Chương V
Chương V
, đây, chị ơi!
Có Muỗi nhìn lên:
- Phải rồi.
Cô Huệ và cô Muỗi đứng lại trên cầu Phượng, cười khúc khích.
Họ đã tìm thấy. Bên kia cầu, phía trong gò cỏ lớn, trường học làng Hạ Nha. Gọi là trường học cũng không đúng mấy. Cái ngày trước, hồi các cụ trong làng mua vôi cát gạch ngói về, chưa có dụng ý xây trường học. Trước nó là cái quán làm điếm tuần lại là chỗ cúng quan ôn. Mái thấp, ba bề mặt, đứng sững hai chiếc cột gạch vuông. Bên trong, một cái bệ long lở, ở trên, trơ trỏng bát bình hương vỡ. Đấy là quang cảnh của cái quán mấy năm trước.
Bây giờ cũng có đổi khác, theo chức việc và với sự già lão của nó. Một hàng rào tre đan lưa thưa quanh trước cửa, bám hai cột cổng, làm đỏm cho cái mặt trường. Trên cổng, tòn ten một tấm biển vuông, kẻ mấy chữ phiết sơn đen: École Hạ Nha. Trong sân, mọc thon von hai cây bàng. Trước chỗ ấy có một cây đa to lắm. Về mùa gió, lá và cành đa đánh đập nhau, reo à à. Các cụ sợ lỡ gió đu mạnh, một cành đa gãy có thể đổ trường dễ như chơi. Bởi vậy năm kia người ta đã sửa một cái lề nhỏ, và nén hương với cút rượu rồi đẵn cây đa. Từ đó, trường chỉ còn hai cây bàng đương bởi tàn lá xanh om. Đủ hiểu, cái trường học to hay nhỏ bé là nhường nào.
Nói đến cái mái của trường mới thực là đặc biệt. Nó như một cái đầu bù xù những tóc và chấy rận gớm chết. Trên mái ngói, chắt những mấy từng rác, rêu và gạch vụn. Ngoài cùng, một lượt cỏ ấu lúa tủa xanh um. Cao hơn hết bám vào hai trụ đầu hồi, hai cây si hiên ngang mọc lên. Rể si quấn chằng chịt, lan khắp mái như mạng nhện. Rồi rể si còn chui qua mái, bám vào tường. Có những sợi rể tìm đường tòi qua mái rủ mành mành vào lớp học.
Đứng xa, ngắm mái trường như một vườn cảnh, có cây có lá. Trẻ con đồn ở trên tường trên mái có nhiều dế mèn và ve sầu. Chẳng biết có không, nhưng dưới mái, lúc nào cũng ẩn nấp chim sẻ, từng họ nhà bọn dơi muỗi, dơi ngựa. Ban ngày, dơi bíu trên xà từng chùm lủng lẳng như những quả núc nắc. Chim sẻ thì lúc sinh sự cãi nhau, lúc thì tâm tình rầm rĩ. Để hòa với tiếng trẻ học nghê nga. Trong lớp, các bệ và bình hương đã được triệt bỏ một xó, chỉ có những hàng bàn ghế ốm yếu đứng tựa vào nhau trên kia. Trẻ con ngồi lên, huých, sát hai khủy tay. Trên tường, lơ thơ mấy tờ giấy dài dán các chữ xanh đỏ, viết mấy câu danh ngôn lớp nào cũng có, mà chẳng đứa nào hiểu là câu gì. Ngọc bất trác, bất thành khí. Hàm huyết phún nhân, tiên ô tự khẩu [1], Thì giờ là vàng bạc.
Cuối trường, đục hai lỗ cửa sổ tròn tò vò. Trong lớp, sặc sụa hơi người và mùi trẻ con. Nhờ có hai cái cửa sổ đục, cái hôi hám tanh tưởi cũng thoát ra được một ít...
Hai cô ả đào Muỗi đào Huệ, tong tả đi vào cửa trường. Bấy giờ đương giờ ám tả của lớp học trò lớn. Những trò nhỏ thì ngoẹo đầu viết tô, đánh vần khe khẽ. Thầy giáo ngồi trong bàn, khuất sau mấy vì tre. Tiếng thầy dõng dạc đưa ra:
- Xong chua? Bởi thế mới tên là hồ Hoàn Kiếm “Oong boong ta la linh!”... [2]
Tiếng ngòi bút gãi xuống mặt giấy, như tiếng ruồi bay vo ve. Điểm vào những nhịp đọc, cứ phát ra từng tràng khịt mũi sùn sụt. Ngoài cửa, lấp sau cái phên tre, ba bốn đứa bị phạt, quỳ lổm ngổm, úp mặt vào cái cột gạch. Tuy vậy, chốc chốc chúng lại thò chân sang đạp nhau.
Những đứa phải quỳ này đã trước nhất trông thấy hai cô tân thời lấp ló đi vào cửa trường. Hai cô cùng vấn tóc trần, đội nón kinh. Một cô mặc áo màu hoa đào. Quần lĩnh đen óng. Mỗi cô một đôi guốc mới sơn then, gót cao thon thon. Mặt cô nào cũng trắng bự và môi thì bôi đỏ hoe.
Ba đứa bị phạt quỳ ngoài cửa, làm hiệu nhắm nháy cho những đứa ngồi ở các bàn gần đấy. Mấy đứa ngoảnh ra. Qua lần phên, thấp thoáng cái gì lòe loẹt. Vài đứa nữa ngoảnh ra. Rồi, ra hiệu ngoằng bằng chân ngầm đá dưới gậm bàn, tất cả lớp cùng ngoẹo đầu lác ra hướng ấy.
Trên bàn, thầy giáo ngạc nhiên. Thầy gõ thước cạch cạch. Cũng chỉ lác đác mấy đứa nhìn quay vào. Tức mình, thầy giáo xách cái thước kẻ bảng sừng sộ đi xuống. Thế là thầy cũng ngó ra ngoài. Ngoài sàn, cô đầu Huệ trông thấy, reo lên:
- Ơ kia, anh giáo Câu!
Nhà giáo cầm cái thước dựng lên như cái đòn gánh, thò cổ ra ngoài phên, tựa con ngỗng đưa cái đầu lắc lư ra ngoài nan bu. Mặt anh ngớ ra, khi trông thấy hai người cô đầu đứng ngay ngoài cửa.
Cô Muỗi đon đả:
- Chúng em xuống chợ, nhân tiện tạt vào chơi anh. Học trò đông, vui nhỉ?
Câu tái mặt. Anh vẫn đứng chân trong chân ngoài, một tay vẫn cầm cái thước kẻ tay bám lấy cạnh cột. Anh luýnh quýnh đáp:
- Dạ. Vâng, đông... Các cô... chợ...
- Một mình anh dạy có đến một trăm học trò?
- Sáu mươi chín đứa.
- Gớm chưa! Nhà ai mà được ngần này đứa con nhỉ?
Cô Huệ pha:
- Có họa một ông ba mươi vợ!
Hai có cười rúc rích. Nhà giáo càng ngượng, vì câu nói nhảm. Anh quay lại. Đằng sau, lớp học đã biến ra cái chợ như hàng cá ném giấy trắng xóa. Có đứa chui xuống gầm bàn, nhòm ra. Có đứa lom khom, hếch mũi ra ngoài phên. Thầy giáo quắc mắt gõ thước.
Cô Muỗi nói:
- Chúng em về đây để anh còn bận bảo học. Hôm nào các anh lên phố chơi nhá. Đây sang anh giáo Hoạnh bên Phú Gia cũng gần, anh nhỉ?
Thực thà, Câu đáp:
- Ấy chết, hôm nọ...
- Chị ấy đánh nhau với anh ấy chứ gì? Chúng em biết ngay hôm ấy cơ.
- Thế a?
Câu ngạc nhiên buông một tiếng “a”, thõng hàm xuống, và tròn mắt lên, trong khi hai cô ả đào quay ra Câu vẫn đứng trơ. Cô Huệ liếc nhắn anh một liếc. Anh không dám nhìn lại và thật hoang mang, anh lừ đừ đi vào. Tai đỏ hắt. Trán mồ hôi toát lâm râm.
Cho đến lúc tan học, anh vẫn chưa hết cơn ngơ ngác. Anh sợ lịm người đi được. Có hai người cô đầu đến tận trường ỏn ẻn hỏi chuyện anh. Cả sáu mươi chín đứa học trò cùng nhìn thấy. Chúng đương rì rầm kháo rằng thầy giáo quen hai cô tân thời. Những đứa học trò gái càng ríu rít tợn. Chúng nhìn trộm thầy, rồi nhe răng sún, cười với nhau. Giáo Câu chắp tay sau lưng, đi đi lại lại, bối rối nguồn cơn. Chưa biết có nên về hay không. Mỗi đứa học trò có một cái miệng để nói chuyện bô bô. Mỗi đứa lại có vài ba người nhà. “U ơi! Bầm ơi! Có hai cô tân thời áo đỏ quần trắng đi guốc cao gót đến trường cười cười nói chuyện chơi với thầy giáo cơ”. Chốc nữa, cả năm xóm làng Nha, ai cũng nghe rõ ràng thế. Cả mấy đứa cháu cô Miến cũng học ở đây. Chúng nó ngồi kia, đứa bàn nhì, đứa bàn năm. Nhất định cô Miến ở nhà cũng biết nốt. Miến cũng sẽ biết tường tận như mọi người ta. Làm thế nào, trời đất ơi! Rắc rối quá.
Quả nhiên. Rắc rối thực. Giáo Câu bỗng vùng vằng đi về. Trường học ở ngay đầu làng. Trên cửa đình, lúc nào chẳng có mấy người ngồi ở bậc đá hóng mát. Bên đầu cầu Phượng, cái quán nước chè tươi, lúc nào cũng nêm người ngồi khít ghế, chuyện gẫu và nhìn người đi qua. Bọn học trò chưa về đến nhà, người ta đã tỏ tường cả rồi. Lại nữa, là ngày phiên chợ. Làng xóm tấp nập ngoài đường như mắc cửi. Hai ả nọ đi vào trường, ắt lượn qua cả mấy nơi ấy. Làng ở khuất, ít người lạ tới. Ai đến, người ta cũng dõi xem vào nhà ai, huống chi đây lại là hai cô tân thời “đờmi” quấn tóc trần, đi guốc gót đầm.
Hôm sau, Câu gặp Hương Kiệu ngoài hàng nước, hắn cười, hỏi ngay:
- Đầu Huệ có vẻ kết ông giáo nhỉ? Đến tận trường chơi.
Câu phàn nàn:
- Rầy rà quá!
Kiệu làm điệu nói nhỏ ra lối quan trọng:
- Này ông giáo phải coi chừng... Tim la, nổ ống khói thì chết bỏ mẹ, chẳng hay hớm gì đâu.
Khổ cho Câu chưa! Người ta tưởng Câu chơi bời lắm. Oan này nặng hơn oan Thị Kính. Lại hàm oan với cô Miến nữa, mới cay đắng làm sao. Cái hẹn đi đứt rồi, hơn một tuần nay, Miến không bén mảng qua nhà. Thỉnh thoảng, Câu thoáng thấy nàng đi chợ qua cửa trường. Chiếc nón lại che lệch lấp hẳn mặt, chỉ nhận được dáng đi quen.
Một bận, Miến có đến đưa tơ cho bà Thiêm quay. Giáo Câu hôm ấy có nhà. Bà Thiêm hỏi:
- Đi chợ mà không tạt vào cho bà gửi mua rau?
Miến đáp:
- Cháu bận, dạo này cháu không đi chợ.
Biết chắc là Miến nói dối. Câu vờ lảng ra cửa. Miến đi qua không nhìn. Câu đứng vườn, khẽ gọi theo. Nàng đi lừ lừ như không nghe tiếng. Câu đờ đẫn, tiu nghỉu. Cổ anh nghẹn lại. Hai hàng nước mắt râm rấp muốn bò ra.
Từ hôm ấy, anh lừ khừ như người ốm.
Ở đầu làng, giáp cầu Phượng, phía bên này bờ sông Lịch, trông sang lũy tre làng Yên Thượng có mấy ngôi nhà tranh dựa vách vào nhau, cái nào cũng ở bên vệ sông, tưởng như nhà cửa sắp ngã ngửa cả xuống dòng nước. Cái xóm xép, có mấy nhà nghèo khó ở đâu đến ngụ cư. Lẫn vào đây, hàng nước chè tươi, một quán thịt chó.
Quán này không ra vẻ một ngôi hàng. Mỗi buổi sáng, vào quãng mặt trời lên lưng bụi tre, lũ trẻ trong trường học ra giờ chơi, lại trông thấy lủng lẳng treo ở cái móc sắt một con chó trước cửa nhà. Con chó đã thui rồi, da vàng óng, cái đuôi cong vểnh, khung lưng uốn khum. Hai mắt chó trợn xếch, hàm răng trắng nhả chìa ra, như dọa trẻ con.
Chỉ một lúc con chó đã được chủ quán chặt ra từng mảnh, người trong làng lác đác ra mua. Người ta ăn thịt chó cũng nhiều. Có lẽ vì cái thịt chó ăn bỗ bã, rẻ hơn cá. Hai nhà ở cái xóm ngụ cư này bán thịt chó, ngày phiên chợ tơ có hôm hết cả con. Lạ là chó ở đâu đem đến lắm thế. Chó bị đánh bả, chó ốm hay chó chết. Cứ nghi hoặc thế, nhưng người ăn vẫn cứ ăn, ăn thịt chó uống rượu. Chỉ có đàn bà và người đồng bóng không ăn và không nhà ai đặt lên giường thờ cúng thịt chó cả.
Sớm Chủ nhật, giáo Kền với giáo Câu cũng lò dò ra hàng thịt chó đầu cầu Phượng. Hai nhà giáo mặc áo tấc trắng, đi guốc mộc, Kền đội mũ trắng, Câu để đầu trần rẽ lệch. Giáo Kền chui vào quán, hỏi to:
- Chó má thế nào nào?
Ở dưới bếp lão quán chạy lên:
- Chào hai ông giáo. Hôm nay thật cày dòng đấy.
Kền bấm móng tay vào mảnh thịt đặt trên thớt, gật gù:
- Ờ, cho anh em tôi năm hào thịt, hai hào lòng. Nhiều gan vào. Chặt nhỏ nhé. Nhiều húng nhiều mắm tôm...
Lão nhà hàng xẻo thịt chó. Kí cốp chặt, một lát, đã được một vốc thịt, một đống lòng gan, lù lù. Tất cả, gói vào hai mảnh lá chuối, riềng và nắm rau húng quế. Mắm tôm thì đổ vào tàu lá dong, xách riêng. Đã phòng sẵn, giáo Kền lấy trong túi ra mảnh giấy nhật trình to gấp đôi, trải xuống chõng hàng, rồi cuốn cả hai bọc lòng, thịt vào. Câu cắp lên tay như bọc sách vỡ các nhà thầy cầm cẩn thận.
Trả tiền rồi, hai người đi vòng lũy tre, ra cánh đồng, sang bên Phú Gia. Vừa đi vừa nói chuyện. Cánh đồng trải ra hai bên đường những thửa ruộng trồng mầu, đất trắng bệch. Lác đác mấy củ cải héo, chuột gặm chỉ còn trơ gốc đám cà chua muộn. Những luống khoai lang chuột cũng rũi tơi tả, hay là người rỡ trộm không biết. Cuối đồng, chẹt vào những khoanh tre xanh rì, hai cái cột trụ đầu làng quét vôi trắng xóa, cổng làng Phú Gia.
Kền nói:
- Tay Hoạnh ưa cái khoản cẩu nhục này lắm.
- Anh ta bảo ăn miếng giồi chó thì đầu óc sáng suốt, nhai miếng thịt chó, tỉnh táo cả người.
Kền cười:
- Mình không đến nỗi mê thịt cầy nặng như thế. Nhưng thỉnh thoảng được chén, cũng thú. Hôm nay con chó ngon đấy.
Câu nói:
- Cứ kể sang bên Hoạnh thì tĩnh mịch thực. Mà tôi vẫn ngại vợ ông ta. Từ dạo vợ ông ẵm con sang tận Nha để trách, tôi vẫn khó chịu lại ngượng nữa. Có khi chị ta vẫn còn cáu mình.
- Vợ Hoạnh bụng dạ phổi bò lắm. Nói đấy, lại quên ngay. Chắng thế mà hôm nọ gặp tôi ở cửa đình Thượng, lại vồn vã mời tôi sang, lại trách sao lâu không sang chơi. Có thế, hôm nay mới đi, không phải bỗng dưng đâu.
- Vợ chồng ông này cãi nhau, có khi đánh nhau.
- Chuyện! Vợ chồng thụi nhau như cơm bữa.
Ngẫm nghĩ một lát, Câu ngẩn ngơ nói ra ngoài chuyện:
- Nghĩ chơi cô đầu cũng hại thực.
- Hại chứ. Đã có câu hát: “Cô đầu, cô đít, cô đuôi. Cửa nhà bán hết ai nuôi cô đầu”. Được cái chúng mình chẳng có gì bán mà vẫn chơi được.
Câu rầu rầu:
- Tôi bơ vơ mà cũng hại.
Kền cười. Cái cười góp, Kền không hiểu cái hại của Câu thế nào. Câu chỉ ngậm ngùi với bước chân đi. Đã vào đến cổng làng. Sau nhà trường, cách cái ao bèo tấm đầy rau muống, đến nhà ông giáo Hoạnh.
Nhà giáo Hoạnh có ba gian. Một gian bên có phên vách. Đấy là buồng vợ ông giáo nằm với đứa con nhỏ. Trong ấy còn đồ đạc gì nữa, thì không trông thấy, lúc nào cũng tối om om, mùi đất mốc xông lên rợn người. Gian giữa, một cái phản và một cái chỏng kê khít nhau. Phản và chõng vừa làm chỗ ăn cơm vừa làm chỗ ngủ của thằng Biền, cái Gia và có khi của nhà giáo. Nơi đây còn một cái cũi đóng toàn tre đực chắc chắn, để đựng mấy cái quần áo và những thứ vặt vãnh bề bộn.
Trên vách, mấy tờ tranh tiền, tranh lợn, dán đã từ mấy Tết nay. Trong vách giữa, choán cả gian, một bức tranh bằng vải sơn đã tróc loang lổ vẽ cảnh đền Ngọc Sơn, cái cầu đỏ, chiếc tháp đá cao và dưới hồ, hoa sen đỏ, lá sen xanh. Tấm vải phông đã ố, nhiều chỗ xơ ra như mướp. Cái mảnh dưới, trẻ con mó vào luôn, đen thui.
Trong nhà không có bàn thờ. Bàn thờ đặt ngoài sân, nó là một cái cọc tre, đứng bên vại nước. Nom như cái bàn cò quay trên chợ ngày phiên, đây là cái cây hương cúng thần Đất. Gian bên trái, trống hốc không có vách. Dây thài lài, dây bìm ở dưới rãnh bò ngổn ngang, vươn vào. Chái này, dùng làm bếp. Ông đồ rau gạch vồ ngồi vùi trong đống tàn tro. Vài chiếc nồi đất cắm cọc treo rải rác ở hóc cột. Dưới mặt đất ẩm, những cụ cóc ngồi chầu hầu, thỉnh thoảng lại tép lưỡi bắt con bọ mạt, con muỗi. Nhà này là nhà thầy giáo mà đố ai bới đâu ra được một quyển sách, lọ mực. Chỉ những giẻ rách và giấy lộn vớ vẩn. Sách vở, nhà giáo để cả lên mái ngoài nhà trường.
Kền và Câu bước vào trong sân, đánh tiếng chẳng thấy ai thưa. Hai người cúi xuống, chui vào nhà. Đương ở ngoài nắng, thò đầu vào đây, hai mắt tối sầm. Đứng một tí, xung quanh mới rạng dần. Hai nhà giáo nhìn đất dưới gầm phản, hai thằng bé con trần truồng nằm ngủ li bì. Thằng lớn là thằng Biền. Hai tay quấp đầu thằng cu Con, môi dưới trề xuống, dãi chảy nhơn nhớt. Cu Con đạp một chân lên bụng anh. Cổ chân nó còn bị buộc một sợi thừng gai, một đầu trói vào cái mễ phản. Dáng hẳn mẹ đi vắng, đã giao cho thằng lớn giữ em, nhưng vẫn chưa chắc, nó ngủ nên phải buộc như thế.
Cũng phải. Nhà này, trước cửa có ao. Năm nọ, vợ chồng nhà giáo đã mất một đứa con về nghiệp nước rồi. Thằng bé xấu số ấy là vai sau cái Gia, anh thằng cu Con đấy. Mẹ nó đi chợ, để cu Biền giữ em. Thằng bé bò ra sân, rồi bò xuống ao. Mẹ về chợ, lay Biền dậy. Hai mẹ con nhớn nhác tìm thằng bé. Người mẹ ra bờ ao trông thấy trong đám rau muống nhô ra một cái cẳng chân trẻ con. Đã bị cái chợn, nên khi có thằng cu Con, hễ đi đâu, mụ cũng cột chân nó lại chỉ cho bò quanh gầm giường. Muốn ngủ, cứ việc lăn ra ngủ. Trẻ con nằm đất, các cụ già bảo nằm đất mát và khỏe người, lại lặn được cả rôm sảy.
Hai nhà giáo loanh quanh, chưa biết ngồi vào chỗ nào. Ngoài sân có tiếng chân đi bịch bịch. Rồi một cái đầu búi tóc ngược nhô vào.
- Kìa hai bác sang chơi.
À, bác giáo Hoạnh. Bác giáo gái đi tắm ở ngoài ao về. Một tay cầm chiếc gáo dừa. Một bên nách cắp cái rổ đựng quần áo. Tóc bác tóm lại, quấn tròn thành một núm chon chỏn xế đỉnh đầu, như búi tóc bà Trần Đông Sơ, trong tranh ở truyện Nhị Độ Mai. Bác lon ton chạy vào, lấy cái gậy, dựng tấm dại tre trước cửa. Ánh sáng bừng hửng lên.
- Hai bác vừa mới sang?
Kền nói:
- Chúng tôi vừa đến. Bác trai tôi đi đâu ạ?
- Nhà tôi vào trong nhà ông chánh Rụy. Đâu đi tính hộ cái sổ thuế gì ấy. Đi đã lâu, chắc cũng sắp về, hai bác ngồi chơi. Biền ơi! Dậy đi con, dậy đi gọi thầy. Có hai bác giáo sang chơi. Đã lâu lắm, hai bác bận gì mà chẳng thấy sang?
Kền cười:
- Từ độ hai bác vặc nhau ấy mà.
- Ấy tôi cứ như con mẹ điên. Hơi một tí là tôi lên cơn chạy linh tinh. Chắc hôm ấy các bác buồn cười lắm nhỉ?
- Không, nghĩ chuyện người ta ở đời, chúng tôi chỉ giận sao tối hôm ấy không can bác Hoạnh.
- Nhà tôi thì có ông Thiên Lôi can. Bác Câu mang cái bọc gì to thế kia?
- Thịt chó, thịt chó. Chúng tôi mang sang khao hội đoàn viên anh Hoạnh. Nhà bác phải đăng cai. Có được không ạ?
Mụ Hoạnh cười toe toét:
- Được ạ, được ạ. Cái ý thì được. Tôi chứa cơm chứa rượu hử? Cứ thế là phải, tôi bằng lòng quá. Chơi bời cô đầu nhà trò chỉ hại tiền hại của mà rạc người ra chứ được tích sự gì.
Kiền nói:
- Nhà ta đăng cai thôi. Cơm rượu các thứ anh em tôi canh ty nhau cả rồi. Bác chỉ phải lo thế cho.
Có tiếng trẻ con í ới ngoài sân. Giáo Hoạnh đã về. Cái Gia đi sau lưng bố, cầm chiếc que đập đập, giả cách được cưỡi ngựa, cười như nắc nẻ. Lúc ấy thằng Biền và thằng cu Con cũng đã trở dậy. Biền cởi thừng buộc chân cho em. Hai đứa ra ngồi bậc cửa. Bốn con mắt ngái ngủ ngẩn ngơ nhìn các ông khách.
Hoạnh trông thấy hai bạn, reo lên chạy vào bắt tay. Nghe vợ kể chuyện và nhìn thấy gói thịt chó, anh ta múa hoa cả hai tay lên. Bấy giờ hai vợ chồng nhà giáo và ba đứa con cùng đứng vào một góc, góp thành bức tranh gia đình. Hai đứa trẻ cởi truồng, bụng ỏng rốn lồi ra như hai quả mít. Đứa mặc áo, lại toét mắt, và cả nhà này mẩn đỏ bị muỗi đốt nhiều quá. Tháng Ba, muỗi hoa xoan, nhà lại ở cạnh ao, muỗi bay, quơ tay vốc được. Khắp mặt ai cũng lấm tấm sần sùi - chỉ trừ hai con mắt. Người lớn, trẻ con luôn luôn ngứa ngáy, hai tay bắt quyết vào nhau đen đét. Những nốt muỗi đương biến ra nốt ghẻ ruồi.
Cũng chẳng sao. Câu chuyện trong bóng muỗi mù mịt cứ râm ran như ngô rang. Hai đứa trẻ bu lại, tò mò nhìn bọc giấy để bên cạnh bác giáo Câu. Thằng Biền lủi vào bếp, nhóm lửa, đun ấm nước, trong khi bác Hoạnh trai dặn với ra ngoài ngõ:
- Nhà nó lấy năm bánh đậu phụ. Lấy hai xó chai rượu ty. À nhớ mua ớt, nhả!
Thức chén đã sửa soạn xong. Bác Hoạnh gái đặt ấm nước, nhét thêm cái củi vào cho bếp chảy âm ỉ, rồi bưng cái mâm chõng sang gian giữa. Thằng Biền hí húi xới cơm vào cái thùng gỗ. Rồi nó ôm thùng lên, để sẵn ngoài đầu phản. Xong việc, Biền ẵm cu Con, xua cái Gia, ba anh em lếch thếch ra đầu ngõ nặn đất thó chơi bầy đình chùa. Không dám chăn các em đi chơi xa, chỉ quanh quẩn đầu xóm, sợ thỉnh thoảng bố có gọi gì chăng. Người lớn đàn ông vào chén rượu, đến sau còn gì thì trẻ con và đàn bà ăn, xưa nay vẫn thế.
Mâm cũng tiềm tiệm được, theo những con mắt của ba nhà giáo châu đầu quanh mâm. Một đĩa thịt. Một đĩa lòng. Bốn bánh đậu phụ. Mắm tôm, riềng, húng để một góc mâm. Lát nữa ăn cơm, thêm bát canh rau muống nấu gừng. Rượu lưng một chai bố, rót ra ba cái chén đàn uống nước. Lúc nãy chén đã được cu Biền đem chén cọ sạch cấn nước vối.
Bắt đầu vào cuộc, không ai nói năng gì mấy. Thỉnh thoảng, Hoạnh khậm khà khen cái thịt cầy hôm nay mềm. Rượu chừng hai chén, bắt đầu có đôi mẩu chuyện vặt qua lại. Câu chỉ ngồi lừ lừ. Đôi chốc nhăn mũi nhấp chút rượu, rồi nét mặt lại lìm lịm. Con mắt như mải nghĩ chuyện đâu đâu.
Hoạnh đùa:
- Ngồi như bụt mọc thế? Nói chuyện cho vui chứ? Cơn cớ sao mà buồn?
Câu mỉm cười, thở khà một tiếng:
- Không, có sao đâu.
Kền gật gù:
- Nghĩ người ta ở đời cũng nên vui một tí. Ba vạn sáu nghìn ngày là mấy. Sống thác âu rằng ai cũng một lần.
Hoạnh cười thực to:
- Khá! Ai cũng một lần.
Hoạnh lại cười thực to:
- Ai cũng một lần.
Hoạnh nói:
- Hôm nay ông anh thuyết giỏi. Anh em mình đây mà cứ nghĩ ngợi lẩn vẩn thì lúc nào cũng đến mặt chữ nãi ra thôi, ông chẳng ra ông, thằng chẳng phải thằng, chẳng ra làm sao. Cái bài thơ ấy gì của bác Kền nhỉ?
Kền đắc chí, gật gù:
- Không phải của tôi. Của ông Tú Xương. Hờ hờ...
Lúc túng toan lên bán cả trời
Trời cười thằng bé nó hay chơi
Ô hay công nợ âu là thế
Mà vẫn phong lưu suốt cả đời.
Trời cười thằng bé nó hay chơi
Ô hay công nợ âu là thế
Mà vẫn phong lưu suốt cả đời.
Hoạnh nói to:
- Hay, hay. Bác cạn chén rượu thưởng này cho tôi. Cứ kể như anh em mình đây, tiếng thế, cũng còn bằng vạn thằng khác. Mình khổ thực, mà lắm lúc nghe chuyện chúng nó muốn đổ hai hàng nước mắt. Tôi đã lăn lóc cái nghề này, tôi biết. Nhiều cảnh đau lòng lắm. Có anh dạy học trừ nợ. Có làng chỉ giả được mỗi tháng có ba đồng, cơm nuôi. Ở thì ở, không ở thì bước. Giáo Năng trên Bặc ta biết đấy, mà chẳng đâu xa nữa, cảnh tôi đây thôi. Ngán lắm. Nói ra bảo phụ nghề chứ, bao giờ xoay xỏa được cái khác, tôi cũng xin vái tổ...
Chú thích:
1. Dịch nghĩa: Ngọc không mài, không thành. Ngậm máu phun ngừời, trước tiên bẩn miệng.
2. Tiếng Pháp: (un point à la ligne) một chấm, xuống dòng.
Đánh máy : casau - Ct.Ly
Nguồn: casau - VNthuquan.net - Thư viện Online
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 1 tháng 7 năm 2016