← Quay lại trang sách

HÀNH CƯỚC

Con đường hiện lên từ chiếc gương đồng dính chặt tâm trí Thần Tông. Đó là con đường hành cước hun hút của kiếp trước, khi ngài còn là Từ Lộ. Khi ngài còn cùng Minh Không và Giác Hải khua chiếc tích trượng mòn vẹt, lội sông băng đèo trên đường sang Tây Trúc tìm thầy học đạo báo thù cha.

° ° °

Những đỉnh núi cao ngất phủ tuyết trắng xóa chọc trời. Không khí loãng, trong veo và buốt lạnh.

ba hành giả áo tơi lá gồi rách tơi tả, bên trong người bó chẽn bằng những lớp cỏ khô bện lại bằng dây mây. Những cơn lạnh thấu xương vẫn như chiếc thuốn sắt xuyên qua. Chiếc gậy trong tay Từ Lộ đã rơi mất bộ lục lạc. Dao cạo râu của Minh Không cũng mòn vẹt. Từ Lộ chỉ còn da bọc xương. Những chiếc mụn màu đỏ nổi lên khắp thân mình. Bả vai Minh Không lở loét, ruồi nhặng vù vù bám đuổi theo vết thương do rắn lục cắn trong lần Minh Không trèo lên cây vả nghiêng ngó tìm những quả vả còn sót lại mong cầm lòng sau ba ngày đêm không kiếm được miếng gì bỏ miệng. Riêng Giác Hải vẫn giữ được nước da nâu bóng của anh dân chài nhưng bên chân trái khập khiễng lết trên cây gậy, Dấu tích của lần bị ngã xuống vực sâu, may Từ Lộ nhanh trí thả dây rừng kéo lên.

Ba hành giả đứng run lẩy bẩy trước cổng một ngôi đền.

Những luồng gió hung dữ của cơn bão tuyết còn chưa thôi gầm gào trên những góc khuất khúc của thiền viện. Thiền viện đứng cô đơn trêm mỏm núi. Xa hoắm dưới kia là thung lũng phủ kín mây mù trắng. Trên đầu họ vẫn chưa thôi tiếng gầm rú của giông bão. Gió thổi khiến những dòng nước mắt ba hành giả không ngơi chảy xuống và lập tức đông lại thành băng tuyết trên những gò má đã đen xạm. Vậy mà trên cao bầu trời vẫn xanh thẳm đến kỳ dị và nắng như chảy xuống từng tia lạnh buốt.

Từ Lộ hối hả gõ đầu gậy lên cánh cửa thiêm thiếp của thiền viện. Ba người ngồi nép một bên, hồi hộp chờ cánh cửa mở ra. Một cơn buồn ngủ bỗng từ đâu kéo đến khiến mí mắt nặng trĩu. Giác Hải, Minh Không sụp xuống bên cánh cửa. Từ Lộ cũng cảm thấy hết sức khó khăn, như không chống nổi cơn buồn ngủ kéo đến. Nhưng chàng biết nếu không chống lại thì cái chết sẽ đến.

Từ nghiến răng rút mảnh dao của Minh Không, vạc một nhát vào bắp tay. Cơn nhói buốt xộc lên khiến Từ tỉnh hẳn. Máu rơi đỏ chói trên nền tuyết trắng. Từ dùng hai tay đấm cửa dữ dội, miệng thét: "Mở cửa... Xin hãy cứu chúng tôi!". Rồi Từ gục xuống không hay biết gì nữa. Cả ba người nằm như ba tảng băng trước cửa thiền viện.

Trận bão tuyết mới lại kéo đến. Rú rít trên thung lũng, trong hang đá tiếng hú hoài hủy của địa ngục và phủ lên thân mình ba hành giả tả tơi đói khát những lớp tuyết dầy trỉu nặng.

Trong thoáng chốc, một tấm thảm tuyết trắng lóa đã trải dài khắp cửa thiền viện che khuất hình hài của ba người.

° ° °

Từ Lộ tỉnh dậy dưới ánh sáng đỏ đục của ngọn đuốc lớn. Đôi mắt mệt mỏi mở rộng. Và Từ nhận thấy ở bên trên, rất gần, là gương mặt vàng óng của Phật Di Lặc dưới ánh sáng mờ ảo của ngọn nến vĩnh cửu nằm chính diện trên bàn thờ đá giữa những vật phẩm cúng dường như bánh cúng to-ma và những cây nhang lập lòe cắm trong những lư hương đẽo bằng đá. Gương mặt của tượng Phật Di Lặc thoáng cười mỉm. Từ nhìn quanh. Thì ra chàng, Giác Hải và Minh Không đang gối đầu lên đài sen dưới chân pho tượng Phật Di Lặc khổng lồ.

Từ bàng hoàng ngồi dậy.

Dường như ngoài kia tuyết đã tan. Không còn tiếng gào rú, rền rĩ bất tận của điệu nhạc địa ngục do cơn bão tuyết mang đến. Không khí trong ngôi đền ấm áp. Bao quanh chàng là vô số những tượng Phật lớn nhỏ và các Bồ tát. Bốn bức tường của ngôi đền được tạc đầy những bức họa Phật, thần rực rỡ hào quanh. Đồ đệ phủ phục dưới chân. Các thiên nhân nhảy múa cùng tiên nữ, đeo lủng lẳng trên bộ ngực trần những sọ người và chuỗi hạt đầu lâu. Ở dưới kia là loài phi nhân nhiều tay ôm nhau trong cuộc giao hoan, ngùn ngụt chung quanh là khói và lửa. Và ở dưới tít xa kia là biển sinh tử cùng với những thần rắn phun nọc đỏ.

Một hồi chuông đá với những giọng trầm đục trĩu nặng bất ngờ ngân lên từ phía hậu cung sâu thẳm của ngôi đền. Ba hành giả giật mình nhướn mắt cố tìm nơi phát ra tiếng chuông. Thì thấy sau bức tượng Phật Di Lặc một bóng người cao lỏng khỏng, khô héo đang ngồi tọa thiền tự lúc nào, lặng như không tồn tại. Từ đôi mắt của người này phả ra sự bình an. Đôi bàn tay với những ngón dài khô khỏng chỉ còn da bọc xương. Làn da tay đã ngả sang màu trắng đục như màu của những lóng xương. Đôi bàn tay đó để trên đầu gối, rủ bóng xuống dưới những ngọn nến như hai chiếc lọng nhỏ.

Có một sức mạnh vô hình chợt thúc lên trong lòng Từ Lộ. Quên đói khát mệt nhọc, Từ lết tới dưới chân vị đại sư, quì xuống cúi đầu chờ đợi. Giác Hải và Minh Không cùng lết tới. Ba con người râu tóc bơ phờ quần áo rách nát thân mình đầy máu mủ từ những vết thương do thú dữ cắn, do trượt ngã trên những mỏm đá tai mèo và những vết bỏng lột da do cái nắng gay gắt trong gió lạnh của đất Tây Trúc cùng lặng lẽ quì thành hàng trước mặt vị đại sư.

Cho đến lúc Từ thấy nằng nặng trên đỉnh đầu và chạy suốt tới tứ chi của chàng một luồng nóng hổi sinh lực và bằng an, chàng ngẩng đầu. Bàn tay của đại sư đang đặt trên đầu chàng. Từ đôi mắt của ông, thần nhãn như đang phóng ra những tia hào quang.

Đại sư Tzu!

Trên đường đi, Minh Không đã kể cho Từ Lộ và Giác Hải nghe không biết bao nhiêu lần về vị đại sư lừng danh này. Người đã trải qua nhiều năm khổ luyện phép lung-gom, muốn vượt lên cái chết bằng cách từ bỏ chính mình. Đại sư vừa trở lại ngôi đền này sau mười hai năm giam mình trong mật thất.

Cách đây mười hai năm, Tzu đã tìm cho mình một mật thấy tương tự nấm mồ đá. Nầm mồ chỉ độc nhất một lỗ cửa đủ cho người gầy gò chui lọt. Phía bên phải mật thất là một khe đá hình quả lê. Những tia nước trong vắt và lạnh buốt phun thành hình cầu vồng, chảy ngoằn ngoèo quanh mật thấy rồi rơi xuống thung lũng thăm thẳm sâu hút dưới xa kia khiến cho "nấm mồ đá" vị đạo sư chọn trông chênh vênh như một quả trứng chim màu xám treo lưng chừng giữa thinh không.

Một đoàn các vị lạt ma câm lặng và chậm chạp đi vòng quanh, đếm bước tiễn Tzu vào mật thất. Lặng lẽ nói lời vĩnh biết ánh nắng và gió trời, Tzu cả quyềt tuồn người vào trong cửa đá. Cái cửa ra vào duy nhất đó được bịt kín. Những tiếng cầu nguyện nhỏ dần, tắt hẳn. Người trong mật thất hoàn toàn bị tách biệt với thế giới bên ngoài.

Các vị lạt ma trở về đền. Trả lại sự im lặng miên viễn cho mật thất. Mối liên hệ duy nhất chỉ còn là mỗi ngày có một ống bằng tre được đẽo gọt cẩn thẫn hơ trên lửa, chuyên dùng đựng bánh chay, trà và bơ nuôi người trong mật thất. Chiếc ống được đẩy vào bởi một chiếc que nhỏ.

Người trong mật thất ngày ngày lần tràng hạt mà cầu nguyện, không biết tháng biết năm, người dần khô đét lại như loài ếch trú đông, linh hồn càng ngày càng nhẹ bỗng như đã lìa khỏi xác. Chỉ đếm được mùa hè qua mỗi lần mật thấy ấm lên.

Sau bảy năm, Tzu đã hoàn toàn xả bỏ quá khứ. Qua chín năm, Tzu quên luôn chính mình. Đến mười hai năm thì Tzu đã đi qua ngưỡng cửa của cái chết. Tái sinh.

Thoát vòng vô minh, khi ra khỏi mật thất, thân thể đại sư chỉ còn là một bộ xương cử động. Đôi mắt mù lòa không nhìn rõ vạn vật nhưng lại phát ra thần quang. Thần quang đó chính là cái nhìn tuệ giác để cứu giúp được kẻ khác.

Từ Lộ rùng mình khi nghĩ đến những gì mà đại sư đã trải qua trong mật thất. Trên con đường hành cước, câu chuyện về đại sư Tzu đến từ trên đầu lưỡi líu lo của Minh Không đã giúp cho ba hành giả đủ sức tới đất Tây Trúc. Tuy vậy trong đầu Từ vẫn biết Minh Không, Giác Hải mong đến Tây Trúc để học phép Lục Thông trở thành đại sư có năng lực tái thế. Còn chàng là người cắn răng nếm mật nằm gai vì nuôi mộng báo thù cho cha.

Khi Từ Lộ ngước lên, đại sư đã bỏ tay khỏi đầu chàng. Giọng nói rất trầm được cất lên từ bụng của đại sư khiến Từ giật nẩy mình:

- Sao nhà ngươi cứ lặn trôn mãi trong tam giới...?

Nghe vậy, Từ gục xuống bất tỉnh, bọt mép sùi, như người đã chết.

Minh Không, Giác Hải xúm lại kêu khóc.

Từ Lộ chợt thấy mình đang đi tới một cửa hang chói lòa ánh sáng. Những người canh cửa cầm kim cương chử đưa chàng bước qua ngưỡng cửa đi tới một con sông máu. Bên này bờ là Từ Vinh cha chàng xác trôi ngược trên sông tay vẫn trực chỉ đòi trả thù. Mẹ chàng mặc áo cưới lướt mướt chạy theo xác cha chàng, miệng gào khóc. Bên kia sông đức Quán thế âm Bồ tát trên đám mây ngũ sắc, năm ngón tay thon dài giữ cây tích trượng trưng cho lòng từ bi cứu giúp chúng sinh. Đức Bồ tát mỉm cười hỏi:

- Hành giả, ngươi đi đường nào?

Tà áo của Bồ tát phân phất bay trên đám mây để lại mùi liên hoa ngào ngạt. Một con đò hình sọ người ghé tới chân Từ Lộ. Từ đặt một chân lên đò.

Gã quỷ sứ thọt chân chèo đò nói:

- Lên đây. Đi trên con đò này, qua sông máu, cậu sẽ tới được chân Bồ tát.

Nhưng chiếc đò sọ người chòng chành. Xác của cha chàng dạt đến mạn thuyền. Mắt ông ngầu đỏ, miệng mím chặt. Từ ngày bị Diên Thành hầu và Đại Điên ám hại, xác ông cứ trôi dạt mãi trên con sông này.

Từ hét lên một tiếng kinh động. Chân chàng đạp vào con thuyền. Con thuyền hình sọ người trôi vèo ra xa, rồi chỉ còn là một chấm nhỏ xíu mất hút về phía chân trời. Từ bừng tỉnh, thấy mình vẫn đang ngồi trước mặt đại sư. Nước mắt Từ chảy ròng ròng:

- Đại sư! Con chưa thể rời cõi vô minh. Thù cha còn đó. Con sẽ trở lại đây sau khi báo oán. Còn bây giờ, dù thế nào cũng xin người đừng bỏ con!

Đôi dòng nước mắt đỏ chảy ra từ bên trong đôi mắt mù lòa của đại sư. Im lặng một lát, đại sư gọi:

- Hãy mang bánh ngô, trà nóng cho ba hành giả!

Một ngọn lửa được đốt lên từ những bánh rêu khô. Hơi nóng rực lan tỏa khắp ngôi đền. Hai tiểu đồng câm lặng ngồi nướng bánh cho họ. Bên ngoài gió lại tiếp tục rền rĩ. Mặt trời đã tắt. Những ngọn núi tuyết nhọn hoắt hắt ngược lên trời thứ ánh sáng huyễn hoặc khiến cho ban đêm ở xứ này mang vẻ nhờ nhợt của sớm mai.

° ° °

Tay phải Từ Lộ ném bột nhang. Tay trái chàng cầm bình đựng lửa. Những câu thần chú tuôn ra từ miệng, lửa cũng phụt ra theo những nắm bột nhang tẩm dầu. Chàng đang làm lễ lửa để sám hối. Trước khi từ biệt Tây Trúc, chàng phải thực hiện lễ này để hoàn tất con đường tu học đạo pháp, chống lại và diệt trừ các tà thần hiểm ác. Vừa ném nhang, chàng vừa đi quanh đống lửa, uyển chuyển đung đưa thân mình theo nhịp của câu thần chú. Lửa cháy bốc mùi thơm hắc. Tâm trí chàng cũng bùng cháy trở về ký ức.

Nắm nhang này cháy lên cho những giọt sữa dã nhân.

Thập vạn đại sơn cách ngôi đền chừng hai trăm dặm. Khua cây tích trượng cũ mòn, Từ cắn môi ra đi. Những bước chân ngày càng trầy trật. Đường núi hiểm trở trơn nhẫy băng tuyết. Vầng mặt trời cháy bỏng thiêu đốt trên đầu đủ khiến cho da người ta bỏng rộp. Lóa mắt vì nắng mà nắng không đủ sưởi ấm và làm tan băng giá. Chốc chốc, một trận gió trơn tuột vuột qua các đỉnh núi và thung lũng tuyết, khiến người đi rùng người sởn ốc.

Ngày ấy, rời ngôi đền và đại sư, giã từ Minh Không, Giác Hải, Từ xăm xăm nhằm hướng núi Thập vạn đại saơn mờ xa tít tắp luyện pháp thuật, luyện thần đạo, để nhanh chóng báo thù cho cha. Khi từ biệt, đại sư buồn bã nhìn chàng:

- Tiếc thay cho ngươi. Tài cao như vậy mà chỉ chăm chăm con đường nặng nợ luân hồi lạc kiếp. Nhìn hào quang tỏa ra quanh thân xác ngươi cũng đủ thấy ta không có cách gì ngăn cản được. Thôi! Cứ đi! Âu cũng là số kiếp. Con đường nào rồi rốt cục cũng về với đức Phật tổ. Mai sau, gặp nạn, hãy nhớ đến ta và những kẻ đồng hành của ngươi cùng ngày hội ngộ trên tu viện này...

Từ quỳ xuống, tạ ơn đại sư. Chàng và Giác Hải bịn rịn chia tay, ròng ròng hai dòng nước mắt. Riêng Minh Không thì cứ thản nhiên như chẳng có chuyện gì xảy ra.

Mình khoác áo choàng bằng da trâu rừng do đại sư Tzu ban cho, Từ cố sức chống đỡ với cái giá lạnh như muốn đóng khung chàng trong một chiếc quan tài bằng băng tuyết. Mỗi ngày, chàng chỉ leo được khoảng một đến hai dặm. Có lúc lạc đường, đi loanh quanh mãi, thấy nghi hoặc, mới mở chiếc bản đồ bằng da dê của đại sư đưa cho, lại cắn răng bật khóc quay trở lại đường cũ.

Qua bao ngày rồi không nhớ. Hôm ấy, khi đã cố sức mãi mới leo lên một mỏm núi có vẻ bằng phẳng, Từ nằm vật ra, ngửa mặt lên trời, định ngủ một giấc cho lại sức, thì chợt giật nẩy mình vì một cú mổ đau điếng.

Từ vùng dậy, hãi hùng thấy bầu trời chói chang trên đầu hồi nãy giờ tối hẳn lại. Nhìn kỹ hơn, mới thấy lượn trên đầu chàng một đàn chim đen kịt, con nào con nấy gầy giơ xương nhưng sải cánh cực rộng. Những cái mỏ nhọn hoắt đang há hoác lộ khoang họng đang tham lam há rộng.

Đôi mắt của hàng trăm con kên kên hau háu xói vào vết mổ đang rỉ máu trên đùi chàng như bị thôi miên. Tiếng kêu của lũ kên kên như xói như khoan vào óc. Sau cú mổ đầu tiên của con đầu đàn vào đùi chàng, lũ kên kên đã bay vụt lên cao và bây giờ chúng đang xếp cánh lại để lao bổ xuống.

Từ lạnh buốt cả sống lưng.

Ngay lúc đó chàng nhận ra rằng nếu đàn chim đói này sà xuống, da thịt phủ tạng của chàng sẽ bị rỉa thành trăm mảnh làm mồi cho bầy chim đói thịt này.

Thu hết sức tàn, Từ vùng dậy chạy thục mạng. Chạy cuống cuồng ra khỏi vùng núi bằng phẳng, mong tìm thấy một cái hang hoặc hốc cây để chui vào trốn lũ kên kên.

Nhưng mùi máu ở vết thương trên đùi Từ đã khiến cho lũ chim ăn thịt người càng say máu. Chúng khạc ra những tiếng kêu tức giận và đe dọa, ràn rạt bay theo miếng mồi đang kinh hoàng chạy trốn. Con chim đầu đã sà tới, mổ vào đầu Từ. Kiệt sức, Từ choáng váng ngã vật xuống. Từ nhắm mắt lại, chờ đợi giờ phút kết liễu cuộc đời mình.

Nhưng, không có gì cả. Chỉ có tiếng ràn rạt của đàn chim đang hối hả vỗ cánh lao đi. Những tiếng kêu mừng rỡ của lũ ác điểu háu đói tìm thấy mồi ngon.

Từ mở mắt.

Ở chính mỏm núi bằng phẳng, nơi chàng nằm lúc nãy, có một đám đông vừa tới. Hai người đi đầu khiêng một cái cáng làm bằng cành cây, trên cáng phủ lùm lùm một tấm vải thô màu trắng. Dưới miếng vải xõa xuống một mảng tóc con gái dài, đen mun.

Đám đông dừng lại, đặt cáng xuống. Mọi người tản ra thành vòng tròn vây quanh thân người chết nằm trên cáng. Họ bắt đầu đọc kinh. Không một giọt nước mắt. Một người mặc toàn màu đỏ, trùm đầu cũng bằng một chiếc khăn đỏ, tay cầm con dao sáng loáng, bắt đầu tách ra. Miệng ông ta lẩm nhẩm, thỉnh thoảng lại hú lên một hồi dài lạnh lẽo.

Lũ kên kên đã bay lượn thành một vòng trên đầu họ, chờ đợi, cất lên những tiếng kêu giục giã. Dường như chúng đã quen với cảnh này và tới đây như một lời hẹn trước.

Ngẩng đầu nhìn trời, hét lên một tiếng đột ngột vang động cả núi, người mặc áo đỏ cúi xuống. Với một sự nhanh nhẹn và chính xác đến kỳ lạ, con dao vung lên trong tay ông ta. Từng miếng thịt, da, gan ruột của người đàn bà chết được ông ta xẻo ra và vứt lên trời. Những con kên kên lao xuống như những mũi tên đón từng miếng thịt. Trong nháy mắt, thi thể chỉ trơ lại một bộ xương nham nhở. Người áo đỏ lấy ra một con dao lớn hơn, quỳ xuống, chặt xương ra từng mảnh nhỏ, tiếp tục tung lên trời. Tiếng chặt xương côm cốp rùng rợn dội vào vách đá nghe ghê cả răng. Lũ kên kên vẫn há miệng đớp. Không một miếng thịt xương nào rơi ra khỏi mỏ lũ kên kên.

Khi mảnh xương vụn cuối cùng của thi thể người đàn bà đã được tung lên hết, đám kên kên no nê uể oải bay đi, cất lên những tiếng kêu biếng nhác thỏa mãn.

Đám đông ngước mắt nhìn theo, nhảy nhót reo mừng. Họ nghĩ rằng, bằng cách điểu táng như vậy, người thân của họ đã được Trời thâu nhận và đổi sang kiếp khác.

Từ nôn thốc nôn tháo. Chàng lịm đi khi một cơn bão tuyết thổi tới. Chỉ còn kịp đau đớn tự nhủ: "Thế là ta chết ở chốn này. Bao công phu khổ nhọc, bao nung nấu trả thù... hàng vạn dặm đường... để làm gì nhỉ, nếu ta chết ở xứ sở xa lạ này?".

° ° °

Nắm nhang này cháy cho những giọt sữa của dã nhân.

Không biết đã bao nhiêu thời khắc.

Từ Lộ cựa quậy. Có một khối gì đó, mềm mềm, âm ấm, nồng nặc mùi muông thú, đè nặng trên ngực chàng. Chàng vừa muốn dùng tay gạt ra, lại vừa muốn lưu lại cái cảm giác được sưởi ấm. Chàng cố mở mắt mà không nổi. Miệng khô bỏng. Bụng rỗng, người lử lả không còn hơi sức.

Chợt có một vài tia nước chảy tràn trên môi chàng. Từ há miệng đón. Một dòng nước mong manh, ấm nồng, nhàn nhạt ngọt, hơi gây gây như sữa mẹ, tiếp tục chảy khó nhọc vào miệng chàng. Từ nuốt vội, lưỡi và cổ họng đều mát rượi.

Mẹ chăng? Thời chàng còn là một đứa trẻ nằm ngửa trong lòng Người, ngoẹo cổ tìm bầu vú âm ấm ngọt ngào.

Dòng nước mắt đùng đục, gạn chắt từ thân khô kiệt của Từ ứa ra, lăn xuống má.

Chàng mở mắt.

Kề sát, áp vào môi chàng, từ bên trên, là đôi núm vú đen sẫm và một khuôn ngực lông lá.

Trên cao hơn một chút, là đôi tay rậm rịt cũng đầy lông hung hung đang cố sức ép chặt bầu vú để những giọt sữa rỏ vào miệng chàng.

Trên cao, xa hơn, là một cặp mắt tròn lớn màu hoe nâu, không lông mày, đang nhìn chàng nửa âu yếm nửa dò hỏi trên một cái mũi tẹt dán sát cái miệng bẹt đầy lông lá của loài dã nhân.

Và tít trên cao nữa kia, một vòm hang trắng bạc, phủ đầy thạch nhũ, ấm áp, che phủ cho chàng và con dã nhân tóc dài...

° ° °

Nắm nhang này cháy lên cho những giọt máu của dã nhân.

Vẫn đi quanh đống lửa, Từ đung đưa thân mình nhịp nhàng theo những câu thần chú.

Nơi ấy, ngày ấy, trước hang đá nơi Từ ở cùng con dã nhân có một cây nhỏ. Đó chính là cáu gậy đại sư Tzu đã đưa cho Từ trước lúc ông chỉ cho chàng leo lên dãy Thập vạn đại sơn này.

- Nhà ngươi muốn học phép thần thông mang về báo oán. Oán là việc ác chẳng nên làm. Nhưng xét tình ngươi thật chân thành, chí người đã quyết, lửa oán ngùn ngụt bốc như núi cao. Thôi thì lẽ vay trả ở đời, chỉ có ngươi tự đem thân kiếp ngươi ra mà nghiệm thấy. Vậy ta cho ngươi cuốn sách da dê này. Đây là cuốn sách của một đạo sĩ. Trước đây ông ta độc cứ chín năm trên đỉnh Thập vạn đại sơn, một mình uống trăng ăn mặt trời nếm mật nằm gai tu luyện phép thuật cho đến lúc có phép thần thông biến hóa khôn lường, có thể sai khiến cát bay đá chạy.

Từ reo lên mừng rỡ:

- Đạo sĩ đó vẫn ở trên đỉnh Thập vạn đại sơn, thưa đại sư?

- Đạo sĩ đó có ghé qua đây, ngủ nhờ một đêm trong ngôi đền này, cậy răng cũng không nói. Sáng hôm sau xuất vía đi mất dạng. Trên chiếc giường đá chỗ ông ta ngủ, chỉ còn thấy lăn lóc cuốn sách da dê...

Từ thất vọng:

- Khốn thay cho con! Thưa đại sư, xin người chỉ đường cho con tìm ông ta.

- Tìm ông ta, có khác gì đuổi theo đám mây bay trên trời. Ngươi hãy mang cuốn sách lên núi, ngày ngày hãy đọc lại, tu tập phép thuật theo những gì ông ta ghi trong này. Chừng nào nhà ngươi hiểu thuần thục những lời trong bí chú này, ngày đó ngươi đã thành công và có thể trở về.

Từ nhìn những dòng không ra chữ, từng nét không ra cỏ lá cũng không ra que ra gậy:

- Thiếu sự chỉ bảo của người, con không chắc mình có thể hiểu nổi những bí chú...

Trỏ vào cây gậy, Đại sư nói tiếp:

- Không một người thầy nào có thể chỉ bảo cho trò được suốt đời. Cây gậy này sẽ chỉ hướng cho ngươi lên núi. Đến nơi, ngươi hãy cắm gậy này trước mặt. Nếu ngươi vượt qua được những thử thách khắc nghiệt, chiếc gậy này sẽ chỉ cho ngươi biết khi nào pháp thuật tinh thông, có thể trở lại vòng đời oan nghiệt oán thù!

Chiếc gậy mà Đại sư cho chàng chỉ là một khúc rễ cây khô khỏng sần sùi dài chừng hai tấc.

Chàng quỳ mọp xuống đất, đặt mũi vào chân tượng Phật Di Lặc, hít ba hơi dài. Vái ba vái từ tạ đại sư. Đại sư đã buông thõng hai tay, ngồi im phắc như pho tượng đá lạnh lẽo.

Xăm xăm nhằm hướng Thập vạn đại sơn mà leo. Núi cao chất ngất, vách dựng đứng, trơn trượt. Lúc này Từ mới hiểu công dụng của cây gậy. Vì chàng phải cúi rạp người xuống để leo dốc, cây gậy ngắn hai tấc trở nên rất hữu dụng. Cây gậy như có sức hút bám vào những dốc đá trơn trượt. Càng đi càng thấy hun hút thăm thẳm không bóng người...

Nỗi tuyệt vọng mỗi lúc một xâm chiếm chàng. Càng đi, lòng càng trĩu nặng vì cái chết của Nhuệ Anh bên thác Oán sông Gâm.

Linh hồn của nàng giờ ở đâu?

Bên kia sông máu, ở chỗ cha và mẹ chàng, không thấy bóng dáng linh hồn bé nhỏ mong manh của Nhuệ Anh.

Đẹp và trinh bạch như vậy, hẳn rằng nàng đã lên Niết bàn, ngày ngày mỉm cười nhìn xuống hạ giời, thương cảm cho thiên hạ đang chìm nổi như những cái kén trong nồi nước sôi Luân lạc?

Nhưng có ngày hôm qua! Nhuệ Anh chết oan. Vì chàng mà thể phách của nàng sẽ mãi mãi dật dờ bên thân xác.

Từ đập đầu vào đá, ngửa mặt lên trời mà khấn:

- Nhuệ Anh ơi! Kể từ khi nàng trầm mình nơi thác Oán, ta sống cũng chỉ là sống mượn thân sác này để làm nốt công viêc báo oán. Ngày nào từ Tây Trúc trở về, xong nợ oán cừu, ta sẽ đến sông Gâm, làm lễ giải oan cho nàng, rồi thể phách ta và nàng sẽ nhập làm một, dìu nhau bay đến một nơi không có ngày hôm qua, chẳng có ngày mai.

Dường như có tiếng thở dài lạnh buốt trên vòm trời. Một đám mây màu hồng mỏng tang trôi lạc lõng theo gió và biến tan trong nháy mắt. Từ thoảng nghĩ: "Nàng chăng?".

- Xuôi bè trên bến sông Quên, ta sẽ mãi mãi ngắm gương mặt nàng, đôi mắt lá đào dài hẹp thăm thẳm không đáy dưới đôi mày đa đoan màu khói vương... Chờ ta, Nhuệ Anh. Nàng đừng đi nơi nào, ngoài bến đá sông Gâm, thác Oán.

Nước mắt Từ ròng ròng trên má. Nước mắt không thể nuốt vào:

- Vắng ta, nàng phải lấy sương làm cơm, lấy gió làm rau, lấy thác nước làm lược chải tóc. Cái linh hồn bé bỏng đơn độc dật dờ trên bến sông...

Đau nhói trong tim, mỗi bước đi, hình bóng của Nhuệ Anh lại trĩu nặng. Cho đến lúc chàng gặp bầy kên kên trên mỏm núi và cuộc điểu táng rùng rợn của những người bản địa rồi được con dã nhân kéo về hang, vắt sữa vào miệng cứu chàng...

Vừa kịp nhìn thấy con dã nhân, chàng đã ngất đi vì kiệt sức.

Con dã nhân ngồi lùi ra một chút, ngồi cả lên mớ tóc dài, chăm chút ngắm chàng. Nó đợo hai bầu sữa căng trở lại.

Nó khịt khịt mũi nhớ đến mùi thơm hơi của đứa con vừa chết vì trận bão tuyết dữ dội.

Dã nhân nhìn cái sinh vật kỳ cục, yếu ớt, êm như một đống rêu khô nằm trước mặt.

Dã nhân sán tới, áp người lên cái sinh vật mềm và ấm đó.

Cái đống rêu khô này vừa có mùi của một con dã nhân đực, vừa giống như đứa con đã chết cóng của nó.

Dã nhân nhắm mắt, ngủ.

Tỉnh dậy khi bầu sữa đã căng tức trong ngực, dã nhân lại vươn người, vắt sữa vào miệng cái sinh vật kỳ lạ đó...

Được cứu sống và nuôi bằng sữa dã nhân, Từ đã bình phục. Chàng chua chát cười cho hoàn cảnh trớ trêu của mình. Đang định lên đường thì con dã nhân lăn lộn, rên rỉ và kêu lên những hồi dài thảm thiết như tiếng kêu khóc. Từ vẫn toan ra đi, dã nhân nắm chân chàng kéo lại, nước mắt ròng ròng, đôi mắt nâu sẫm mở to như mắt đàn bà.

Từ nhìn ra ngoài trời. Xa hết tầm mắt không bóng một ngôi nhà, một hang đá, một bóng cây.

Từ nhìn vào trong hang, nhìn kỹ, mới nhận ra dấu vết của một ai đó từng ở đây. Trên lối mòn đi vào hang có in những dấu chân lớn trên đá. Giữa ba hòn đá kê làm bếp vẫn có vết đen đen của tro tàn. Mở cuốn sách bằng da dê, xem lại, mới thấy, đạo sĩ đã đánh dấu chỗ này bằng một chấm tròn màu chu sa. Đồ rằng đây là nơi đạo sĩ đã ẩn cư và tu luyện được phép thuật, Từ ném tay nải xuống nền hang, ngồi xuống.

Con dã nhân ngừng rên rỉ.

Nhớ lời đại sư, Từ cắm chiếc gậy vào kẽ nứt giữa hai lèn đá nhỏ.

Thời gian ngưng đọng.

Lá cây rụng xuống che phủ.

Tổ mối đùn lên lấp dần...

Chiếc gậy mất dạng.

Những lời dặn dò của đại sư, gương mặt của hai đạo hữu Minh Không, Giác Hải mỗi lúc mỗi xa xôi, mỗi mông lung mờ ảo như sương như khói. Từ hầu như quên mất tiếng người, chỉ cắm mặt nếm mật nằm gai tu luyện theo những bí chú ghi trên tấm da dê. Con dã nhân ngày ngày kiếm củ quả nuôi chàng. Lâu ngày, Từ đã học được cách trò chuyện bằng những tiếng kêu u ê của loài dã nhân. Con dã nhân cũng đã quen với việc chỉ ăn những thức đã nướng trên bếp lửa.

Một buổi sáng, sau một giấc ngủ dài, Từ mở mắt.

Từ ngạc nhiên nhận thấy đúng chỗ kẽ đá chàng cắm cành que khô xuống, năm thắng, mùn lá, tàn mối đã phủ đầy, chàng đã bẵng quên đi từ lâu, giờ chợt một mầm non tím sẫm nhô lên từ khi nào. Từ vội chống tay nhỏm dậy. Chàng giật mình nhận ra đó chính là cái gậy khô khỏng mà đại sư đưa cho chàng. Gậy đã bắt rễ, nhô lên khỏi đất đá, trở thành mầm cây.

Từ đó hầu như ngày nào Từ Lộ cũng để mắt tới mầm cây nhỏ. Mầm cây mổi ngày mỗi nhô cao, như bắt theo nhịp luyện phép lục thông của Từ. Có điều lạ là cây nhô cao, đã đến năm tấc, bảy tấc... căng mọng nhựa, nhưng chỉ là một thân độc màu tím nhạt không cành không lá. Tít đầu ngọn, nơi đáng lẽ phải là một mầm lá xanh thì mãi vẫn chỉ là một đầu kim nhọn hoắt. Cái cây kỳ lạ, trông như một mũi chông nhỏ, một cây thuốn thép màu ánh tím. Cây mỗi ngày mỗi dài, lạnh lùng chọc thẳng lên trời cao.

Lại những đêm ngày dài dặc mung minh trong cái không khí âm âm buốt lạnh của Thập vạn đại sơn.

Cho đến một hôm, sau khi ngồi thiền định ba ngày dài dặc, không ăn không ngủ mà người vẫn sảng khoái, Từ phấn chấn dạo vài bước trên mỏm núi.

Bỗng thấy thân thể nhẹ như mây. Bước từ mỏm núi này sang mỏm núi khác chỉ trong nháy mắt.

Chàng tới bên một con sông nước đen kịt, bình thường thì sợ hãi nhưng bây giờ bỗng thấy muốn đặt chân xuống nước. Chàng tưởng rằng mình đang ngủ mê khi thấy chân lướt trên nước mà bàn chân không ướt, chỉ ba bước đã sang được bờ bên kia của con sông rộng.

Chàng quỳ xuống, hướng về phía ngôi đền của Đại sư Tzu, reo to:

- Đại sư! Con đã đạt được phép lục thông. Con đã nghe hiểu tiếng chim hót, tiếng dã nhân. Con đã đọc được bụng dạ kẻ khác. Con đã có thể xuất vía!

Từ hối hả trở về hang. Mới thấy, mặt đá trước cửa hang, nơi chàng ngồi thiền đã mòn lõm sâu hai vệt. Cả chỗ lèn cao mỗi lần Từ chống tay đứng đó trầm ngâm nhìn xuống bể mây bể khói mênh mang trên vực sâu, sương núi đọng thành vũng trong vệt hằn của những ngón tay chàng.

Sáng hôm sau, con dã nhân bỗng nhảy nhót trước mặt Từ Lộ. Nó lều quều túm vai, túm tay kéo Từ ra gốc cây mọc từ cây gậy của Tzu.

Từ xửng mắt nhìn. Trên thân cây tưởng chừng năm tháng đã se lại đặc quánh, trên đầu mút ngọn cây nhọn như mũi kim thép đen nhánh... xuất hiện những chồi những mầm nho nhỏ, non tơ.

Rất nhanh, chỉ một hai ngày sau, chồi non mầm non trổ thành cành, thành lá. Cành thì đen sậm. Lá thì thuôn dài, nhọn hoắt như những lưỡi dao và ánh lên màu xanh rợn ngời mỗi khi có bóng sáng lẻ oi lọt qua tầng lá dầy đặc trên cao hắt xuống.

Từ hồi hộp chờ đợi...

Năm hôm sau, nách lá nách cành trổ nụ.

Chỉ trong một đêm, những nụ hoa vụt lớn, vụt lớn phổng, mọng lên như những giọt máu tím ngắt. Rồi quả cây chi chít hình thành. Quả tròn, mọng căng chất nhựa bên trong như đón chờ, như mời mọc.

Con dã nhân lom khom đứng bên Từ Lộ.

Vừa vượt qua dốc núi cao, trên vai vác cành củi khô mang về cho Từ nhóm lửa sưởi đêm nay, dã nhân mệt nhoài, hổn hển. Nó nghênh mặt, đưa tay với một chùm quả trước mặt, trân trân ngó nhìn. Ánh mắt tò mò, lạ lẫm, vui mừng, thèm khát. Ngần ngừ. Chun mũi ngửi... Dã nhân bứt một quả chín nhất, mọng nhật cho vào miệng.

Quả chín thứ hai còn trên tay thân thể dã nhân bỗng bị co rút lại, giật lên từng cơn dữ dội, đổ vật xuống đất. Cành củi khô văng xuống quật vào chân Từ Lộ.

Từ Lộ hốt hoảng cúi xuống. Dã nhân vẫn giật giật khẽ. Chàng nhìn thấy khuôn mặt gồ ghề dại đờ dần, cặp môi thô nứt nẻ, hai bên mép tím nhợt sùi ra những dòng bọt đục trắng. "Trời...!". Tiếng kêu bật lên, xiết ngang cổ họng Từ. Chàng biết là dã nhân đã ăn phải thứ quả độc.

Nhưng dã nhân bỗng tỉnh lại. Nó nghển đầu cố vươn gần hơn nữa về phía Từ. Bàn tay năm ngón dài, mu bàn tay đầy lồng, lòng tay đỏ nhợt huơ huơ run rẩy như muốn nài nỉ van xin điều gì. Từ hiểu ý. Chàng vội nắm lấy bàn tay đó.

Đầu dã nhân nghoẹo xuống trên đùi Từ. Nhưng bàn tay của nó vẫn giữ chặt lấy mấy ngón tay chàng. Bàn tay nóng rực lên rồi lạnh dần, lạnh dần từng khắc một theo cái chết đang nuốt chửng toàn thân dã nhân. Hai bên mép bọt trắng đùn ra mỗi lúc mỗi nhiều. Có lẫn cả vệt máu đỏ. Dã nhân hực lên một tiếng. Mấy ngón tay bám chặt lấy tay Từ. Cặp môi dầy nứt nẻ chành ra mấp máy. Đôi mắt dại đờ cố ngước lên nhìn chàng lần cuối. Và từ trong đôi con ngươi mỗi lúc mỗi mịt mờ, mỗi thu nhỏ... hai giọt nước mắt ứa ra, sánh quyện như hai viên sỏi đục lờ lăn dài trên đôi gò má lông lá.

Từ Lộ nắm cứng mấy ngón tay của dã nhân, nức lên.

Không hiểu sao bên tai Từ lúc đó bỗng vẳng tiếng rạt rào của sóng nước, trong đầu Từ bỗng thoáng dềnh lên mái tóc, khuôn mặt, đôi mắt mở to đẫm nước của Nhuệ Anh trong buổi chia ly trên thác Oán sông Gâm xa lơ xa lắc năm nào.

Mãi sau, Từ đành lau nước mắt, tìm cách lật thân thể nặng nề của dã nhân lên, kéo vào hốc đá. Phải cố sức lắm mới gỡ được mấy ngón tay dã nhân đã lạnh giá, cứng như đá khỏi tay mình. Thân thể dã nhân vừa nhích ra, Từ nhìn xuống. Nơi quả cây trong tay dã nhân vừa rơi xuống dập nát, nhựa đen ứa ra, mảng cỏ hoang rêu đá chỗ đó lập tức úa vàng, mặt đất mặt đá nức toác, bốc khói.

Đêm đó Từ Lộ nằm bên xác dã nhân trong hốc đá, mắt mở trân trân. Nỗi đau đớn, cô đơn tràn ngập trong Từ. Không gian lắng im lạ kỳ. Chỉ thoảng tiếng chim lợn kiếm mồi đêm văng vẳng vọng dài, hút tan trên cánh rừng. Những giọt nước mắt lặng lẽ ứa ra chảy dài trên mặt Từ rơi xuống đọng thành những sợi băng buốt lạnh gẫy nổ tanh tách trên nền đá cứng.

Quá nửa đêm, chập chờn trước mắt Từ, bên xác dã nhân, bỗng thấp thoáng có bóng người.

Từ giật mình, chống tay định nhỏm dậy.

Nhưng thân thể Từ như dính bệt xuống nền đá.

Từ há miệng, không sao cất lên thành tiếng.

Trong sương mờ khói ảo, bóng người trước mặt Từ càng rõ hơn, lúc ẩn lúc hiện.

Một người đan ông cao to, quần đen áo đen, chít khăn đầu rìu, mắt tròn thô lố, hai chiếc răng nanh nhọn dài thò ra quặp xuống hai bên mép xanh rờn.

Người đàn ông cổ quái ấy quì sụp trước mặt Từ:

- Bẩm thiền sư... Tứ trấn thiên vương sai đệ từ đến hầu hạ người!

Từ giật mình mở mắt.

Thì ra chỉ là một giấc mơ. Nhưng kìa, trước mặt, bên xác dã nhân kia vẫn như thấp thoáng bóng người quì ở đó. Bên tai vẫn như thoang thoảng tiếng bẩm báo của người đàn ông quần đen áo đen...

Nhớ lại lời đại sư Tzu dặn dò trước khi chỉ lối lên đây, Từ Lộ hiểu rằng phép thuật đã tinh thông, thù cha đã đến lúc trả báo...

Sáng hôm sau, Từ Lộ dọn hốc đá nơi trú ngụ hơn sáu năm qua của chàng trên đỉnh Thập vạn đại sơn làm mồ chôn thi thể dã nhân.

Đặt hòn đá cuối cùng lấp ngoài cửa hốc, Từ quì xuống, dập đầu khấu lạy dã nhân ba lạy.

Rồi Từ gạt nước mắt, chống tích trượng tìm đường xuống núi.

Xuống đến chân núi, Từ ngập ngừng, quay ngược lên nhìn về phía hang đá. Rồi, chàng vùn vụt chạy ngược trở lên. Chàng đào ngôi mộ vừa chôn, nhìn lại một lần nữa cái gương mặt đã chết của ân nhân. Thân thể của dã nhân đã khô đét lại, cái đầu rời ra như bị ai cắt, ở nơi đó mặc nghẹn một hạt độc.

Ngần ngừ giây lát, Từ cúi xuống, xé vạt áo bọc lấy cái đầu của dã nhân, cẩn thận cho vào tay nải mang theo trên lưng.