THIỀN SƯ
"... Này các tỳ kheo, đây chính là Khổ thánh đế: sinh là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, oán ghét gặp nhau là khổ, thân ái biệt ly là khổ, cầu không được là khổ...
Này các tỳ kheo, đây chính là tập khổ thánh đế. Chính là ái đưa đến hữu, tương ứng với hỉ và tham, tìm cầu hoan lạc chỗ này chỗ kia, chính là dục ái, sinh ái, vô sinh ái...
... Này các tỳ kheo, đây chính là đạo diệt khổ thánh đế, đưa đến diệt khổ, chính là con đường thánh tám ngành: Chính kiến, Chính tư duy, Chính ngữ, Chính nghiệp, Chính mệnh, Chính tinh tiến, Chính niệm, Chính định..."
Từ Lộ nằm ngửa, đầu gối lên bộ rễ nổi như đàn trăn của cây bồ đề. Chàng ngắm những đám mây biến ảo qua kẽ lá. Những đám mây từ nơi nào trôi đến, lúc trắng muốt và mang hình thù của một con thỏ hiền hòa, lúc bỗng nở phồng ra cực lớn rồi thoắt biến thành một con cá sấu nhe đôi hàm răng lởm chởm dữ tợn. Chỉ thoáng sau, một cơn gió thổi tới, con cá sấu lại vùn vụt bơi đi, để lại bầu trời vút cao thẳm xanh không đáy không hàm ý. Từ Lộ ngắm nhìn mây, nhưng tâm trí chàng bất định. Trong đầu, lời truyền dạy của đức Phật tổ về Tứ diệu đế, về bốn chân lý cao cả mà chàng đã thụ giáo tại Tây Trúc cứ trở đi trở lại khiến đầu chàng nhức như muốn nứt vỡ.
Mười ba năm nếm mật nằm gai, bao nhiêu phen liều cả mạng sống tìm đến Tây Trúc học đạo pháp thần thông để trả thù cho cha mẽ. Đến khi mắt chàng có thể nhìn rõ mặt người dù ở xa ngàn dặm, tai nghe được tiếng của cả loài côn trùng, nhìn thấu suốt bụng dạ thiên hạ, đi được trên nước và trên lửa như đi trên cỏ mịn, mới làm lễ cúng lửa, trở về để trả oán.
Suốt mười ba năm cắn răng khổ luyện, những mong về báo thù thì nay chàng bỗng như người bị lạc đường.
Kẻ thù hung hãn xưa kia, sau mười ba năm đã như biến thành người khác, không màng đến chuyện tranh đoạt, sẵn sàng đón đợi đền mạng do những tội lỗi mà trước đây đã gây ra.
Diên Thành hâu, kẻ quyền thế một bàn tay che khuất mặt trời, tác oai tác phúc như vậy, do cảnh bể dâu, đã thành một ông già suốt ngày chỉ khăn gói khóc lóc đi theo đứa con trai duy nhất là Lý Câu đã bị điên loạn sau đám cười không thành với tiểu thư Nhuệ Anh.
Từ Lộ rã rời, nhìn thấy kẻ thù mà chàng dành cả nửa đời để căm hận, để nuôi chí, nay đã tự kiệt quệ, tự hủy hoại. Những phép thuật phải chịu khổ nhục mới luyện được trong mười mấy năm trời chẳng để dùng vào việc gì nữa.
Người chàng trống rỗng.
Trên cây, tiếng chim kêu rối rịt. Lảnh lót tiếng chành chọe. Rồi một quả trứng màu xanh lơ rơi xuống ngực Từ. Nhờ chiếc áo vải thô nhiều nếp của chàng, quả trứng không vỡ. Nâng quả trứng lên tay ngắm nghía. Mong manh quá, cái vật màu xanh xinh đẹp này. Mạng sống đang tượng hình trong cái lớp vỏ mỏng tang kia thật nhỏ nhoi. Trái tim Từ bỗng đập lại những nhịp quặn thắt.
Lại da diết nhớ Nhuệ Anh.
Mẹ từng nói mắt Nhuệ Anh tiểu thư không khóc mà ướt rượt nước. Lông mày màu khói vương... Người như vậy ắt lắm mối đa đoan, hễ đàn ông nhìn thấy thì ngày mong đêm nhớ như điên như dại, chỉ những mong đoạt lấy làm của riêng. Người như vậy là mối bấp bênh, không vượng phu ích tử. Trước đây nghe mẹ nói, chàng chỉ cười. Một tiểu thư con nhà khuê các, mười ngón tay muốt dài với những móng tay hồng như cánh hoa đào, mỗi khi gặp chàng, nàng đưa tay e thẹn khép vạt áo thì như mười cánh hoa chụm lại khiến cho gió xuân cũng phải động phong tình. Người như vậy sao có thể đa truân... Rốt cuộc chỉ tại chàng. Chỉ vì mối chung tình với chàng mà Nhuệ Anh kiên quyết khước từ nơi tột đỉnh giàu sang quyền quý, tam tứ bận không quản nguy hiểm đến tính mạng, thân gái dặm trường dấn vào chốn bèo mây để đến mức tuyệt vọng cùng đường phải trầm mình nơi thác Oán. Thân phận của nàng cũng không hơn gì quả trứng mỏng manh màu xanh lơ này.
Nỗi đau đớn trỗi dậy vò xé tâm can. Không trả nổi ân nghĩa với người con gái đã chẳng tiếc thân vì chàng! Không đủ can đảm nhảy xuống thác Oán để đi theo nàng. Sống mà trong lòng tuyệt vọng, thân xác thừa thãi. Lang thang vô định. Trưa nay, Từ nằm gối đầu dưới gốc bồ đề cổ thụ trước chùa, nhớ lại lời dạy của đức Phật về Tứ diệu đế. Những lời thuyết giảng của Phật được các đệ tử của Người truyền lại trên đất Tây Trúc giờ đây lại tiếp tục thầm thì:
"... Này các tỳ kheo, đây chính là diệt khổ thánh đế, chính là sự diệt tận, vô dụng, từ bỏ, xả ly, giải thoát, tự tại đối với các ái..."
Oán thù đã giải. Ngửa đôi bàn tay thấy lòng bàn tay trắng, châng lâng. Chàng chứng nghiệm rằng cuộc đời mình nếm đủ mùi tân khổ chẳng qua vướng vào cõi thất tình.
Từ nhìn vào khoảng thâm u của ngôi chùa. Nơi đó phải chăng là cõi diệt tận cõi vô dục cõi từ bỏ cõi xả ly cõi giải thoát cõi vô ngã?
Chàng đang miên man trong dòng suy tưởng thì mặt trời đỏ lựng đã khuất sau ngôi chùa. Những đám rêu màu xanh lá mạ đong đầy bóng tối vụt nở lớn cùng với sự ụp xuống nhanh chóng của màn đêm. Từ trong chùa, một hồi chuông trống vất thần nổi lên đập thẳng vào thinh không và dội trả lại mái ngói rêu phong. Đám chim chóc vừa về tổ hớt hải vụt bay tán loạn. Đàn dơi cuống cuồng đan những luồng bay loạn xạ dưới mái hiên tối đen phả mùi nhang đèn, mùi áo lễ lưu cữu của các vị tăng lữ cùng mùi ẩm ướt của cây lá mới được ai đó tưới tắm lúc chiều tà.
Từ thảng thốt ngồi dậy.
Ngôi chùa bỗng bừng lên rực rỡ bởi ánh đuốc và đèn nến. Lúc này đã có thể nhìn rõ những nghi trượng của một cuộc đại lễ đang được bày ra nửa ngoài nửa trong chùa. Một đám bảy vị tăng đội mũ đỏ thuê kim tuyết lấp lánh, tay cầm chuông tay cầm thủ ấn xếp thành hàng đi vòng quanh. Dẫn đầu là vị cao tăng tai dài chấm vai. Người này đầu đội mũ vải màu vàng thêu kim tuyết, tay trái cầm chuông vàng, tay phải cầm kim cương chử, xướng giọng cầu kinh trong tiếng chuông vàng trong vắt. Đi quanh chùa ba vòng sau đó đoàn tăng lữ đột ngột dừng lại.
Vị cao tăng mũ vàng giơ thủ ấn hướng xuống đất làm phép.
"Lễ phóng diệm khẩu!"
Từ kêu lên. Từ đã được trông thấy tại Tây Trúc. Mỗi năm một lần, lũ ngạ quỷ được ra khỏi vạc dầu địa ngục để tái sinh trở lại thành người trong một kiếp khác hoặc bước vào những tịnh độ, nếu có người làm lễ phóng diệm khẩu.
Trời đã tối hẳn. Rừng đêm đen kịt. Mặt đất như đã thu hẹp lại, hút vào một hố sâu hoắm. Dưới bàn tay thủ ấn của vị cao tăng, mặt đất lại mở ra, để lộ một núi lửa đang rừng rực cháy. Trong nghi ngút khói và màu vàng rỡ của lửa, thấp thoáng bóng đàn ngạ quỷ. Lũ ngạ quỷ chen chúc, chới với giơ tay về phía chàng. Những con quỷ hình thù kỳ dị trông giống những hình người mất tay hoặc bị chém xả vai. Có kẻ miệng đỏ lòm ngoác ra, hai tay xách hai đầu người máu đỏ ròng ròng rong chơi trên miệng vực lửa. Kẻ nào kẻ nấy da bụng dán chặt vào xương sống. Từ chỗ chàng đứng có thể nghe thấy tiếng réo ùng ục của những cái bụng rỗng không.
Rồi có tiếng sùng sục như tiếng sóng biển sôi réo. Lũ ngạ quỷ nhất loạt bị giật đổ ngửa ra đất. Miệng đồng loạt bị banh rộng, không thể khép lại. Một vại lớn chứa thứ nước màu đồng hun đặc sệt sôi sùng sục được khênh tới trên đôi vai của lũ quỷ dạ soa. Và hai tên lần lượt cầm chiếc gáo làm bằng đầu lâu người, múc những gáo dầu sôi từ từ đổ vào những cái miệng đang bị buộc phải há rộng. Lập tức, mùi thịt cháy xèo xèo phun ra lợm óc. Tiếng thét gào đau đớn dậy đất. Mắt của lũ ngạ quỷ như chực nhảy ra ngoài.
Từ Lộ nhắm mắt. Chàng đã chứng kiến nhiều lễ phong diệm khẩu nhưng mỗi lần đến cảnh này, chàng không bao giờ chịu nổi. Đó là lúc cửa Địa ngục mở và những gáo đồng nung chảy sôi sùng sục rót vào miệng lũ quỷ đói mà nghe nói kiếp trước chúng là kẻ có tội. Chúng là những kẻ thủ ác nên xuống địa ngục phải bị trừng phạt bằng cách không được ăn thứ gì khác ngoài mỗi ngày ba lần bị banh miệng buộc phải nuốt chửng những gáo đồng sôi đốt bỏng ruột gan. Nghe nói Diêm vương với tám mươi ngàn quân của ông ta cũng phải bị trừng phạt như vậy. Mỗi ngày ba lần. Ai đã có đủ gan óc và sắt đá để trừng phạt họ như vậy nhỉ? Chính những người đủ quyền lực để trừng phạt đó lại làm lễ phóng diệm khẩu mỗi năm để giải thoát. Vậy đó có phải là sự bày đặt không?
Tiếng niệm Phật của vị cao tăng mỗi lúc mỗi lớn. Đôi mắt ông long lanh, phấn khích. Sáu vị tăng đội mũ đỏ lập tức bê đến những bát nước. Loại nước trước đó đã được ban phép lành bằng ấn pháp. Bàn tay có những ngón sứt sẹo của vị cao tăng nhúng vào bát nước phép và nhỏ xuống những cái miệng đang cháy của đám ngạ quỷ. Khi làm lễ, vị cao tăng tin rằng đó là những giọt nước dịu ngọt biến những gáo nước đồng đang sôi sùng sục trở thành nước cam lồ và giải thoát kiếp quỷ cho lũ quỷ đói. Chúng sẽ ngơ ngác trở dậy, lững lờ bay lên khỏi hỏa diệm sơn, tìm một nguồn sống khác, một chỗ đầu thai để trở lại làm kiếp người kiếp chó kiếp lợn. Những kẻ chịu quá nhiều đau khổ có thể được trở về chốn thanh tịnh.
Lễ tắt. Những ngọn đuốc chỉ còn là những tàn than lửa đen lửa hồng. Lụi dần trên đám cỏ bị thiêu chín tái đang ngả màu xám chỉ còn bập bùng những ngọn nến. Các vị tăng ni mũ đỏ đã lần lượt trở về biệt phòng nằm sâu trong chùa. Còn vị cao tăng ngồi lại gian chính điện. Ông gỡ chiếc mũ vàng thêu kim tuyến ra khỏi đầu cởi bỏ áo lễ, mình trần ngồi xếp bằng nhắm mắt trước bàn thờ Phật tổ. Dường như Từ Lộ nhìn thấy chốn tịnh độ trên vầng trán thanh thản của ông ta.
Từ Lộ bước tới, chân đặt lên tàn than, mà không thấy đau. Chàng khẽ hỏi như nói một mình:
- Đại sư, người có tin rằng lũ ngạ quỷ tội nghiệp vừa được ngài giải thoát bây giờ đang đi tìm kiếp khác không?
Vị cao tăng vẫn ngồi im, mắt nhắm dường không nghe thấy.
Từ lại tiếp:
- Người có tin rằng những giọt nước phóng diệm khẩu dưới bàn tay của người thực sự sẽ biến thành nước cam lộ không? Hay vẫn chỉ là những giọt nước mưa nhạt nhẽo hứng từ mái chùa và được đựng trong những chậu sành?
Không mở mắt đại sư đáp, tiếng trầm trong ngực:
- Ta không cầm chắc một điều gì. Chỉ có điều có thể đoan chắc đó là ta làm vì chân tâm.
Từ Lộ cau mày:
- Thế nào là chân tâm?
Cao tăng nói, đôi tai dài chấm vai khẻ động như lá:
- Cái gì mà chẳng phải là chân tâm!
Từ Lộ nghe như có lưỡi dao thấu suốt vào tim, cắt đứt những sợi dây phiền não, như tỉnh ngộ, hỏi tiếp:
- Làm sao gìn giữ?
Đại sư mở mắt nhìn chòng chọc vào Từ Lộ:
- Đói ăn khát uống!
Từ Lộ ngửa mặt lên trời cười lớn rồi quay lưng vùn vụt ra đi.
Qua tam quan, Từ còn ngoái lại hướng về phía vị cao tăng đang ngồi, vái ba vái.
Đêm đó, chàng ngủ một giấc say sưa trong ngôi miếu hoang tình cờ gặp cạnh đường. Mười ba năm rồi, chàng mới có được một giấc ngủ yên lành như vậy.
Tỉnh giấc lúc trời còn mờ sáng. Từ tìm lương ăn và nước uống, sửa soạn lại hành lý và hăm hở lên đường.
Chàng đi tìm một chốn để rảnh tay lo việc tu hành và cứu nhân độ thế. Trong tâm đã quyết. Để tránh cảm giác trống rỗng, từ nay, cuộc đời chàng sẽ dành trọn cho việc khuyến dưỡng hỷ xả, xa rời vật dục, đem chân tâm để quy tập thiên hạ muôn người làm một, lấy lẽ từ bi và sự quên mình để răn dạy chúng sinh.
Như thế, sẽ không bao giờ phải làm lễ phóng diệm khẩu vì địa ngục lúc đó không còn ngạ quỷ.
Một ngọn lửa mới lại rừng rực cháy lên trong người Từ, đem cho chàng sức lực và niềm hăng hái.
Theo lời chỉ dẫn của vị cao tăng, nếu vượt một chặng đường hiểm trở, băng qua khu rừng dằng dặc trước mặt, sẽ đến chân núi Sài. Nơi đó, nghe nói non xanh nước biếc, cảnh trí thanh tịnh, dưới chân núi có hang đá lớn, xa xa chung quanh lại có làng bản, rất thích hợp cho một kẻ tu hành muốn đem giáo lý của mình ra để cứu giúp thiên hạ. Để vượt qua quãng đường đó, Từ quyết không dùng phép xuất vía mà chàng đã học được ở Tây Trúc. Chàng muốn tự mình vừa đi vừa chứng nghiệm.
Con đường đến núi Sài càng đi càng vắng teo, cây cối mọc rậm rịt hai bên, có những đoạn phải khó nhóc lắm mới phạt được gai góc mà mở đường. Đi hơn nữa ngày đường mà chẳng có hàng quán. Từ vừa đói vừa khát. Kể từ khi học được phép xuất vía, đi lại vùn vụt trong ngàn dặm, chàng không bao giờ phải bận tâm đến việc dự trữ lương ăn, bởi dù bất cứ ở đâu, chàng cũng vẫn có thể bước tới nơi có hàng quán trong nháy mắt. Toan dợm chân dùng phép khinh thân để bước đi, Từ chợt nhớ mình đã quyết đi bộ trên mặt đất để chứng tỏ chân tâm và chứng nghiệm việc đời. Thế là đành thất thểu đi tiếp.
Đôi chân đã mỏi rã rời, đến lúc ngả chiều, Từ mới thấy mình dẫu sao vẫn đi nhanh hơn người thường, đã đuổi kịp hai người đàn ông gánh hai tay nải nặng bằng một chiếc đòn gánh dẻo oặt, có mấu cong vểnh lên như đuôi chiếc thuyền rồng. Đầu đòn gánh, lấp ló trên miệng tay nải, là đoạn cán cân gỗ nẩu đồng. Thoạt trông, Từ nhận ra ngay rằng đây là hai anh em người bán tơ lụa vì họ giống nhau như đúc. Những người bán tơ lụa rong thế này thường kiếm được khá nhiều tiền. Họ biết nhà nào khéo tay nuôi được những nong tầm đẹp, hẹn ngày đến mua tơ lụa đi bán cho những nhà phú hào ở vùng sơn cước. Vì đường sá xa xôi hiểm trở, lại thường có rắn rết thú dữ, những người bán tơ thường không dám đi một mình.
Hai người bán tơ kê đòn gánh ngồi bên vệ đường, bẻ lá rừng phe phẩy quạt. Người đứng tuổi hơn trông thấy Từ liền reo lên:
- Sư bác! Bác đi đâu mà lặn lội một mình đường trường thế? Ngồi đây nghỉ chân với chúng tôi đã.
Từ dừng lại, mỉm cười nhìn hai anh em người bán tơ. Chàng hỏi:
- Chẳng hay tơ lụa ở miền thượng dạo này có được giá không, nhị vị?
Người trẻ hơn da trắng, thân mình đẫy đà béo tốt, có một cái bớt rất to màu đỏ trên mu bàn tay phải, cấm cẩn trả lời:
- Được già thì có được. Tơ lên giá, lụa lên giá. Người mua chê đắt, đi cả mấy ngày đường có khi không bán nổi mảnh lụa.
Người anh chép miệng:
- Chỉ có sư bác là sướng. Quanh năm suốt đời chỉ có một chiếc tay nải nhẹ tênh. Đi đâu ngửa bát khất thực ra, cái ăn của thiên hạ tự khắc chảy về rốn bát... chứ đâu phải lặn lội như chúng tôi...
Người em nằm lăn ra bãi cỏ, chiếc ruột tượng nặng trĩu đang đeo ở bụng anh ta bị tuột dây rơi xuống. Nghe có tiếng bạc vụn kêu rủng rẻng.
- Nằm nghỉ ở đây đi, đói lắm rồi! Đi mãi từ canh tư đến giờ, chỉ có nắm cơm nguội vào bụng, sức nào mà chịu được?
Người anh mắng:
- Chú mày chỉ giỏi đò ăn. Ngày hôm qua mới chén một bữa thịt chó no nê ở quán Dốc, chưa đủ nở ruột hay sao. Buôn bán như chú, bóc ngắn cắn dài, được một ăn mười. Cái ngữ chú, bao giờ mới dựng được nhà, cưới được vợ?
- Tôi chẳng cần vợ. Tôi chỉ cần được nhàn thân, ăn no ngủ kỹ, khỏi lang thang nay đây mai đó. Tôi không đi nữa đâu. Đói lắm rồi!
Người anh đổi giọng dỗ dành:
- Cố đi hai dặm nữa. Đằng trước kia nghe nói có một hàng ăn ngon và rẻ lắm. Tôi sẽ cho chú chén một bữa ra trò.
- Anh chỉ lừa tôi thôi!
- Thằng nào nói sai thì mồm lên dinh!
Người em hớn hở đứng dậy, tay vơ lấy đòn dánh. Trước khi đi còn chào Từ Lộ:
- Sư bác cũng nên qua đó một tý. Anh em chúng tôi thì phải trả tiền, nhưng sư bác chỉ cần chìa bát ra là đủ. Sao bố mẹ không cho tôi đi tu từ bé nhỉ?
Từ Lộ nhìn hai anh em quẩy gánh đi xa dần, cười thầm: "Giá như hai anh chàng đó biết đến những ngày chống bè ngược sông Gâm hoặc khua tích trượng băng rừng sang Tây Trúc, bao nhiêu lần suýt chết vì đói khát hoặc hang sâu thác dữ thì sẽ không ao ước như vậy..."
Chàng nghĩ vẩn vơ rồi ngủ thiếp đi.
Tiếng bò rừng rống gần đâu đây khiến Từ Lộ giật mình tỉnh dậy. Lúc này Từ mới thấy trời đã gần tối mà đường còn hun hút, bụng lại đang sôi réo. Từ vội vàng khoác tay nải vào người, bước nhanh về phía trước.
Đúng như lời của hai anh em người bán tơ. Khi Từ đi được chừng hai dặm, từ xa xa, trong khoảng rừng rậm trước mặt, dưới tán cây dây leo rủ xuống chằng chịt, có một ngôi quán nhỏ mà có thể nhận ra được từ xa nhờ ngọn đèn lồng treo ngoài quán. Từ mừng rỡ, rảo chân bước tới. Chàng nghĩ đến bếp lửa ấm áp, một bữa cơm chay nóng với trà ngon. Chàng sẽ ngủ qua đêm trong quán cho đỡ sương gió. Có thể sẽ gặp lại hai người bán tơ thì càng thú vị. Chàng sẽ bớt đơn độc ở vùng rừng núi hoang vu lạ nước lạ cái.
Càng đến gần, ngọn đèn lồng treo dưới mái hiên càng lay động như vẫy gọi.
Ánh sáng của ngọn đèn được đốt lên quá sớm lu thành một quầng đỏ như máu trong sương chiều, soi mờ tỏ một ngôi quán được dựng bằng những thân gỗ đẻo sơ sài nhưng chắc chắn, mái lợp lá gồi đã ngả màu bạc.
Cửa vào chỉ khép hờ, cũng là những mảnh ván lớn ghép lại bằng những chiếc chốt gỗ lim.
Từ trên chiếc hỏa lò được đốt bằng những gốc cây lớn, mùi thịt xào, thịt nướng ngầy ngậy thơm khác thường bay ra khiến những quan khách khó tính nhất cũng cầm lòng không đậu.
Lại thêm một người đàn bà trạc chừng ba mươi tuổi, ngực che yếm thắm, hai vai để trần. Sau gáy có những sợi tóc lòa xòa, lấp lánh mồ hôi là đôi dải yếm lả lơi buông lưng chừng. Gương mặt hồng hào gần như không có lông mày, chỉ thấy đôi mắt như mắt chim bói cá, mờ đục, mở lớn không chớp. Vẻ quyến rũ của người đàn bà khiến khách đi qua nhìn vào chỉ những muốn sà ngay vào quán, nhào vào lòng chị ta để tìm chút an ủi cho qua một đêm dài. Chắc khách qua đường chỉ có ngại người đàn ông mắt sâu mày gẫy khúc, cao lớn như một ông hộ pháp đang thoăn thoắt thái thức ăn, nấu nướng trên chiếc hỏa lò bên cạnh chị ta trông như một ông thần giữ của.
Trông dáng vẻ lả lơi của chị ta có cái gì đó không bình thường. Nhưng ngoài kia trời đã sập tối, ngọn lửa trên hỏa lò lại mời gọi ấm áp quá chừng. Đứng phân vân ở ngoài một lúc lâu, bỗng Tứ nhìn thấy đôi đòn gánh của hai người bán tơ đang dựng cạnh chum nước gần cửa ra vào. Chàng thấy vui vui, liền đẩy cửa bước vào vì sắp gặp lại họ.
Chủ đứng lên đon đả đón mời. Tay đỡ hành lý, tay lau bàn sửa ghế. Người đàn bà tay đỡ hành lý, mắt nhìn một lượt từ đầu đến chân khách. Thấy khách mặc tu hành, đã thoáng vẻ thất vọng. Nhưng nhìn chiếc tay nải có vẻ nặng, phong độ khách ra chiều quí phái, mặt chủ tươi lên. Liếc ngang cặp mắt sắc như dao, người đàn bà cười cười nói nói:
- Mời thầy ngồi xơi chén rượu, nghỉ ngơi. Ngoài kia rừng rậm, đêm tối, đầy thú dữ rắn rết. Sao bằng trong này rượu ngon thịt béo tha hồ đánh chén. Ăn xong, lại có đệm cỏ cho thầy nghỉ. Mai khỏe khoắn hãy lên đường.
Rồi chị ta quay sang nói với người đàn ông:
- Nhà mau mau nướng một đĩa thịt lợn, mang ra đây cho sư trưởng xơi trước. Làm gì mà chậm như rùa thế không biết? Nhà đúng là giống người trần mắt thịt, không nhận ra người quý phái giữa chốn trần gian...
Người chồng lúc này mới lên tiếng:
- Có ngay có ngay! Nhiều món thịt ngon, lạ, tươi roi rói. Nào thịt nướng thịt hấp, thịt giả cầy, thịt băm viên..., sư trưởng chọn món nào?
Từ Lộ lạnh lùng:
- Tôi là người đi tu, đã quen ăn chay, không cần dùng đến những thứ đó. Chỉ cần cơm, canh rau, đậu lạc, nước trà nóng là đủ.
Người đàn bà lại cười tít mắt:
- Thôi mà, sư trưởng! Vẫn biết nhà bác là chân tu. Nhưng bác ơi! Chân tu là chân tu ở chùa thôi, trước mặt các sư các vải và tăng ni Phật tử là đủ. Chứ còn ở đây, rừng thiêng nước độc, quán vắng hoe vắng ngắt, chỉ có vợ chồng nhà em, bác cứ chén đồ mặn, kể cả thịt cầy. Có ai biết đâu mà ngại. Đời người sống được bao nhiêu mà bác cứ vẻ chuyện!
Từ vẫn lạnh lùng:
- Đã nói tôi là nhà tu hành. Bây giờ ngửi thấy mùi thịt cá chỉ buồn nôn. Thôi đừng dài dòng nữa. Có cơm canh thì dọn mau cho.
Người đàn bà đổi giọng:
- Thưa vâng. Em nói thế chẳng qua là vì có nhiều thầy tu đi qua đây chén thịt cầy bằng mấy người thường. Nếu em không mời, sợ thiệt cho sư thầy. Sư thầy không thích thì thôi. Nhưng em khuyên sư thầy nên uống nhiều rượu để phòng cảm mạo khi đi đường sương gió...
Mặt Từ Lộ giãn ra:
- Rượu thì được. Mau mang ra đây!
Người đàn bà rảo bước trở vào trong buồng, mang ra một hũ rượu màu da lươn, đậy nút chặt bằng lá chuối và một chiếc chén vại lớn bằng sành. Chị ta mở nút, mùi rượu thơm bốc lên ngào ngạt. Thấy rượu rót ra hơi ngả màu xanh, Từ hỏi:
- Thông thường, rượu màu trắng hoặc hơi ngả vàng. Tại sao rượu này ngả màu xanh?
Người đàn bà lại liếc ngang. Giọng ngọt lịm:
- Sư thầy thật là người có con mắt tinh đời. Rượu này nhà em có pha một vài vị thuốc, uống vào tâm thần sảng khoái, thân thể tráng kiện, có thể đi được vạn dặm đường... Nào, hôm nay thật là hữu duyên thiên lý năng tương ngộ... Tệ quán thật là có phúc mới gặp được một vị cao tăng như sư thầy. Xin sư thầy đừng bỏ qua chén rượu chúc phúc này...
Từ Lộ nâng chén, dừng lại một giây, rồi mỉm cười uống cạn.
Mắt người đàn bà lóe lên đắc thắng.
Từ chỗ đứng bên cạnh hỏa lò, người đàn ông theo dõi không sót cử chỉ nào. Khi chén rượu được dốc cạn vào miệng Từ, anh ta nhếch môi cười.
Từ nhìn thấy cái nhếch môi của người đàn ông. Lại chỉ nhìn đọc thấy hai cái đòn gánh của hai anh em nhà buôn tơ lụa dựng chỏng chơ ngoài thềm mà người thì không thấy tăm hơi.
Từ gục đầu xuống bàn, giả vờ mê man bất tỉnh.
Chỉ chờ có vậy, người chồng xăm xắn quẳng dao, đến bên khách.
- Không béo nhưng chắc. Dân đi tu ít mỡ nhiều nạc.
Người vợ luyến tiếc nhìn Từ, tay vẫn không thôi lục lạo những lạng bạc trong hành lý của người khách bất hạnh vừa trúng rượu độc đang nằm mê man bất tỉnh, giọng tiếc rẻ:
- Đáng tiếc đáng tiếc! Người khôi ngô tuấn tú thế này mà lạc bước đến đây!
Người chồng vằn mắt quay sang, tát "bốp" vào mặt vợ:
- Câm ngay cái giống lẳng lơ nhà cô. Hễ gặp con thịt nào sạch mắt là lại động cỡn đòi thả, nói ra nói vào. Tôi đã bảo: "Đào giếng đào cho sâu. Nhổ cỏ nhổ tận gốc". Đã sống bằng cái nghề lấy cái chết của người để nuôi mạng sống cho mình, muốn sống, không được đắn đo...
Người vợ cũng chẳng vừa, túm tóc chồng lôi xềnh xệch đến bên hỏa lò:
- Giỏi lắm. Anh đánh tôi như cơm bữa. Thế anh, anh tưởng anh giỏi lắm đấy hẳn? Tôi nói cho anh biết. Anh là một người chồng tồi bất tài vô dụng. Giỏi giang như người ta, đã không phải kiếm cơm bằng cái nghề này, để đến nỗi phải trốn chui trốn nhủi ở cái xó ma thiêng nước độc này...
Thế là hai vợ chồng túm tóc đánh nhau túi bụi. Đến lúc hăng hái, kẻ vác chầy giã giò định phang, kẻ cầm dao phay dọa chém. Mãi đến lúc thấy người khách vừa uống rượu độc nãy giờ nằm thin thít, người đàn bà mới kêu lên:
- Thôi thôi. Mau mau ra tay. Cái lão sư gầy mà khỏe đấy. Làm nhanh kẻo hắn lại tỉnh dậy!
Lúc đó, người chồng mới quẳng chầy giã giò, chạy tới vồ lấy con dao ngậm vào mồm, cúi xuống xốc Từ lên vác vào bếp.
Từ vẫn nằm im, mắt nhắm.
Chợt thấy đau nhói, rồi tiếp theo là tiếng cạo xoèn xoẹt ở đâu trên bụng mình. Rồi nghe tiếng nói không giấu được vẻ hớn hở của người chủ quán:
- Hôm nay thật là một ngày tốt. Từ sáng đến giờ, bỗng nhiên có ba mống đến nộp mạng. Toàn là loại bánh tẻ, chắc, nhiều nạc.
Tiếng của người đàn bà:
- Hai món trước còn được thịt. Chứ gã thầy tu này ăn chay, thịt nhạt, lấy đâu ra mà ngon...
- Cô nhầm. Phàm những loài ăn mặn, thịt dù ngon đến thế nào cũng có mùi hơi khen khét. Chế biến giỏi mấy vẫn không thể tẩy hết mùi. Còn những giống ăn cây cỏ, thịt thơm hơn. Nhất là người mà chỉ tuyền ăn cây cỏ nữa thì thịt càng tuyệt.
- Tôi chỉ để ý đến chỗ bạc của hai gã buôn tơ, tay thầy tu này cũng có được ít bạc, nhưng trong túi hắn có cái đầu lâu của con gì trông gớm chết!
Người chồng vẫn soàn soạt cạo lông trên bụng Từ, miệng lẩm bẩm:
- Cạo lông sống thế này, rồi lấy nước nóng hòa nước vôi trong mà dội, lại cạo, rồi lại dội qua một lượt nước lã, mổ lấy mật đem ngâm rượu bán cho bọn phú hộ làm thuốc trường sinh bất lão, gan ruột thì làm món nhắm, không gì ngon bằng...
Nghe đến đây, Từ mở mắt, vùng dậy.
Cùng lúc đó, dưới ánh nến, Từ thấy lủng lẳng ngay trên đầu mình là chiếc giàn treo thịt với bốn chiếc đùi người còn nguyên cả bàn chân và một cánh tay.
Chàng còn kịp thấy một cái bớt đỏ to bằng cả đồng tiền trên mu bàn tay treo lủng lẳng ngay gần mặt chàng.
Bàn tay của người bán tơ!
Chàng tung người vùng dậy.
Hai vợ chồng chủ quán rụng rời chân tay nhìn Từ nghiến răng đập phá phản thịt. Những súc gỗ nghiến lớn cỡ người ôm không xuể đang vỡ nát dưới nắm đấm của vị sư trông mảnh mai như học trò. Cái bụng của ông ta đang bị cạo dở, trắng hếu, rớm máu cứ lấp lóa trong ánh nến.
Từ gầm lên:
- Các người bày đặt bẫy để hãm hại giết người cướp của. Đã thế lại còn lấy thịt người làm ngon, còn giả trá đem bán cho thiên hạ. Ta từng nghe có kẻ giết người lấy nhân làm bánh bao, những tưởng đó chỉ là chuyện bày đặt. Hóa ra, có những kẻ như các ngươi còn hơn cả hùm sói. Bọn bay phải đền tội!
Dứt lời, Từ tung người về phía đôi vợ chồng sát nhân đang run cầm cập vì sợ hãi. Chỉ một bước, chân phải của chàng đã giẫm lên lưng mụ vợ, điểm huyệt, khiến mụ ta chỉ biết há mồm ra vì đau mà không thể cựa quậy. Gã chồng xưa nay chỉ quen giết những người đã bị trùng thuốc nằm mê man chứ chẳng có võ công gì, nay gặp bậc cao thủ cũng cố mắm môi mắm lợi vác dao phay xông vào định chém, liền bị Từ khẽ búng tay gạt bắn cao dao trở lại chém phập vào đùi, máu chảy luễ lõa, liền bò ra đất lạy như tế sao xin tha mạng. Từ thộp cổ hắn, xách bổng lên:
- Chúng bay đã sát hại bao nhiêu người rồi?
Gã chồng khóc lóc:
- Dạ, chúng con chít dại chỉ mới hôm nay!
Từ Lộ quát:
- Láo! Đừng tưởng ta trúng thuốc mê không biết những gì các người bàn tán với nhau. Khai thành thật, ta tha mạng. Nói sai một lời, ta lập tức quẳng vợ chồng các người vào hỏa lò. Nói mau! Cớ gì sức dài vai rộng, không lo làm ăn lương thiện mà lại đi làm cái nghề dã man này?
Gã sát nhân càng khóc to:
- Dạ! Ngàn vạn lần xin đại sư soi xét. Vợ chồng con khi trước làm nghề đồ tể ở kinh thành, sinh được một đứa con trai kháu lắm. Vợ chồng lam làm nuôi nhau, dạ, quả thực chỉ giết gà giết lợn kiếm ăn lần hồi. Nhưng sau chẳng may một hôm ngủ dậy, thấy có một xác người bị ai cắt cổ vứt trước cửa nhà liền hoảng hốt hô hoán lên. Người ta mới chạy đến xôn xao ầm ĩ. Chừng nửa buổi sau, có một viên quan đi kiệu đến, theo sau có cơ man nào là quân lính. Ông quan liền xuống kiệu, ôm lấy cái xác người mà khóc gào rồi người ta kiệu cả cái xác và ông quan về. Đồng thời, người ta cũng nhốt cả nhà con vào ngục...
- Nhà ngươi giết người rồi quẳng ra đường phi tang?
- Dạ! Nếu quả có thế thì con hôm nay đã không gặp đại sư ở đây. Con hoàn toàn không biết cái xác đó là ai. Người ta bắt cả nhà con, cả thằng bé mới ba tuổi đang bi bô tập nói vào nhốt trong ngục. Ba hôm sau, quan cho người vào ngục dùng vồ đập chết thằng bé ngay trước mặt chúng con!
Gã sát nhân oằn người như đang bị đau ruột, kể tiếp:
- Người ta nói: vợ chồng con đã giết con quan để cướp của, thì nay quan đập chết con trai con để đền mạng. Còn vợ chồng con thì cứ ở trong ngục, đợi ngày đưa ra xử giảo...
- Thế rồi quan tha cho vợ chồng ngươi?
- Dạ, không có. Vợ con lúc đó đã phát điên, suốt ngày cứ đấm ngực gào khóc rồi đấm vào khoảng không, không ăn không ngủ. Còn con, cứ hễ nhắm mắt lại là nghe tiếng bi bô và cái đầu của thằng con bị đập vỡ. Muốn thắt cổ chết cho rảnh. Nhưng lại nghĩ: đời này đã độc ác với ta đến thế, ta càng phải sống để báo thù cho con ta, báo thù đời. Lừa thời cơ tên lính gác ngủ gật, con đánh chết hắn, lột lấy quần áo, đánh vào gáy vợ cho chết ngất rồi vác vợ ra đi... May đêm ấy mưa to gió lớn...
- Người đã bị oan, lại biết đau đớn khi con ngươi bị người ta giết oan. Mà sao còn nhẫn tâm lấy đi mạng sống của kẻ vô tội khác?
- Dạ, cũng vì, khi tay đã trót giết người, thấy việc giết người dần dần cũng không đến nỗi ghê gớm lắm, cũng muốn trả thù đời. Vả lại, khi vợ chồng con lưu lạc đến miền rừng này, làm thuê cho chủ quán, đầu tiên tưởng là người tốt bụng. Sau mới vỡ lẽ là chủ quán sinh sống bằng nghề này...
- Làm sao ngươi biết?
- Dạ, đó là dạo ấy khan hiếm người qua lại. Một hôm, chủ quán mài dao định thịt con. May hôm ấy con thấy nghi ngại không uống rượu. Thế mà cũng đã bị trói chặt chân tay vào phản thịt. May vợ con tỉnh lại vào lúc con dao đang huơ lên...
- Chủ quán nay ở đâu?
- Dạ... đã ở trong bụng... một số quá khách, và... chẳng giấu gì... trong bụng vợ chồng con...
Hồi lâu, chàng nói:
- Sự độc ác của các người khiến cho ta tởm lợm đến mức không còn muốn đụng tay đến chúng bay nữa. Lẽ ra, khi bị oan ức, phải tìm chính người gieo quả ác mà trả, rồi lo làm ăn lương thiện giúp đời. Đằng này chúng bay lại bị lôi cuốn theo việc ác. Nay ta dù có lấy đi hai mạng của chúng bay để an ủi những người vô tội đã chết dưới lưỡi dao của chúng bay, phỏng được ích gì đây?
Lúc đó, người vợ đã tỉnh lại. Mụ ta quỳ xuống nài xin:
- Tội của chúng tôi đáng chết. Xin đại sư ra tay. Càng nhanh càng tốt.
Người chồng lại vật vã:
- Đại sư ơi! Lâu nay chúng tôi cố làm thật nhiều việc ác, cũng là để tự an ủi mình. Giết người nhiều rồi thành quen, như say máu. Nhưng đêm khuya canh tàn cũng không thể không có lúc tỉnh rượu, vợ chồng chỉ những muốn đóng cửa đốt nhà mà tự sát nhưng gan không đủ lớn. Nay đại sư đến. Được chết dưới tay đại trượng phu như đại sư, khi chết, biết đâu chúng tôi sẽ thoát khỏi vạc dầu. Xin đại sư gia ân!
Dứt lời, người chồng thu mình lại, bất giác lao ngực vào lưỡi dao phay mà Từ Lộ đã đoạt lấy của hắn, hiện đang cầm trong tay.
Người vợ nhắm mắt lại, rú lên. Con dao mới mài sắc như nước.
Nhưng Từ đã nhanh tay quay ngang mũi dao. Người đàn ông mất đà, lao vào chân Từ. Lúc người vợ mở mắt ra, thấy chồng vẫn yên lành. Khách đã ném vụt con dao ra xa.
Khách nói, như nói một mình:
- Thế gian này, do sự bất công của con người mà đầy rẫy việc ác. Việc ác này đẻ ra việc ác khác. Nhân nhân quả quả biết bao giờ mới dừng? Nay chỉ có cách lập chùa, lấy sự khổ hạnh mà răn mình và giáo hóa thiên hạ từ bỏ lòng tham, mới mong đại định được thiên hạ.
Chàng cúi xuống nhai nát một nắm lá, rịt vào vết thương ở đùi cho tay đồ tể. Vết thương lập tức liền miệng. Chàng với tay nải, chống gậy, lững thững bước đi trong đêm.
Vợ chồng tên đồ tể khóc như mưa, cùng nhìn nhau, rồi không ai bảo ai, vơ vội chút hành lý, huỳnh huỵch đuổi theo chân Từ Lộ, đón đường, sụp xuống lạy:
- Đại sư! Nay chúng tôi sống cũng như chết. Được gặp đại sư là người đạo cao đức trọng, mở lượng bao dung như biển cả, lấy nhân nghĩa để trả oán. Nay chúng tôi xin được theo làm đệ tử hầu hạ ngài, làm việc thiện để chuộc lại những việc làm độc ác, cho hồn con trai chúng tôi được thong dong nơi Niết Bàn.
Từ nhăn mặt:
- Các ngươi về đi! Ta không muốn nhìn thấy các ngươi.
Người vợ nói:
- Thưa đại sư, tôi là hạng đàn bà bụng dạ nông nổi. Tuy vậy cũng mong ngài nán lại một khắc, nghe tôi nói vài lời rồi bỏ đi cũng chưa muộn. Biết rằng những điều chúng tôi làm khiến cho đại sư ghê tởm. Nhưng đại sư đi tu là để giáo hóa chúng sinh. Vậy tôi trộm nghĩ, những người lầm đường lạc lối như chúng tôi, sẽ là nơi mà người cần giáo hóa đầu tiên. Bởi nếu không kịp thời giáo hóa, chúng tôi sẽ trở lại con đường cũ. Nếu ngài không nhận chúng tôi là đệ tử, liệu đức Phật có khỏi trách ngài là cố chấp hay chăng?
Người chồng cũng nhất định quỳ mọp mãi dưới đất:
- Mong đại sư nghĩ lại. Nếu người nhất định không thu nạp, con giết vợ con trước, rồi tự giết con sau, quyết không trở về lối cũ!
Từ cau mày. Phân vân lúc lâu, chàng chắp tay quay về phương Nam:
- Nam mô đại từ đại bi Quán thế âm Bồ tát! Chẳng lẽ người gửi đến cho con hai đệ tử đầu tiên như vậy sao?
Rồi ba người lầm lũi ra đi trong đêm tối...