BÁO OÁN
Con đường đó vẫn hiện lên hun hút trong tấm gương đồng, dẫn dắt linh hồn của Thần Tông tìm về kiếp trước...
Năm Hội Phong thứ bảy 1.
Mùa thu.
Sao Chổi hiện ra ở phía tây bắc kinh thành Thăng Long.
Đuôi sao quét dài khắp bầu trời, hắt thứ ành sáng hung đỏ trùm khắp kinh thành.
Những người già chạy cả ra sân ngửa mặt lên trời khóc. Các bà mẹ dúi con trẻ xuống gầm giường cốt sao ánh sáng quái dị của sao Chổi không thể chạm vào người chúng. Lợn rúc đầu vào góc chuồng rú eng éc. Rắn ở đâu kéo về từng đàn phóng ràn rạt, trườn vào chật ních trong các chuồng gà.
Vua Nhân Tông sai các tăng đạo lập đàn chay ngoài trời tế lễ cầu an. Thái hậu mở Nội phủ khố xuất tiền chuộc các con gái nhà cùng khốn đã bị bán đi để dạm gả cho đàn ông trong thiên hạ góa vợ để cầu phúc...
Chưa hết nỗi kinh hoàng sao Chổi thì cuối tháng Tám lại động đất ở trấn Kinh Bắc. Địa chấn rùng rùng chuyển về Thăng Long. Một góc phía tây kinh thành sạt lở chôn vùi mấy trăm hộ dân. Nước sông Cái và sông Tô, sông Nhuệ đỏ như máu. Bập bềnh xác người xác nhà xác súc vật miên man trôi và trương phình ra trong nắng thu.
Rồi những lời đồn lan truyền như bệnh dịch.
Đồn rằng, có đám học trò lên kinh ứng thi, buổi tối kéo vào một ngôi quán tươm tất lợp ngói vẫy cá, trước mái hiên treo đôi cây đèn lồng màu hồng. Chủ quán là một cụ già tóc bạc phơ, da hồng như gạch non, dọn cho học trò những bữa cơm thịnh soạn. Trò cơm no rượu say rồi lên giường có trướng hồng nằm ngủ. Sáng ra sương lạnh buốt xói xuống bả vai mới tỉnh dậy, thì thấy đang nằm ườn mình trên ngôi mả mới, chung quanh là một bãi tha ma ngút ngàn mồ mả. Lỏng chỏng bên cạnh những ngôi mộ là gươm cùn, kích gẫy, câu liêm rụng hết cả răng và những mũi tên còn đen quẹn máu người.
Lại có quan tri phủ giữa đường gặp một tiểu thư da trắng ngời như ngọc dưới ánh trăng, búi tóc nặng trĩu sau gáy cài trâm bạc đung đưa trông bội phần kiều mỵ. Theo sau vài bước là một cô hầu gái tay bưng tráp son. Tri phủ thấy động xuân tình, cầm lòng không đậu, rẽ ngựa theo. Tiểu thư nhẹ gót bước vào một điền trang diễm lệ trồng toàn trúc đào, hoa đỏ tím lên dưới ánh trăng. Tri phủ càng bội phần ngây ngất, buông lời chọc ghẹo, ngỏ dạ gió trăng. Tiểu thư cũng tỏ ra cảm động, không bỏ đi mà tựa đầu vào gốc cây e lệ.
Tri phủ càng như được khích lệ, bước tới ôm chặt lấy thân mình tiểu thư đa tình. Đến khi vội vàng cởi bỏ y phục để hành sự mây mưa thì mới đau thót ở trong ruột. Giật mình nhìn lại, trúc đào rạng rỡ biến đi đâu mất, chỉ thấy trong tay đang ôm một bộ xương trắng. Có hai mũi tên đồng hoen rỉ đang kẹt giữa hai lóng xương sườn.
Tri phủ không kịp mặc quần áo, cứ trần truồng như thế nhảy lên mình ngựa mà phóng. Về đến nhà thì hôn mê luôn, trong cơn mê sảng luôn gọi tên những người mà ông ta đã giết. Ba ngày sau, viên tri phủ về chầu Diêm vương...
Thiên hạ nói, năm nay âm thịnh, ma thích đội đất chui lên đi lại buôn bán làm ăn với người.
Sau chiến thắng trên sông Như Nguyệt, khắp nước đầy rẫy những hồn ma dật dờ. Có gã phù thủy nọ cả quyết rằng hôm qua, khi hắn sờ tay vào vại cà thì bốc phải một nắm nhơn nhớt, rút tay ra thì hóa ra đó là một nắm ma ngoe nguẩy. Con nào con đó đói lõm xác, tay cứ bốc cà muối mà nuốt.
Chuyện kể của gã phù thủy khiến cho trong một thàng liền không nhà nào liều mạng dám thò tay vào vại cà.
° ° °
Vọng tiếng huyên náo lẫn trong tiếng mõ và tiếng chũm chọe từ ngôi đền Cổ Phong ẩn mình dưới bóng cây bồ đề ven sông Tô.
Hoàng hôn xuống dần. Những đám rêu màu cỏ úa phủ trên mái ngói của ngôi đền đã bắt đầu ủ lại một chút bóng tối. Mài đến ngả thành màu xám sẫm. Mảng tường phía Tây loang lổ bắt sáng không đều trở thành một bức tranh kỳ dị trong ánh mặt trời đang mỗi lúc một thêm vàng vọt...
Dưới mái hiên, đàn dơi quạ vỗ cánh. Những đôi cánh dơi giang rộng, phô thân mình với bộ lông mượt đen mịn và gương mặt nhọn hoắt như mặt chuột. Những đôi mắt mù lòa của chúng dõi vô vọng vào khoảng không.
Tiếng kêu chin chít như tiếng khóc thút thít không thôi của những đàn bà góa khóc chồng.
Trên cây bồ đề cổ thụ, đàn rắn lục rào rạt đổi cành.
Đàn sóc kinh hãi dựng đứng những chiếc đuôi xù màu hung, đôi mắt nhỏ láo liên trong khi gặm nốt những hạt dẻ vừa nhặt được, nuốt vội rồi mải mốt tìm chỗ ngủ trong những chiếc hang cao tít ngọn cây.
Mùi lưu cữu của rêu mốc, mùi ngai ngái ngọt ngào của những mầm cây, mùi hôi của lũ dơi, mùi nước đái khai nồng của lũ khỉ, mùi đèn nến và mồ hôi người nặng trĩu trên những chiếc áo pháp sư hòa lẫn mùi nhàn nhạt ngọt của nước sông Tô đang ngùn ngụt bốc hơi trong buổi chiều tà khiến cho không khí xung quanh ngôi đền càng mang vẻ bí ẩn.
Một đám đông nhảy múa xung quanh đống lửa phừng phực cháy.
Những thân cây lớn cháy rực như đàn rồng lửa phun những đám hơi đỏ rực lên trời cao.
Lửa nhuộm đỏ mặt hàng trăm người mặc áo đen, thắt lưng đỏ, choàng tay qua thắt lưng nhau, đứng thành hai hàng đối diện, dìu nhau lắc lư đảo người theo nhịp mỗi lúc một gấp gáp, một man dại theo nhịp mõ, nhịp thanh la, chũm chọe và tiếng tù và rúc lên từng hồi giục giã.
Giữa đám người, cạnh đống lửa, ngồi trên một chiếc mâm đồng đỏ rực, là một người phủ kín mít từ đầu xuống toàn thân bằng một chiếc khăn vàng, ngồi lặng câm như bức tượng.
Ngăn cách giữa chiếc mâm đồng và đoàn người là một chiếc giá lớn bằng gỗ găm vô số những thuốn sắt dài ngắn to nhỏ khác nhau. Một đến mảnh chai, một chum nhỏ đựng đầy rắn rết đang quẫy lộn dưới một chiếc vỉ gài bằng tre. Vị chủ lễ mặc áo choàng màu vàng, mặt bôi tiết gà màu đỏ, tay cầm chiếc búa lớn bằng gỗ nghiến.
Đám đông nhảy múa mỗi lúc càng cuồng loạn. Trong ngôi đền, từ phía hậu cung, ai đã đồng loạt tắt hết đèn nến khi trời vừa sập tối. Trong màn đêm đen thẫm như bưng lấy mắt, màu đỏ bức bối của đám rồng lửa càng như thiêu đốt tâm can của đám người đang nhảy múa.
Cuộc tế thần Sao Chổi tại đền Cổ Phong đã bắt đầu từ ngày hôm qua. Và đây là đêm cuối cùng của buổi lễ.
Bỗng có một tiếng hú dài, lảnh lót, cất lên từ đám người đang nhảy múa.
Người đàn ông tóc rồi, mặc áo đen đang đầu đoàn người đột nhiên tách ra, đưa tay dứt tung áo đang mặc vứt xuống đất. Miệng lẩm nhẩm khấn thần Sao Chổi, chân và thân mình không thôi lắc lư theo điệu nhảy, ông ta tiến đến bên giàn gỗ để những chiếc thuốn sắt, nhảy phắt lên rút lấy một chiếc, rồi phồng mang trợn mắt đâm vào má bên phải. Chiếc thuốn sắt phập vào má. Mắt của người đàn ông như lồi hẳn ra, mồ hôi chảy thành những giọt lớn như vón cục.
Trong lúc ông không ngừng lắc lư, người chủ lễ lừ lừ tiến lại, cầm chiếc búa gỗ nghiến đóng vào đầu chiếc thuốn sắt. Sau ba nhát búa, mũi của chiếc thuốn sắt đã chui qua má trái của ông ta. Đám đông nhảy lên reo hò. Đôi má của người đàn ông trĩu vẹo xuống dưới sức nặng của chiếc thuốn sắt.
Một ngọn đuốc được soi tận mặt ông ta. Chỗ vết thương hai bên má lún theo hình thuốn sắt, rung rinh theo nhịp nhảy múa.
Mặt người đàn ông không gợn một vết đau đớn. Không một giọt máu nào rỉ ra.
Đám động lại reo hò lần nữa. Nếu vết thương của người đầu tiên chịu xiên thuốn sắt mà gọn gàng, không chảy máu, đó là điềm báo thần Sao Chổi đã động lòng trước sự tự hành xác của họ và không gieo tai họa xuống hạ giới.
Nhưng thần Sao Chổi cần nhiều, rất nhiều những kẻ tự hành xác, dám đâm thuốn sắt vào khắp người, dám biến thành trâu bò chó lợn. Vị chủ lễ bảo thế. Pháp sư đã dạy như thế.
Và đám đông, từng người một tách ra, tự dứt bỏ quần áo. Từng người một lắc lư tiến lại gần giàn để thuốn sắt, tranh cướp nhau để lấy những chiếc thuốn dài và to nhất, rú lên những tiếng tuyệt vọng như tiếng chó rừng, rồi tự đâm vào má, vào vai, vào lưng, vào ngực... dưới tiếng gõ của chiếc búa gỗ. Sau mỗi tiếng búa, trên mặt những kẻ chịu khổ nạn bộc lộ một niềm hân hoan khôn tả. Họ càng nhảy múa như điên loạn. Không một giọt máu nào chảy ra.
Thuốn sắt đã hết. Đám người càng gào rú.
Những kẻ không may mắn giằng giật được thuốn sắt bỗng lăn lộn trên đất hoặc bò bốn chân như chó lợn.
Những người có bộ dạng giống lợn thì kêu ụt ịt và sục tới húc đổ cái chum, nhặt những con rắn đang trườn ngang dọc trên mặt đất cho vào mồm nhai ngon lành.
Có kẻ nuốt cả rết sống. Kẻ nuốt than hồng. Kẻ đến bên đấu mảnh chai nhặt ăn rau ráu khiến người ngoài nghe cũng đủ rợn răng mà chết khiếp. Tất cả, đếu không có một giọt máu nào chảy ra.
Chỉ còn sự cuồng loạn của đám người.
Dường như tất cả đã phát điên.
Cho tới khi kiệt sức vì nhảy múa, từng người gục xuống, nằm bất động như một xác chết.
Dường như không một hơi thở nào còn sót lại trong lồng ngực của họ.
Xung quanh đống lửa đã gần tàn, xác người nằm la liệt, mặt phủ một chiếc khăn vàng của vị chủ lễ vừa đi vừa ném lên mặt họ.
Thê lương rợn người.
Tiếng cú, tiếng chim lợn nổi rõ trong đêm.
Dường như đây mới chính là địa ngục.
Một bãi chiến trường của ác quỷ. Những thi thể bị đâm xuyên không nằm thẳng được trên mặt đất. Ngôi đền của những thi thể nhợt nhạt nằm trong các tư thế kỳ quặc trong ánh lửa lụi dần.
Lúc đó đúng giờ Hợi.
Bỗng, nhất loạt, từ trong hậu cung cho đến trước cửa đền, đèn nến từ đâu nhất loạt sáng rực.
Hét lên một tiếng vang động, người ngồi trên chiếc mâm đồng hất tấm áo choàng, vụt đứng dậy.
Ông ta bước đi giữa hàng hàng người nằm như chó lợn khẽ cúi xuống, hất chiếc khăn vàng phủ mặt từng người một, khẽ nói gì đó như thì thầm vào tai họ.
Ông ta đi đến đâu, đống lửa cháy bùng lên đến đó.
Những người nằm như đã chết từ từ ngồi dậy.
Vị chủ lễ lẩm bẩm khấn khứa, rút thuốn sắt ra khỏi thân mình họ.
Da thịt lại lành lặn như chưa từng bị thuốn sắt đâm vào, chưa từng nhai mảnh chai, chưa từng nuốt cả rắn rết.
Trong khi những kẻ vừa mới được hồi tỉnh đang được chủ lễ cho uống một thứ bùa có ngâm rễ cây và tàn nhang, người đàn ông lúc nãy ngồi trên mâm đồng lớn tiếng nói:
- Các người! Sự nhẫn nhục của các người sẽ được đền bù...
Ông ta quay mặt lại.
Vóc người mập mạp. Dưới đôi lông mày bạc rủ thành chùm xuống tận mắt là đôi mắt nửa khép nửa mở. Khi khép như mắt mèo ngái ngủ. Con ngươi thoáng ánh đỏ. Lủng lẳng trước ngực là quả bầu khô đựng rượu vẽ hình bát quái...
Pháp sư Đại Điên.
Đám người rạp xuống, vái lấy vái để.
Vừa lúc đó, dưới sông Tô vẳng lên tiếng xé nước ràn rạt.
Nước sông đập dữ dội vào bờ. Những đợt sóng lớn bằng lưng trâu dồn dập quật lên làm tắt ngấm đống lửa hành lễ.
Cây bồ đề sầm sập đổ xuống đè gẫy nát một góc ngôi đền.
Đám người chạy trong hỗn loạn. Đàn dơi bay tán tác lại cất tiếng thút thít.
Trước khi cây nến cuối cùng phụt tắt, còn kịp nhìn rõ những xác bầm dập của lũ khỉ rơi xuống từ trên cây bồ đề.
Một tiếng rít lạnh rợn xói vào óc.
Một luồng khí chói sáng như một ánh chớp lao vụt từ dưới sông lên đến chân đền và dừng sững lại dựng ngược lên sát chân người chủ lễ.
Lập tức những đợt sóng dữ dằn lặng lẽ lùi xa lặn xuống đáy sông.
Chung quanh im phắc như không hề có gì vừa xảy ra.
Chỉ còn đống lửa bay lên những tro tàn.
Còn ngôi đền bị sạt góc và những lớp rêu trên mái ngói bị bật gốc phơi ra những đám rễ màu nâu. Cây bồ đề tả tơi nằm duỗi dài ra mặt đất với bộ rễ khẳng khiu chĩa về hướng đông như một bàn tay chới với.
Trên mặt sông một người đi lướt những bước dài trên mặt nước mà nước cứ im phắc không ướt đế giày.
Lưng đeo tay nải, thân hình gầy và dẻo như được bện từ những bó gân, vẻ mặt an nhiên mắt nhìn về phía trước mà như không thấy.
Trên khuôn mặt sạm nâu vì nắng gió, khóe miệng vuông nứt nẻ hằn hai đường rãnh khắc khổ.
Người đó bước một bước tới bên vị chủ lễ.
Cây gậy bỗng nhiên đổ vào tay. Vị chủ lễ nhìn tận mặt người mới đến, ngửa đầu ra sau cười nhợt nhạt:
- Từ Lộ... Ngươi thật là kẻ bền gan!
Người mới đến lùi lại một bước:
- Đại Điên... Nhà ngươi đã kịp từ bỏ rượu ngon gái đẹp trốn về chốn này, xúi giục thiên hạ lấy tà đạo hành xác làm vui?!
Đại Điên trở lại ngồi ngay ngắn trên chiếc mâm đồng, đưa tay vuốt thẳng nếp chiếc áo choàng màu vàng:
- Từ Lộ... Ta đã kịp sống, kịp tận hưởng nhiều lạc thú. Ta đã kịp hãm hại nhiều người. Cũng đã từng cứu vài người. Những kẽ kia nhẫn nhục theo ta lấy sự hành xác dâng lòng thành kính lên Đức Phật. Chẳng qua chúng đem sự khổ hạnnh để đút lót mua chuộc Đức Phật, hòng lấy sự an lạc của kiếp sau...
Từ Lộ ngắt lời:
- Còn ngươi thì hưởng sự an lạc khi nhìn thấy cái khổ hạnh phi thường của chúng...
Đại Điên mím miệng:
- Để cất tiếng cười nhạo trên mọi sự điên rồ của con người. Thế cuộc phù du. Từ Lộ... Chuyện qua đã lâu rồi. Bao năm nay nhà ngươi vẫn tự hành xác mình vì mối oán thù năm xưa sao?
Từ nghiến răng, mắt lóe lên căm hờn:
- Đại Điên... Lẽ đời mà. Có vay ắt có trả.
Đại Điên lại khanh khách cười:
- U mê rồi... Từ Lộ...!
Từ thét tiếng như sấm rền:
- Láo xược! Đại Điên... Giờ chết của ngươi đã điểm!
Đại Điên vẫn cười:
- Ta biết... Ta biết... Bao năm nay ta vẫn chờ đợi cái ngày này. Nhưng Từ Lộ... Ta thương hại cho nhà ngươi!
Từ quắc mắt:
- Một kẻ độc ác như ngươi làm sao có quyền thương hại bất kỳ ai!
Đại Điên nói:
- Không... Từ Lộ. Ta đã ám hại cha ngươi. Ngươi oán hận ta, đương nhiên. Nhưng ngươi phí cả một kiếp của ngươi chỉ để đeo đuổi việc trả thù. Từ Lộ... Thế cuộc ở ngoài kia dài rộng. Hoa tàn hoa nở lẽ nào ngươi không trông thấy mà nỡ phí phạm cả một kiếp đầu xanh tuổi trẻ. Vậy là ngươi đã tiếp tay cho ta hãm hại nốt cái mầm hy vọng duy nhất của họ Từ.
Từ căm hờn vung gậy, ngửa mặt lên trời, thống thiết:
- Cha... Linh hồn của người giờ ở đâu? Người có nghe lời báng bổ của kẻ thù?
Không trung im ắng. Bầu trời như vừa có chiếc chổi lớn quét qua khua sạch những vì sao. Cái vầng trăng đỏ bầm của ngày cuối tháng lửng lơ như sắp rới ở cuối con đường dẫn ra đền. Dường như có tiếng nước thở nghẹn ngào dưới đáy sông Tô và rạn vỡ đâu đây một bầu trời đang căng nứt. Đàn chim lợn dường như đánh hơi thấy mùi xác chết bay ngang trên bầu trời và thả xuống những tiếng kêu eng éc rời rạc ai oán như muốn dứt từng quả tim ra khỏi lồng ngực.
Năm xưa ven bìa rừng Quí Vũ, chàng bạch diện thư sinh vung gậy lên toan đánh Đại Điên để trả thù cha thì Từ Vinh cha chàng - cái oan hồn đang dật dờ phiêu bạt đã thàng thốt kêu lên "Chớ... chớ...!".
Từ vẫn ngửa mặt nhìn trời, chờ nghe tiếng nói của cha chàng.
Đại Điên mắt nhìn đầu gậy không chớp, hối hả:
- Từ Lộ... ngươi lầm rồi! Nay ngươi diệt được ta những ta chỉ là con dao. Chẳng lẽ ngươi không biết rằng dao đâm người là bởi tay kẻ cầm dao chứ không phải bởi con dao...! Trước kia bên ta ngươi là kẻ yếu. Nhưng nay trước sự già cả của ta, ngươi lại là kẻ mạnh. Ta và cha ngươi không thù oán. Ta giết cha ngươi chẳng qua theo lệnh của Diên Thành hầu. Diên Thành hầu là kẻ quyền thế nghiêng lệch thiên hạ. Có phải vì vậy mà ngươi chỉ tìm diệt ta chứ không tìm diệt Diên Thành hầu? Như vậy ngươi cũng chẳng hơn gì ta, luôn chùn tay trước kẻ mạnh mà chỉ hà hiếp kẻ yếu.
Từ Lộ dằn giọng:
- Ngươi lầm rồi Đại Điên. Ta không trừng trị Diên Thành hầu - cái kẻ đại ác đó, là bởi Trời Phật đã ra tay lập lại lẽ công bằng đối với hắn.
Đại Điên:
- Diên Thành hầu đang hưởng đủ phúc lộc thọ, ngày đêm được kề cận trọng vọng canh ngai vàng hưởng phú quí vô lượng...!
Từ Lộ cười lớn:
- Ngươi lại lầm nữa rồi. Ông ta tuy phú quí. Nhưng chỉ có thân xác ông ta hưởng mà thôi. Còn bên trong ông ta phải sống với một trái tim ruỗng nát... Lý Câu - đứa con trai duy nhất của ông ta đã trở thành một kẻ điên, suốt ngày lang thang vật vờ, tối đến lại gõ cửa nhà để réo tên cha mẹ mà chửi bới!
Đại Điên cố vớt vát:
- Nhưng ông ta vẫn hoàn toàn khỏe mạnh...
Từ Lộ:
- Kể từ khi kẻ thừa tự độc nhất của ông ta bứt tóc xé quần áo ăn sâu bọ điên dại vật vờ trên khắp xó xỉnh của kinh thành thì ông ta sống cũng kể như đã chết. Ta đâu cần phải ra tay trừng phạt!
Đại Điên vẫn cười nhạt:
- Từ Lộ... Lời ngươi nói kể cũng đúng. Nhưng tự đáy lòng ngươi có nhận ra đó là lý lẽ để ngươi tự an ủi cho mọi chuyện ngày xưa, khi ngươi còn là một kẻ thư sinh mặt trắng yếu đuối quì mọp dưới bệ cửu trùng dâng bức huyết thu kêu oan kể tội Diên Thành hầu. Vậy mà chẳng ai đoái hoài... Ngươi còn nhớ những vết chân voi ngựa giẫm lên bức huyết thư của mẹ con ngươi chăng? Giá như lúc đó ngươi là kẻ mạnh... Ngươi phải trừng trị Diên Thành hầu trước ta...
Một cơn đau vò nát trái tim Từ Lộ. Chàng ôm ngực, mắt nẩy đom đóm. Chàng gầm khẽ một tiếng trong cổ họng:
- Đại Điên... ngươi thật độc ác. Đã cướp đoạt cả đời ta, giằng xé mất niềm hạnh phúc của ta... Kiếp sau ta sẽ trả hận này...
Đại Điên chồm lên:
- Từ Lộ... ngươi đã lỡ một kiếp rồi!
Vừa lúc đó cái đầu tích trượng của Từ Lộ đang giơ cao chạm ngay vào trán Đại Điên. Đại Điên lảo đảo đổ vật xuống, đầu chạm đất. Chiếc mâm đồng văng ra, vang lên một tiếng coong... rền rĩ.
Trên trán Đại Điên, nơi đầu gậy chạm vào vừa nổi lên một cái bướu đen bầm to bằng ngón chân cái, sau lớn dần lên bằng cái bát, rồi bằng quả bầu, choán gần hết khuôn mặt Đại Điên.
Một chiếc lá đen nhọn hoắt bỗng trồi lên từ cái bướu.
Bướu nứt vỡ. Một dòng máu đen đặc tanh hôi chảy tràn ra mặt đất.
Nửa mặt còn lại của Đại Điên lại nhẹ nhõm như đang cười.
Từ Lộ tìm một ngọn nến đã lụi tắt ở hậu cung của ngôi đền, bước ra bãi đất trống quì xuống gập đầu:
- Lạy cha... Lạy mẹ...! Hồn người có thiêng xin về chứng giám. Oan thù đã trả. Nợ ba sinh con đã báo đền. Kể từ nay thân này xin được thuộc về con!
Từ quay sang xác Đại Điên nằm trải dài trên mặt đất. Cái con người độc ác thế mà bây giờ lại được nằm bình yên như đang ngủ. Cái vạt áo vàng càng sẫm lại, bay lất phất trong gió như trêu chọc, như Đại Điên đang cựa quậy. Từ Lộ bước qua xác Đại Điên, không khỏi thoáng một chút ghen tị. Chàng dợm bước ra khỏi cổng đền.
Đám đệ tử của Đại Điên sau cơn kinh hãi hồn xiêu phách lạc đã tỉnh lại. Hàng trăm người sấn tới giữ chặt lấy Từ, ra sức giằng xé cho hả cơn giận. Năm sáu người đàn ông lực lưỡng tay cầm thuốn sắt cố sức xiên vào người Từ:
- Nhà ngươi phải đền mạng cho vị chúa tể của chúng ta...!
Từ Lộ nhìn bọn chúng mà thương hại.
Chàng chỉ khẽ vung tay. Nằm thuốn sắt đã nát vụn rơi ngổn ngang trên mặt đất. Không chạm vào da thịt bất kỳ của người nào.
Từ xuất vía vùn vụt lướt ra khỏi ngôi đền lướt ngược sông Tô. Chàng biết, đi qua sông Tô, chếch về hướng bắc là sông Gâm.
° ° °
Thác Oán.
Sông Gâm vẫn oằn mình tung bọt nước.
Từ khom người nhìn chằm chằm xuống đáy vực sôi réo ở dưới xa kia. Vẫn là những xoáy nước hiểm ác. Cuộc quần thảo dữ dội của loài thủy quái.
Mờ ảo những oan hồn dật dờ.
Khói xám tung lên mờ mịt tỏa ra ánh cầu vồng.
Dường như con người ta chỉ còn linh hồn sau cái chết. Linh hồn ai cũng biến thành ánh cầu vồng ngũ sắc.
Bao nhiêu nước đã qua thác này. Những con sóng đã gầm réo dưới kia con sóng nào đã nhấn chìm nàng? Và những linh hồn đang bay ở dưới kia linh hồn nào là của Nhuệ Anh?
- Ta đã lỡ một kiếp này cùng nàng, Nhuệ Anh!
Những giọt nước mắt đặc quánh giàn giụa trên gương mặt hốc hác.
Thác Oán này xưa kia tóc ai sầm sập đổ như mây dông. Thân hình nàng ướt nóng mà quấn quýt. Đôi cánh tay nuột nà mềm mại quanh cổ chàng. Cánh hoa gạo rụng đỏ rắc lên khuôn ngực trần nuột nà có đôi vầng trăng. Từ Lộ run rẩy nhớ. Xưa kia ngày ấy cũng trời này đất này trời đang giông bỗng hửng nắng. Tóc nàng dài và ướt che phủ tấm thân ngà ngọc. Mây cao và nắng lên ở trên đầu... Chàng nằm sấp mặt vùi vào mắt nàng và môi nàng. Uống hương thơm tỏa ra từ tấm thân và tóc nàng. Tấm thân lạnh như suối, nóng như lửa than quẫy cựa dưới thân mình chàng và dìu dắt đưa chàng đê mê phiêu bồng nơi cực lạc.
Toàn thân Từ Lộ như lên cơn sốt. Một nỗi khát thèm mênh mang vặn xoắn thân hình chàng. Sẽ không bao giờ nữa. Mãi mãi không còn cái dòng sông nào mang hình lá đào hẹp và dài lung linh không đáy rực rỡ tỏa ngàn ánh sáng.
Thù cha mẹ đã trả xong. Từ chợt nhận ra cuộc đời chàng hoàn toàn trống rỗng.
Tiếng rên rỉ của Từ trượt dài bên bờ vực thẳm.
- Ta đã lỡ một kiếp này, Nhuệ Anh... Ta đã giết nàng. Đợi ta với. Ta đền mạng ta cho nàng... Nhuệ Anh!
Từ chậm rãi cởi từng thứ đang đeo trên người. Này cây tích trượng mòn vẹt trên đường hành cước đã theo chàng sang Tây Trúc nếm mật nằm gai rồi trở về rẽ nước sông Tô. Này chiếc tay nải trong đó có cái đầu của dã nhân...
Xưa kia Nhuệ Anh đã đến với chàng như thuở cha mẹ sinh ra, thành thật cùng trời đất, như cây cỏ như muông thú, và bây giờ chàng cũng vậy. Chàng cũng phải trởi về với tấm thân như vừa được cha mẹ sinh ra để dâng tặng nàng.
- Đợi ta... Nhuệ Anh!
Từ đeo những hòn đá nặng vào chân, vươn sát dần ra mép bờ vực, đăm đăm nhìn thác nước đang sôi réo không chút sợ hãi. Chàng vươn người dợm chân định nhảy xuống.
Chợt một tiếng thét hãi hùng ré lên từ phía sau.
Từ giật mình quay lại.
Một người con gái tóc xõa như mây giông đứng trong nắng chiều.
Đôi mắt khiếp đảm của cô bé mở căng nhìn chàng. Lòng mắt cũng dài và hẹp như lá.
Từ Lộ há hốc miệng.
- Nhuệ Anh!
Chàng thốt lên. Hồn của Nhuệ Anh hiện về, ngăn không cho chàng lao xuống thác?
Chiếc gùi lấy măng bị vứt lăn lốc bên chân, cô gái dồn dập nói tiếp:
- Thác này dữ lắm. Năm nào cũng có hàng chục người bị thuồng luồng kéo xuống ăn thịt. Đó là chưa kể các oan hồn thường hiện hình thành đàn bà rủ rê đàn ông lao xuống thác. Ông đừng tắm ở đây.
Cô gái chạy xuống kéo Từ Lộ, đẩy chàng rời xa bờ vực.
Từ rùng mình.
Lúc đó cô gái mới biết, trong cơn hoảng hốt cô đã không nhận ra rằng đó là một người đàn ông trần truồng. Một thân hình đàn ông gầy sạm, săn chắc, ủ ê trong nắng quái.
Cô gái sững nhìn. Lùi dần. Rồi kêu lên một tiếng trong cổ, hai tay đưa lên che mặt, bỏ chạy, bỏ cả gùi măng với ba mầm trắng bóc nằm vu vơ trong chiếc gùi khen khét khói bồ hóng.
Tiếng kêu của cô gái khiến Từ bừng tỉnh.
Từ đứng ngẩn nhìn theo bóng cô gái đến khi mất hút.
Bất chợt, một luồng khi nóng rừng rực vụt lên từ sau gáy, lan nhanh, làm căng nhức hai đầu vù, xuống bụng dưới, đột ngột ngưng đọng lại giữa hai đùi. Một luồng mãnh lực hoang dã phóng vụt lên từ đám cỏ rồi xoắn tít màu đen lấp lánh trên người chàng.
Tim Từ đập như vó ngựa phi.
Bất giác, Từ vộ lấy hai bàn tay che cái vật đang rực nóng, tràn ngập sức sống, vừa vụt dựng lên căng cứng giữa hai phiến đùi rắn chắc như hai thớt lim... Cuộc ái ân với Nhuệ Anh trên bè nứa trôi giữa dòng sông Gâm trở lại. Nhức nhối từng thớ thịt. Từng kỷ niệm khiến chàng oằn mình quằn quại.
Mãi lát sau, sau nữa, thân thể dường như dịu bớt. Nhưng cái cảm giác chân lâng thì vẫn còn nguyên ám ảnh. Từ bỗng nhận ra rằng, chàng không còn đủ can đảm để trầm mình xuống thác Oán. Linh hồn của Nhuệ Anh đã hiện về trong cô gái hái măng? Hay đó là bàn tay của số phận? Cô gái có đôi mắt lá. Biết đâu Nhuệ Anh còn sống? Nếu nàng đã chết, sao chàng và Minh Không, Giác Hải quần đảo mấy ngày cũng không tìm thấy thi thể nàng?
Nguyền rủa mình thậm tệ, Từ thẫn thờ cởi bỏ tảng đá đeo chân, đi bước một tới gần đống quần áo, khoác vội lên người, đeo hành lý, cầm lấy cây tích trượng.
Đi...
--------------------------------