← Quay lại trang sách

LÃNH TIẾU NHÂN GIAN

Mậu Ngọ 1. Thiên Chương Bảo Tự năm thứ sáu. Tháng Ngâu.

Tháng Ngâu mà trời vẫn không mưa. Khô hạn từ đầu tháng Năm, nay đã ba tháng ròng. Ruộng vườn hết thảy nứt nẻ.

Ngày nào ngoài đồng cũng có vài nông phu đi nhổ gốc rạ về đun chẳng may sa chân xuống rãnh nẻ bị trẹo gân. Những người lo xa đã bắt đầu ăn bữa cơm bữa cháo, mang cuốc mang liềm đi lấy từng gánh rau má về, nửa ăn sống nửa phơi khô để dành lúc đói kém.

Vua Thần Tông triệu các quan đến hội bàn rồi đích thân mặc áo vải gai, xõa tóc, ăn chay niệm Phật, đến Vu đàn rồi đến cả chùa Báo Thiên làm lễ cầu mưa.

Cầu đảo đã bảy ngày bảy đêm, trời vẫn nắng chói bỏng không một gợn mây. Vua mệt mỏi trở về cung, nét mặt ủ ê.

Mấy ngày sau, Ngài ngự phát bệnh. Viện Thái y được lệnh triệu cử người vào nội cung.

Dương Thái y lom khom đi vào, ghé tai nghe hơi thở tận ngực Vua, vén tay xem mạch hồi lâu, cung kính vái chào, đi ra, khẽ thì thào vào tai Tham tri Chính sự Từ Văn Thông đang nóng lòng đứng bên ngoài:

- Thượng quan, mạch Ngài ngự vượng mà khí trệ. Thân xác yếu đuối như không mang nổi hồn vía. Thận dương bị hao tổn quá nhiều. Kể từ cơn bạo bệnh năm kia đến nay, trông khí sắc của Hoàng thượng lạ lắm.

Từ Văn Thông càng không khỏi bồn chồn:

- Năm Thiên Chương Bảo Tự thứ tư, Hoàng thượng lâm trọng bệnh, may gặp đại sư chữa khỏi. Tháng Hai năm ngoái, châu Nghệ An động đất, nước sông đỏ như máu, dân chúng quanh vùng lo sợ khóc như cha chết mẹ chết. Đó là điềm gở của nước nhà. Điềm xấu. Ứng vào ai đây?

Dương Thái y cười nụ:

- Điềm gở và vận hạn là cái ách đeo đuổi suốt đời vận số của nước Nam này. Có chi mà quan Tham tri phải băn khoăn nhiều!

Từ Văn Thông:

- Không băn khoăn sao được. Từ ngày Hoàng thượng khỏi bệnh đến nay, trông ngài ngự cứ như một người khác. Lúc nào cũng để tâm trí tận đâu đâu. Thỉnh thoảng cứ buột mồm gọi tên sư bà Nhuệ Anh. Lại sai người đi tìm sư bà khắp hang cùng ngõ hẻm. Bóng chim tăm cá. Khi quân hầu về báo là không găp thì nổi trận lôi đình, không thiết ăn uống đến mấy ngày, không thiết gì đến cả mỹ nhân. Vậy có phương dược gì thần hiệu, hãy cố công kiếm cho ra để Hoàng thượng lấy lại được phong độ ngày xưa?

Dương Thái y ngẫm nghĩ giây lát, rồi cười, mắt lấp lánh bí hiểm:

- Kẻ bất tài này đã thử hết cách, trước đây cũng đã từng nhiều lần dâng xuân tửu chế theo thang bí truyền của các đế vương đời xưa, Hoàng thượng uống vào cũng thấy kiến hiệu. Quan ngài đã từng nghe một loại mỵ dược tên là Thiên đan duyên chưa?

- Ta có nghe đám đại thần bên Tàu truyền tụng, nhưng liệu có bằng được loại mỹ tửu Phật leo tường của ta chăng? Ngươi có am tường?

- Chẳng dám giấu quan Tham tri, ngày còn đi theo dưới trướng Thái úy Lý Thường Kiệt, tôi có cơ duyên cứu mạng được một lương y người Bắc phương trong trận chiến trên sông Như Nguyệt năm Bính Thìn. Thoát chết, biết tôi cùng nghề y, ông ta lạy ba lạy, đem truyền cho tôi một bài thuốc, nói rằng nhờ nó có thể thay đổi được thân phận, không nhọc nhằn mà được vinh hiển.

- Chà, liều mạng! Tội ấy, bị bêu đầu trên cọc!

Dương Thái y cười:

- Hóa ra ngài cũng là kẻ hiếu sát, thích bêu đầu người trên cọc. May mà khi đó quan Tham tri cũng chỉ mới là một chức ngũ phẩm ở chốn kinh thành này...

- Hiếu sát, trông người ta giết người quen như giết gà là bệnh của nhiều kẻ được nắm quyền sinh quyền sát với thiên hạ, chẳng phải của riêng ta. Thôi thôi. Nói tiếp cái phương Thiên đan duyên đi!

- Quan ngài cứ nghe rồi hãy buông lời cả quyết. Không phải vô cớ mà từ khi học được phương thuốc này, tôi quả thực đổi đời, chỉ một năm sau được thăng chức, thường được cận kề bên Tiên hoàng. Tôi vẫn đinh ninh sống để dạ chết mang đi...

- Bảo rằng sống để dạ chết mang đi, sao nay ngươi lại tiết lộ cho ta?

Dương Thái y càng cả cười:

- Ngài thật không làm thuốc bao giờ không biết! Dù Dương tôi có kể mười lăm lần về cách chế Thiên đan duyên, ngài vẫn không thể nào làm đúng được. Bí quyết nhà nghề sống để dạ chết mang đi phải kín kẽ đến như vậy. Sống trong cung thất từng ấy ngày, tôi cũng có học được đôi ngón giữ thân. Tưởng kín là hở, tưởng hở mà kín...

- Thôi, mau mau nói ra. Phương thuốc gì mà bí hiểm là vậy? Ta tưởng, với ta, người đã từng nhiều làn tiến cử ngươi với đương kim hoàng thượng, đem lại biết bao bổng lộc cho nhà ngươi, mà ngươi còn giấu giếm thì chẳng hóa ra lòng tri ân của ngươi chẳng đáng một ly so với gã lang băm Bắc phương kia?...

Dương Thái y xua tay rối rít:

- Ấy chết, xin thượng quan chới nói oan cho kẻ này. Kẻ bất tài này đâu dám giấu giếm, bình sinh thấy quan ngài cao quý, sợ cách chế thuốc này có những vị mà ngài cho là làm bẩn tai ngài mà thôi.

Từ Văn Thông cau mặt:

- Cứ nói đi, đừng vòng vo lắm lời!

- Bẩm...! Thực ra, chế thuốc này không phức tạp là mấy, chỉ khó ở công phu thôi. Chẳng qua, lấy chất hồng duyên và huyết hành kinh lần đầu tiên của thiếu nữ mà luyện, cùng với nhũ phấn, thần sa, nhựa thông xứ Nam Man, cặn nước tiểu của đồng nam, đựng trong một chiếc nồi lớn bằng bạc, dùng nước ô mai mà chưng. Chưng đi chưng lại bảy lần rồi mới chắt nước cốt ra, thêm chừng ba mươi vị thuốc nữa, mỗi thứ ít không quá một ly, nhiều không quá năm đồng cân, chưng chín lần trong nồi vàng. Phải thức suốt ngày đêm để chưng. Chưng vào chính đêm trước đêm trăng tròn để thuốc được nhuần nhị dương khí của trời đất. Trong khi luyện thuốc, người luyện không được ăn thứ gì, chỉ được uống sữa dê. Qua bảy ngày, thuốc quánh lại thành cao. Ai có may mắn được dùng, sẽ thấy xuân tình rạo rực bất kể ngày đêm, khoái lạc như lên tiên giới...!

Từ Văn Thông nghe tới đó, vỗ tay cười:

- Ra thế! Ta vẫn tưởng chỉ có riêng mình biết liệu những việc này. Ai ngờ trong triều còn nhiều cao nhân nữa. Thảo nào hàng năm Tổng quản Thái giám lại cứ sức xuống các châu huyện, tuyển hàng trăm đồng nữ, nhỏ không dưới tám, lớn không qua mười bốn tuổi, đem về nuôi trong cung. Ta đã nghi có điều mờ ám nhưng hỏi ra thì biết đó là biệt lệnh của Hoàng thượng...

Dương Thái y hạ giọng, thì thào:

- Nay thuốc vẫn còn, đựng trong hộp vàng cẩn ngọc bích, để ở bên long sàng. Thuở Hoàng thượng chưa lâm trọng bệnh, mỗi ngày, lúc vàng mặt trời, Ngài thường ngậm một viên dưới đầu lưỡi, để tận hưởng một đêm hoan lạc vô độ. Nhưng gần đây, hộp thuốc không suy suyển.

Từ Văn Thông:

- Trước kia có Phật leo tường. Đến nay Thiên đan duyên cũng không khiến Hoàng thượng vui lên được. Biết tính sao? Triều đình đang có nhiều trọng sự. Việc lập Thái tử còn đang chưa dứt. Các trọng thần, kẻ thì muốn phò Thiên Lộc, kẻ muốn a dua theo ba vị phu nhân... Phải có cách nào để Hoàng thượng vui vẻ, phấn chấn mà lo việc lớn đó...

Hai người vừa nói đến đó, bỗng tên lính thị vệ trong nội điện hớt hải chạy đến, truyền ngự lệnh: "Hoàng thượng lệnh cho đại quan chuẩn bị năm chiếc thuyền rồng, hộ giá Hoàng hậu và các phu nhân, cùng cung nữ và các quan nội thần đi cầu mưa ở hồ Dâm Đàm".

° ° °

Hồ Dâm Đàm ở phía bắc thành Thăng Long. Dù các hồ khác đã cạn, nhưng nhờ có rốn nước thông ra sông Cái, Dâm Đàm vẫn mênh mông như biển. Gió rờn rờn đẩy sóng xô về mạn xa.

Trời trong xanh và nắng gắt gỏng trong nội đô nhưng khói sóng vẫn phủ lên mặt hồ một làn hơi ẩm ướt êm dịu. Ngào ngạt hương sen đang nở nốt trốn chạy cái hanh heo của mùa thù.

Những đóa sen dại, nhỏ bé, cánh trắng mỏng như nhẹ thoa phớt một lớp phần hồng. Đàn sâm cầm chốc chốc lại bay lên rợp trời.

Thảng thốt tiếng vạc kêu, lạc lõng giữa ban ngày. Đám vạc hoảng hốt khi nhìn thấy đoàn thuyền rồng lộng lẫy, cờ quạt rợp trời, nối đuôi nhau chở Đức vua, chở Lý hoàng hậu và ba phu nhân Cảm Thánh, Nhật Phụng, Phụng Thánh cùng các cung nữ được chọn lựa, cùng đoàn tùy tùng hộ giá oai vệ rực vàng cả một góc hồ.

Xa trông cũng đã thấy rõ trên chiếc thuyền đi đầu là cả một đàn tràng cực lớn với những đạo sĩ mặc áo vàng, xõa tóc đang đi vòng quanh vừa niệm chú vừa hành lễ để cầu đảo. Bảy mươi đồng nam và chín mươi đồng nữ thanh tân, nam mặc áo đỏ nữ mặc áo xanh vừa chèo thuyền múa hát vừa nhất loạt cất tiếng gọi mưa. Tiếng chiêng trống, tiếng cầu kinh niệm Phật, tiếng hô phong hoán vũ vang động cả một góc trời.

Đức vua kính cẩn làm lễ, rồi rầu rĩ ngồi xuống chiếc nệm gấm dát rồng vàng đặt trang trọng giữa thuyền. Lễ cầu mưa đã hoàn tất. Yến tiệc được bầy la liệt trên thuyền để tưởng thưởng cho các đạo sĩ và quan quân. Các cung nữ múa hát, xoay tròn trong điệu Phong vũ, điệu múa cầu mưa do đích thân Đức vua soạn. Vũ điệu lúc dịu dàng như mây bay, lúc mãnh liệt như gió lốc, thân hình kiều diễm phô phang dưới làn lụa mỏng khiến đá cũng phải xiêu lòng.

Vậy mà hôm nay Ngài ngự ngồi trầm tư, mắt nhìn trân trân mà như không thấy cảnh vui chơi huyên náo ở chung quanh.

Bỗng một chiếc thuyền xinh xắn kết hoa sen hồng và lụa tía ghé tới, cập vào mạn thuyền rồng. Quân hầu sửng sốt toan tuốt kiếm, thì đã thấy quan Tham tri Chính sự Từ Văn Thông quỳ xuống trên chiếc thuyền nhỏ:

- Bẩm Hoàng thượng! Hạ thần có việc gấp muốn tâu bày.

Đức vua uể oải xua tay:

- Khi khác. Ta đang nhọc mình. Không muốn nghe bất cứ điều gì.

Mắt vua sầm tối và bải hoải, không buồn ngó người đối diện.

Từ Văn Thông mỉm cười không nao núng:

- Tâu Hoàng thượng, kẻ xuẩn ngốc này không dám cả gan đem công việc đến quấy rầu Hoàng thượng trong lúc này. Chẳng qua là thấy Hoàng thượng quá nhiều lo nghĩ việc quốc gia nên mạo muội dùng tài hèn sức mọn kết một tràng hoa sen xấu xí. Hoa này, cách đây ba năm hạ thần đã cho một trăm mười ba gái đồng trinh bơi thuyền ra mạn phía nam Dâm Đàm trồng sen. Lại sai thợ dựng lầu trên mặt hồ. Lầu được vây bọc tứ phía, khiến cho những con mắt phàm phu tục tử không thể nhìn ngó tới. Số gái này, tiết xuân hạ thì trồng hái sen, đêm trăng véo von ca hát. Những đóa sen hàm tiếu ngậm cả lời ca của các gái quê rồi phong nụ. Để đến sáng mai, khi mặt trời vừa rạng, các gái đồng trinh đã trở dậy, lại chèo thuyền thúng đi, khẽ khàng như ru, tay mỗi đứa cầm một chiếc lọ bằng sứ mỏng và trong veo như giấy, khẽ nghiêng đóa sen, hứng nước vào bình, dâng cho Hoàng thượng và Hoàng hậu pha trà. Dạ bẩm. Từ ba năm trở lại đây, Hoàng thượng có thấy hương vị trà đổi khác chăng?

Đã thấy con ngươi trong mắt đức vua chuyển động. Ngài ngẩng đầu lên, nhìn ra xung quanh rồi trỏ tay vào Từ Văn Thông:

- Từ trước đến nay, trong triều vẫn nói rằng nhà ngươi thật khéo nói. Ta không tin. Nay thì biết rồi. Khéo lắm. Thế rồi sao nào?

- Dạ bẩm, không phải là thần khéo nói, mà đó là do hương vị sen Dầm Đàm. Một trăm mười ba cung nữ, cũng bởi muốn cho hương vị chè sen dâng lên Hoàng thượng giữ được vẻ tinh khiết. Để thêm phần thanh tịnh, bọn chúng chỉ được ăn chay. Lấy ngó sen làm dưa, lấy cánh sen rụng cuối thu phơi khô tán bột trộn lẫn với bột gạo làm cháo để ăn quanh năm. Nếu không tin, Hoàng thượng hãy tra xét lại những điều thần nói. Và đây, đám trinh nữ lỡ thì đó đã đến. Chúng nghe tin Hoàng thượng sắp giá lâm đến cầu mưa ở Dâm Đàm nên đã kết hơn một ngàn đóa sen hàm tiếu thành một đài hoa lớn, mạo muội dâng lên làm trò cho Hoàng thượng xem. Có gì không phải, xin Hoàng thượng thể tất cho hạ thần tội bất kính...

Vua chưa kịp có cử chỉ gì, thì một tiếng "a..." ngỡ ngàng đã thoát ra khỏi cổ họng. Từ dưới chiếc thuyền kết hoa lá, vụt đứng dậy như có phép thần thông, một đài hoa sen khổng lổ được kết lại bằng hàng vạn cánh hoa trắng muốt, mong manh lẫn với nhụy vàng. Vẫn đọng lại đầu nhụy những giọt sương lấp lánh như đã được cô đặc.

Từ đài sen lớn, một làn hương ngạt ngào lan tỏa, khiến cho người ta có thể phát khóc vì cảm động khi thốt nhiên được sống trong cái không khí thần tiên và cảnh tượng có một không hai đó.

Và, cái đài sen khổng lồ ấy lại được nâng trên một trăm mười ba đôi vai mảnh như lá, lòa xòa trên những cần cổ vươn cao gầy guộc như hạc, mỏng và trong đến mức nhìn rõ những mạch máu đang đập. Đóa sen đứng im phắc trên vai các trinh nữ lỡ thì.

Vua choàng người.

Không đợi lệnh truyền, Từ Văn Thông tiến thêm bước nữa, bước sang hẳn ngự thuyền. Tâu nhỏ:

- Xin Hoàng thượng bước xuống thuyền này. Bông sen đẹp nhất được bó kín giữa đài sen. Chỉ riêng con mắt thần của thiên tử mới có thể nhìn thấy được.

Thái giám đỡ hai bên, Vua vén long bào đặt chân xuống thuyền.

Một trăm mười ba trinh nữ nhất loạt quỳ xuống theo lệnh của Từ Văn Thông để Đức vua khỏi phải kiễng chân.

Và Ngài ngự nhìn thấy, chen lẫn giữa vô vàn cuống sen đã được quấn lại bằng những dây lụa màu nâu bọc lấy những chiếc gai sen nhỏ xíu hơi gợn lên và ướt đẫm nước là một vầng sáng rực những cánh sen vàng. Tầng tầng lớp lớp cánh hoa được bứt ra khỏi cuống, nhựa vẫn ứa ra nơi đầu cánh và sực lên làn hương da diết như một niềm đau.

Thần Tông sững sờ trước làn hương đó. Liền vươn người khỏa tay lên những cành hoa mát rượi.

Bỗng những cánh hoa dưới bàn tay Thần Tông khẽ động đậy. Vua giật mình rụt tay lại. Lập tức, nhô lên giữa đài hoa, gương mặt bị hoa sen che khuất một nửa nhưng vẫn hắt ra vẻ đẹp lạ lùng miên viễn. Rồi đến cái cổ, đôi vai mảnh màu nâu hồng như của một tiên nữ. Đầu tiên nữ đội vương miện kết bằng những đóa sen vàng. Cổ đeo một chuỗi hoa lớn kết bằng sen hồng. Bụi phấn cũng màu vàng óng vương trên mớ tóc đen ánh tím xõa dài xuống che phủ gần hết tấm thân gần như trần truồng.

Từ Văn Thông phẩy tay, lập tức rèm buông kín mít quây thuyền. Một trăm mười ba trinh nữ lặng lẽ đặt cả đài sen khổng lồ xuống thuyền rồi lặng lẽ rút lui không một tiếng động.

Tiên nữ nhô hẳn lên giữa đài hoa. Chiếc rốn xinh xinh đỏ như chu sa lấp loáng trước mặt. Thần Tông như bị trúng gió, à lên một tiếng rồi say đắm kêu: "Ngạn La!".

Con thuyền khẽ đung đưa như ru êm trên mặt sóng Dâm Đàm. Từ Văn Thông và mọi người hầu biến đi đâu cả. Chỉ còn Thần Tông và Ngạn La.

Giữa muôn vàn cánh sen trên thuyền, trông nàng càng hư ảo, sầu dung mãn diện.

Thần Tông ngắm nhìn nàng, càng ngắm càng say đắm. Ma quái, hoang dại, rực hồng rạng ngời như ánh chiều sắp tắt. Thần Tông quên cả nỗi sợ hãi cái gương mặt nhợt nhạt của tiên hoàng Lý Nhân Tông ảm đạm ngăn cách mỗi khi vua muốn ân ái cùng nàng. Cái gương mặt ấy giữ cho nàng mười một năm qua dù đã nhiều lần gần gũi đức vua nhưng vẫn là trinh nữ, khiến cho nàng càng là một dung nhan mong manh không thể chạm tới và càng nung nấu nỗi thèm khát khôn nguôi trong Thần Tông.

Con thuyền ghé vào đảo sen, ghếch mũi lên vệ cỏ.

Đảo nhỏ như một chiếc nôi êm ái trải nhung xanh, xung quanh được viền bằng những đóa sen màu trắng pha hồng đang đung đưa tình tứ trong gió. Ngoài cái đường viền diễm lệ đó là vầng hào quanh mênh mênh của sóng nước hắt cả ánh bạc lên trời. Đoàn thuyền rồng đang đung đưa xa xa ngoài kia. Tiếng đàn sáo văng vẳng nghe như vọng lên từ thủy tinh cung.

Ngạn La bước lên đảo. Vẫn mãi mãi là một cô bé mười ba tuổi. Nàng đưa tay vẫy đức vua đang chần chừ, cố giữ cho khỏi ngã trên con thuyền khẽ chao. Nàng cất tiếng cười lanh lảnh, thanh âm nghe như tiếng ngọc rơi, chìa tay dắt Đức vua lên thuyền.

Rồi nàng cởi bỏ hài thêu, lộ đôi chân hơi thô màu nâu hồng với những ngón chân luôn ngọ nguậy như biết nói, nhảy như một con chồn nhỏ xuống thuyền, lần lượt ôm những bông sen rải lên đảo. Trời nắng làm mồ hôi nối nhau lăn tròn trên má. Trong những giọt mồ hôi thoảng mùi hoa lúa. Nàng lớn tiếng gọi Thần Tông đang ngẩn ngơ nhìn:

- Hoàng thượng! Hãy giúp thiếp một tay, chuyển hết chỗ hoa này lên đảo. Hoàng thượng đã bao giờ được ngủ dưới một tấm chăn hoa chưa?

Thần Tông quên hết cả phiền muộn, lây hào hứng của nàng. Vua cởi phắt áo bào ném xuống cỏ, bỏ cả vương miện cồng kềnh trên đầu. Đám mũ áo nằm sóng soài như một tấm da hổ.

Ngài thoáng rùng mình nhớ lại cơn bạo bệnh và những ngày kinh hoàng vừa qua. Nhưng tiếng gọi của Ngạn La lại lảnh lót bên tai, khiến ngài nguôi quên. Trong chiếc áo chẽn bằng đoạn màu xanh, trông ngài ngự trẻ trung, tươi mới và sôi nổi như một cậu bé con nhà thường dân vừa mới trốn nhà đi chơi và chuẩn bị làm những trò nghịch ngợm mà nếu người lớn biết được thì sẽ bị quở phạt.

Hai người chuyền tay nhau mang từ dưới thuyền lên những ôm hoa lớn. Sau chừng nửa canh giờ, hai người mới mang lên đảo được hết chỗ hoa sen. Đảo bây giờ đã thành một tấm thảm lộng lẫy thơm ngào ngạt. Bây giờ thì những giọt mồ hôi cũng đã nối nhau lăn trên trán Đức vua. Ngài thốt lên một tiếng kêu mãn nguyện, nằm lăn ra bãi cỏ như một nông phu. Nhưng Ngạn La chưa hài lòng. Nàng đang vét những cánh hoa rụng cuối cùng sót lại dưới lòng thuyền, vun thành một đống lớn và hối thúc Thần Tông:

- Kìa, Hoàng thượng! Chưa xong việc mà ngài đã vội nghỉ rồi. Những cánh hoa dưới này đang hờn dỗi đấy. Chúng đòi lên bờ để khỏi bị xéo nát. Hoàng thượng! Mau mau tìm cái gì để bọc lấy chỗ hoa này!

Thần Tông nhìn quanh. Đảo bé xíu không có bất cứ cái gì để làm thức đựng. Chợt nhìn thấy chiếc long bào, Vua nẩy ra một ý nghĩ. Vua nhặt lấy nó, ngần ngừ hồi lâu rồi bước tới, ngửa vạt long bào ra trước Ngạn La. Con mắt mèo hoang của nàng nhìn soi vào đáy mắt Đức vua một lúc, giễu cợt âu yếm rồi thích chí cười vang. Trong phút chốc, vạt áo long bào đã chất đầy những cánh hoa rụng.

Hai người dềnh dàng khiêng hoa lên thảm cỏ. Ngạn La đặt ngón tay xinh xinh lên môi, ra hiệu bảo vua im lặng, rồi diu ngài nằm xuống cỏ, bịt mắt vua, rồi đặt lên hai mắt hai bông sen lớn màu hồng. Xong đâu đấy, nàng từ từ dốc ngược vạt long bào. Những cánh hoa rơi xuống, êm như gió ve vuốt. Hồi lâu không nghe động tĩnh gì, Thần Tông he hé mắt, thấy người mình ngào ngạt hương và đang được đắp bằng tấm chăn dạt dào những cánh hoa sen đủ màu lô xô đuổi nhau như sóng mát rượi trên thân thể. Cách chỗ đức vua nằm một quãng, Ngạn La đang nhảy múa điên cuồng. Nàng hát:

Không quân không thần, trên đầu không trời

Ta làm nhà giữa đám mây trôi

Hoa sen làm thuyền, cuống sen làm chèo

Thủy nữ Dâm Đàm bơi theo...

Vẫn hệt như một chú chồn nhỏ, nàng nhảy nhót múa hát, đắm say hòa làm một với đất trời và cây cỏ. Lát sau, khi đã thấm mệt, nàng thôi không nhảy múa, bắt đầu lò dò đi quanh đảo, chăm chú săn tìm những con cua ban trưa bò ra phơi nắng và tổ của loài sâm cầm đang nấp dưới những búi cỏ rậm rạp. Nàng đã lại trờ thành cái cô gái quê xắn váy cộc, ngang lưng đeo giỏ lội ruộng bắt cua ngày xưa, cái thuở tung cánh như một chú chim xanh, nàng chưa biết đến giàn thiêu cung nữ, chưa hề biết gần mười năm đọa đầy trong cung cấm, chưa biết đến muôn ngàn mưu đồ và tội lỗi ở chốn cung đình, chưa nếm mùi lãnh cung nhung nhúc những đàn chuột to như đàn lợn răng lởm chởm, chưa biết đến miệng hỏa ngục há hoác và cuộc đòi mạng giữa Dương Thái hậu và Thái hậu Ỷ Lan...

Trái tim tật nguyền của Thần Tông rưng rưng.

Lâu lắm, xa lắm rồi. Mây vẫn bay trên trời mà chàng không biết.

Cái thuở ngang lưng giắt chiếc tiêu, chùm tua đỏ pha kim tuyến rủ dài ngang gối. Mênh mang khúc Phượng cầu hoàng. Cái thuở tay ai cầm đèn lồng Mỹ nhân ngập ngừng bên cầu chờ đợi người tình.

Cái thuở chàng Từ Lộ như một mầm măng mới nhô cao trên mặt đất, xòe ra những chiếc lá đầu tiên đón gió và nắng.

Cái thuở những ân oán, mưu đồ, khắc khổ và dục vọng ngút trời chưa vặn xoắn cuộc đời chàng sang một hướng khác, trái tim chàng chưa phải đêm đêm quặn thắt tiếc nuối một kiếp sống đang từng ngày từng giờ trôi qua mà chàng chưa từng được sống. Để rồi chàng đầu thai đổi kiếp, thành Thần Tông, ngày ngày làm những việc theo bổn phận, theo những tham vọng, mà cứ phải ngẩn ngơ nhớ tiếc một người, đó là mình.

Và ngày ngày lại điên cuồng thụ hưởng lạc thú, xót xa linh cảm về một cuộc đời hữu hạn, thấy cõi Niết Bàn mà mình hằng ngõm ngọi đang mỗi ngày một lùi xa.

Dằn vặt trong lòng, một Thần Tông nuối nhớ Đạo Hạnh. Rồi một Đạo Hạnh hoang mang nuối nhớ Từ Lộ.

Và Từ Lộ lại da diết nhớ cái giọt linh hồn lửng lơ không thuộc về ai, trôi dạt giữa cõi trời và cõi người, mà gia vị là những giấc mơ về loài ngạ quỷ và những giọt sương Niết Bàn đôi khi nhẹ rơi thấm ướt mái đầu mà xương sọ trong veo như được làm bằng cốt ngọc lưu ly của Nhuệ Anh...

Ngạn La đã trở lại chỗ Đức vua. Nàng kết thúc cuộc thám hiểm của mình bằng cách lễ mễ ôm chiếc long bào được cuộn lại thành một bọc, buộc túm lại bằng một cuống sen khô. Niềm vui lấp lánh trong mắt.

Nàng đặt long bào bên vai Thần Tông, đột ngột rứt cuống sen. Thần Tông hoảng hốt thét lên vì thấy từ trong long bào chạy túa ra một đàn đủ những con vật mà ngài chưa từng trông thấy bao giờ. Ngạn La trông thấy bộ dạng hoảng hốt của Thần Tông mà cười ngặt ngẽo, bò lăn cả ra cỏ. Thần Tông cau mặt:

- Nàng thật là bạo gan. Nàng không sợ tội khi quân sao? Long bào của ta bị nàng làm vấy bẩn mất rồi!

Ngạn La vẫn chưa thôi. Đợi dứt con cười, nàng lau nước mắt giàn giụa, nói:

- Hoàng thượng! Kể từ ngày ngài soi gương thần của Minh Không Đại sư, thiếp thầy chàng đã đổi khác. Hôm nay, quan Tham tri Chính sự muốn giải sầu cho Hoàng thượng, đã đưa thiếp đến, dâng cho Hoàng thượng như món ăn thơm cho đặt trên một mâm cỗ khác thường. Thiếp biết điều đó, tự biết rằng mình đẹp hơn một món yến tiệc nhưng cũng chấp nhận cách làm sáng ý của quan Tham tri, vì nghĩ rằng Hoàng thượng là bậc thanh cao. Món yến tiệc mà Ngài ngự cần hôm nay là khí trời, đất và cỏ cây của Dâm Đàm. Mẹ thiếp từng nói, khi nào con buồn, con hãy ăn một ít cỏ. Cỏ mẹ con thiếp hay ăn là cỏ mần trầu. Vị cỏ đắng, nhưng ngậm lâu một chút, sẽ ngọt. Khi ta ăn cỏ, ta sẽ nhớ được rằng kiếp trước, có thể ta cũng chĩ là một con dế, hiền lành ca hát. Cũng như con cua này vậy, Hoàng thượng nhìn xem.

Ngạn La khéo léo dùng tay tóm lấy mai một con cua. Con cua nhanh chóng chuyển màu trên mai nó thành xanh cỏ, sủi bọt giận dữ đáp lại nàng. Ngạn La cười dịu dàng:

- Con cua này đang bắc nồi nấu cơm. Còn cái con lấm láp lưng mốc này, có bộ áo chùng này gọi là cà cuống. Cà cuống là loài vật bướng bỉnh. Khic hết, toàn bộ tinh thần của chúng vón cục lại, tỏa ra mùi thơm... Cà cuống Dâm Đàm có tiếng là ngạo ngược nhất, bởi vì chúng thơm nổi tiếng. Vậy mà giống loài ngạo ngược ấy vẫn lao hàng đàn vào ánh đuốc của kẻ thuyền chài, để rụng xuống chân họ... Trước khi chui vào những vò nước mắm, chúng tự thưởng thức mùi thơm của mình và tự nhủ rằng kiếp trước mình vốn là một con cà cuống đạo mạo mặc áo chùng đen... Hoàng thượng thử cầm chúng trong tay xem. Cà cuống không bao giờ cắn...

Thần Tông cố lấy hết can đảm, xòe tay để Ngạn La đặt con vật gớm ghiếc đó vào lòng bàn tay. Con cà cuống đã mệt lử dưới nắng, uể oải cào cào những chiếc chân mảnh khảnh trong lòng bàn tay mềm như lụa của đức vua. Từ lúc sinh ra đến nay ngài chưa từng biết mùi bùn. Bước chân của loài cà cuống như khều vào một sợi dây sâu thẳm tận gan ruột Thần Tông, khiến chàng cảm động nghẹn ngào.

Những giọt nước mắt nối nhau tuôn rơi trên gò má trẻ trung mới ngoài hai mươi tuổi mà đã chảy xệ những nếp thịt do cuộc sống trụy lạc và tật bệnh chốn cung đình. Nước mắt chảy đến đâu, trong lòng chàng như được gột sạch đến đó. Chàng ngẩng đầu nhìn trời cao. Những làn mây trắng phơ phớt như khói chỉ khẽ phác qua rồi bay đi. Gió đấy. Gió thổi mây bay đi. Nhuệ Anh là ngọn gió nào ngao du trên bầu trời kia?

Thần Tông nhìn sang Ngạn La. Nàng đang quỳ gập hai chân, vươn tới vun những cánh hoa. Chiếc rốn xinh xắn vẫn đỏ như chu sa. Chiếc rốn đó đã từng là nỗi ám ảnh đối với chàng. Chàng ghé môi tới gần chiếc rốn đang đỏ dậy lên trong ráng chiều. Ngạn La ngừng tay. Nàng căng mình chờ đợi. Cả hai người đã được tắm rửa trong những dòng nước mát và hương sen cùng trời nước của Dâm Đàm. Dường như đất trời đã mở rộng. Sẽ không còn gương mặt lạnh lẽo ảm đạm của Tiên hoàng - gương mặt đẹp đẽ nhưng đã chết, ngăn cách giữa hai người.

Những cánh hoa sen nát nhàu dưới đầu gối Thần Tông, vội vã thơm gắt một lần cuối. Ngạn La nhắm mắt chờ. Cả đời nàng đã là trinh nữ. Một trinh nữ mãi mãi ở tuổi mười ba. Không thuộc về ai, như một trăm mười ba trinh nữ trong veo, lặng ngắt trên đảo sen của Tham tri chính sự Từ Văn Thông này.

Nhưng đầu gối của Thần Tông bỗng lơi ra.

Chàng thét lên một tiếng.

Qua làn nước mắt, hai người nhìn rất rõ, gương mặt ấy đẹp và lạnh ngắt.

Vẫn là gương mặt của Tiên đế Nhân Tông.

Mặt ấy chưa từng chiếm được nàng nhưng cũng không cho nàng thuộc về ai.

Thần Tông ngã vật xuống đất, còn kịp nhìn thấy mép của cái miệng đẹp đẽ của Tiên hoàng nhếch lên mỉm cười ma quái trước khi tan biến.

° ° °

Rời hoàng cung ra đi, sư bà Nhuệ Anh làm một ngọn gió.

Những bước chân đưa bà đi như không còn sức nặng.

Không ngày không tháng không năm.

Trên mặt bà, ẩn giấc một nụ cười rạng rỡ.

Một tia hào quang đâm xuyên từ gáy ra đôi mắt.

Bà đi, cảm thấy bên phải, bên trái, Niết Bàn và Địa ngục cân đối ở dưới, ở trên và xung quanh.

Những người gặp bà đều ngoái lại nhìn. Họ cảm thấy bị cuốn hút bởi một mãnh lực kỳ bí siêu phàm.

Người ta đua nhau mang người ốm đến, chắn đường bà đi, van nài bà đặt tay vào chỗ đau để chữa lành bệnh tật. Nhuệ Anh không biết bà có thực sự chữa được bệnh như vậy không, nhưng tự hẹn rằng, khi đã là một ngọn gió, bà sẽ thổi qua tất cả mọi người.

Hôm ấy, nắng gắt. Trời cũng đã chiều. Bầu trời cao xanh phơ phớt vài cụm mấy trắng. Nhuệ Anh dừng chân bên một gốc đa rậm rạp, tỏa bóng mát, đưa tay đỡ lấy bát nước vối của bà cụ bán nước tóc bạc trắng dưới gốc đa. Vừa kề bát lên miệng toan uống thì đã thấy già trẻ lớn bé bồng bế dắt díu nhau lũ lượt kéo tới. Có kẻ khoèo chân chống nạng mà lết. Có kẻ rên hừ hừ được võng đung đưa trên vai của hai người đàn ông lực lưỡng. Mắt họ ngước lên van vỉ khẩn cầu. Nhuệ Anh lần lượt đặt tay lên chỗ đau của họ. Bàn tay của bà dường như có phép linh diệu, khiến người khập khiễng bỗng dưng đi thẳng trở lại. Người nằm trên võng thôi rên rỉ, gương mặt giãn ra, ngồi dậy đòi uống nước vối. Nhuệ Anh cũng nghi hoặc ngay chính mình, không hiểu điều gì đã khiến cho bà có tài phép như vậy.

Cuối cùng, khi trời đã gần tối, những áng mây bắt đầu đỏ dậy, khiến cho gương mặt sư bà hồng rực lên trong ánh chiều, thì viên hương trưởng dắt một người điên tới. Người điên đã già, râu tóc bạc phơ, lấm lem bẩn thỉu, áo quần rách mướp. Hương trưởng nói:

- Lão già điên này quanh quẩn ở vùng này cỡ một tuần trăng. Lão toàn ăn những thứ bẩn thỉu như cua sống, giun dế, nhưng khi đã no bụng thì ai cho gì cũng không thèm lấy. Lão thường bẻ cây làm kiếm, múa những đường kiếm rất đẹp rồi thét gọi xà ích cho ngựa chạy, nghe giọng sang sảng quyền thế lắm. Trẻ con đánh lão, lão đứng lại cười. Nhưng lão sợ nhất là lửa. Dù là một cây đóm thôi, máu me bê bết trông tội lắm... Sư bà hãy gión tay làm phúc cho lão...

Nhuệ Anh nhìn lão già điên, trong lòng dậy lên thương xót. Bà cảm thấy như có chút gì quen quen trong cái lão điên rồ bẩn thỉu này. Bà chậm rãi đặt tay lên đầu lão già điên.

Gương mặt lão lập tức như dịu lại. Sư bà nhìn như xoáy vào mắt lão, thấy trong đó ngùn ngụt phát ra những làn khí mang màu đỏ đục của cuồng vọng pha trộn màu xám tím của nỗi đau đớn. Nhuệ Anh thở dài, từ đôi môi vốn khép chặt của bà thốt lên mấy lời không định trước:

- Lãnh tiếu nhân gian. Chạy đi, trốn đi, những con quỷ màu đỏ. Lửa đã thiêu đốt cả đời người. Nay lửa sẽ hóa thành khói, bay lên trời, trả lại cho người đôi mắt và những dòng nước mắt...

Lão điên ôm mặt rú lên, quằn quại giẫy giụa trên mặt đất hồi lâu. Mọi người, kể cả người mắt kèm nhèm đầy dử như bà cụ bán nước vối, cũng trông rõ một đàn quỷ đỏ phóng vọt ra từ đôi mắt lão già điên, đâm xuyên xuống mặt đất.

Khi lão già ngừng kêu thét, bỏ tay ra, thì thấy chảy ra từ đôi mắt những giọt nước màu xanh lơ. Khi dòng nước mắt ngừng chảy, lão già đứng dậy, chăm chăm nhìn, rồi, há hốc miệng, sửng sốt kêu lên:

- Trời! Nhuệ Anh!

Đó là đôi mắt và giọng nói của Lý Câu.

° ° °

Những dòng sông cạn khô vì hạn hán.

Nhuệ Anh sư bà đang cầu mưa.

Mưa ơi! Mưa!

Lạy Trời!

Dân chúng tôi đã kiệt quệ

Xương trắng rỉ rả bên vệ sông

Mưa ơi! Mưa mau!

Lạy Phật!

Nhuệ Anh không lập đàn tràng. Đàn tràng của bà là Trời và Đất. Bà lê tấm thân mong manh đi khắp các dòng sông khô cạn, ngửa mặt lên Trời và hát gọi mưa.

Trời vẫn nắng gay gắt. Xa xa đầu kia, Dâm Đàm khói sóng, đàn cầu mưa khổng lồ của Thần Tông sừng sững trên những con thuyền rồng lộng lẫy.

Khô khát quá lâu rồi. Cỏ cháy. Rừng cháy. Trâu bò dê ngựa chết đói chết khát phơi trắng xương. Hết lụt lại hạn. Đời đời tứ dân lận đận long đong hết cầu nắng lại cầu mưa.

Nhuệ Anh vẫn đi dọc những lòng sông khô khát. Trời oi bức ngột thở. Cuối chân trời, một đám mây đen đã xuất hiện, nhưng trên đầu sư bà nắng vẫn bỏng rát. Nắng nung bỏng lớp cuội sỏi dưới đáy sông.

Xưa kia chúng được ru rín bằng nước và những con sóng phù phiếm đuổi nhau một đi không trở lại.

Mưa ơi! Mưa!

Dân chúng tôi có bạc bẽo đâu,

Chúng tôi đã uống nước của Trời

Rồi trả lại Trời những cơn mưa không ngừng nghỉ

Chúng tôi trả mưa cho Trời bằng nước mắt

Sư bà mệt mỏi quá lắm. Giọng khàn đặc, bà ngã quỵ bên bờ sông cạn.

Mưa ơi! Mưa!

Không phải chúng tôi cầu mưa!

Chúng tôi đòi Trời trả lại nước mắt...

Sư bà lịm đi trong lời hát cuối cùng. Không biết rằng có một làn gió thổi dào dạt qua, mang theo đám mây đen cuối chân trời. Đám mây đen mang theo cơn mưa.

Cho đến khi tỉnh lại vì những giọt mưa rào rạt vuốt qua mặt, Nhuệ Anh ngồi phắt dậy, nhìn quanh.

- Mưa ư?

Nước mắt giàn giụa hòa cùng nước mưa. Cỏ sẽ hồi sinh. Lúa cũng sẽ hồi sinh. Nhưng trâu bò và người đã chết vì khô khát thì chỉ có dòi bọ sống lại trên những bộ xương trắng. Trời hỡi! Tại sao Người độc địa là vậy. Sao bây giờ Người mới ban phát cho trần thế những giọt nước quí báu này!

Nhuệ Anh toan chống tay đứng dậy thì nhìn thấy ngay bên cạnh mình một bộ xương cá lớn đang trôi nổi trong làn nước sông từ từ dâng lên theo cơn mưa lớn.

Nhuệ Anh cúi xuống.

Bộ xương không chỉ một mình.

Bên cạnh bộ xương là một người đàn ông mình lép dẹt, da trắng như bạc. Đôi mắt to tròn không chớp. Hai bên mép thiểu não trễ xuống.

Đôi mắt to tròn, viền mắt mỏng như giấy, khô đét nhìn nàng từ đầu đến chân, dừng lại trên mái đầu cạo trọc. Dừng lại trên gương mặt như sương như khói. Rồi thều thào thốt lên:

- Cá là mẹ tôi. Nhưng cô còn hơn cả cá. Tôi rời lều, cõng mẹ đi tìm cô từ lúc trăng tròn...

Chàng Cá Bơn!

Chàng tắt thở.

Chàng không già. Bộ xương cá mà chàng thờ như mẹ đã gẫy dập nhiều chỗ, nhưng cái đầu và xương sống còn nguyên vẹn.

Chàng Cá Bơn đi tìm nàng. Chàng biết rất nhiều về cá. Chàng cũng chỉ biết về những dòng sông.

Chàng men theo những dòng sông để tìm Nhuệ Anh. Không một dòng sông nào dẫn đến động Trầm. Tìm từ lúc trăng tròn đến trăng khuyết. Từ lúc Mẹ Cá của chàng còn là một bộ xương chỉn chu. Lưng cõng Mẹ Cá, trong tim cõng hình bóng người con gái đã lao mình xuống thác Oán như cá, sống trong lều chàng bên bếp lửa như một con cá đẹp. Rồi một sáng đã bỏ căn lều ra đi.

Chàng Cá Bơn không biết rằng Nhuệ Anh không thể sống như cá. Chàng ra đi từ lúc những dòng sông đầy nước. Cho tới lúc những ngọn nguồn cũng cạn kiệt, xương cá trắng phơi đầy các đáy sông. Chàng là một con cá. Chàng cần nước. Chàng nghĩ Nhuệ Anh cũng là một con cá. Chàng đi suốt đời bên những dòng sông.

Không một dòng sông nào chảy vào động Trầm.

Cũng chẳng một dòng sông nào chảy vào hậu cung.

Nhuệ Anh khóc trên thi thể chàng Cá Bơn.

Đây rồi người đàn ông suốt đời không phản bội nàng. Người đàn ông suốt đời bị cầm tù trong phận cá. Nhưng cái chết đã đưa chàng vượt khỏi bến bờ của những dòng sông hẹp.

Bây giờ thì Nhuệ Anh làm được cái điều mà lúc chàng Cá Bơn còn sống, nàng không bao giờ ban được cho chàng. Muốn được đặc ân, dường như ai cũng phải chết đi.

Nàng nằm xuống, áp thân mình lên thi thể bất động của chàng Cá Bơn. Áp mặt lên đôi môi thiểu não. Như mẹ sưởi ấm cho con. Như một người tình muốn đánh thức một người tình.

Bài hát cầu mưa của Nhuệ Anh tưới trên thi thể của chàng Cá Bơn. Mặt nàng đã có những vết hằn thời gian. Mái đầu Nhuệ Anh vẫn trọc. Làn da đầu trắng xanh hắt sáng. Đôi môi trắng nhòa trên gương mặt.

Lý Câu đã tỉnh cơn điên dài dặc và trở thành một ông già suốt ngày mê mải theo những bước chân lang thang như gió của nàng. Lý Câu đi theo dòng những người đàn ông bị vô tình hút theo cái nhìn thăm thẳm của Người Đàn Bà Không Tuổi. Đó là thần nữ của họ, lại cũng là phù thủy của họ. Cửa Phật chẳng dung phù thủy, cũng chẳng duy thần nữ.

Những đàn ông theo nàng thành một dòng người dài dặc. Khi nàng cầu mưa, những người đàn ông đứng lại bên kia bờ. Khi mưa xuống, họ đưa tay vuốt mặt. Nước mắt ròng ròng chảy xuống đáy sông.

Từ Lộ đã sắp chấm dứt hai kiếp. Nhưng chàng Cá Bơn không già.

Lanh chanh những giọt mưa. Rơi trên thân mình Nhuệ Anh và chàng Cá Bơn. Cái khóe miệng thiểu não của chàng tươi rạng trong một nụ cười.

Mưa rơi mờ mịt Dâm Đàm. Lúc đó, Ngạn La đang thổn thức xót thương những cánh sen bị nhàu nát. Mưa lanh chanh nhảy nhót trên hoàng bào của Thần Tông.

Thần Tông vẫn nằm bằn bặt dưới những giọt mưa.

Từ Văn Thông nhìn thấy đức vua nằm thiêm thiếp, tưởng rằng đó là giấc ngủ đương nhiên sau mỗi cuộc mây mưa.

Đám đạo sĩ, Hoàng hậu, cung phi và quan quân reo hò trên Dâm Đàm.

Mưa.

Tham tri Chính sự Từ Văn Thông thưởng rượu và vàng lụa cho các đạo sĩ và quân hầu.

Không ai biết mưa tới từ Nhuệ Anh.

--------------------------------

1Năm 1138.