6 - Mới và Cũ
Suốt trong mấy chục năm đầu dưới sự cai trị của Pháp, những tư tưởng dân chủ do các triết gia Pháp như Rousseau, Voltaire, Montesquieu đề xướng bên trời Âu đều bị người Pháp dấu nhẹm. Giới quan lại xuất thân trong Nho giáo, sống xa rời người dân, mặc nhiên vạch rõ giai cấp. Chỉ riêng giới sĩ phu thức thời lúc đó mới thấy được hiểm họa của chính sách đô hộ của người Pháp, các cụ tự ý mở trường để phổ biến những kiến thức Tây phương mới mẻ (1907). Chính quyền bảo hộ dĩ nhiên chống đối và giam giữ những người mở trường.
Tuy thế luồng sóng canh tàn đã bắt đầu manh nha từ thời kỳ đó. Năm 1917, Pháp mở trường Albert Sarraut ở Hà Nội, bỏ thi cử khoa bảng năm 1917, mở thêm trường Cao Đẳng Hà Nội năm 1918. Cùng lúc đó cụ Phan Bội Châu, tấm gương sáng ngàn đời, truyền bá lý tưởng dân chủ. Tiếp nối với phong trào Đông Du (1905-1939) và rồi Việt Nam Quốc Dân Đảng, phong trào canh tân bừng lên mạnh mẽ trong giai đoạn này. Thế hệ mới này được đào tạo ở các trường Pháp–Việt.
Năm 1927, ông Nguyễn Thái Học và một số đồng chí thành lập Nam Đồng Thư Xã, một nhà xuất bản ở Hà Nội, để hoạt động, truyền bá tư tưởng dân chủ qua sách vở và báo chí. Phương tiện đó cũng chỉ được phổ biến hạn hẹp ở các thành phố, ít khi về đến thôn quê vì dân ta thời đó hãy còn bị nạn mù chữ.
Đến các làng mạc, phong trào này chỉ ảnh hưởng trên một thiểu số những gia đình khá giả. Luồng gió mới đó đã được các thanh thiếu niên đón nhận nhiệt liệt. Các thanh niên thay áo dài bằng âu phục gọn ghẽ, các thiếu nữ bỏ khăn quấn tóc bằng vấn tóc trần hay đổi mới nhanh hơn chút nữa bằng cách búi gọn sau gáy. Những chiếc quần lụa trắng tươi sáng thay thế quần lĩnh tỉa. Áo dài có tà thay bằng áo kiểu Lemur…
Từ những sự thay đổi bên ngoài đó đến những thay đổi sâu xa bên trong, tôi muốn nhắc đến những người phụ nữ Việt Nam trong giai đoạn đó. Không phút chốc mà vứt bỏ những lễ giáo xưa nay ảnh hưởng nặng nề của Khổng giáo để bước sang tân học của Tây phương.
Phái nam có thể dung nạp dễ dàng không như người phụ nữ Việt với bản chất rụt rè, kín đáo. Nhất là trong đời sống gia đình làm thế nào để dung hòa giữa cái mới và cũ hầu bảo tồn hạnh phúc gia đình nói riêng, phát huy tinh thần đạo đức, làm đẹp mẫu người đàn bà Việt Nam nói chung. Từ những ý nghĩ đó, tôi nhớ lại câu chuyện dưới đây của một người bạn thuở đó.
***
Trên một chuyến xe lửa từ Ninh Bình ra Hà Nội tình cờ tôi gặp một người đồng hương với dáng điệu u uất, đôi mắt buồn bã nhưng cương nghị. Một lúc khá lâu tôi mới nhận ra Bình. Đã lâu lắm từ lúc lập gia đình đến nay mới gặp lại. Những ngày tháng còn trẻ đã qua lâu lắm rồi. Chúng tôi trao đổi với nhau những câu hỏi thăm thông thương để hâm nóng lại tình bạn nhạt dần với thời gian. Và trên suốt chặng đường dài tôi đã được nghe tâm sự Bình, tâm sự của một người đàn bà Việt Nam trong buổi giao thời ấy, với rất nhiều kính phục.
Dự, chồng của Bình là một giáo sư, sinh trong một gia đình theo nếp sống quan liêu, hấp thụ văn minh Tây học, có kiến thức đấy nhưng là một thứ kiến thức bao gồm kiêu hãnh, tôn trọng về văn bằng, chức tước, vẻ sang trọng hào nhoáng bên ngoài.
Bình xuất thân từ một gia đình Nho giáo, tuy có được cắp sách đến trường nhưng nàng chỉ được học hết bậc tiểu học (vì ở thôn quê với quan niệm cổ xưa: con gái không cần học nhiều), sau đó ở nhà giúp đỡ gia đình. Tuy thế Bình rất thích học hỏi, thích đọc sách báo để trau dồi kiến thức. Những tờ báo như Trung Bắc, Tân Văn, Ngọ Báo, Nam Phong, Phong Hóa, Ngày Nay, Vịt Đực, Tiểu Thuyết Thứ Năm, Tiểu Thuyết Thứ Bảy… Những thay đổi, những ý tưởng mới mẻ Bình đã đọc, đã biết đến. Về mặt kiến thức, Bình không thua kém chồng nàng bao nhiêu, chỉ không tân học như chồng mà thôi.
Nhưng nếp sống gia đình quả có nhiều khác biệt. Những dịp giỗ, Tết, hôn, tang, khi về thăm nhà Bình cứ phải nghe Dự chồng nàng chê bai về nếp sống thôn quê. Từ họ hàng đến anh chị em đều bị Dự chê. Người này bị chê gàn, kẻ kia cổ hủ. Bình biết Dự chê có chỗ đúng chỗ sai. Quan niệm đời sống thành thị và thôn quê khác nhau (Bình kể với tôi đến đó bằng giọng bùi ngùi mang ít nhiều chua chát). Chẳng gì những lời chê bai của chồng cũng chạm tự ái nàng. Bình chỉ muốn sống đơn thuần, binh dị, không gò bó.
Trái lại về nhà chồng, mỗi khi gặp ai hay ra ngoài tiếp xúc đều phải nói năng cẩn thận, ý tứ, cư xử theo một nếp sống mới như ý cả nhà chồng. Dự xét nét từ cách ăn mặc, coi nàng như một người kém hiểu biết. Dự rất ít khi đưa nàng đi đâu cùng đường, như sợ làm tổn thương danh giá mình. Dự hấp thụ những tư tưởng Tây phương mới mẻ một cách dễ dàng. Sự khác biệt giữa hai vợ chồng cũng khá nhiều. Với tâm hồn chất phác nhưng có ý chí quật cường. Bình ẩn nhẫn chịu đựng.
Nàng tìm cách đi buôn bán, có lẽ đó là lối thoát duy nhất. Gặp thời vận nàng buôn bán mỗi ngày một khá. Khi có tiền tự nhiên nhiều kẻ nể vì, vì đã chịu sự giúp đỡ. Anh chị em trong họ và ngay chính Dự chồng nàng cũng phải phục sự thành công của nàng. Nhưng đời sống ít nhiều vẫn còn bị những va chạm giữa “mới và cũ”. Bình đứng ngập ngừng ở bên ngoài, nhìn những đổi mới của xã hội với đội mắt dè dặt. Nàng cũng tự ép mình để học khiêu vũ, may mặc theo kiểu này, kiểu nọ để đi với chồng trong những buổi tiếp tân.
Bình thấy khổ sở không phải vì không thích xa hoa nhưng vì nàng thấy mình không thể hợp với đời sống đó. Nàng nghĩ đến những đứa con còn nhỏ dại. Bình cũng thừa hiểu không theo kịp đà tiến đổi mới, không kiểm soát hành vi chồng nàng, có thể một ngày kia Dự sẽ bị sa ngã chỉ vì ham muốn những cái mới lạ. Nhưng nàng chỉ để ý cầm chừng, miễn Dự đừng sa ngã tới mê muội là được.
Một hôm Bình về quê ngoại thăm bố mẹ, Nàng hỏi cụ Tú:
-Thưa Thầy con phải xử như thế nào?
Bình kể cho cha mẹ nghe những dị biệt giữa hai nếp sống. Từ cách ăn mặc, đi đứng đến lời ăn tiếng nói. Còn nói gì đến những ý nghĩ, suy tư.
Cụ Tú đã khuyên Bình nên “dung hòa”, cố giữ được gia phong, đạo đức, Có đạo đức, có quân bình hầu giữ vững được hạnh phúc gia đình. Bà cụ Tú thêm vào:
- Con hãy kiên nhẫn Bình ạ. Một câu nhịn chín câu lành.
Bình kể với tôi như sau. Khi về sống trong gia đình nhà chồng, nàng phải mặc quần trắng, áo mầu. Đi đâu cũng phải son phấn. Nhưng khi về thăm gia đình mình Bình phải thay áo mầu bằng áo nâu, quần đen như khi còn con gái ở nhà. Sau đó mới dám ra chào bố mẹ. Hai cuộc sống cứ đối chọi nhau. Mỗi khi Bình sơ hở điều gì, chị em nhà chồng lại dè bỉu: “đồ nhà quê” hay “ở trong lũy tre nào biết gì”, “Biết gì” đây có nghĩa là không biết chưng diện theo lối mới, nói năng cư xử phải theo lối mới, bàn về luyến ái pha màu sống sượng mới hợp thời trang. Phải biết hát, biết thưởng thức âm nhạc…
Bình đã cố gắng dung hòa để mà sống. Không biết Dự có bao giờ biết đến nỗi khổ tâm của nàng không? Bình qua những kinh nghiệm và hiểu biết đó nàng giáo dục con cái một cách cởi mở không gò bó trong nền nếp cũ giả tạo nhưng cũng không qúa phóng khoáng chạy theo cái mới lố bịch để đi đến chỗ sa đọa. Bình dậy con lấy khuôn phép đạo đức làm nền tảng.
Dự qua đời sau một cơn bạo bệnh bất ngờ. Trong những giây phút cuối cùng Dự cũng yên lòng ra đi vì biết vợ sẽ chu toàn mọi bổn phận cho gia đình. Mặc dù những dị biệt không sao thay đổi được giữa Dự và Bình nhưng sự ra đi vĩnh viễn của Dự đã làm Bình đau đớn không ít.
Tôi thấy được sự buồn bã, cô đơn của Bình. Tôi thầm khâm phục nàng. Bình đã biết dung hòa giữa cái mới và cái cũ, đã quân bình được tinh thần đến vật chất. Nàng đã biết chọn cái hay của nếp sống cũ cũng như mới để mà hòa hợp cho chính mình và rồi nuôi dưỡng thế hệ con cái nàng cũng dựa vào sự hòa hợp đó.
Viết đến đây trên xứ người tôi tự hỏi không hiểu người phụ nữ Việt Nam sang đến xứ này có bị giằng co, xung đột giữa cái mới và cũ như cách đây mấy chục năm chúng tôi đã trải qua chăng? Liệu cái hay, cái đẹp của ta và của người có được dung nạp để bổ túc cho nhau không hay ta chỉ nhặt cái dở của người để làm băng hoại đi nền đạo đức cổ truyền của người Việt Nam?