← Quay lại trang sách

NGHIỆP CHƯỚNG

Sư bà và Minh Không vùn vụt đi, thoáng chốc đã về tới cổng Diên Đức ở phía Bắc kinh thành.

Trong điện Thụy Chương, các quan và ba quân đang nhốn nháo. Người thì tỏ vẻ lo lắng hết đứng lại ngồi bồn chồn. Người thì ra chiều hớn hở như sắp gặt hái được vận may. Từng dẫy mâm bát dọn ra cho các quan lại ăn uống trong những ngày chầu chực chờ tin tức về bệnh tình của Hoàng thượng. Xa xa, ngoài cổng thành, tiếng rống của những con bò bị giết, tiếng rên rĩ của đám lợn bị chọc tiết xen lẫn với tiếng nhặng bay. Kinh thành nhộn nhạo như không khí chuẩn bị của một bữa cổ đám ma.

Từ xa, sư bà đã thấy đám ám khí râu ngô ngùn ngụt bốc lên trên nóc cung điện, trùng với chỗ đặt long sàng của vua.

Ám khí đó gió thổi không tan, mặt trời rọi không thủng, cứ giật dưỡng co cụm như một vòi rồng có mỏ khoằm dữ tợn móc xuống hút chặt lấy nóc của điện Càn Nguyên và Tử Cấm Thành. Từ đám khí đó phả ra mùi hăng hắc làm ngứa mũi như mùi nhựa khoai môn hòa lẫn với mùi lông lợn cháy khét. Luồng khí sập xuống, che tối cả những ngọn đèn lồng vẫn phải đối lên giữa ban ngày để xua đuổi tà ma.

Kinh thành như đang có tang, khắp nơi dân chúng ngơ ngác thì thụt bước đi rón rén. Tiếng đồn về vua hóa hổ đã lan đến tận hang cùng ngõ hẻm. Những bậc trí giả thì lo trong nước sẽ xảy ra cảnh tranh giành ngôi báu, đẩy dân đen con đỏ vào cảnh nội chiến loạn lạc nồi da nấu thịt. Dân chúng không nghĩ sâu xa như vậy. Nhiều người không sợ vua băng hà chỉ lo nếu vua hóa hổ thì đến một ngày vua sẽ ban lệnh ăn thịt con dân. Không dám nói ra miệng. Cũng không dám túm năm tụm ba bàn tán. Triều đình đã ra lệnh: hễ ai cả gan túm năm tụm ba hoặc nhắc đến chữ "hổ", "cọp" thì đều là phường khi quân hoặc có âm mưu phản loạn. Những kẻ đó, nếu nhà chức trách bắt được, nhẹ thì bị trói ở đình làng, người nhà lo bán ruộng bán trâu đút lót mà chuộc người về. Nếu nặng, mà hỗn xược, dám cãi lại nhà chức trách, có thể bị xử vào tội chết.

Sư bà hết ngắm nhìn những con mắt len lét sợ sệt của đám chúng dân trên đường đi lại nhìn đại sư Minh Không Đại sư vẫn bước thênh thênh. Vai cà sa trễ tràng. Trong tay nải treo lủng lẳng trên đầu thiền trượng vươn ra một chiếc roi lớn bằng cành tầm ma đại sư mới tiện tay bẻ trong lúc ông lướt qua nhà một bà góa làm nghề dệt vải bên sông Cái. Những tàu lá tầm ma héo rũ vẫn phơ phất nơi đầu roi. Trên chiếc đầu trọc, đàn ruồi nhặng bay vần vụ như một đám mây.

Đám lính ngự lâm trông thấy vị hòa thượng đầu tóc lởm chởm, áo quần lôi thôi lếch thếch và một sư bà gầy yếu, tay nải màu già khoác ngang lưng, cà sa lầm bụi đường trường cứ một mực xăm xăm vào cổng thành, ngỡ phường không ăn mày ăn xin cũng là đồ nghịch tặc, lập tức vung giáo chặn đường, quát lớn:

- Lũ trọc trốc xuẩn ngốc này! Chỗ cấm thành thâm nghiêm là nơi cho các người khất thực đấy hẳn? Mau mau cút đi nơi khác, hễ chần chừ, lập tức đầu lìa khỏi cổ.

Sư bà nói, mắt không nhìn ai:

- Ta vâng mệnh triều đình đi tìm thầy giỏi về chữa bệnh cứu nhà vua. Mau mở cửa mời đại sư vào!

Bọn lính canh rũ ra cười.

- Cha cha... Cả viện Thái y còn bó tay. Bao nhiêu danh gia cho đề đệ lên rừng xuống biển tìm bùa thiêng, thuốc quý đem về dâng vua uống còn không thuyên giảm. Mụ già này điên rồi nên mới ăn nói xằng bậy. Mụ muốn mất đầu hay sao mà dám đi mời gã hòa thượng bẩn thỉu này! Mau bước!

Đại sư Minh Không chẳng hề đếm xỉa đến mũi giáo hung hăng của lũ lính canh, cứ điềm nhiên bước tới. Hai tên lính trợn mắt nghiến răng cầm giáo đâm vào bụng Minh Không. Lưỡi giáo ánh lên xanh lẹt. Đại sư mặt chẳng hề biến sắc, khẽ hất tay. Những tên lính bị cán giáo dội ngược vào ngực ngã lăn ra bất tỉnh.

Tiếng huyên náo nổi lên khiến Tổng quản Thái giám hốt hoảng chạy tới. Vừa trông thấy sư bà, Tổng quản Thái giám kêu lên mừng rỡ:

- A di đà Phật! Sư bà đã về. Hoàng thượng mong bà từng khắc...

Sư bà nôn nóng ngắt lời:

- Hoàng thượng ra sao?

- Nguy lắm rồi. Ngài đã cào rách sâu vào ngực, chực moi tim ra. Khi không lên cơn, ngài nằm mệt lả, thỉnh thoảng mút mát đôi giọt máu tươi, chờ chết.

Tái nhợt, sư bà chỉ tay:

- Tôi đã tìm được Minh Không đại sư!

Tổng quản Thái giám chắp hai tay trước ngực, cùi đầu:

- A di đà Phật! Bồ tát đại từ đại bi cứu khổ cứu nạn... Từ ngày Đại sư bỗng dưng bỏ đi không một lời nhắn gửi lại, Hoàng thượng nhớ tiếc, lệnh cho chúng tôi đi tìm khắp nơi để đón rước đại sư. Nay có lẽ hồng phúc nước Nam ta còn chưa đến ngày tán tận... Thỉnh đại sư và sư bà đến ngay nơi Ngài ngự. Việc đã nguy cấp lắm.

Ba ngượi vội vã đi vào trong cung.

Tổng quản Thái giám dừng lại trước cánh cửa gỗ nghiến sơn đỏ nặng trịch. Nói rằng do bệnh Ngài ngự quá nặng, để nằm mãi ở long sàng không tiện, nên mới rước Ngài vào đây cho dễ bề phục thuốc.

Sư bà nghe, biết tính mạng của Đứa vua đã ở vào tình thế tuyệt vọng. Những ngày đi lại trong nội cung gần đây để truyền dạy Phật đạo cho đám cung nhân sư bà biết rằng, ngôi cấm phòng có cánh cửa gỗ nghiến nặng trĩu này là cửa sau của cung Vĩnh Quang, nơi thường để thi hài các bậc thành thượng khi băng hà. Nhuệ Anh ròng ròng nước mắt. "Nán lại. Vị đế vương điên rồ của ta! Lẽ nào...".

Sư bà vụt lên trước, gạt cả Minh Không và Thái giám. Bà đưa đôi nắm tay gầy đập cửa dữ dội, mắt nhòa nước.

- Cánh cửa nghiến nặng nề mở. Bức màn đỏ nặng trĩu được kéo sang bên.

Giữa tấm đệm màu đỏ thêu rồng vàng, một thứ gì đó không ra hình thù, không hiểu còn sống hay đã chết. Từ gáy cho đến cổ cái vật đó được phủ một lớp vẩy cứng xanh như màu da rắn lục. Toàn thân bao bọc những vệt lông loang lổ vằn vện. Mười đầu ngón tay như được vót nhọn và cong quặp lại như vuốt. Nhìn gần, mới thấy cái thân hình đó nằm sấp soãi ra trên giường như cách nằm của một con hổ đang hấp hối. Phía sau sư bà, Viên Tổng quản Thái giám bất giác lấy tay bịt mũi. Rồi chợt nhớ ra đó là cử chỉ khi quân, liền tự vả ba cái vào miệng mình.

Sư bà nhận ra rằng, chung quanh Đức vua hóa hổ không đông đúc như trước đây, thời Vua mới lâm bệnh. Đâu rồi những hoàng hậu, phu nhân, cung tần mỹ nữ xúm xít chầu chực ở bên? Chỉ còn một đàn tràng khổng lồ và các đạo sĩ mỏi mệt đang thiêm thiếp ngủ. Đâu rồi các cận thần thắt lưng xanh, ngọc cài bên hông, mũ mãng cân đai sáng rực, đứng xung quanh long sàng phù trợ làm nên cái oai vệ của một bậc đế vương? Khi không có những đồ nghi vệ và người ngợm tiền hô hậu ủng, một bậc đế vương trông thậm chí còn nhỏ bé, trơ trọi và bất lực hơn một kẻ thường dân lâm nạn.

Từ phía cuối long sàng Vua nằm, trong bóng tối bị che khuất bởi bức trướng cũng màu đỏ, một giọng trong vắt cao vút cất lên. Sư bà giật mình. Thổn thức một bài đồng dao:

... Nu nống nu na

Mưa rơi xuống đá

Mưa làm nát đá

Sư bà như bị chích một mũi kim vào ngực. Bà cố nhướn đôi mắt đã mờ vì có một làn nước mắt che phủ, cố tìm người đang cất giọng hát ru.

Ngồi bệt trên nền đá cẩm thạch, tựa lưng vào chiếc sập Vua nằm, một người con gái hình vóc mảnh mai như liễu. Đôi mắt cháy rực lấp lánh trong bóng tối. Chân co chân duỗi, không nhìn Đức vua, không nhìn bất kỳ ai, người con gái ấy cất tiếng đồng dao lạc lõng.

Ngạn La!

° ° °

Từ ngày thoát chết trên giàn thiêu, được đưa vào cung đến nay đã gần mười năm. Biết bao nhiêu đắng cay tủi nhục, bao nhiều hành hạ về cả thể xác lẫn tâm hồn mà Ngạn La đã phải trải trong nơi cung cấm. Thế mà tất cả những điều đó vẫn không làm thay đổi được nàng. Nàng vẫn là cô bé mười ba tuổi ngày nào. Vẫn cặp mắt mèo hoang làm bàng hoàng, rụng rời người ngắm. Vẫn vẻ đẹp như có như không, quá cách biệt quá xa lạ với cái không khí âm âm vàng son quyền quí và thấm đẫm mưu đồ, nhục dục nơi thâm cung.

Sống đời cung nữ, Ngạn La học rất nhanh điệu múa "Nghê thường" mà người ca công đã học được từ triều đình nhà Tống về dạy lại. Nghe nói điệu múa này được truyền lại từ ông vua hào hoa Đường Minh Hoàng và ái nhân của ông là nàng Dương Quý Phi. Người ta nói điệu múa này đẹp nhưng chỉ mang lại rủi ro cho vương triều. Nhưng đứa Thần Tông cứ buộc các cung nữ trong cung phải học. Khi Ngạn La múa điệu này, thân hình mảnh và dẻo như liễu của nàng như tan vào điệu múa. Cả người nàng là một chuỗi ánh sáng uốn lượn. Vua ngẩn ngơ xem, hồn phách mải chơi vơi nơi đầu dây lưng.

Thường khi, điệu mùa vừa dứt, Vua mắt sáng long lanh, dìu nàng đến ngồi trên một chiếc mâm vàng chạm trổ cầu kỳ đặt bên cạnh ngai vàng, lùi ra xa ngắm rồi vỗ tay tán thưởng. Tiến lại gần, nhìn cho tận mặt vẻ kiều diễm hoang lạ của nàng. Ngẩn ngơ. Rồi ban cho nàng trân cam mỹ vị. Các đại thần dự yến tiệc mãi đến lúc đó còn chưa qua được cơn choáng ngợp, ngẩn ngơ như bị thôi miên. Thần Tông nhìn ánh mắt ngơ ngẩn của các quan mà nở nang từng khúc ruột. Trong khi đó Hoàng hậu và các cung phi thì sầm mặt xuống, không giấu nổi vẻ ghen tức. Dù mặt luôn luôn cúi xuống cho phải phép nhưng Ngạn La vẫn cảm thấy những luồng mắt khía vào da thịt mình như dao đâm. Vì thế, nàng rất ít khi chịu múa cho Thần Tông xem. Nàng thường lấy cớ nọ cớ kia để thoái thác, khiến Vua phải nài nỉ nhiều quá có lúc nổi giận. Học múa thì nhanh nhưng riêng về hát thì nàng rất tối dạ, chỉ nhớ lời của những bài đồng dao mẹ ru ngày xưa. Những lời ca con trẻ thánh thót trên môi mỗi lúc nàng vui, còn những khúc nhạc cao sang quyền quí của cung đình thì nàng không thể nào hát nổi.

Hồi còn nhỏ, mỗi khi nàng chạy chơi ngoài đồng ngộ nắng, đêm về sốt mặt đỏ phừng phừng, bứt rứt xé quần xé áo, mẹ nàng đã vò nước lá nhọ nồi cho nàng uống và ru dỗ nàng bằng những bài đồng dao. Uống lá nhọ nồi xong, môi xanh đầy nhựa lá, nàng ngả vào lòng mẹ, lắng nghe những điệp khúc đồng dao ngô nghê gần như vô nghĩa, lòng dịu lại, thiu thiu trong cơn buồn ngủ đê mê.

Từ khi Vua bị bệnh hiểm, trong một lần hoảng hốt bối rối vì những cơn cào xé ngày càng tuyệt vọng của Đức vua, Ngạn La đã bất chợt cất tiếng hát. Nàng cất lời ru tiễn Đức vua về trời.

Nàng cầu mong cho Đức vua, con người đã hai lần cứu nàng thoát chết, được mau chóng về trời để chấm dứt mọi khổ sở đau đớn. Về nơi mà nàng nghĩ rằng những lời hát của nàng sẽ ấm êm như một lối đi rải lá để linh hồn bé bỏng thương tổn và lầm lạc của Ngài ngự được dẫn về trời.

Không để ý đến cõi Phật hay Niết Bàn. Chỉ biết cái khoảng trời của nàng, nơi đó có linh hồn của mẹ, đẹp như một tiểu thư phiêu dạt mà một cơn bão tàn ác đã giật ra khỏi giường nhung chiếu lụa, mang đứa con gái đỏ hỏn trên tay, chịu phận mò cua bắt ốc, đã chết sau khi phải chứng kiến cảnh con mình bước lên giàn thiêu. Đôi khi nàng cũng mơ về người cha mà nàng không bao giờ nghe mẹ nhắc tới. Dường như trong lòng mẹ nàng chứa chất cả nỗi yêu thương xen lẫn thù hận...

Nhìn Đức vua vật vã trên long sàng, Ngạn La thấy thương vua, thương thân, thương những người đang phải sống, kéo lê đời mình trong cực nhọc đau đớn. Nàng mừng cho mẹ. Hẳn linh hồn mẹ nàng cũng đang xúm xít vui vầy cùng những đứa trẻ bạn nàng. Chúng bị chết lòi ruột vì trâu húc hoặc bị sa chân xuống vực nước sâu khi mò tôm hoặc bị ngã dập đầu chết khi trèo cây. Nhưng khi đã về ở chốn ấy thì tất cả đều lành lặn. Bụng của những đứa trẻ thì hút lành những khúc ruột đã bị lồi ra và phẳng phiu như cũ. Nếu nàng chết thì lên trên đó nàng sẽ trở lại là một cô bé bắt cua nhưng là bắt những con cua con ốc bằng vàng và những lời đồng dao là những lớp lá mịn màng mềm mại thơm mùi hương như mùi lá sả và mùi của những bông hoa dại bị vò nát. Kiếp này ông vua oan nghiệt hóa hổ, nàng dẫn ông ta lên bầu trời của nàng để trên đó ông ta sẽ trở lại là một đứa trẻ chăn những con trâu bằng mây trắng...

Mưa trở về trời

Nu na nu nời

Ru trời

Trời rơi...

Ngạn La hát. Vừa hát mà vừa rùng mình. Tim nàng thắt lại theo dõi theo nhịp thở đang đứt quãng dần của Thần Tông. Dường như bệnh có dịu đi. Tay bớt cào xé. Ngài nằm thiêm thiếp. Ngạn La đỡ sợ nhưng không khỏi mường tượng thấy một giàn thiêu đang đợi chờ mình và những cung nữ xấu số sau khi đôi mắt quyền uy kia vĩnh viễn nhắm lại.

Ngạn La hát. Để đợi sư bà về. Sư bà về, biết đâu Ngài ngự được cứu sống. Nàng sẽ thoát khỏi giàn thiêu. Rồi Đức vua sẽ sống lâu hơn nàng, để nàng không phải một lần nữa bước lên giàn thiêu sau khi Vua chết đi. Hoặc, nàng đã kịp kiếm được cơ hội trốn ra khỏi kinh thành, làm một con sóc nhỉ cam tâm nhặt nhạnh hạt dẻ để suốt đời sống bình yên trong khu rừng đầy ánh nắng. Mười năm trong cung cấm, nàng vẫn là trinh nữ. Ôi Đức vua! Người đã cứu sống ta nhưng rồi suốt đời người chỉ mang tai họa đến cho những người yêu thương người...

° ° °

Nghe tiếng đồng dao thánh thót như tiếng con trẻ mà xa xót đến trào nước mắt của Ngạn La, sư bà Nhuệ Anh bỗng òa lên nức nở. Cô cung nữ bé bỏng, hoang dại mà ngay từ lần đầu trông thấy đã khiến trong lòng bà trỗi dậy bao tình cảm trái ngược. Không hiểu sao cô ta lại khơi gợi ở bà một thứ ủy mỵ tựa tình mẫu tử.

Cuộc đời của bà cũng đã bị cướp đoạt. Bà không được nếm cuộc sống bình thường của một người đàn bà.

Dù đã gần suốt đời gửi thân chốn cửa Phật, trong đáy cùng tâm trí, suốt đời, Nhuệ Anh vẫn ao ước không nguôi về một đứa con. Đôi lúc bà ngỡ như mình đã có một đứa con gái, đẹp như bà hồi còn là tiểu thư Nhuệ Anh. Khi lần đầu tiên nhìn thấy Ngạn La, bà sửng sốt, tim đập liên hồi, tưởng như đó là đứa con gái đã nghịch ngợm bước ra từ cái bào thai mà suốt đời bà không được mang nó trong lòng. Nó đã lêu lổng đi chơi xa, để rồi bây giờ đến đây chơi trò ú tim với mẹ nó. Dường như những giọt máu của bà vẫn đi ra ngoài khoảng không, chắt chiu nuôi dưỡng cái bào thai đó để đến một ngày nở ra cái cô gái nửa người nửa tiên kia. Mà sao đôi mắt và cái nốt ruồi ấy lại chứa nhân duyên oan nghiệt. Sư bà yêu cô ta như con, như yêu cái tuổi ngây thơ dại khờ của mình nhưng nhiều lúc cũng không hiểu nổi tại sao đôi khi tận đáy lòng bà trồi lên niềm ganh ghét. Rõ ràng là thương đến muốn khóc khi nhìn cô ta, nhưng lại những muốn có phép gì đó khiến cô ta tan biến để không bao giờ phải nhìn thấy cô ta hiển hiện đi lại, thở chung bầu không khí với cái thân hình nửa người nửa hổ vô dụng đang hấp hối trên đệm gấm kia.

Khi định thần lại, sư bà nhìn rộng ra chung quanh. Các đạo sĩ nghe tiếng ồn ào khác lạ đã thức dậy, đứng niệm chú trong bóng đèn nến lúc mờ lúc tỏ. Các lò hương trầm lại được hối hả đốt lên, cố át đi cái mùi tanh hôi phả ra từ chỗ vua nằm. Một điện thờ khổng lồ được đặt phía sau, trên bày tượng Tam Thanh, dưới bày tranh ba mươi sáu thiên tướng nét mặt dữ tợn. La liệt chiêng trống và các đồ pháp bảo. Vòng ngoài, lại các đạo sĩ dàn ra hai bên điện thờ. Bốn vị pháp sư đầu đội mũ thất tinh, chân đi giày đằng vân, mặc áo thêu hình cửu cung bát quái. Chung quanh long sàng đều dán những tờ giấy đỏ vẽ hình bùa chú. Một chiếc bình lớn bằng đồng đặt bên cạnh ống nhổ của nhà vua dưới long sàng được bao quanh bởi một đạo bùa dán giấy đỏ, theo pháp sư nói là đế bắt ma hổ nhốt trong đó.

Minh Không khinh miệt liếc mắt nhìn các đạo bùa la liệt:

- Cái đàn tràng này dựng được bao ngày rồi?

Tổng quản Thái giám lật đật thưa:

- Bẩm đại sư... Đã bảy ngày bảy đêm. Nhưng hôm qua khi Ngài ngự tỉnh lại thì Ngài đưa tay ra hiệu chiêng trống im bặt, đuổi bớt đại sĩ. Ngài ngự còn bắt ngừng đọc kinh, chỉ muốn nghe riêng cung nhân Ngạn La hát. Mà... thưa đại sư... toàn là những cây hát mách qué, nhảm nhí chẳng ai hiểu nổi. Xin đại sư sớm gia ân...

Minh Không gật đầu thong thả bước tới bên long sàng. Các đạo sĩ bật cười ồ khi nhìn thấy quần áo đầu tóc Minh Không. Đại pháp sư ngồi trước điện thờ cau mặt quát:

- Kẻ bẩn thỉu này từ đầu đến làm ô uế đàn tràng, huyền thuật mất thiêng. Mau trục hắn ra ngoài để ta tiếp tục hành lễ, đưa tiễn linh hồn của Hoàng thượng được thanh thản về cõi Niết bàn!

Minh Không ngửa mặt lên trời cười:

- Các người ưa tống tiễn linh hồn người sống đến thế sao?

Nói rồi, đại sư cắm cây tích trượng xuống nền đá biệt điện. Cây tích trượng thun thút lún xuống đá như xuyên qua bùn. Lúc này đám đạo sĩ mới biết đây chẳng phải tay vừa, mới dạt cả ra.

Đại sư rút ra từ trong tay nải một cái đầu lâu trông như đầu người, mặt đầy lông như mặt vượn, đã khô đét và một mảnh gương đồng nham nhở. Đại sư giơ tấm gương đồng sát mặt vị vua hóa hổ đang hấp hối, vừa cười khanh khách vừa gọi ba lần, tiếng nghe ầm ầm như sấm, làm rung ngói lợp trên nóc cung điện:

- Từ huynh... Từ huynh...! Lai tỉnh... Lai tỉnh...!

Rồi tay trái cầm mảnh gương cứ giơ sát vào mặt Thần Tông, tay phải cầm roi tầm ma phất trên cao, cách đỉnh đầu Thần Tong chừng một gang tay.

Chung quanh im phắc.

Lúc đầu Thần Tông vẫn im lặng, hai mắt nhắm nghiền. Nhưng rồi mỗi lần ngọn cành tầm ma trong tay đại sư rung lên, toàn thân Thần Tông lại giật bắn theo. Mỗi lúc mỗi nhanh, mỗi mạnh.

Ngọn tầm ma cứ quất trong không khí, sát trên đầu vua. Một hai chiếc lá bứt khỏi cành, rơi xuống. Lá rơi đụng vào người Thần Tông. Thần Tong bắt đầu lên cơn co giật. Và bất chợt, Vua chồm hẳn người, giãy giụa lăn lộn theo mỗi lần lá rụng. Tưởng chừng mỗi phiến lá tầm ma rơi xuống đó bám vào, xoắn lại rồi rứt ra từng mảng từng mảng lông trên da thịt khiến Vua quằn quại rên xiết đau đớn. Theo từng phiến lá rơi, trong quằn quại đau đớn nhưng hơi thở thoi thóp của Vua mỗi lúc mỗi dồn dập, mỗi lúc mỗi mạnh dần lên. Mà những phiến lá tầm ma trên cành xanh tốt là thế, khi rơi xuống chạm vào người Thần Tông thì quằn lại, bạc dần. Cuối cùng phiến lá đổi sang màu trắng mong manh như tro tàn. Cho đến lúc trên cành tầm ma chỉ còn lại thưa thớt hai ba chiếc lá trên ngọn. Đại sư ngừng tay.

Bất ngờ, Thần Tông đang nằm chúi đầu bỗng ngồi phắt dậy. Ngài đưa hai bàn tay bưng mặt, cặp mắt ngơ ngác nhìn chung quanh.

Minh Không mím miệng đặt ngang ngọn tầm ma đã xơ xác trước mặt Thần Tông. Hai bàn tay bắt chéo trước ngực, đại sư nhìn chằm chằm vào mắt vua, miệng lẩm nhẩm câu thần chú. Rồi đại sư cầm mảnh gương đồng vuốt sượt qua mặt vua, và lại giơ ra trước mặt người. Thần Tông nhìn trừng trừng vào gương, ngơ ngác, hoảng loạn.

Cặp mắt của Thần Tông mỗi khắc mỗi bị hút chặt vào mảnh gương. Như cái ánh sáng mờ của đồng phản chiếu mong manh trên gương mặt ngài mỗi lúc mỗi đỏ dậy. Cái ánh sáng mờ ảo đó mỗi khắc mỗi nang trả lại cho vua từ cái thần thái hoang mang ngơ ngác trong lốt hổ dần dần thoáng lên ánh nhìn lo lắng sợ hãi của con người.

Cành tầm ma trong tay Minh Không lại hoa lên trước cái nhìn hồi sinh của Thần Tông. Từng tiếng một, mỗi tiếng thầm thì của đại sư như thấm vào cơ thể, luồn sâu vào tận trong thẳm cùng tâm trí Thần Tông:

- Cao hoang! Cao hoang...! Từ Lộ, huynh từ đâu đến?

Nghe vậy, Thần Tông như chồm hẳn dậy. Ngài ngự hực lên một tiếng trong cổ họng, toàn thân tự nhiên choãi ra mà cặp mắt đã có chút thần thái vẫn cứ trân trân nhìn vào mảnh gương đồng hoen rỉ. Trên mặt gương đó, cùng với tiếng phù niệm thầm thì của đại sư Minh Không, một bức tranh nhuốm màu thời gian từ trong tiềm thức sâu thẳm của Ngài hiện lên cùng với một con đường lạnh lẽo, dài hun hút...