← Quay lại trang sách

9 - Người Phụ Nữ Việt Nam Trong Xã Hội Xưa

Dưới làn sương mở trắng như sữa đục, trời vẫn còn lạnh giá. Tuy hết đông đã sang xuân, sau ba ngày Tết nghỉ ngơi, những người nông phu Việt Nam cả đàn ông lẫn đàn bà lại trở ra đồng làm việc tối ngày, những tiếng gọi nhau ơi ới đi làm mỗi khi họ đi qua một nhà trong xóm.

Đàn ông đi cầy, đàn bà kéo bứa, đàn ông đi giật lùi chia mạ để đàn bà cấy xuống. Phải cúi lon khom suốt ngày, khi mỏi cổ đau lưng cũng chỉ đứng thẳng lên một hai phút rồi lại cố cấy đuổi theo để kịp người chia mạ.

Chiều về tới nhà người đàn bà vội vã thổi cơm tối, một tay ôm con một tay đun bếp. Suốt ngày mẹ đi làm, đến lúc thấy mẹ về chúng mừng rỡ chạy lại để được mẹ bồng đứa nhỏ, đứa lớn theo từng bước, đấy là những người đàn bà có cha mẹ già ở nhà coi cháu, hay có con lớn trông em ở trông nhà, hay không còn gởi được con cho ai để đi làm đồng thì đã có việc ở nhà.

Ngoài việc nuôi con nhỏ bao việc làm khác: nuôi heo, nuôi gà, chăn tầm, hái dâu, cấy các thứ rau mùa nào thứ đó, xay lúa giã gạo, quán xuyến mọi việc từ nhỏ tới lớn đúng nghĩa hai tiếng nội trợ.

Trong lúc người đàn ông đi làm về thong thả đi tắm, trút đi sự nhơ nhớp, khó nhọc, ung dung ngồi hút thuốc lào, hay kiếm chút rượu nhâm nhi với trái ổi, trái khế xanh chờ vợ con làm cơm dọn sẵn. Đấy là cảnh sinh hoạt thông thường của các gia đình miền quê trước đây.

Cũng việc nặng nhẹ, vất vả đàn ông, đàn bà đều làm, không bên nào thua bên nào, các bà có tính cần kiệm, dẻo dai còn kiêm luôn những việc vặt nhẹ nhàng mà các ông ít khi làm được.

“Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” đã đẻ ra biết bao tệ đoan, để thành tập tục hạ thấp nhân phẩm người đàn bà xuống bởi bọn hủ nho phương Bắc khi đô hộ nước ta, đem quàng lên cổ người đàn bà với danh nghĩa tam tòng: “tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử” đã đẻ ra những tục dã man như tảo hôn, thừa tự…

Ở thôn quê con gái 12 hay 13 tuổi đã gả chồng, hơn chồng từ 5 tới 10 tuổi là thường với nghĩa cưới con dâu về để khỏi mượn người làm, có người hầu con mình như rửa mặt, rửa chân, dẫn đi học thầy đồ, rồi chăn trâu cắt cỏ lại còn bị hành hạ đánh đập là khác. Ngược lại nhà người con gái đã thách cưới lấy món tiền công sinh dưỡng.

Những bất công đối với phụ nữ thường xẩy ra cũng chỉ vì thành kiến trọng nam khinh nữ. Con trai được đi học tới nơi tới chốn. Mẹ, vợ, chị, em dù chịu cực, cốt để người đàn ông được học. Về phái nữ thua thiệt không được đi học dù nhà khá giả có thể cho con đi học được, họa hiếm có gia đình cho con gái học tại nhà vì cha hay anh có mở trường dậy học. Bởi thiếu học vấn nên người phụ nữ khó ngóc đầu dậy, bị nam phái dùng phong tục, luật lệ cưỡng bức.

Từ lúc cha mẹ gả chồng, đời người phụ nữ bắt đầu bước vào cuộc đời gò bó bởi phong tục, về làm dâu nhà nào may mắn được bà mẹ chồng hiền lành, có lòng nhân ái. Không may gặp phải bà mẹ chồng nhỏ nhen bắt khoan bắt nhặt từng tý, bởi trước kia bà cũng đã từng bị bà mẹ chồng của bà hành hạ đủ điều, bây giờ đem ra áp dụng trả thù vào con dâu.

Cho nên đã đi lấy chồng, người phụ nữ thường mong chóng có con, nhất là con trai để được nể vì trong gia đình, còn phòng khi người đàn ông cưới vợ lẽ, mua hầu non không còn coi mình ra gì thì lúc ấy trông vào con làm niềm an ủi, khi về già nhờ cậy vào con.

Người phụ nữ chẳng may không có con trai thật đáng buồn phải nghĩ đi tìm người thừa tự về nuôi, thường là con trai thứ của người em hay anh chồng.

Một cảnh bất công về thừa tự người viết khi còn bé đã được chứng kiến. Cụ đồ Thước không có con trai nhưng có ba con gái. Thời kỳ tàn Nho cụ không kịp thi cử mong xuất chính, lui về làm ruộng, xưa nay chỉ quen cầm bút, nên mọi chi tiêu trông vào tay bà cụ tần tảo, quán xuyến mọi việc.

Theo phong tục cụ nhận người cháu con ông anh họ làm thừa tự, anh này không chịu về ở với cụ vì nhà anh khá giả hơn nhà cụ. Khi đau yếu, hay ngày Tết anh ta không đến thăm viếng chú thím mà anh ta nhận làm thừa tự. Trước khi cụ đồ mãn phần, thuốc men chạy chữa tốn kém bà cụ và các con đem hết ruộng còn lại bán đi và sang tên cho ông anh người con rể đề phòng khỏi lọt vào tay ông thừa tự.

Tới khi bà cụ mãn phần, đưa tin cho người thừa tự và họ hàng. Tất cả mọi người đã tề tựu đông đủ mới thấy ông thừa tự tới. Đó là một người vào trạc 40 tuổi, đầu quấn một vòng tròn bằng rơm bện, mặc áo quần bằng vải màn thưa, trái sống xổ gấu, tay cầm gậy tre, tới trước quan tài, đứng cúi đầu im lặng một lúc, quay ra anh ta đi từ trên nhà xuống tới bếp xem xét một lượt. anh ta nói như ra lệnh phải làm những gì về việc ma chay, cắt đặt các người em gái, em rể những việc phải làm.

Anh ta tự coi mình là chủ nhà, tuy nhiên trong lúc tang gia bối rối đau buồn, các người con gái, con rể không ai nói gì để giữ hòa khí vì các việc đã được lo liệu xếp đặt sẵn sàng từ trước, tới khi an táng xong trở về nhà, theo cổ lệ có ngã heo làm cỗ đãi những người vất vả, lấm tay phục dịch nhà đám và họ hàng con cháu. Khi ăn uống xong, ông thừa tự gọi các người con gái lại hỏi, bắt phải đưa văn tự về đất đai, ruộng nương nhà cửa, đồ đạc trong nhà xem còn những gì. Khi biết không còn sơ múi gì ông chỉ nói mấy câu đe dọa vu vơ trước khi ra về và từ đó không thấy trở lại nữa.

Một vụ khác, gia đình một ông bác không có con, nuôi cháu, con người em ruột từ khi còn nhỏ; tới khi ông bác chết rồi, người thừa tự này lộng hành đuổi luôn bà bác ra khỏi nhà, hàng xóm thương tình làm đơn lên huyện để xin phân xử vì nhà bà này khá giả có điền sản nhà cửa do hai vợ chồng vất vả và tạo dựng vì tục lệ mà bị thằng cháu bất nhân đuổi bà đi để chiếm lấy sản nghiệp.

Có gia đình bà vợ cả có con gái không có con trai, nhà lại khá giả, chiều theo ý chồng cưới thêm vợ nhỏ cho chồng với ý muốn có con trai để nối dòng. Có ông tới năm thê bẩy thiếp. Người vợ nào may mắn sinh được con trai sẽ được cả nhà chồng cưng chiều; ỷ vào có con trai, cô vợ trẻ lên mặt, lần hồi nắm quyền chi thu trong gia đình, có lấn lướt những người vợ khác. Nhưng không thay thế được địa vị người vợ cả, nếu người chồng vẫn mực thước không quá thiên vị.

Còn về tài sản sau khi phân chia cho các con trai gái rất cách biệt, dĩ nhiên nhà cửa sẽ về phần con trai, nhưng tiền bạc ruộng nương, có nhiều nhà chia cho con gái bằng một phần mười con trai, lấy cớ có con gái đã đi lấy chồng theo họ nhà chồng, của cha mẹ để lại như hương hoa cho bao nhiêu biết bấy nhiêu, không có quyền đòi chia.

Biết thân phận thương con gái các bà mẹ thường gây vốn để sẵn cho các con gái. Phần nhiều các cô đã đi lấy chồng có nhà ở riêng hay lấy cớ về thăm cha mẹ vẫn kèm mục đích về bòn rút của bố mẹ với sự đồng lõa của bà mẹ. Biết vậy các chị dâu, em dâu thấy chị, em về thăm bố mẹ, họ đã hội ý nhau canh chừng. Nhưng khi bà mẹ đã đồng lõa thì thiếu gì cách để qua mặt ông bố già. Cũng lắm khi đổ bể chỉ nghe bố chửi ít câu.

Nói về khả năng ý chí người phụ nữ cũng không thua kém gì người đàn ông. Hai bà Trưng, bà Triệu những vị anh thư tài ba xuất chúng, bà Huyện Thanh Quan, bà Hồ Xuân Hương thi văn trác tuyệt, cô Bắc, cô Giang liệt sĩ quên mình vì nước.

Sau này tiếp xúc với văn mình Âu Châu các hủ tục bị đào thải, chị em phụ nữ được cởi mở hơn, cũng theo học các ngành chuyện môn như nam giới nên chúng ta đã có nữ bác sĩ, kỹ sư, đốc học, luật sư, nha sĩ, các thương gia, kỹ nghệ gia do các bà điều khiển. Với đà hăng say tiến lên ở xứ có đầy đủ tự do, hy vọng chị em phụ nữ vẫn giữ được tinh thần Việt Nho, bình đẳng trong tâm hồn, trọng về tư cách, quý về tâm hồn đạo đức, phục về biết giữ phẩm giá con người.