Chương 4
Chương 4
huyết pháp trước vua Lương Võ Đế:
" Cả thế giới hiển hiện trong Tâm. Tất cả chư Phật, quá khứ và vị lai đã và sẽ được tạo thành trong Tâm, sự hiểu biết được truyền từ Tâm sang Tâm không nhờ lời nói. Vậy thì tất cả những kinh sách có ích lợi gì? Tâm của mỗi người đồng điệu tương ứng với thực tại và thực tế muôn nơi. Tâm là Phật..."
Sau khi nghe thuyết pháp, vua Lương Võ Đế hỏi:
- Từ khi lên ngôi đến nay, Trẫm xây chùa, chép kinh, giúp đỡ tăng chúng không biết bao nhiêu như thế có công đức gì không?
Ngài đáp:
- Không có công đức gì cả.
Vua giận dữ hỏi:
- Tại sao không có công đức?
Ngài đáp:
- Những công đức vua làm chỉ là của rất nhỏ trong cõi Nhân Thiên mà thôi, không khác gì ảnh tùy hình, tuy có nhưng chẳng thực.
Vua hỏi tiếp:
- Vậy làm thế nào mới gọi là công đức?
Ngài đáp:
- Trí phải được hoàn toàn thanh tịnh, thể vắng lặng như mặt nước hồ. Công đức ấy không thể lấy việc thế gian mà cầu, ấy là công đức.
Vua hỏi tiếp:
- Nghĩa tột cùng của Thánh Đế là gì?
- Trống rỗng không có Thánh hay phàm gì hết.
- Ai đang đứng đối mặt với Trẫm đây?
- Không biết.
Quyển tài liệu được mệnh danh là Đạt Ma Huyết Mạch Luận, ghi lại bài thuyết pháp của Ngài cho triều thần Lương Võ Đế nghe.Chúng ta hãy đọc tiếp giáo pháp đó:
" Trong Tâm toàn thế giới chư Phật, quá khứ, vị lai sẽ và đã tạo trong Tâm thức, được truyền từ Tâm sang Tâm. Những kinh sách có ích lợi gì đâu? Tâm của mỗi người đồng điệu tương ứng với thực tại đời đời, muôn nơi.Tâm là Phật. Phật ở đâu ngoài Tâm. Sự Giác Ngộ và Niết Bàn xem như ở ngoài Tâm là sai lầm. Không có sự giác ngộ linh động ở ngoài tâm.Cũng không có nơi nào gọi là Niết Bàn. Ngoài Tâm tất cả là ảo tưởng, không có nhân, không có duyên, chẳng lý do, chẳng kết quả. Chỉ tư tưởng duy nhất là hành động của Tâm. Tâm an tĩnh đó là Niết Bàn.Biết một sự vật ngoài Tâm là muốn tìm đến sự trống rỗng. Mỗi người tự tạo trong Tâm bằng tư tưởng là Phật. Tâm là Phật và Phật chính là Tâm. Hình dung tưởng tượng Phật ở ngoài Tâm, ở một nơi nào ngoài Tâm là mù quáng. Vậy không thể nhìn ra ngoài mà phải nhìn vào trong và phải tự thu nhiếp vào Tâm mình, tự nhìn thấy Phật ở nơi mình. Ấy là Phật tánh. Tất cả chúng sinh là Phật như mình, không cần ai cứu độ cho ai cả. Không vị Phật nào có thể hơn tôi, vậy không bắt tôi đọc kinh sách của họ được.
Phật không thể bị một pháp luật nào ngăn cản,vậy tôi cũng không cần giữ một luật lệ nào. Phật là không sa ngã, vậy tôi cũng không thể sợ bị phạm tội vô thiện, vô ác mà chỉ có những hành động của Tâm, mà Tâm là Phật vốn không thể lỗi lầm. Sự cúng vái có ích gì? Hiểu điều đó, thấy điều đó là giải thoát, là Niết Bàn...
Không một sự tu khổ hạnh ép xác nào, không có một cuốn kinh sách nào làm ta thoát khỏi luân hồi. Sự đọc kinh, tu khổ hạnh là vô bổ, hình thức. Không một quyển kinh sách nào đáng cho ta đọc. Sự an tịnh hoàn toàn vô vi, hãy kiến tánh tự mình, đó mới là sự duy nhất để nhìn thấy chân thực. Phật tánh giống nhau ở nơi tất cả mọi người. Khi nào đã quên hết tất cả và chỉ còn lại duy nhất thực tại,, đó là đã thoát khỏi vòng Luân hồi mà đến Niết Bàn.
Tất cả những hệ thống triết học hiện tại là sai lầm, mù quáng và lường gạt, là phỉnh lừa. Mỗi người là Phật nơi chính mình, nơi mỗi người tiềm tàng duy nhất chân lý thật tại đó. Không có tội lỗi nào khác ngoài tội vô minh, không nhận ra Phật tánh ở nơi mình.
Thân xác là phù du, cuộc đời trôi nhanh trong thời gian ngắn ngủi, ta phải tự thoát khỏi vô minh bằng cách tự khám phá lấy mình.Trong giấc mộng ta thấy được thực chất của mình, chính pháp thân tự hé mở ra cánh cửa của bản thể, đó mới là thực thể.
Pháp thân này đã có từ vô thỉ, trải qua những kiếp luân hồi biến đổi, pháp thân vẫn không sinh không diệt, không bớt không thêm, không ô uế nên không phải tự tẩy sạch, không yêu đương thù ghét, cũng không đến không đi, không đàn ông không đàn bà, không già không trẻ, không tu không tục, không có không không, không phải một cũng không phải nhiều, không thánh nhân không phàm tục,không là hình tượng cũng chẳng phải là quan năng, không được không mất. Pháp thân không sanh không diệt: không gì cản trở, ung dung trong những kiếp sau, lửng lơ trong dòng sinh tử. Hết thảy vạn mệnh chúng sinh đều quy về đó. Chính đó ta gọi là Tâm. Chính pháp thân ấy mà ta phải thấy nơi mình. Ta phải hành động theo ánh sáng từ Tâm. Nó chứa chấp chúng sinh như nước đất màu chứa vô số nguyên tử, không thể diễn tả cũng không thể giải thích bằng lời nói. Hãy tự chiêm ngưỡng,thưởng thức lĩnh hội nó cho mình. Lãnh hội được nó là giác ngộ đưa ra khỏi vòng luẩn quẩn của cuộc đời mà Phật Thích Ca gọi là đại biến.
Phải khám phá ra tự Tâm,phải nhận ra Phật tánh dù chẳng cần dùng lời nói, tư tưởng. Pháp thân vô hình, vô biên nên không thể hủy diệt. Chẳng có vị Phật nào khác chính Pháp thân, pháp thân có nơi chư Phật thì cũng có nơi tất cả chúng sinh. Vì thế không cần kinh kệ, cũng chẳng cần thờ cúng.
Chẳng có gì thật ngoài pháp thân, tất cả bên ngoài đều là hư không. Chỉ cần có sự im lặng và sự tĩnh Tâm. Chính tĩnh tâm im lặng đó giúp ta tự thấy pháp thân, đó là Phật. Dù là biểu tượng vô hình hay hữu hình đều là mù quáng, sai lầm. Sai lầm, mù quáng giữ chúng ta trong vòng luân hồi sinh tử.
Ta không nên bái sùng những hình tượng làm ra tự mình, những hình tượng ấy không thuộc pháp thân, nên sùng bái những ý tưởng phát sinh từ phật tánh. Hãy hủy diệt sự giả tưởng về thần thánh thiêng liêng, vì nó chỉ là ảo tưởng. Không nên sợ hãi kính thờ những giả dối ấy, cũng bỏ đi những ảo tưởng về chư Phật.
Không gì hơn những ý tưởng vô hình của Tâm từ Phật tánh, hãy nhìn nhận một điều sự thật là pháp thân ở chính nơi ta.
Phật không thể bị một pháp luật nào ngăn cản,vậy tôi cũng không cần giữ một luật lệ nào. Phật là không sa ngã, vậy tôi cũng không thể sợ bị phạm tội vô thiện, vô ác mà chỉ có những hành động của Tâm, mà Tâm là Phật vốn không thể lỗi lầm. Sự cúng vái có ích gì? Hiểu điều đó, thấy điều đó là giải thoát, là Niết Bàn...
Không một sự tu khổ hạnh ép xác nào, không có một cuốn kinh sách nào làm ta thoát khỏi luân hồi. Sự đọc kinh, tu khổ hạnh là vô bổ, hình thức. Không một quyển kinh sách nào đáng cho ta đọc. Sự an tịnh hoàn toàn vô vi, hãy kiến tánh tự mình, đó mới là sự duy nhất để nhìn thấy chân thực. Phật tánh giống nhau ở nơi tất cả mọi người. Khi nào đã quên hết tất cả và chỉ còn lại duy nhất thực tại,, đó là đã thoát khỏi vòng Luân hồi mà đến Niết Bàn.
Tất cả những hệ thống triết học hiện tại là sai lầm, mù quáng và lường gạt, là phỉnh lừa. Mỗi người là Phật nơi chính mình, nơi mỗi người tiềm tàng duy nhất chân lý thật tại đó. Không có tội lỗi nào khác ngoài tội vô minh, không nhận ra Phật tánh ở nơi mình.
Thân xác là phù du, cuộc đời trôi nhanh trong thời gian ngắn ngủi, ta phải tự thoát khỏi vô minh bằng cách tự khám phá lấy mình.Trong giấc mộng ta thấy được thực chất của mình, chính pháp thân tự hé mở ra cánh cửa của bản thể, đó mới là thực thể.
Pháp thân này đã có từ vô thỉ, trải qua những kiếp luân hồi biến đổi, pháp thân vẫn không sinh không diệt, không bớt không thêm, không ô uế nên không phải tự tẩy sạch, không yêu đương thù ghét, cũng không đến không đi, không đàn ông không đàn bà, không già không trẻ, không tu không tục, không có không không, không phải một cũng không phải nhiều, không thánh nhân không phàm tục,không là hình tượng cũng chẳng phải là quan năng, không được không mất. Pháp thân không sanh không diệt: không gì cản trở, ung dung trong những kiếp sau, lửng lơ trong dòng sinh tử. Hết thảy vạn mệnh chúng sinh đều quy về đó. Chính đó ta gọi là Tâm. Chính pháp thân ấy mà ta phải thấy nơi mình. Ta phải hành động theo ánh sáng từ Tâm. Nó chứa chấp chúng sinh như nước đất màu chứa vô số nguyên tử, không thể diễn tả cũng không thể giải thích bằng lời nói. Hãy tự chiêm ngưỡng,thưởng thức lĩnh hội nó cho mình. Lãnh hội được nó là giác ngộ đưa ra khỏi vòng luẩn quẩn của cuộc đời mà Phật Thích Ca gọi là đại biến.
Phải khám phá ra tự Tâm,phải nhận ra Phật tánh dù chẳng cần dùng lời nói, tư tưởng. Pháp thân vô hình, vô biên nên không thể hủy diệt. Chẳng có vị Phật nào khác chính Pháp thân, pháp thân có nơi chư Phật thì cũng có nơi tất cả chúng sinh. Vì thế không cần kinh kệ, cũng chẳng cần thờ cúng.
Chẳng có gì thật ngoài pháp thân, tất cả bên ngoài đều là hư không. Chỉ cần có sự im lặng và sự tĩnh Tâm. Chính tĩnh tâm im lặng đó giúp ta tự thấy pháp thân, đó là Phật. Dù là biểu tượng vô hình hay hữu hình đều là mù quáng, sai lầm. Sai lầm, mù quáng giữ chúng ta trong vòng luân hồi sinh tử.
Ta không nên bái sùng những hình tượng làm ra tự mình, những hình tượng ấy không thuộc pháp thân, nên sùng bái những ý tưởng phát sinh từ phật tánh. Hãy hủy diệt sự giả tưởng về thần thánh thiêng liêng, vì nó chỉ là ảo tưởng. Không nên sợ hãi kính thờ những giả dối ấy, cũng bỏ đi những ảo tưởng về chư Phật.
Không gì hơn những ý tưởng vô hình của Tâm từ Phật tánh, hãy nhìn nhận một điều sự thật là pháp thân ở chính nơi ta.
Phật là một tiếng Ấn Độ, có nghĩa là " giác ngộ ", Phật không phải là tên một người. Mọi người đều có thể giác ngộ, có thể thành Phật. Sự giác ngộ này nhờ Thiền. Những kẻ đối nghịch với ta không thể hiểu được giá trị danh từ này. Thiền cũng không có nghĩa là tham thiền, suy tưởng. Đối với ta, thiền là khi thấu đạt được chính Phật tánh của mình. Một người dù đã học được vô số kinh sách mà không thấy được tự tánh thì chỉ là một kẻ tầm thường. Vì ngôn ngữ không đủ khả năng diễn đạt ý nghĩ nên đạo lý của ta nhiều người không hiểu... cũng chính vì không nói được nên tất cả kinh luận là cỏ rác, chẳng qua là ngôn ngữ giả tưởng.
Kiến tánh là một việc hết sức giản dị. kiến tánh không là những thành phần vì thế không tri và hành từng phần được.Kiến tánh cũng giống như thực phẩm, không cần phải lý thuyết dài dòng chung quanh sự ăn, đòi hỏi ta biết nuốt hay không mà thôi.
Kẻ nào dám tưởng tượng một thực tại nào khác Phật tánh nội tại là lầm lỗi. Những ý tưởng nào khác ngoài ý tưởng Phật tánh là ảo tưởng, phù phiếm, sai lầm. Chính Tâm sinh ra ảo tưởng, phù phiếm sai lầm đó.
Loài người sẽ được giải thoát khi đã chối từ những ảo tưởng sai lầm. Giair thoát khi nào Phật tánh là họ, gắn liền với họ.Giáo lý chỉ giúp đỡ cho ta chuẩn bị, giáo lý không thể tạo thành Phật. Mộng không thể học, chết không thể học mà lãnh hội được, nền giáo lý Phật tánh lại càng không thể học được.
Người nào đó lãnh hội được pháp thân thì không còn thiên đàng hay địa ngục, không còn ta không còn người, không còn gì ở bên ngoài. Niềm tin tuyệt đối là lãnh hội được pháp thân, không mảy may ngờ vực vì đó chính là Phật tánh của mình.
Tại sao có một số người thành tâm đúng đắn, chuẩn bị chu đáo đàng hoàng mà vẫn không đạt được Phật tánh? Bởi nghiệp chống nghiệp, bởi mù quáng sai lầm, bởi những mê mờ bất định của họ... Họ chưa trả nợ hết nên không trong sạch để giác ngộ. Trong những trường hợp này những kẻ xuất gia có thể gặp phải, trái lại những kẻ phàm phu có thể giác ngộ. Kẻ nào tự khám phá thấy bóng dáng mình và không bị ràng buộc bởi những liên lụy nào thì dù thể xác có sai lầm cũng không ô uế pháp tánh. Người này không thể bị ảnh hưởng đến pháp thân vì đau khổ hay hạnh phúc. Nên dù là kẻ phàm tục làm tên đồ tể cũng có thể thành Phật... Nghiệp chỉ đeo người nào chưa giác ngộ, vì còn trong tăm tối vô minh. Chính sự ngu muội trong tăm tối vô minh tạo ra sự luân hồi sinh tử.
Khi giác ngộ phá bỏ được vô minh thì nợ nần tinh thần không còn nữa. Người giác ngộ không thể phạm lầm tội lỗi vì tâm thiện hay ác không lộ ra ngoài. Ta đến Trung Hoa này để truyền Tâm Ấn, đạo lý mới này chưa ai biết. Phật ở trong Tâm mọi người. Sùng bái, giữ giới, tu khổ hạnh, học vấn, cầu kinh không nghĩa lý gì cả. Giác ngộ là mục đích tối thượng mà mỗi người phải được, đạt được giác ngộ là Phật. Một vị Phật của chư Phật dù không đọc được một chữ. Thấy Phật tánh nơi mình, thấy Phật tánh nơi Tâm mình là Phật. Tâm của Tâm vô hình nên không thể sờ mó, mong manh như không có, nhưng trong mỗi người đều mang Tâm. Tâm ơi! Tâm hỡi! Mi lớn đến nỗi bao trùm thế giới, mi nhỏ đến nỗi mũi kim không xuyên qua được. Hỡi Tâm của ta, mi là Phật và vì chính mi mà ta phải lao đao qua Trung Hoa để rao truyền đạo lý."
Chúng ta đã biết Bồ Đề Đạt Ma là tổ sư thứ 28 của Phật giáo Ấn Độ, qua Trung Hoa trở thành tổ sư thứ nhất của Thiền Tông Trung Hoa và từ đó truyền bá đi các nơi. Vậy chúng ta cũng cần biết ai là tổ sư thứ hai của Thiền Tông theo tài liệu lịch sử sau:
Khi ngài Bồ Đề Đạt Ma đang ngồi ngó vào vách đá trên ngọn Tung Sơn.Có một vị tên Thần Quang, học nhiều hiểu rộng, nghe tiếng danh sư bèn đến Thiếu Lâm Tự đứng ngoài hiên chùa chờ xin vào yết kiến cầu đạo. Nhằm tiết Đông Thiên nên đêm tuyết xuống như bão, trắng xóa cả núi đồi hùng vĩ, Thần Quang vẫn đứng yên một chỗ chầu chực suốt đêm.Tuyết phủ lên quá gối, trời lạnh kinh hồn. Thần Quang cũng không nản lòng, tâm hồn khao khát chứa chan hoài vọng của một con người đã tuyệt cùng đau khổ. Cuối cùng sự lạnh lùng tàn nhẫn của Bồ Đề Đạt Ma đã bị ray rứt bởi sự quằn quại của người đời, nên Ngài thương tình hỏi:
- Ngươi đứng trong tuyết lạnh lâu như thế ý muốn cầu việc gì?
Thần Quang cảm động lau nước mắt thưa:
- Cúi xin hòa thượng từ bi thương xót, cứu độ tâm hồn đang đau khổ.
- Đạo lý vô thượng của Phật là phải nhiều kiếp tinh tấn, cần nhẫn nhục chịu đựng những việc khó làm, nhẫn được những điều khó nhẫn, đem đức nhỏ nhen, trí cạn, tâm thì khinh khi ngạo mạn, không chịu nổi khổ cực thì làm sao mà học cầu diệu đạo.
Khi nghe ngài quở, Thần Quang dùng dao bén chặt cánh tay trái đem để trước mắt ngài để chứng minh lòng thành khẩn cầu đạo của mình. Ngài biết đã gặp được một người có thể truyền bá chánh pháp.
Ngài hỏi:
- Chư Phật phát tâm cầu đạo, dám bỏ thân, nay ông chặt cánh tay để làm gì?
- Con có thể nghe được Pháp Ấn của chư Phật?
- Không phải ai cũng nghe được.
- Nhưng tâm con không đựơc yên thì làm thế nào để an bình?
- Ngươi cứ đưa tâm ra đây ta sẽ an cho.
Thần Quang ngơ ngác một hồi thưa:
- Bạch Thầy, con tìm Tâm mãi mà không thấy.
- Đó, đó là ta đã an tâm cho người rồi.
Nghe xong Thần Quang giác ngộ, bái Đạt Ma làm thầy. Ngài đổi tên Thần Quang ra Huệ Khả. Sau này Huệ Khả được truyền Y-Bát và trở thành tổ sư thứ hai của Thiền Tông Trung Hoa.
Đến đây chúng ta tạm chấm dứt bài về Bồ Đề Đạt Ma vì ngôn ngữ có đi tới tận cùng giới hạn của nó cũng không làm minh bạch, sáng tỏ được cái tinh túy của Thiền, lý cao siêu nhất thì không có lời, không tiếng nhưng muốn diễn tả phải mượn tiếng, mượn lời, những gì tiếp theo sau thì không thể nói.
Thiền là nỗ lực đạt đến trí tuệ tỉnh giác. Tâm Phật là Tâm giác ngộ. Giác ngộ là giác ngộ cái Tâm Phật có sẵn trong ta.Cái Tâm Phật trong ta là cái hoàn toàn thanh tịnh, là tính thể vắng lặng như mựt nước hồ. Tâm ơi! Tâm lớn đến nỗi bao trùm cả thế gian, Tâm nhỏ đến nỗi mũi kim không xuyên qua được. Hỡi Tâm ta ngươi là Phật.
Võ là chiến đấu, tâm đã dấy động, nộ khí xung thiên, gươm giáo ngất trời, ta tiến lên như sóng dậy ầm ầm, như cuồng phong san bằng mọi trở ngại. Có lừng lẫy chiến công không? Không công đức gì hết. Tại sao? Tại nó rất nhỏ trong cõi nhân thiên mà thôi - tuy có nhưng chẳng thực.
Trong mọi cuộc chiến đấu cần thiết, chiến đấu sáng suốt với cái trí hoàn toàn chủ động, với cái tâm thể vắng lặng tịch nhiên như mặt nước hồ, với cái dụng miên mật như hư không trùm lấp dù đang ở giữa chốn hận thù cũng bàng bạc toát hiện lòng thương và sức mạnh chuyển hóa khiến cho kẻ địch rúng động đổi thay: quên sân giận, quên hận thù, quên thách đố. Sóng gió lại ngừng, hồ yên, biển lặng, hai kẻ từng là đối đầu nay trở thành gần gũi thân thiết và sáng tỏ như hai vầng trăng...
Đến đây, với tư cách là một người học võ, tác giả bỗng nhiên ngộ ra được ý nghĩa của công án thiền vốn từ xưa không ngừng ám ảnh các hành giả: đâu là ý chỉ của việc sơ tổ Đạt Ma đến Đông độ - như hà thị tổ sư tây lai ý?
Đó là Thông điệp của Thinh lặng.
Kiến tánh là một việc hết sức giản dị. kiến tánh không là những thành phần vì thế không tri và hành từng phần được.Kiến tánh cũng giống như thực phẩm, không cần phải lý thuyết dài dòng chung quanh sự ăn, đòi hỏi ta biết nuốt hay không mà thôi.
Kẻ nào dám tưởng tượng một thực tại nào khác Phật tánh nội tại là lầm lỗi. Những ý tưởng nào khác ngoài ý tưởng Phật tánh là ảo tưởng, phù phiếm, sai lầm. Chính Tâm sinh ra ảo tưởng, phù phiếm sai lầm đó.
Loài người sẽ được giải thoát khi đã chối từ những ảo tưởng sai lầm. Giair thoát khi nào Phật tánh là họ, gắn liền với họ.Giáo lý chỉ giúp đỡ cho ta chuẩn bị, giáo lý không thể tạo thành Phật. Mộng không thể học, chết không thể học mà lãnh hội được, nền giáo lý Phật tánh lại càng không thể học được.
Người nào đó lãnh hội được pháp thân thì không còn thiên đàng hay địa ngục, không còn ta không còn người, không còn gì ở bên ngoài. Niềm tin tuyệt đối là lãnh hội được pháp thân, không mảy may ngờ vực vì đó chính là Phật tánh của mình.
Tại sao có một số người thành tâm đúng đắn, chuẩn bị chu đáo đàng hoàng mà vẫn không đạt được Phật tánh? Bởi nghiệp chống nghiệp, bởi mù quáng sai lầm, bởi những mê mờ bất định của họ... Họ chưa trả nợ hết nên không trong sạch để giác ngộ. Trong những trường hợp này những kẻ xuất gia có thể gặp phải, trái lại những kẻ phàm phu có thể giác ngộ. Kẻ nào tự khám phá thấy bóng dáng mình và không bị ràng buộc bởi những liên lụy nào thì dù thể xác có sai lầm cũng không ô uế pháp tánh. Người này không thể bị ảnh hưởng đến pháp thân vì đau khổ hay hạnh phúc. Nên dù là kẻ phàm tục làm tên đồ tể cũng có thể thành Phật... Nghiệp chỉ đeo người nào chưa giác ngộ, vì còn trong tăm tối vô minh. Chính sự ngu muội trong tăm tối vô minh tạo ra sự luân hồi sinh tử.
Khi giác ngộ phá bỏ được vô minh thì nợ nần tinh thần không còn nữa. Người giác ngộ không thể phạm lầm tội lỗi vì tâm thiện hay ác không lộ ra ngoài. Ta đến Trung Hoa này để truyền Tâm Ấn, đạo lý mới này chưa ai biết. Phật ở trong Tâm mọi người. Sùng bái, giữ giới, tu khổ hạnh, học vấn, cầu kinh không nghĩa lý gì cả. Giác ngộ là mục đích tối thượng mà mỗi người phải được, đạt được giác ngộ là Phật. Một vị Phật của chư Phật dù không đọc được một chữ. Thấy Phật tánh nơi mình, thấy Phật tánh nơi Tâm mình là Phật. Tâm của Tâm vô hình nên không thể sờ mó, mong manh như không có, nhưng trong mỗi người đều mang Tâm. Tâm ơi! Tâm hỡi! Mi lớn đến nỗi bao trùm thế giới, mi nhỏ đến nỗi mũi kim không xuyên qua được. Hỡi Tâm của ta, mi là Phật và vì chính mi mà ta phải lao đao qua Trung Hoa để rao truyền đạo lý."
Chúng ta đã biết Bồ Đề Đạt Ma là tổ sư thứ 28 của Phật giáo Ấn Độ, qua Trung Hoa trở thành tổ sư thứ nhất của Thiền Tông Trung Hoa và từ đó truyền bá đi các nơi. Vậy chúng ta cũng cần biết ai là tổ sư thứ hai của Thiền Tông theo tài liệu lịch sử sau:
Khi ngài Bồ Đề Đạt Ma đang ngồi ngó vào vách đá trên ngọn Tung Sơn.Có một vị tên Thần Quang, học nhiều hiểu rộng, nghe tiếng danh sư bèn đến Thiếu Lâm Tự đứng ngoài hiên chùa chờ xin vào yết kiến cầu đạo. Nhằm tiết Đông Thiên nên đêm tuyết xuống như bão, trắng xóa cả núi đồi hùng vĩ, Thần Quang vẫn đứng yên một chỗ chầu chực suốt đêm.Tuyết phủ lên quá gối, trời lạnh kinh hồn. Thần Quang cũng không nản lòng, tâm hồn khao khát chứa chan hoài vọng của một con người đã tuyệt cùng đau khổ. Cuối cùng sự lạnh lùng tàn nhẫn của Bồ Đề Đạt Ma đã bị ray rứt bởi sự quằn quại của người đời, nên Ngài thương tình hỏi:
- Ngươi đứng trong tuyết lạnh lâu như thế ý muốn cầu việc gì?
Thần Quang cảm động lau nước mắt thưa:
- Cúi xin hòa thượng từ bi thương xót, cứu độ tâm hồn đang đau khổ.
- Đạo lý vô thượng của Phật là phải nhiều kiếp tinh tấn, cần nhẫn nhục chịu đựng những việc khó làm, nhẫn được những điều khó nhẫn, đem đức nhỏ nhen, trí cạn, tâm thì khinh khi ngạo mạn, không chịu nổi khổ cực thì làm sao mà học cầu diệu đạo.
Khi nghe ngài quở, Thần Quang dùng dao bén chặt cánh tay trái đem để trước mắt ngài để chứng minh lòng thành khẩn cầu đạo của mình. Ngài biết đã gặp được một người có thể truyền bá chánh pháp.
Ngài hỏi:
- Chư Phật phát tâm cầu đạo, dám bỏ thân, nay ông chặt cánh tay để làm gì?
- Con có thể nghe được Pháp Ấn của chư Phật?
- Không phải ai cũng nghe được.
- Nhưng tâm con không đựơc yên thì làm thế nào để an bình?
- Ngươi cứ đưa tâm ra đây ta sẽ an cho.
Thần Quang ngơ ngác một hồi thưa:
- Bạch Thầy, con tìm Tâm mãi mà không thấy.
- Đó, đó là ta đã an tâm cho người rồi.
Nghe xong Thần Quang giác ngộ, bái Đạt Ma làm thầy. Ngài đổi tên Thần Quang ra Huệ Khả. Sau này Huệ Khả được truyền Y-Bát và trở thành tổ sư thứ hai của Thiền Tông Trung Hoa.
Đến đây chúng ta tạm chấm dứt bài về Bồ Đề Đạt Ma vì ngôn ngữ có đi tới tận cùng giới hạn của nó cũng không làm minh bạch, sáng tỏ được cái tinh túy của Thiền, lý cao siêu nhất thì không có lời, không tiếng nhưng muốn diễn tả phải mượn tiếng, mượn lời, những gì tiếp theo sau thì không thể nói.
Thiền là nỗ lực đạt đến trí tuệ tỉnh giác. Tâm Phật là Tâm giác ngộ. Giác ngộ là giác ngộ cái Tâm Phật có sẵn trong ta.Cái Tâm Phật trong ta là cái hoàn toàn thanh tịnh, là tính thể vắng lặng như mựt nước hồ. Tâm ơi! Tâm lớn đến nỗi bao trùm cả thế gian, Tâm nhỏ đến nỗi mũi kim không xuyên qua được. Hỡi Tâm ta ngươi là Phật.
Võ là chiến đấu, tâm đã dấy động, nộ khí xung thiên, gươm giáo ngất trời, ta tiến lên như sóng dậy ầm ầm, như cuồng phong san bằng mọi trở ngại. Có lừng lẫy chiến công không? Không công đức gì hết. Tại sao? Tại nó rất nhỏ trong cõi nhân thiên mà thôi - tuy có nhưng chẳng thực.
Trong mọi cuộc chiến đấu cần thiết, chiến đấu sáng suốt với cái trí hoàn toàn chủ động, với cái tâm thể vắng lặng tịch nhiên như mặt nước hồ, với cái dụng miên mật như hư không trùm lấp dù đang ở giữa chốn hận thù cũng bàng bạc toát hiện lòng thương và sức mạnh chuyển hóa khiến cho kẻ địch rúng động đổi thay: quên sân giận, quên hận thù, quên thách đố. Sóng gió lại ngừng, hồ yên, biển lặng, hai kẻ từng là đối đầu nay trở thành gần gũi thân thiết và sáng tỏ như hai vầng trăng...
Đến đây, với tư cách là một người học võ, tác giả bỗng nhiên ngộ ra được ý nghĩa của công án thiền vốn từ xưa không ngừng ám ảnh các hành giả: đâu là ý chỉ của việc sơ tổ Đạt Ma đến Đông độ - như hà thị tổ sư tây lai ý?
Đó là Thông điệp của Thinh lặng.
Đánh máy: grandet
Nguồn: Nhà xuất bản Trẻ
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 17 tháng 11 năm 2011