Chương IV
Chương IV
hứ Năm, Câu dạy học buổi sáng, chiều nghỉ.
Buổi trưa, ăn cơm xong, Câu vác cái gáo dừa, thằng Nếm lể mể xách chậu, hai thầy trò ra ngoài cầu ao tắm. Dội ì uàm một lúc, thực mát mẻ thỏa thuê. Nhà giáo về, mang cái ván gỗ và miếng xà phòng ra đầu sân, ngồi cởi trần, giặt giũ. Quần áo, anh giặt lấy.
Anh chẳng đem lên phố chợ giặt là bao giờ. Không biết ai đã bảo người ăn chơi có quần áo mà đưa thợ giặt là, nhiều cái hại lắn. Biết đâu trước khi giặt, chúng nó hãy mặc của mình một tua cho chán chê đã. Thế là các thứ vi trùng lậu, tim la, ghẻ lở của nhà thổ, ả đào cứ việc lây sang hết. Rồi chúng nó đem nhét cả vào nồi, nấu sôi sùng sục. Quần áo có phải là củ măng đâu mà ninh cho dừ! Rồi cứ thẳng cánh vò, cào, chải bằng bàn chải tre bàn chải sắt, chẳng thương gì vải. Quần áo giặt là, hồ bột cứng, mặc cũng oách thực, nhưng được mấy nả là đi đời.
Giáo Câu chưa mặc quần áo là bao giờ. Mới thấy thiên hạ đồn đại thế, chứ cả hàng tổng hàng huyện này cũng không đào đâu ra có một hiệu thợ giặt. Dạo nọ, nghe nói trên phố chợ cũng có nhà treo bảng giặt là nhưng được mươi hôm, vắng tanh, lại hạ bảng xuống.
Giáo Câu giặt lấy. Nhà giáo xát xà phòng lên áo, khẽ vò những cửa tay, viền cổ có đọng ghét, anh dùng móng tay cái, khẽ cạo gượng nhẹ. Vò xong, anh bỏ đồ giặt vào cái chậu sành, bưng xuống cầu ao. Giũ thực kỹ quần áo cho khỏi hơi xà phòng khét. Khoắng một chút lơ vào chậu. Dúng áo vào cái nước xanh xanh ấy, đem phơi thực căng trên dây mây. Cái quần thì anh lồng miệng cạp vào mảnh tre chữ thập, phơi lên như treo đèn kéo quân. Hết nắng, quần áo thực khô anh lấy xuống, gấp nép, vuốt thực phẳng. Rồi nhà giáo lót tờ nhật trình, để áo xuống dưới chiếu nằm. Qua một đêm ngủ, quần áo dẹp cứng. Mai đã có bộ đồ trắng bong, đủ nếp gấp ngang dọc đẹp mắt chẳng kém đưa hiệu giặt là cái chắc.
Phơi phóng xong tinh tươm, Câu vào trong nhà, ngó đồng hồ. Hơn một giờ. Câu cuống quýt. Giờ này Miến sắp đi chợ qua. Vội vã, Câu mặc áo. Cái áo sơ-mi vạt ngắn vạt dài, có một túi chéo trước ngực cổ thì vểnh ra hai cái tai. Bà Thiêm vẫn cười thầy giáo có cái áo tân thời khác áo khách, áo gì mà hai vạt so le như cái yếm rãi trẻ con. Nhưng đấy là tấm áo mồi diện của nhà giáo. Ngoài giờ lên lớp, chỉ khi nào đi chơi đâu, Câu mới xỏ tay vào cái sơ-mi ấy. Áo mặc xong, Câu cầm chiếc gương tròn bé xíu, soi mặt. Mấy sợi tóc bồng xõa lướn phướn, anh lấy lược miết tóc xuống. Anh ngó ngoắt sang hai bên. Chững lắm. Cái sơ-mi trắng. Cái quần tây đen. Đầu mượt. Chân đi guốc. Anh bước ra hiên, nhìn ngoài ngõ.
Gian hồi bên trái bà Thiêm đương ngồi quay tơ, bà ngủ gà. Chốc bà lại buông ống, trễ miệng xuống, đầu ngật đi một cái. Chiều nay được nghỉ học, thằng Nếm đã chạy đâu chơi từ lúc nào. Thằng Vật đến tuổi học làm đã đi ở làm tháng học dệt cửi, chiều tối mới về. Nhà vắng teo. Thoáng ngoài vườn, nghe có tiếng gà con lích tích kiếm ăn.
Câu vào trong vại gạo, vóc một nắm, đem ra vườn. Chốc nữa, Miến có vào, Câu đã đứng lơ mơ làm như sẵn ngoài vườn. Khuất cái giậu nứa và một giàn trầu không trong vườn chẳng trông được lên nhà.
- Chích chích... Bập... Chích, bập!
Từ bốn góc vườn, trong những bụi sói, bụi ớt, mấy chú gà con lắt nhắt nhoăn nhoắt chạy đến. Sau cùng là một mụ gà mái. Cả mình xám ngắt, hai chân trắng bệch, bộ lông vàng khè. Chắc vừa dũi ở một đóng đất nào ra, mụ giũ hai cánh, bụi bay mù. Rồi mụ cong đuôi, cúi xù cái cổ “cục cục” tất tả rảo cẳng tới bên đàn con. Một lũ gà nhỏ, với một gà mẹ, hong hóng vây quanh nhà giáo, đợi buông cái nắm tay gạo xuống. Con nhóc nào cũng bị bôi phẩm xanh đầy đầu. Đếm chưa đủ gà tới, Câu lại “chích bập” gọi nữa. Không còn một con nào đến thêm. Ban ngày, đàn gà tản mác đi kiếm ăn ở các mảnh vườn xung quanh. Vả lại, đây cũng là một bữa ăn bất thường, không phải như mỗi sớm mai. Chúng không quen lệ. Đàn gà của nhà giáo còn đông hơn nữa. Cả thảy, một đàn gà ấp, hai mụ mái đang đẻ, ba mái tơ và bốn chú gà trống choai. Đổ đồng, mỗi tháng cũng được ngót hai chục trứng. Trước kia, đến phiên chợ, Câu lại nhờ thằng Vật đem trứng lên chợ bán. Được hai xu thuê, nó sướng run. Bây giờ, ngày phiên, cô Miến qua, đem trứng bán giúp. Nhà giáo thấy có một cái gì thú vị trong cử chỉ ấy. Thằng Vật ra lối càu nhàu. Muốn đẹp lòng nó, thỉnh thoảng, có thêm tiền bán gà, nhà giáo lại cho tiền nó như lệ. Chuồng gà đầu xanh - lối xóm người ta gọi thế là vì đầu con gà nào nhà giáo cũng bôi phẩm xanh. Nhà giáo để dành tiền vào ống tre, cưa tréo một vệt miệng. Cuối năm, bổ ra cũng đem được mươi đồng về quê. Cứ hòng vào mươi đồng bạc lương mỗi tháng thì thừa thõi đâu. Bởi vậy, nhà giáo trông nom, chăn dắt lũ gà kỹ lưỡng lắm. Thứ Năm Chủ nhật, chỉ ra vườn lúi húi với gà qué. Bà Thiêm cũng phải chịu thầy giáo còn trẻ mà chí thú, chịu thương chịu khó.
Nắm gạo đã tung hết. Đàn gà tranh nhau ăn. Con mụ lắm điều vừa nhặt vừa cục cục ỏm tỏi. Lũ con cũng đẩy nhau, kêu choe chóe. Có khi đương chăm chú nhặt ăn lại quay ra, chọi nhau tay ba tay tư. Nhưng chỉ mổ láo nháo vài mỏ, chúng lại chổng đuôi chúc mỏ liên liến nhặt gạo. Chẳng mấy chóc, cả những hạt tấm giắt vào khe gạch cũng không còn. Đàn gà nhớn nhác, dạo loanh quanh. Chúng nghiêng má, nhìn lên bàn tay Câu. Thấy đợi lâu, không còn gì nữa, đàn gà tản dần. Con thì nằm khểnh, phơi cánh. Con thì bắt chước mẹ, kiếm chỗ giũi đất phành phạch. Nếu không, rỗi rãi quá, lại chơn vờn chọi nhau suông.
Nhà giáo đứng ngẩn, nhìn dõi theo từng nhách gà một. Tuy vậy, mắt vẫn liếc ra ngoài ngõ. Xem có bóng người ló vào chăng.
Đợi hoài, không thấy.
- Nắng đã quá đầu ngõ kia kìa, mấy giờ rồi, cậu giáo?
- Dạ, hai giờ rưởi.
- Chết! Chiều rồi. Hôm nay chắc cái Miến không đi chợ. Cứ ngóng con này mà gửi xu rau thì có khi mất bữa. Cậu xem hộ tôi thằng Nếm có quanh quẩn ngoài ấy không?
- Nghe như tiếng nó đùa léo nhéo ngoài bờ ao làng.
Bà già ra giậu, ngửa cổ, gọi réo:
- Ới Nếm... ơi...
Chỉ sau mấy tiếng, đã thấy cái đầu trọc tếu loang lổ vết mực tím, lùi lũi ngoài ngõ chạy vào.
Bà quát:
- Có về mà đi chợ không! Xuống bếp lấy cái rổ. Tiền đây này. Nửa xu rau muống, chọn cái đằng non ấy. Một đồng hành, đồng răm, đồng mắm tôm. Năm xu, bốn bánh đậu phụ. Mau mau, ba chân tám cẳng lên, ở nhà tao nhóm bếp đấy. Hôm nay thứ Năm, cậu giáo ăn cơm sớm.
Giáo Câu vẫn hy vọng Miến đi chợ muộn. Nhưng chiều muộn hơn, cũng chẳng thấy bóng cô ả. Thế là hôm nay Miến không đi. Nhưng cái sự “thế là” tự nhiên ấy không đủ che lấp nỗi lo ngại trong lòng Câu. Cho đến sẩm tối, anh vẫn đi ra đi vào, ngong ngóng ngẩn ngơ. Tới lúc cu Vật đã đi học dệt cửi về, vừa đi vừa múa may nghêu ngao hát, nhà giáo mới thực hết trông đợi.
Làm sao Miến không đến? Có sự gì. Cái câu chuyện hát hỏng phải gió kia, tất đã bay đến tai nàng. Nàng tức Câu. Nàng giận Câu rồi. Con gái là hay hờn dỗi lắm. Mà cũng tại mình. Câu lo. Câu lo quá. Lại ngay ngáy nóng ruột nữa. Bữa cơm chiều ấy, nhà giáo chỉ và qua loa được ba vực bát.
Thôi, đích là Miến giận Câu. Hôm sau, thứ Sáu, lại hôm sau nữa, buổi chiều Miến có đi chợ qua cửa trường học. Câu trông thấy rõ ràng. Thế mà cô ta che nón đi thẳng. Làm như không biết có ai đương chăm chăm đứng nhìn ra. Cả hai hôm nữa cũng vậy.
Câu hoảng. Chàng ta giận mình, phát nhức đầu lên. Ấy là Miến chỉ mới không nhìn anh, để anh đoán được là cô giận dỗi. Chứ nếu Miến lại nói: “Cậu không phải người tử tế. Thôi, từ giờ trở đi...” mai đây nhà giáo có thể nổi cơn ốm liệt giường cũng nên. Mới biết, say nhau rồi chỉ một cái chẳng bằng lòng xoàng cũng đủ lộn can tràng lên rồi. Anh chàng cáu, không để đâu cho hết giận mình. Anh thở ngắn thở dài về cái buổi tối trót dại nọ. Mà anh trót dại thực. Chếnh choáng ba chén cay, coi trời bằng vung. Nhất là lại được anh em xốc nách lôi đi. Ai nỡ từ chối. Để đến nỗi bây giờ ầm ĩ cả lên. Người ta cãi nhau, người ta ẵm con sang tận nơi trách móc. Làng nước kháo chuyện bô bô ai cũng biết.
Xấu hổ quá.
Chủ nhật. Câu nằm khoèo ở nhà. Đáng lẽ như mọi buổi sáng được nghỉ, Câu hay sang bên Yên Thượng chơi với Kền. Bữa nay, anh không muốn ra khỏi ngõ. Anh nằm, chán lại ngồi thừ. Anh bốc nắm gạo ra vườn rắc cho gà ăn. Cất nhắc việc gì, cũng thấy bải hoải, chán chân, chán tay. Cũng là bởi cái tâm sự ủ ê mà ra. Bà Thiêm đi chơi quanh đâu vắng. Thằng Nếm thì nằm kềnh ngoài phản, tập tọe đọc quyển Lên Tám. Tiếng nói bi be u ơ cãi nhau với tiếng chim sẻ ngoài sân. Một chốc, nó đã buông sách xuống, ngủ khoèo.
Giữa trưa, bà Thiêm về. Bà lão, lưng không rạp xuống. Đi như con rùa bò. Bởi ngóc lên nhìn ra trước mặt. Ngày còn con gái, lưng bà gồng gánh nhiều, đã khum khum. Càng về già, cái lưng cong xuống theo tuổi. Bây giờ thì lúc đi cũng như lúc đứng, lưng bà phẳng một lượt với cổ.
Một đời bà Thiêm, cái lưng còng ấy làm chứng cho biết bao nhiêu sự chịu thương khó, vất vả. Chồng chết sớm, một tay bà gây dựng nhà cửa. Bà cưới vợ được cho cả hai người con trai. Anh nhớn sớm ăn cướp công bà rồi, để lại cái thằng Vật đấy. Mẹ nó là một con đàn bà đốn đời. Cái năm bà dựng lại nếp nhà ở bây giờ, bà mướn một bọn thợ mộc. Khi làm xong, bọn thợ đi. Cả nàng dâu bà cũng đi nốt. Đời bà, cay đắng nhất lần ấy. Bởi vì lúc nào bà cũng chăm chăm giữ gìn tai tiếng. Lúc nào bà cũng cố cho được hơn người. Chẳng vậy, Diễm được đi học, rồi bà lại chạy vạy thế nào, gửi cho ra Kẻ Chợ đi học thợ máy. Diễm đã có nghề hẳn hoi. Bây giờ, chẳng giàu có hơn ai, nhưng bà cũng được nhàn nhả rồi. Con bà làm việc nhà máy nhà nước, mỗi tháng gửi về tám đồng. Ở làng này, chẳng có ai kiếm nổi nửa xu của Tây. Thực là điều danh giá. Bà không phải nhọc mình nữa. Bà ngồi quay mướn con tơ cho khỏi buồn tay. Thế mà bà cũng chịu khó ngồi quay tơ liền. Có một ít tiền, bà cho vay lãi vặt, một đồng bạc, tháng đẻ lãi một hào chỉ. Có ai trong xóm nhỡ nhàng, cầm cái áo the, cái thắt lưng, bà bỏ tiền ra cầm. Người ta ghét bà có tính nói dai, lắm điều. Nhưng bà chỉ lắm điều xổi, mà chẳng để ý chửi rủa thù oán ai.
Bây giờ suốt ngày bà ngồi lầm lì, gật gù với cái lồng cái ống. Bởi chẳng có nàng dâu nào ở nhà để mà nói. Ấy là bà nói chuyện thôi, chứ không phải bà mắng chửi. Giáo Câu vốn ít lời, chỉ mở miệng khi nào có việc. Hai đứa trẻ thì chạy nhoăn nhoắt như chuột cả ngày. Bà lão ngồi buồn, thỉnh thoảng rì rầm nói một mình. Cái tật ấy rồi cũng thành bệnh. Nhiều đêm, Câu thức giấc, bỗng giật mình, có tiếng ai lào xào đâu bên kia vách. Nghe mãi, hóa ra bà Thiêm nói. Bà nói ậm ào, lăng nhăng, lảm nhảm.
Trưa nay, bà lão đi đâu về, mua được cây mía đỏ. Bà chống lom khom như chống chiếc gậy bột. Vào đến hiên, bà ngồi xuống. Cái lệ quen của bà lão trước khi ngồi, đấm lưng thùm thụp mấy cái. Ngó vào trong buồng, thấy Câu, bà hỏi:
- Cậu giáo không đi chơi đâu à?
- Dạ, không. Tôi váng vất...
- Cậu nhức đầu à, trở trời đấy. Cái lá thầu dầu tía hay lắm. Cậu ra vườn hái mấy lá thực non, đắp lên trán, chỉ một chốc toát mồ hôi, khỏi ngay. Nắng mới, ai cũng khó chịu. Từ nãy, tôi cũng thấy váng vất đấy.
Chợt bà lão như nhớ ra điều gì.
- À này cậu giáo...
Câu nhỏm dậy, hốt hoảng. Tâm thần anh lúc này cũng đương hoảng hốt.
- Cái gì, hả bà?
- Tôi vừa nghe người ta nói câu chuyện lạ lắm.
- Chuyện sao ạ?
Bà lão trợn mắt, nói khẽ, rủ rỉ dằn từng tiếng - lối nói một câu quan trọng:
- Chết! Sao cậu dại dột thế. Đầu xanh tuổi trẻ, chớ nghe anh nghe em mà có khi oan gia. Cậu cũng hiền lành như em hai Diễm thì tôi mới dám nói.
- Nhưng cái gì kia ạ?
Bà lão lại lên giọng, gật gù cái đầu như để lấy đà từng tiếng:
- Người ta bảo tối hôm nọ cậu đi lên phố phủ hát nhà trò với nhà giáo Kền, nhà giáo Hoạnh phải không?
Bây giờ Câu mới nghe thủng. Anh thở dài, hoàn hồn. Từ nãy anh vẫn ngờ ngợ câu chuyện có dính dáng đến Miến. Nhưng thế rồi anh cũng lúng túng, không biết đáp sao, chỉ dạ dịp.
- Dạ... Người ta cứ nói...
- Chỉ vì cô đầu cô đuôi mà vợ chồng giáo Hoạnh đánh nhau suýt có án mạng đấy thôi... Khốn nỗi, chỉ sinh oan gia, rồi mang tai mang tiếng, mà lại tan nhà nát cửa. Tôi khuyên cậu, đầu còn xanh tuổi còn trẻ...
Câu cười gượng:
- Có đâu, thiên hạ cứ đồn nhằng...
- Úi chào! Người ta chuyện giăng giăng ở ngoài đường kia. Mười người nói như một.
- Người ta ghét thì nói thế, bà ạ.
- Thôi, chuyện đâu bỏ đấy, tôi chỉ can cậu từ giờ đừng dại nữa nhá. Đánh đu với tinh đấy. Chẳng hay hớm gì đâu.
Bà lão quen nói với Câu như nói với con mình. Câu cũng vẫn nghe những câu ấy là thường. Anh cười, nửa cợt nửa thực:
- Tôi chỉ có một ty.
- Một ty mà chẳng chết à? Nhà trò nó bỏ bùa mê vào nước cho mà uống, nó cho ăn cháo lú đấy, u mê chằng chịt đi. Bán vợ đợ con vì chúng nó. Vùng này đã có mấy ông chánh ông lý liểng xiểng mất nhà mất ruộng với cô đầu cô đuôi đấy.
Rồi bà thở dài:
- Sao đời bây giờ lại lắm cái ma cái quái thế. Ngày xưa, làm gì có. Ăn chơi lắm, chỉ đến xóc đĩa, tổ tôm là cùng.
Và bà bắt đầu ngồi kể các chuyện ngày xưa. Bất cứ ở câu chuyện nào bà Thiêm cũng gài vào được một hai mẩu chuyện xưa. Ngày còn mồ ma ông ấy... ngày còn mồ ma ông nọ... Câu chỉ ừ hử. Bởi anh đương buồn buồn nghĩ: “Chết chửa, từ bà già đến đứa trẻ lên ba, ai cũng biết tối hôm ấy...”.
Rồi anh thiu ngủ. Bà lão vẫn lải nhải. Anh chợp đi. Nhưng anh chỉ chập chờn một lát. Khi dậy, hai mắt đỏ hoe, đầu nặng trịch. Bà lão ngồi im từ lúc nào, đương ngồi quay tơ trong nhà. Tiếng cái vầy tơ nhảy lóc cóc nhẹ nhàng.
Trưa hôm ấy, Miến cũng không đến mua rau hộ. Chẳng khó gì cho bà lão. Không gửi được Miến, bà Thiêm sang bên hàng xóm. Có khi cu Nếm lại lễ mễ cắp cái rổ. Bà không đi chợ. Lưng còng, bà lạch được tới chợ thì đã tối ngày. Nhưng Miến chẳng đến, thì chỉ nóng ruột cho Câu. Chao ôi! Nhà giáo buồn thiu. Anh loanh quanh ra vào, ấy náy chẳng buồn cất nhắc việc gì. Mãi đến chiều chiều, anh mới ngồi chấm vở cho học trò. Cái bút nằm trong bàn tay trên tấm phản làm bàn, cứ uể oải, muốn rơi.
Bấy giờ nắng đã xế. Bóng mái nhà đổ xuống sân, rợp một khoảng rộng. Ngoài vườn, nắng hoe lên trong lá. Bụi sói, giàn trầu không và những tàu lá cau nhuộm nắng vàng rượi. Nắng yếu, chỉ có ánh mà không còn nóng nực. Chấm được vài quyển vở, thuận tay, nhà giáo làm việc đã ra ý chăm chú.
Lắng nghe có tiếng cười rúc rích ngoài đầu ngõ. Và tiếng trẻ con nói lanh lảnh. Rồi tiếng chân chậm chạp thình thịch vào. Giáo Câu buông bút, nhìn ra. Trời, anh giật nẩy mình. Dễ thường hai bên má anh cũng sởn gai ốc lên. Miến vừa ló dầu vào trong ngõ. Thằng Nếm đương bám một bên túi áo dì. Rồi nó cong người cố kéo. Chắc dì nó đã chiều ý, để cho nó lôi từ ngoài đường ngoài ngõ vào đây. Thằng bé nhăn nhó, nheo mắt, vòi:
- Dì cho cháu một xu... Đi... dì...
Dì Miến gỡ tay cháu:
- Tao mách bà cho nhá?
Nó reo lên:
- Ê, ê, bà đi uống nước ngoài quán rồi. Đi dì... Cho cháu...
Dì nó lại gắt:
- Lúc nào thấy mặt là cũng thấy vòi xu. Thầy giáo kìa, có bảo học trò...
Nếm toan nũng nịu nữa, nhưng thầy giáo nó đã quát khẽ:
- Nếm giỏi nhỉ! Không được hỗn!
Nó nhớn nhác, toan lủi. Giữa khi ấy dì nó dúi vào tay nó một trinh. Nó cười toét miệng, rồi nhảy tênh tênh, chạy tít ra ngoài đường cái. Thầy giáo Câu, đương đà, còn mắng thêm một câu thực oai:
- Trẻ con, nuông nó, sinh hỗn ra!
Rồi nhìn Miến, anh ta chợt im, quên hứng. Và bỗng trở nên bối rối. Cô Miến đi đâu mà coi lạ, áo tấc ngắn, đầu chít khăn vuông mỏ quạ. Hai ống quần xoe lên đến đầu gối. Tay cầm cái sào nứa nghênh ngang. Câu hỏi:
- Đi đâu thế?
- Đi hớt bèo ngoài ao đình về cho vịt.
Rồi Miến quay ra. Câu cuống quít:
- Này..
-...
- Tôi hỏi cái mà...
-...
- Mấy hôm nay sao không đến?
- Tôi bận.
- Miến dỗi tôi đấy hả?
Miến nghiêm mặt, chua chát:
- Ai công đâu mà dỗi. Cậu muốn đi chơi thì cứ đi chứ. Tôi có dám biết đâu!
Câu nhăn nhó:
- Người ta cứ đồn xuýt ra. Chứ thực tôi...
- Tôi oan hẳn? Còn biết lắm chuyện lạ nữa kia.
- Chuyện gì?
- Chuyện gì thì cậu biết đấy.
Câu bùi ngùi:
- Miến ạ, từ giờ thì tôi chừa. Thực tôi chừa đến ngày xuống lỗ.
Dáng hẳn cái nét mặt của nhà giáo lúc bấy giờ coi thiểu não, ngẩn ngơ quá, khiến Miến phải bật cười. Cơn hờn đã dịu. Mà biết đâu cô cũng chỉ làm bộ dỗi ít thôi. Nhưng không tỏ vẻ gì khác, cô nói lảng:
- Rổ bèo tôi để ngoài đầu ngõ... Tôi về đây.
- Thứ Năm Miến đến nhá?
Chẳng biết Miến có đáp hay không, Câu không nghe tiếng. Cô ả vác cái sào đùng đùng chạy ra. Nhà giáo bồn chồn nhìn theo.
Trưa hôm sau, Miến cắp rổ đi chợ qua cửa trường. Giáo Câu ngó ra, Miến đương ngả nón, quay mặt vào nhoẻn hẳn một nụ cười.
Câu tỉnh người. Yên chí, thực Miến đã hết giận.
Đánh máy : casau - Ct.Ly
Nguồn: casau - VNthuquan.net - Thư viện Online
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 1 tháng 7 năm 2016