đã hy sinh trong chiến tranh, họ đã là những chiến sĩ Xô-viết chân chính. Lẽ ra tôi phải nói cho thanh niên hiểu rõ thầy Đuysen. Ai ở địa vị tôi cũng đều có nhiệm vụ làm như vậy. Nhưng tôi lại không về làng, tôi không hề biết gì về Đuysen, và với thời gian, hình ảnh của thầy đối với tôi đã dường như biến thành một thánh tích vô giá, được giữ gìn trân trọng trong cõi tĩnh mịch của một viện bảo tàng. Tôi sẽ trở về gặp thầy tôi và sẽ chịu tội trước thầy. Tôi sẽ xin người tha thứ.
Tôi định khi nào đi Matxcorva về, sẽ đến Kurkurêu và đề nghị với dân làng đặt tên cho nhà trường ký túc mới là “Trường Đuysen”. Phải, trường phải mang tên người nông trang viên giản dị ngày nay làm nghề đưa thư ấy. Tôi hy vọng rằng với tư cách là một người cùng quê, anh sẽ ủng hộ đề nghị của tôi. Tôi xin anh làm như vậy.
Ở Matxcơva bây giờ đã hơn một giờ đêm. Tôi đứng trên bao lơn tòa khách sạn, nhìn những ánh đèn lấp lánh tỏa rộng trên thủ đô và nghĩ đến lúc tôi sẽ trở về làng, tìm gặp Đuysen và hôn lên chòm râu bạc của thầy...
*
Tôi mở tung các cửa sổ. Một luồng gió mát lùa vào phòng. Trong ánh lê minh xanh nhạt đang sáng dần, tôi nhìn kỹ những bản nghiên cứu phác thảo của bức tranh tôi vừa khởi công làm. Những bức vẽ phác thảo ấy nhiều lắm. Tôi đã nhiều lần vẽ đi vẽ lại từ đầu. Nhưng bây giờ mà nói về toàn bộ bức tranh thì hãy còn sớm. Tôi vẫn chưa tìm ra cái chính... Tôi đi đi lại lại trong cảnh tĩnh mịch của buổi lê minh và cứ suy nghĩ, suy nghĩ mãi. Và lần nào cũng đều như thế. Lần nào tôi cũng lại thấy rõ rằng bức tranh của tôi chỉ mới là một ý đồ.
Tuy vậy tôi vẫn muốn nói với các bạn về tác phẩm dở dang của tôi. Tôi muốn hỏi ý kiến các bạn. Chắc các bạn cũng đã đoán ra rằng bức tranh của tôi dành cho người thầy giáo đầu tiên của làng chúng tôi - ông già Đuysen.
Nhưng tôi chưa hình dung được rõ liệu tôi có thể dùng thuốc vẽ mà thể hiện được cuộc sống phức tạp, đầy đấu tranh ấy, những nẻo đường đời và những tình cảm muôn màu muôn vẻ của con người ấy không. Làm sao cho khỏi sánh mất bát nước đầy; làm sao trao được tận tay các bạn, những người cùng thời đại với tôi? Làm thế nào cho ý đồ của tôi không phải chỉ thấu đến các bạn, mà còn trở thành một công trình sáng tạo chung của chúng ta?
Tôi không thể không vẽ bức tranh này, nhưng sao tôi thấy băn khoăn, lo lắng quá! Có khi tôi tưởng chừng rồi sẽ chẳng ra gì hết. Và những lúc ấy tôi lại nghĩ: tại sao số phận lại trớ trêu đặt cây bút vẽ vào tay tôi làm gì? Thật là một cuộc sống khổ ải! Lại có khi tôi cảm thấy mình dũng mãnh đến nỗi dù có phải chuyển núi dời sông tôi cũng sẵn sàng. Và những khi ấy tôi nghĩ: hãy nhìn đi, hãy nghiên cứu, chọn lọc. Hãy vẽ hai cây phong của Đuysen và Antưnai, chính hai cây phong đã cho tuổi thơ của mày bấy nhiêu giây phút sướng vui, mặc dù mày không biết rõ sự tích của chúng. Hãy vẽ một đứa bé đi chân không, da rám nắng. Nó trèo lên cao, thật cao, và ngồi lên một cành phong, đôi mắt hân hoan nhìn vào cõi xa xăm kỳ ảo.
Hay là vẽ một bức tranh đề là “Người thầy đầu tiên”. Đó có thể là lúc Đuysen bế trẻ em qua con suối, và cạnh đấy, trên những con ngựa no nê hung dữ, những con người đần độn đội mũ lông cáo đỏ đi qua đang chế giễu ông...
Nếu không, thì hãy vẽ người thầy giáo tiễn Antưnai lên tỉnh. Mày còn nhớ khi ông cất tiếng gọi Antưnai lần cuối cùng! Hãy vẽ một bức tranh như thế, sao cho bức tranh ấy giống như tiếng gọi của Đuysen mà đến nay Antưnai vẫn còn nghe vẳng lại, sẽ vang dội mãi trong lòng mỗi người.
Nguyễn Ngọc Bằng, Cao Xuân Hạo, Bồ Xuân Tiến dịch